1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài tiểu luận an ninh môi trường và an toàn môi trường ở nước ta hiện nay

19 296 7

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 19
Dung lượng 44,76 KB

Nội dung

Thì khái niệm môi trường được đề cập như sau: “Môi trường là từ gọi tắt "môi trường sống của con người", bao gồm một tập hợp các tính chất của không gian sống của con người; không gian n

Trang 1

Đề tài: Vấn đề an ninh môi trường và an toàn môi

trường của Việt Nam

Trang 2

LỜI CẢM ƠN

Mỗi một đề tài báo cáo là kết quả của cả một quá trình lao động mệt mài nghiêm túc và sự thành công của đề tài là thước đo giá trị công việc của quá trình lao động Với đề tài nghiên cứu này, để hoàn thành được thì đó không chỉ là kết quả của quá trình thu thập thông tin mà còn là quá trình học tập và rèn luyện dưới sự dìu dắt chỉ bảo của quý thầy, cô giáo trong trường…………

Nhóm em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô -Ths……… , đã tận tình hướng dẫn, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm giúp đỡ nhóm em hoàn thành đề tài báo cáo này

Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình làm việc, song do trình độ, vốn kiến thức

có hạn nên đề tài báo cáo không tránh khỏi những thiếu xót Vì vậy nhóm em rất mong nhận được sự nhận xét, bổ sung từ cô

Nhóm em xin chân thành cảm ơn!

Trang 3

MỤC LỤC

Trang 4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Trang 5

PHẦN MỞ ĐẦU

Hiện nay, bảo đảm an ninh môi trường (ANMT) và an toàn môi trường (ANMT)

đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa quốc gia Các thách thức ANMT và ATMT không chỉ đe dọa an ninh con người, kinh tế, lương thực… mà còn

là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia (ANQG) và sự tồn vong của nhân loại Hiện nay, vấn đề ANMT và ATMT được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam Tại Việt Nam, chất lượng môi trường đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với cuộc sống của con người Nếu không giữ được ANMT và ATMT thì không có bất kỳ một sự tồn tại và phát triển nào của con người cũng như xã hội loài người

Vì vậy, với vai trò là những chủ nhân tương lai của đất nước, đặc biệt là sinh viên ngành Công tác Xã hội, đứng trước vấn đề cấp bách về ANMT và ATMT trường quốc gia thì việc trau dồi vốn kiến thức cơ sở lý luận về vấn đề này là hết sức cần thiết Trong bài báo cáo này nhóm đã nghiên cứu và tổng hợp được những kiến thức cơ bản, chỉ ra khái niệm, Nguyên nhân, biểu hiện của ANMT và ATMT, mạnh dạn đưa ra một

số giải pháp nhằm giữ vững ANMT và ATMT ở Việt Nam trong thời gian tới

Trang 6

PHẦN NỘI DUNG

1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1 Môi trường

Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng, theo cách thức tiếp cận khác nhau thì khái niệm môi trường được đưa ra là không như nhau

Trong giáo trình An ninh môi trường” của PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, khi xét dưới góc độ môi trường là tính chất của không gian sống của con người, chỉ nảy sinh khi con người sử dụng, làm biến đổi không gian sống; và khi đã xuất hiện, chúng gây ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta Thì khái niệm môi trường được đề cập như

sau: “Môi trường là từ gọi tắt "môi trường sống của con người", bao gồm một tập hợp

các tính chất của không gian sống của con người; không gian này được tạo thành từ các yếu tố tự nhiên và nhân tạo (yếu tố vật chất) và các yếu tố xã hội – nhân văn (yếu

tố phi vật chất); các tính chất này chỉ nảy sinh khi con người sử dụng và làm biến đổi không gian sống, và chịu tác động của chính những biến đổi đó".

1.2 An ninh môi trường và an toàn môi trường

Trong quá trình nghiên cứu giáo trình Môi trường và Phát triển bền vững của PGS.TS Nguyễn Đình Hòe Nhận thấy, ANMT và ATMT về cơ bản là hai khái niệm

hoàn toàn giống nhau, đều “là trạng thái mà một hệ thống môi trường có khả năng

đảm bảo điều kiện sống an toàn của con người cư trú trong hệ thống đó”

Tuy nhiên, ANMT được hiểu theo quy mô rộng, thường là ở mức quốc gia, khu vực hay quốc tế, Những sự kiện lớn hơn như suy thoái tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính,

sa mạc hoá diện rộng Còn ATMT được sử dụng trong phạm vi nhỏ hơn (địa phương) như: rò rỉ phóng xạ thừ một bệnh viện, cháy một khu rừng, một trận lũ quét tại một huyện, một trận dịch tả do ô nhiễm nước tại một địa phương, một trận ngộ độc thức ăn do ô nhiễm thực phẩm tại một xí nghiêp Tuy nhiên, cũng rất khó phân định rạch ròi giới hạn giữa "an ninh" và "an toàn"

Quá trình gây mất ổn định trong hệ thống môi trường sẽ tác động nhiều mặt vào môi trường, có khả năng gây tác hại đối với tài sản, sức khỏe, tính mệnh con người cũng như tác động tiêu cực đến môi trường trái đất

Như vậy, có thể thấy ANMT và ATMT là mối quan hệ đan xe giữa môi trường

và xã hội, giữ vững ANMT và ATMT chính là bảo vệ những thành quả phát triển chung của nhân loại, bảo vệ sự sống còn của loài người

Trang 7

2 Nguyên Nhân dẫn đến mất an ninh môi trường và an toàn môi trường ở Việt Nam Hiện Nay

Một hệ thống môi trường bị mất an ninh và an toàn có thể do các nguyên nhân

tự nhiên (thiên tai), do hoạt động của con người (gây suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên ) hoặc do phối hợp cả hai nguyên nhân trên

- Thứ nhất: Mất an ninh và an toàn về môi trường do thiên tai:

Thiên tai là những biến đổi của thiên nhiên làm thiệt hại đến con người và sản xuất Để giảm nhẹ, hạn chế những thiệt hại do thiên tai gây ra, con người tìm cách phòng tránh là chủ yếu, bằng việc tăng cường khả năng dự đoán, dự báo, chung sống thích nghi, quy hoạch, thiết kế công trình thích ứng, ứng cứu khi thiên tai xảy ra Thiên tai xảy ra có thể ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự, an ninh quốc phòng

- Thứ hai: Mất an ninh và an toàn về môi trường do các hoạt động của con người:

Việc con người khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, mất cân bằng sinh thái và suy thoái môi trường nghiêm trọng Việc tăng dân số quá mức, việc sử dụng năng lượng không hợp lý, sự khai thác quá độ tài nguyên thiên nhiên, sự phá hoại của quân sự đều gây mất an ninh và an toàn về môi trường

Mất ANMT và ATMT bởi hoạt động của con người nảy sinh từ các vấn đề sau:

- Thứ nhất: Do nhận thức chưa đầy đủ về môi trường:

Trong thời gian qua, nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân trong việc cần phải giữ vững ANMT và ATMT còn yếu kém Việc lồng ghép chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với ANMT và ATMT chưa cao Việc giáo dục ý thức ANMT và ATMT cho xã hội vẫn chưa được phát huy đầy đủ Qua khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 33,9% số người được hỏi cho rằng: Tài nguyên của Việt Nam

là vô tận; 36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,55% cho rằng chỉ nước mặt mới bị ô nhiễm, còn nước ngầm thì không; 29,2% cho rằng môi trường ở thành phố bị ô nhiễm, còn ở nông thôn thì không

Theo khảo sát của Tổng cục môi trường (tháng 10-2015), trên 90% người dân được hỏi cho rằng họ có quá ít thông tin về môi trường và cho rằng lỗi ô nhiễm môi trường là thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương.Trên thực tế còn có nhiều quy định về bảo vệ môi trường mà người dân không được biết, nhất là những người dân ở vùng sâu, vùng xa thường có những hoạt động trực tiếp liên

Trang 8

quan đến bảo vệ ANMT và ATMT Chính việc nhận thức sai lệch trên là một trong những nguyên nhân khiến cho các cấp chính quyền và người dân có những hành vi không thân thiện với môi trường, thiếu ý thức bảo vệ ANMT và ATMT

- Thứ hai: Do quản lý nhà nước về môi trường thiếu hiệu quả:

Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tuy đã được hình thành về cơ bản nhưng vẫn nhiều quy định còn chung chung, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể, thậm chí chồng chéo giữa các luật với nhau như: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ rừng, Luật Khoáng sản, Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường Nhiều quy định về

xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, chưa có cơ chế phù hợp để thực hiện nên chưa phát huy được hiệu quả Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường

Năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, không theo kịp với sự phát sinh và tính chất ngày càng phức tạp của các vấn đề môi trường Ở cấp địa phương, cơ cấu tổ chức và năng lực của tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu quản lý Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng, mất cân đối về cơ cấu Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp Hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ ANMT và ATMT chưa có sự chủ động, chưa tranh thủ được tối đa, nắm bắt kịp thời các cơ hội huy động hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ về bảo vệ ANMT và ATMT

- Thứ ba: Vai trò tham gia của doanh nghiệp trong bảo đảm ANMT và ATMT chưa cao

Còn nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tập trung vào các nhóm hành vi: Thực hiện không đúng các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt, xác nhận; Quản lý chất thải không đúng quy định; tự ý điều chỉnh, thay đổi thiết kế, công nghệ của các công trình

xử lý chất thải nhằm xả trộm chất thải không qua xử lý ra môi trường; Xả nước thải, khí thải không đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường

3 Biểu hiện an ninh môi trường và an toàn môi trường ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam, bảo đảm ANMT và ATMT được coi là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã

Trang 9

hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta

Giống như ở nhiều nước khác, ở Việt Nam hiện nay môi trường sống của con người đang trở nên bất an, đang bị đe dọa nghiêm trọng vì ô nhiễm môi trường đang tác động hàng ngày, hàng giờ đến con người Những hiện tượng suy thoái môi trường

mà các nước đang phải đối mặt như: Biến đổi khí hậu toàn cầu, tính đa dạng sinh vật giảm xuống, đất đai hoang mạc hóa, rừng bị cạn kiệt, nguồn nước ngọt và tài nguyên biển bị cạn kiệt cũng là những hiện tượng mà Việt Nam đang phải đối mặt

Vì vậy, việc xem xét, đánh giá vấn đề ANMT và ATMT ở nước ta hiện nay là cần thiết Có thể khái quát một số biểu hiện của ANMT và ATMT ở Việt Nam hiện nay như sau:

3.1 Biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng đe dọa môi sinh

Có thể thấy, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của ANMT và ANTMT hiện nay là Biến đổi khí hậu (BĐKH) BĐKH, nước biển dâng là một thách thức lớn, đe dọa nghiêm trọng mục tiêu phát triển bền vững và sinh kế của người dân Quốc tế cảnh báo Việt Nam là một trong 5 quốc gia ở khu vực châu Á phải chịu nhiều hậu quả nhất do BĐKH, nước biển dâng Trong gần 50 năm qua, thời tiết ở nước ta đã

có nhiều biến đổi bất thường Nhiệt độ trung bình năm giai đoạn 1961 - 2000 ở nước ta cao hơn trung bình năm của giai đoạn 1931 - 1960 Ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố

Hồ Chí Minh, nhiệt độ trung bình năm trong giai đoạn 1991 - 2007 đều cao hơn trung bình giai đoạn 1931 - 1940 Số đợt không khí lạnh đã giảm rõ rệt trong 20 năm qua nhưng lại có diễn biến bất thường Số cơn bão trên Biển Đông trung bình đều có xu hướng tăng và cường độ ngày một mạnh hơn, quỹ đạo có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và mùa bão cũng kết thúc muộn hơn Bản đồ phân bố mưa ở nước ta có nhiều thay đổi, phân bố không đều và nhiều dị thường BĐKH đã và tiếp tục tác động mạnh hơn đến cuộc sống và kế sinh nhai của người dân, làm suy giảm tài nguyên thiên nhiên, thay đổi cấu trúc xã hội, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế và gây ra những bất ổn chính trị - xã hội

Hiện tượng ENSO (El Nino và La Nina) ảnh hưởng đến nước ta mạnh hơn trong các thập kỷ 1981 - 1990, đặc biệt là từ 1991 - 2000 so với các thập kỷ trước đó, làm xuất hiện nhiều cực trị mới về nhiệt độ, lượng mưa, hạn hán, lũ lụt Đợt mưa cuối tháng 10 và đầu tháng 11 năm 2008 với lượng mưa 24 giờ lớn nhất ở Hà Nội, Hà Đông

là một trong những biểu hiện của mưa lớn trái mùa, gây hậu quả nghiêm trọng

Sự bất thường của chu kỳ khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất mùa màng, mà còn gây ra các rủi ro nghiêm

Trang 10

trọng khác Theo tính toán của các nhà khoa học, BĐKH đang làm cho năng suất lúa xuân ở vùng đồng bằng sông Hồng có thể giảm 3,7% vào năm 2020 và giảm tới 16,5% vào năm 2070; năng suất lúa mùa sẽ giảm 1% vào năm 2020 và giảm 5% vào năm

2070 nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả

Trong 10 năm trở lại đây, cả nước liên tiếp xảy ra thiên tai, như: lũ lụt, ngập úng lớn, lũ quét, hạn hán, gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư, hạ tầng cơ sở Chỉ tính riêng đợt mưa lũ trên địa bàn các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản 33 người chết và mất tích, tổng thiệt hại về vật chất lên tới hơn 610 tỷ đồng

Đợt mưa lũ bất thường xảy ra từ ngày 9 đến 14/10/2017 tại các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ gây thiệt hại nặng nề: Hòa Bình ước tính 802 tỷ đồng, Yên Bái khoảng

700 tỷ đồng, Thanh Hóa khoảng 2,9 nghìn tỷ đồng Tổng thiệt hại do thiên tai ước tính khoảng 6,1 nghìn tỷ đồng Tính chung mười tháng năm 2017, thiên tai làm 280 người chết, mất tích và 283 người bị thương; 4,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 308 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 163,7 nghìn ha lúa và 101,4 nghìn ha hoa màu

hư hỏng

Nếu nước biển dâng 1m thì 10,8% người dân Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp,

tỷ lệ lớn nhất trong 84 nước đang phát triển; 40.000 km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập lụt hằng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hầu như hoàn toàn, dẫn tới tình trạng mất chỗ ở và di cư vĩnh viễn, hoặc tạm thời ở một số khu vực bị ảnh hưởng nặng nề Mất nơi ở, thiếu đất sản xuất, môi trường biến đổi hoặc do bệnh tật và nghèo đói thì vấn đề này sẽ không chỉ đơn thuần là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề chính trị, chiến tranh

3.2 An ninh nguồn nước

Việt Nam có 2.360 con sông thuộc 16 lưu vực sông Do tính đặc thù về địa lý, hơn 60% nước mặt của Việt Nam bắt nguồn từ các quốc gia khác (lưu vực sông Cửu Long, 95% lượng nước chảy về từ thượng lưu sông Mê Kông; gần 40% lượng nước mặt sông Hồng - sông Thái Bình bắt nguồn từ Trung Quốc; 30% của sông Mã, 22% của sông Cả chảy về từ Lào; 17% của sông Đồng Nai chảy về từ Cam-pu-chia)

Do phải phụ thuộc chủ yếu từ nguồn cấp từ bên ngoài lãnh thổ, an ninh nguồn nước của ta có thể bị đe dọa từ sự sử dụng của các nước láng giềng, đặc biệt là sông

Mê Kông và sông Hồng Và trên thực tế, hai con sông này đang bị các quốc gia vùng thượng nguồn (đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan) sử dụng bất chấp hậu quả gây ra đối với Việt Nam Nhiều đập và hồ chứa lớn, nhỏ được Trung Quốc, Thái Lan, Lào xây dựng trên sông Mê Kông đang đe dọa trực tiếp cuộc sống của hàng chục triệu

Trang 11

người dân đồng bằng sông Cửu Long Sông Hồng cũng đang bị cạn kiệt và ô nhiễm, trong đó có sự xả nước thải độc hại từ các khu công nghiệp phía bên kia biên giới, nguy hiểm nhất là nguy cơ rò rỉ phóng xạ hạt nhân từ các nhà máy điện nguyên tử của Trung Quốc phía thượng nguồn Trong tương lai gần, nếu các quốc gia có quyền lợi gắn với các dòng sông chung với nước ta cố tình triển khai các dự án phát triển một cách thiếu trách nhiệm với các nước liên quan, thì tranh chấp tài nguyên nước giữa Việt Nam và các nước trong khu vực cũng trở nên căng thẳng, nghiêm trọng

Với đặc điểm như vậy, Việt Nam cực kỳ nhạy cảm với mọi hoạt động liên quan đến khai thác và sử dụng nguồn nước từ phía thượng lưu Trong khi đó, BĐKH đang làm suy thoái tài nguyên nước, nhưng nhu cầu dùng nước của các quốc gia đều tăng lên, làm tăng các bất đồng và xung đột trong sử dụng chung nguồn nước Mặc dù

có nhiều cơ chế hợp tác song phương, đa phương về phát triển bền vững (PTBV) nguồn nước, nhưng thực tế vẫn đang đặt ra nhiều sức ép cho Việt Nam

Để bảo đảm sự bền vững về tài nguyên nước, mức khai thác không được vượt ngưỡng 30% nguồn nước, nhưng hầu hết các lưu vực sông ở miền Trung, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 30 -50% lượng dòng chảy, ở Ninh Thuận khai thác tới 70 -80% nguồn nước Việc khai thác quá mức nguồn nước, đặc biệt là xây dựng các công trình hồ chứa thủy lợi, hồ chứa thủy điện chặn hoàn toàn dòng chảy sông là nguyên nhân làm suy giảm rõ rệt số lượng và chất lượng nước trên các lưu vực sông lớn như: Sông Hồng, Sông Đồng Nai, Sông Sài Gòn, Sông Gia Vu, Sông Thu Bồn, Sông Ba, Sông Sêrêpok

Do tập quán, thói quen sản xuất, canh tác nông nghiệp sử dụng nhiều nước của nhân dân nhưng lại thiếu các biện pháp hợp lý giữ, trữ nước trong mùa mưa lũ để dùng dần trong mùa khô nên thường xuyên phải đối phó với tình trạng thiếu nước vào mùa khô ở nhiều nơi Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia “thiếu nước” do lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3 một người mỗi năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA) Đây được xem là một nghịch lý đối với một quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc như nước ta

3.3 An ninh môi trường biển

Việt Nam có lợi thế về biển, tuy nhiên, nước ta cũng phải đối mặt với các vấn

đề về ANMT và chủ quyền lãnh thổ Theo các tài liệu, 80% các rạn san hô ở biển Đông bị suy giảm, dẫn đến suy giảm nguồn cá Thời gian gần đây, việc Trung Quốc tiến hành hàng loạt các hoạt động tôn tạo, xây dựng trái phép các bãi đá nhân tạo với quy mô lớn tại biển Đông cũng là nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực về môi trường tại vùng biển này

Ngày đăng: 14/12/2018, 09:06

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w