Mục đích nghiên cứu Chúng tôi nghiên cứu đê tai nay với muc đich: Nhằm li giai, căt nghĩa sư tác động của môi trường sinh thái đã, đang va sẽ anhhương đến cuộc sống, lôi sông,
Trang 1ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÁI NGUYÊN - 2018
Trang 2ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ LAN
THƠ THÁI NGUYÊN DƯỚI GÓC NHÌN SINH
THÁI
(Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS HOÀNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2018
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn phê bình sinh
thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)” la kết qua nghiên cứu
của riêng tôi, hoan toàn không sao chép của bất cư ai Các kết qua của đê tai la trungthực va chưa được công bô ơ các công trình khác
Nội dung của luận văn co sư dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tácphẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn
Nếu sai tôi xin hoàn toan chịu trách nhiệm
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác gia luận văn
Trần Thị Lan
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Em xin bay to lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Hoang Điệp - Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên vê sư hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo va đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bô quá trình em hoàn thành luận văn
Em xin trân trong cảm ơn sư tạo điều kiện giúp đơ của Ban chủ nhiệm KhoaNgư Văn va các thầy cô giáo Phòng đao tạo Trường Đại hoc Sư phạm - Đại hoc TháiNguyên đã giúp đơ em thực hiện đê tai luận văn này
Em cung xin chân thanh cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên vanhiệt tình giúp đơ em trong thời gian hoàn thành luận văn
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác gia luận văn
Trần Thị Lan
Trang 5MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC .iii
MỞ ĐẦU 1
1 Lý do chọn đê tai 1
2 Lịch sư vấn đề 2
3 Mục đích nghiên cứu 7
4 Nhiệm vu nghiên cứu 7
5 Đối tượng va phạm vi nghiên cứu 8
6 Phương pháp nghiên cứu 8
7 Đóng góp của luận văn 8
8 Cấu trúc luận văn 9
Chương 1 GIỚI THUYẾT CHUNG 10
1.1 Những vấn đê chung vê sinh thái va văn học
10 1.1.1 Khái niệm sinh thái va phê bình sinh thái .
10 1.1.2 Khái niệm văn học .
12 1.1.3 Mối quan hệ giữa sinh thái va văn học 14
1.2 Thơ Thái Nguyên va hành trình kiến tạo những giá trị sinh thái
21 1.2.1 Quá trình hình thanh va phát triển thơ Thái Nguyên 21
1.2.2 Tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên .
23 1.3 Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái va quá trình sáng tác 25
Trang 7Chương 2 CẢM QUAN SINH THÁI TRONG SÁNG TÁC CỦA
CÁC NHÀ THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ
Sa Hà, Phan Thái) 35
2.1 Cảm quan sinh thái tư nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái 35
2.1.1 Sư tuyệt mĩ của sinh thái tư nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên 35
2.1.2 Sư kì vĩ của đại ngàn trong thơ Võ Sa Ha 44
2.1.3 Sư bình dị, thân thuộc của cảnh quan làng quê trong thơ Phan Thái 55
2.2 Những hệ lụy từ cuộc sống hiện đại ảnh hưởng tới môi trường sống 61
2.2.1 Cam nhận sư giận dư của tư nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên 61
2.2.2 Nỗi buồn đô thị hóa trong thơ Võ Sa Ha 63
2.2.3 Lang hoa phô va sư chơi vơi trong thơ Phan Thái 66
Chương 3 NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VẤN ĐỀ SINH THÁI TRONG THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái) 73
3.1 Nhan đê mang ý nghĩa sinh thái 73
3.1.1 Khái niệm nhan đê va đặc trưng của nhan đê thơ 73
3.1.2 Nhan đê mang ý nghĩa sinh thái trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái 75
3.2 Ngôn ngư mang đậm tinh thần sinh thái 77
3.2.1 Ma Trường Nguyên - ngôn ngư nhẹ nhang, sâu lăng 78
3.2.2 Võ Sa Ha - Ngôn ngư giau hình tượng 79
3.2.3 Phan Thái - ngôn ngư mộc mạc, giản dị 83
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
Trang 8Hiện nay, thiên nhiên cung đang cang ngày cang bị thu hẹp nho dần bơi nhiêu
li do sư phá rừng, giảm diện tich rừng, dân sô tăng, do di dân tư do bùng phát, … đãlam suy giảm tai nguyên rừng, tác không nho đến môi trường sông khiến đất đai bịmất phì nhiêu, lut lôi, hoặc hạn hán xảy ra liên tiếp anh hương tới cuôc sông của conngười Chúng ta đều biết rằng, phá hủy thiên nhiên cung chinh la phá hủy luôn cuôcsông chúng ta vì con người luôn cần không khi để thơ để sống Đặc biệt, sau nhữnggiờ lam việc căng thẳng con người cung cần co không khi trong lanh để thư giãn,thương thức những âm thanh trong trẻo của cuôc sông Để ngẫm va để nhìn lại nhữnggì đã va đang trôi đi từng ngay
Con người ơ thời đại công nghiệp nay co tâm tri luôn luôn bị động như robotsuôt ngay, lam việc lắp ráp các bô phận trong dây chuyên san Con người chỉ biết lam
va lam ho không ai biết nhau, xong việc la vê nha Tâm lý bị dồn ép Sư tiến bô kỹthuật từ nhiêu thập niên gần đây với sư tăng tôc lam phá vơ cấu trúc các xã hôi cổtruyên, lôi sông
Cuôc cách mạng kỹ nghệ đã đem đến cho nhân loại xe hơi, nha máy nhưngngày nay, chen chúc trong các đô thị lớn (Ha Nôi, Đa nẵng, Thanh phô Hồ Chi Minhv.v ), với xe cô ngổn ngang chạy bằng xăng dầu, với nha máy nhiệt điện chạy bằngthan đá, với các khu kỹ nghệ toa ra mỗi ngay trên bầu trời hang triệu tấn khi đôc Vađương nhiên con người đã va đang phai gánh chịu hậu qua đo
Va đương nhiên, dân sô đông dĩ nhiên sẽ kéo theo tiêu thu vê thực phẩm, vênăng lượng, vê khoáng san…, trong khi đo thì tai nguyên thiên nhiên không những
Trang 9suy thoái vê lượng (rừng it đi, đất đưa vao xây cất, nước ngầm thấp xuông v.v.) macòn vê phẩm (sa mạc hoá, mặn hoá, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khi ) va đến môtlúc khi tiêu dùng trong kinh tế vượt quá sức san xuất của vôn tạo hoá sẽ để lại hậuqua rất nặng nê Môi trường sinh thái ngay cang bị suy thoái nghiêm trong, đời sôngcủa con người bị anh hương rất lớn Cung phải noi thêm la năng lượng va vật chất bịphế thái nay không thể trơ lại trạng thái ban đầu Sản xuất công nghiệp kéo theo rấtnhiêu hệ lụy như tiêu thu điện, nguyên liệu, khi thai đổ ra sông suối, ra ngoai khôngkhi các phế thai lam ảnh hương lớn đến môi trường sinh thái, động thực vật vì vậyngay cang bị thu hẹp va hủy diệt
La môt người con sinh ra va lớn lên ơ vùng đồng bằng Băc Bô va co hơn 10năm găn bo với mảnh đất Thái Nguyên, tôi muôn tìm hiểu nhiều hơn vê môi trườngsinh thái đã làm nên ban săc của đất va người Thái Nguyên Chúng tôi muôn danhcông trình nghiên cứu đầu tiên của mình để nghiên cứu vê các tác gia thơ TháiNguyên ma ban thân đã từng gặp gơ va quen biết, kinh trong
Nhằm li giai căt nghĩa những nét đặc trưng của thơ Thái Nguyên để tìm hiểu
vê sư tác đông của môi trường sinh thái đã tác đông đến cuôc sông, lôi sông của conngười hiện đại ra sao? Nên tôi lựa chon ba nha thơ ơ ba thế hệ để nghiên cứu Đây lamột sư nỗ lực nhằm kiến giai sư tiếp kiến va giao thoa của môi trường sinh thái đượcbiểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung va ba nha thơ nói trên Đo sẽ la nguồn tưliệu tham khao cho rất nhiêu người nghiên cứu, giang dạy, hoc tập vê văn hoc Thái
Nguyên Vì những li do noi trên, chúng tôi chon đê tai: “Thơ Thái Nguyên dưới góc
nhìn sinh thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên - Võ Sa Hà - Phan Thái)” lam vấn đê
nghiên cứu cho luận văn của mình
2 Lịch sử vấn đề
2.1 Những nghiên cứu chung về phê bình sinh thái trong thơ Việt Nam.
Lý thuyết Phê bình sinh thái la vấn đê khá mới mẻ va chưa nhận được nhiêu sưquan tâm ơ Việt Nam Mới co môt sô công trình nghiên cứu vê vấn đê sinh thái như:
Đỗ Văn Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách tân,
Tạp chi phát triển nghiên cứu va khoa hoc, Đại hoc Quôc gia Hồ Chi Minh; Nguyễn
Thị Tịnh Thi (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học hậu
Trang 10hiện đại- lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Băc chủ biên, NXB Đại hoc sư phạm, Ha Nôi;
Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016) Khuynh hướng phê bình sinh thái trong
nghiên cứu văn học, Tạp chi Li luận phê bình văn hoc nghệ thuật, Sô 41, Tháng 1 va
một sô công trình nghiên cứu của các tác gia khác
Đáng chú ý la cuốn Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975 nhìn từ góc nhìn phê
bình sinh thái của tác gia Lê Lưu Oanh - Trần Thị Ánh Nguyệt; Cảm quan sinh thái trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại của PGS TS Đào Thủy Nguyên
đăng trên Tạp chi nghiên cứu văn học, sô 7- 2016; Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học
văn hóa của Nguyễn Đăng Điệp đăng trên Tạp chi nghiên cứu văn học, sô 2 tháng
7/2014
Với ý thức vê tầm quan trọng của việc phổ biến phê bình sinh thái trong vănhọc Việt Nam, Viện Văn học đã tổ chức buổi hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái:Tiếng noi bản địa - Tiếng noi toan cầu” vào sáng 14/12/2017 tại Ha Nội
Tham dư Hội thảo co PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ - Uỷ viên Ban chấp hanhTrung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng noi Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lýluận Phê bình VHNT Trung Ương; GS TS Nguyễn Quang Thuấn - Chủ tịch ViệnHan lâm KHXH Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện Văn họccùng đông đảo các học giả, nha nghiên cứu, văn nghệ sĩ, các cơ quan truyền thông vanhững đối tượng quan tâm tìm hiểu vấn đê nay tại Việt Nam
Phát biểu tại buổi hội thảo, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn- Chủ tịch Viện Hanlâm KHXH Việt Nam nhấn mạnh: “Trên thế giới va Việt Nam trong những năm quađang phải đối mặt với những thảm họa lớn vê môi trường Điều nay đặt ra những câuhỏi lớn rằng, các nha văn cũng như các nha nghiên cứu KHXH&NV sẽ làm gì để đónggóp phần bảo vệ va xây dựng môi trường sống xanh - sạch - đẹp?
Với tư cách môt giảng viên, TS Đặng Lưu, Khoa Sư phạm Ngư văn, Đại hocVinh cho rằng trong các lý thuyết vê văn học, phê bình sinh thái co vẻ “cận nhântình” hơn ca
Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011) Hệ sinh thái trong thơ
Mai Văn Phấn: những linh hồn trong bầu trời Khi Mai Văn Phấn tuyên ngôn
Trang 11trong thơ:
Trang 12“Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!” hay giãi bày trong đời: “(…) các
nhà thơ lần theo thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại âm sắc thuở hoàn nguyên đã mất.“; “(…) thơ ca còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới”; “Việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người”; “Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy, tất cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng nói, được công bằng như nhau trong một trật tự mới Những hình ảnh hiện lên trong không gian ấy là cánh cửa mở ra tương lai hoặc tìm về với quá khứ, hoặc tất cả cùng đồng hiện và đồng hành trong những thời khắc đặc biệt” (Trả lời tạp chí Thi Bình)
2.2 Những công trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái trong thơ Thái Nguyên và thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái
Trong thơ Thái Nguyên, vấn đê sinh thái it nhiều đã được bàn đến Trong
cuôn Hiện đại mà dân tộc Ma Trường Nguyên co viết: “Người miền núi luôn tiếp
xúc với tiếng chim gọi bày thánh thót, tiếng thác dạt dào, tiếng gió thổi vi vu, tiếng thú gầm náo động Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh với thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên người miền núi có tác phong hùng dung, dữ dội… Mặt khác do sống giữa núi non hiểm trở… có lẽ do phải đứng trước thiên nhiên khổng lồ như muốn nuốt chửng mà con người miền núi dễ có tâm trạng
cô đơn, bất lực, tự ti? Chính vì vậy biểu tượng “quả núi”, “vực thẳm”, “khe sâu”
đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong dân ca miền núi Trong bài “Mở núi”… cái khao khát giải phóng những thế lực thiên nhiên cản trở Thế nhưng con người vẫn nhỏ bé trước thiên nhiên “Móng chân anh đào núi đá mở đường/ Móng tay em cấu núi sắc dày họp chợ”[24,tr16] Ngoài ra, co thể kể đến các bai viết như Thái Nguyên, vùng
văn hóa đặc sắc, tác gia Ma Trường Nguyên, báo Vietnam.net; Thái Nguyên, một
vùng di tích lịch sử, cách mạng, Ma Trường Nguyên, Hiện đại ma dân tộc, Nha xuất
bản văn hóa dân tộc; Khắc khoải “miền kí ức” trong thơ Nguyễn Hữu Bài, (Hôi
VHNT Thái Nguyên 2004); Người “bạn với cỏ cây” vẫn đau đáu tình đời, (Hồ Thủy Giang, Tạp chi văn nghệ Việt Bắc)… Phác thảo ban đầu về thơ Ma Trường
Nguyên, (Nguyễn Thúy Quỳnh, Hội thảo nha văn Ma Trường Nguyên - tác giả, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên)
Trang 13Đôi điều cảm nhận về thơ tình Ma Trường Nguyên qua tập “Bắc cầu vồng
thăm nhau”, (Nguyễn Đức Hạnh, Hôi thao nha văn Ma Trường Nguyên- tác gia, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên)…
Trong bai Ma Trường Nguyên - Nhà văn, nhà thơ tình xứ mây, tác gia Lâm
Tiến (Hôi thao nha văn Ma Trường Nguyên- tác gia, tác phâm, HNVT Thái Nguyên)
co nhận xét: “Đã có nhiều nhà văn viết về Ma Trường Nguyên Nguyễn Trung Đỉnh
cho đó là người “Đốt lửa bằng tái tim” với “dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành” Ngô Quân Miện sau khi đọc xong thơ Ma Trường Nguyên như: “Bắt gặp cái mộc mạc, hồn nhiên của con người sống giữa thiên nhiên Những câu thơ không khắc họa không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ nguyên sơ, giữa một bầu không khí ban mai trong trẻo” [25, tr.2].
Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ của Nguyễn Kiến Tho đăng trên báo Văn
nghệ Thái Nguyên sô 3- 2017 đã noi vê đặc điểm chung, điêu làm nên sư khác biệtcủa thơ trẻ Thái Nguyên: “Đặc điểm chung trong thơ của ho la viết vê cái-nhìn- thấy,cái-phổ- biến Với việc làm thơ, ho đã tạo ra môt phép mau, làm cho những cái vôtình trơ nên gần gui, những cái xa lạ trơ nên quen thuộc, những cái hy hữu trơ thanhphổ biến, những cái riêng trơ thành cái chung, từ thơ của môt người đã thanh thơ củamọi người Thơ, vì vậy, gánh môt sư mệnh cao ca la giúp người đoc khám phá rõ hơn
vê những chiêu kich của sư vật hiện tượng ơ goc đô nhân văn, nhân ban” Ở đây cáctác gia đã đưa ra môt sô biểu tượng thiên nhiên găn bo với con người như: thác nước,dòng sông, hoa, ánh trăng… Tuy nhiên, vẻ đẹp tư nhiên mới chỉ được tìm hiểu rai rácchư chưa được nghiên cứu môt cách toan diện Nôi dung này chúng tôi sẽ kế thừa vanghiên cứu kĩ trong luận văn môt cách co hệ thông
Trong sô các nha thơ Thái Nguyên đương đại, Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha,Phan Thái co những đong gop lớn va gianh được nhiêu cảm tình của bạn đoc cungnhư các nha nghiên cứu, phê bình Từ thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, PhanThái, dễ nhận thấy, trong nhiêu vấn đê của cuôc sông hôm nay, các nha thơ đặc biệtquan tâm đến sinh thái tư nhiên va sinh thái tinh thần của quê hương Những khắckhoai, thổn thức của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái vê vấn đê sinh tháicung nhận được sư quan tâm, đồng cảm va đánh giá xác đáng
Trang 14Vê nha thơ Ma Trường Nguyên, trong bai viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ
trẻ của đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên sô 3- 2017, tác gia Nguyễn Kiến Tho
nhận xét: “Ma Trường Nguyên là nhà thơ dân tộc Tày với những bài thơ có cấu tứ
độc đáo với những cái tên rất ấn tượng” Tác gia Nguyễn Thúy Quỳnh qua Ba phác thảo về Ma Trường Nguyên.
Cao Xuân Thư trong bai viết Ghé thăm cuộc rượu của Võ Sa Hà với núi đăng
trên đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên tháng 4 - 2016, cảm nhận vê bài thơ “Quênúi” - linh hồn thơ Võ Sa Hà” Theo Cao Xuân Thử: “Linh hồn thơ Võ Sa Ha đậutrên chốn quê núi non, núi đá của thi sĩ Tách khỏi chốn quê nay, thơ Võ Sa Ha mấtsức sống.”
Tuy chưa trực tiếp bàn vê vấn đê sinh thái trong thơ Võ Sa Ha, nhưng CaoXuân Thư khẳng định gôc rễ của vẻ đẹp thơ Võ Sa Ha la ơ sư gắn kết với “ban thể tư
nhiên nguyên sơ”: “Thơ Võ Sa Hà chỉ dẫn cho chúng ta thấy rằng, chỉ không gian
núi cao, rừng sâu, không gian của quê núi mới có thể cho ta cái nguyên sơ, sự tinh khiết của mọi sự vật, mà từ đó tâm hồn ta mới trở nên sáng trong, lành mạnh” [6, tr.2] Đo la gôc rễ để tạo nên vẻ đẹp của thơ Khác biệt, tức la đôi lập với quê núi này
chinh la chôn thị thanh, phô phường, nơi ma đời sông tư nhiên tươi đẹp của conngười đã bị biến hình, đổi dạng đi Noi môt cách khác, con người ngày nay, ho khôngđược sông theo ban thể tư nhiên nguyên sơ, tốt đẹp của mình Ho đã phai gồng mìnhlên trong đời sông xã hôi hiện thực, chịu rất nhiêu áp lực của nhịp đời
Trong bai viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ, tác gia Nguyễn Kiến Tho nhận xét thơ của Võ Sa Ha “hay va ấn tượng” Những câu thơ của Võ Sa Ha như:
“Mùa thu ấy Bằng Giang rờn sóng nước/ Mã Phục run trong gió lạnh biên thùy/ Pháo đài cổ loáng ánh trăng xanh mướt/ Núi Sa Hà u uất tiễn tôi đi (Mùa thu ấy) đã
được tác gia Nguyễn Kiến Tho chú ý
Còn Ma Trường Nguyên được đánh giá la: “nhà thơ dân tộc Tày với những bài
thơ có cấu tứ độc đáo với những cái tên rất ấn tượng”.
Trong bai viết Thơ lục bát Phan Thái in trên báo Văn nghệ Thái Nguyên, tác
gia Nguyễn Kiến Tho nhận thấy “khát vọng hồi quê” trong cảm thức Phan Thái Tácgia nhận xét: “Ở chặng dừng chân cuôi cùng, như con thuyên cần môt bến bờ để neo,con người ta hay hướng vê quê hương, vê nơi chôn nhau căt rốn Đo co thể la cuôchanh hương bằng hoai niệm, môt cuộc viễn du của ki ức, nhưng no thật đẹp va thậtthánh thiện Ở đo, ta cư thênh thênh bôc lô mình với những niềm vui không cần giấu
Trang 15giếm, với những ý nghĩ không cần ngụy trang” Chúng tôi cung cảm nhận được, sinhthái quê hương, cảm thức “hồi quê” chinh la nguồn nuôi dương thơ Phan Thái Chinhvì thế, bai viết của tác gia Nguyễn Kiến Tho đã gợi mơ những goc nhìn khá mới mẻtrong thơ Phan Thái, goi mời sư đồng sáng tạo của đôc gia
Nhìn chung, những vấn đê môi trường sinh thái trong thơ Thái Nguyên noichung, va nhất la trong thơ của các tác gia Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Tháivẫn còn khá mới mẻ Song các công trình nghiên cứu của những người đi trước sẽ latiên đê khoa hoc quý báu, la những gợi ý bổ ích để chúng tôi thực hiện đê tai nay
3 Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đê tai nay với muc đich:
Nhằm li giai, căt nghĩa sư tác động của môi trường sinh thái đã, đang va sẽ anhhương đến cuộc sống, lôi sông, suy nghĩ của con người ra sao được thể hiện qua banha thơ thuôc ba thế hệ khác nhau
Đê tai chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vao các tập thơ tiêu biểu của ba nha thơ
từ goc nhìn sinh thái Đi sâu tìm hiểu vê môi trường sinh thái ơ Thái Nguyên qua banha thơ tiêu biểu
Lam rõ môi quan hệ giữa môi trường sinh thái va văn hoc Đánh giá nhữngthanh công va đong góp của ba nha thơ trong nên văn hoc thơ Thái Nguyên
Đê tai cung giúp người viết hiểu thêm vê con người va phong cách sáng táccủa các nha thơ
4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được muc đich nghiên cứu như đã nêu ơ trên, chúng tôi thực hiện cácnhiệm vu sau:
Vận dung li thuyết vê sinh thái để đi sâu tìm hiểu
Tìm hiểu khái quát vê ba nha thơ va đi sâu vào các tập thơ co giá trị của ba nha thơ
Tìm hiểu vê môi trường sinh thái va con người Thái Nguyên đã tạo nên nhữngnét đặc săc cho ba nha thơ
Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nha thơ trên một sô phương diện nôi dung vanghệ thuật thơ
Xác định những đong gop của ba nha thơ cho thơ Thái Nguyên
Trang 165 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đôi tượng: Nghiên cứu thơ Thái Nguyên nhìn từ goc đô sinh thái (Qua thơ MaTrường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái)
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Đi sâu vao nghiên cứu các tập thơ của các nha thơ va chỉ rađược tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên noi chung va sư khác biệt trong cảmquan sinh thái của ba thế hệ nha thơ
Phạm vi tư liệu: Các tập thơ của Ma Trường Nguyên: Tiếng lá rừng gọi đôi (
2007, Nxb (2007, Nxb Văn hóa dân tôc), Cây nêu (2007, Nxb Văn hóa dân tộc), Trái
tim không ngủ(1988, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Băc Thái), Câu hát vắt qua vai(2007, Nxb Văn hoa dân tộc); Mở núi(2007, Nxb Hội nha văn); Bắc cầu vồng thăm nhau (2007, Nxb Hôi nha văn); Các tập thơ của Võ Sa Ha: Sóng nhạc hồn tôi(), Ngựa đá(2001, Nxb Quân đội Nhân Dân Ha Nội), Cánh chim về núi (2004 Nxb Hội nha văn
Ha Nội), Lửa trắng (2009, Nxb Lao động Ha Nội); Các tập thơ của Phan Thái: Quẩy
nắng vào đêm(2012, Nxb Hội nha văn); Về sông xưa(2014, Nxb Hôi nha văn); Giấc
mơ con quay về (2016, Nxb Hội nha văn).
6 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp đôi chiếu so sánh
Phương pháp hệ thống
Phương pháp nghiên cứu liên nganh
7 Đóng góp của luận văn
Khẳng định được những thanh tựu va đong gop của Ma Trường Nguyên, _ Võ
Sa Ha, _ Phan Thái trong thơ Thái Nguyên
Luận văn thể hiện rõ sư khác biệt trong phong cách sáng tác của các thế hệkhác nhau khi viết vê thơ Thái Nguyên
Gop thêm cái nhìn mới vê thơ Thái Nguyên dưới goc nhìn sinh thái
Đồng thời ơ mức đô nao đo, luận văn cung đong gop làm tài liệu tham khảocho công tác hoc tập, nghiên cứu va giang dạy vê văn hoc Thái Nguyên
Trang 178 Cấu trúc luận văn
Ngoai phần Mơ đầu, Kết luận va Tai liệu tham khao, phần Nôi dung chinh gồm ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Cảm thức sinh thái trong thơ các nha thơ Thái Nguyên (Qua thơ
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái)
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện vấn đê sinh thái trong thơ Thái Nguyên (Quathơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Ha, Phan Thái )
Trang 18NỘI DUNG Chương 1 GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1 Những vấn đề chung về sinh thái và văn học
1.1.1 Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái
1.1.1.1 Khái niệm sinh thái
“Sinh thái” la khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa sinh vật va môi trường[tr.47] Trong đo sinh vật la một cơ thể sống với các đặc trưng như chuyển động, traođổi chất, sinh trưởng, sinh san va phản ứng đôi với các kich thich bên ngoai Còn môitrường la tập hợp tất ca các yếu tô tư nhiên va xã hội bao quanh con người, anh hươngtới con người va tác đông đến các hoạt động sống của con người như: không khí,nước, đô âm, sinh vật, xã hội loài người…Nói như vậy thì mối quan hệ giữa giữa conngười va môi trường la mối quan hệ biện chứng Trước nguy cơ sinh thái hiện nay,mối quan hệ giữa con người với tư nhiên, giữa con người với con người cần co sưthay đổi thế giới quan nhận thức Con người không những tôn trọng va co trách nhiệmtrong việc bảo vệ môi sinh ma còn co trách nhiệm với chinh bản thân, công đồng va
xã hôi
1.1.1.2 Phê bình sinh thái
Thuật ngư sinh thái học (ecology) co nguồn gôc từ chư Hy Lạp, bao gồm oikos(chỉ nơi sinh sông) va logos (hoc thuyết) Sinh thái hoc, vì thế, la hoc thuyết nghiêncứu vê nơi sinh sông của sinh vật, va đôi tượng nghiên cứu của bô môn khoa hoc nay
la tất ca các môi tương tác giữa cơ thể sinh vật sông va môi trường.Từ chỗ la môt bômôn găn liên với sinh hoc, sinh thái hoc dần mơ rông, anh hương đến nhiêu bô mônkhoa hoc khác, trong đo co khoa hoc xã hội va nhân văn
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latinh la nha ơ, nơi cư trú, bất kì môtsinh vật sông nao cung cần nơi cư trú của mình Thuật ngư sinh thái hoc (ecology) conguồn gôc từ chư Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sông) va logos (hoc thuyết,khoa hoc) Thuật ngư “sinh thái hoc” chỉ thật sư ra đời vao năm 1869 do nha sinh vậthoc người Đức Ernst Haecker đưa ra Ông chinh la người đầu tiên đặt nên mong chomôn khoa hoc sinh thái, nghiên cứu vê môi tương quan của đông vật với các thanhphần môi trường vô sinh
Trang 19sau: “phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự
nhiên Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth - centered approach) để nghiên cứu văn học” [10, tr.40]
Hiện nay, Phê bình sinh thái xuất hiện như môt phan ứng trước sư tan phá môitrường, quá trình đô thị hoa va sư mất cân bằng sinh thái đe doa sư tồn vong của tráiđất Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phai đến những năm 70của thế kỉ XX, khi Joseph W Meeker cho xuất bản Sinh thái học của văn hoc vachinh thức đê xuất tên goi sinh thái hoc văn hoc (literary ecology) thì các nha nghiêncứu mới băt đầu quan tâm đến môi quan hệ giữa văn hoa, văn học va môi trường.Ngoai ra, co thể kể đến một sô công trình khác, chẳng hạn như Phê bình văn hoc sinhthái Sư tương tượng lãng mạn va sinh hoc tri tuệ của Karl Kroeber, Hợp tuyển phêbình sinh thái hoc: Những điểm nhấn trong sinh thái hoc văn hoc của CheryllGlotfellty va Harold Fromm Vao năm 1992, Hôi Nghiên cứu văn hoc va môi trườngđược thanh lập tại Đại hoc Nevada, Hoa Kì.Từ đo trơ đi, văn sinh thái (ecolit) va phêsinh thái (ecocrit) xuất hiện liên tuc trong nhiều bai viết khác nhau.Phê bình sinh thái(văn hoa) từ đo nhanh chong trơ thanh hiện tượng toan cầu Giới nghiên cứu văn hocTrung Quôc cung băt đầu chú ý đến phê bình sinh thái với sư gop mặt của môt sô hocgia tiêu biểu như Đình Hiểu Nguyên, Lỗ Khu Nguyên
Thực ra vê ban chất, phê bình sinh thái ra đời băt nguồn từ phan ứng lại vớitruyên thông coi con người la trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên được phanánh trong văn hoc Tuy nhiên, gần đây, khái niệm phê bình sinh thái được mơ rônghơn, khi coi môi trường tinh thần xã hôi cung la môt kiểu hệ sinh thái tác đông đếnvăn hoc nghệ thuật
Trang 20Tìm hiểu, nghiên cứu văn học từ goc nhìn phê bình sinh thái hầu như chưađược chú ý nhiều ơ Việt Nam no mới được chú ý khoảng vai thập niên gần đây Hiệnnay, phê bình sinh thái mới xuất hiện một sô công trình vê sinh thái học, song còn rấtnon yếu Một sô bai viết va công trình của các học gia nước ngoài đã bước đầu đượcdịch va giới thiệu, ma đáng chú ý hơn ca la Sinh thái học nhân văn của Georges Oliver(Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc Hải dịch, Nxb Thế giới, 1997, tái bản 2002) Riêng vêphê bình sinh thái văn học thì mới co những nốt dạo đầu la các công trình của TrầnĐình Sử, Trịnh Bich Liên, Đỗ Văn Hiểu, Nhã Thuyên Từ việc giới thiệu vê phêbình sinh thái ơ Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, thiếu tinh hệ thống Co thể thấy
bai viết “Phê bình sinh thái - cội nguồn và phát triển của Đỗ Văn Hiểu” trên Tạp chi
Nha văn (sô 11/2012) la bai tổng thuật công phu va đầy đủ nhất vê phê bình sinh thái
từ trước tới nay
Như vậy, sau nhiêu thập kỉ hiện diện, phê bình sinh thái vẫn đang trong tiếntrình vận đông, chưa hê bị giới hạn va đong khung trong phạm vi hay phương phápnao ca Từ nhiêu năm trơ lại đây, phê bình sinh thái luôn được các nha nghiên cứu,các nha văn học quan tâm, nghiên cứu va tìm hiểu để phần nao lam thức tỉnh ý thứccủa con người trước sư tan phá môi trường sống
1.1.2 Khái niệm văn học
Văn hoc la môt loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đê của đời sông xã hôi
va con người Phương thức sáng tạo của văn hoc được thông qua sư hư cấu, cách thểhiện nôi dung các đê tài được biểu hiện qua ngôn ngữ Khái niệm văn hoc đôi khi conghĩa tương tư như khái niệm văn chương va thường bị dùng lẫn lộn Tuy nhiên, vêmặt tổng quát, khái niệm văn hoc thường co nghĩa rông hơn khái niệm văn chương,văn chương thường chỉ nhấn mạnh vao tinh thẩm mĩ, sư sáng tạo của văn hoc vêphương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ Văn chương dùng ngôn từ lam chất liệu
để xây dựng hình tượng, phan ánh va biểu hiện đời sông
Văn hoc co nhiêu thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngăn, thơ, kịchban, lý luận phê bình Văn hoc co lịch sư phát triển từ lâu đời từ văn hoc dân gian đếnvăn hoc viết Văn hoc la môt bô phận quan trọng của văn nghệ
Xét theo nghĩa rông thì văn hoc chinh la thuật ngư dùng để goi chung cho moihanh vi ngôn ngư noi- viết va các tác phâm ngôn ngữ, bao gồm ca những tác phâmđược xếp vao loại chinh trị, triết hoc, tôn giáo Như vậy theo nghĩa rông thì văn họcchinh la văn hoa
Trang 21Xét theo nghĩa hẹp thì văn hoc lại la văn hóa - nghệ thuật ma chúng ta vẫnthường dùng hiện nay No bao gồm tất ca những tác phẩm ngôn từ được sáng tácbằng hư cấu va tương tượng Như vậy nếu chúng ta hiểu văn hoc theo nghĩa hẹp thìnhững tác phẩm vê chinh trị, tôn giáo, triết học lại nằm ngoai phạm trù nay Noi cáchkhác văn học hiểu theo nghĩa hẹp chinh la văn chương
Văn hoc chinh la môt hình thái ý thức xã hôi thẩm mỹ Văn hoc được bătnguồn từ đời sông, phản ánh moi khia cạnh của đời sông hay bay to môt quan điểm,một lập trường đôi vôi đời sông, môt sư việc, hiện tượng, sô phận trong xã hôi
Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngư văn hoc: văn học là sự phản ánh đời
sống xã hội, thể hiện nhận thức và sự sáng tạo của con người Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó Văn học xây dựng những hình tượng nghệ thuật có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người [34, tr.2].
Vì vậy văn hoc co thể phan ánh quá trình vận đông không ngừng của đời sôngtrong không gian va thời gian ơ bất cư giới hạn nao Trong văn hoc co hai loại đo la
tư sư (gồm truyện, tiểu thuyết, ki…), loại trư tình (thơ ca, hò vè…) Trong phạm vinghiên cứu tôi tìm hiểu vê thơ Thái Nguyên
Thơ, thơ ca hay thi ca, la môt khái niệm chỉ các loại sáng tác văn hoc co vầnđiệu, co đặc điểm ngắn gon, súc tich, nhiều ý cô đong Một bai văn cung co thể lamột bai thơ nếu sư chon loc các từ trong đo súc tich va gây cảm xúc cho người đọcmột cách nhanh chong Bên cạnh đó, môt bài thơ thường còn mang tinh vần giữa câu
no với câu kia va tổ hợp của các câu gây ra âm hương nhạc tính trong bài Thơthường dùng như môt hình thức biểu ta cảm xúc trư tình, hoặc tình cảm xúc độngtrước môt hiện tượng xảy ra trong cuôc sông, như khi người ta đứng trước môt phongcanh ngoạn muc, hoặc đứng trước môt thảm canh Sư tương tác giữa tình cam conngười va hoan canh tạo nên những cảm nghĩ ma người ta muôn bay to với môt phong
đô chăt loc, tinh khiết, không rườm ra, song co mức thông tin cao, đôt phát, nhưng côđong va chiết khúc Muôn làm được như vậy, người làm thơ phải co môt con mătquan sát chi tiết, tổng quát hoa, va nhanh chong liên tương giữa những hình anh quansát được với những gì vôn co trước đây
Trang 221.1.3 Mối quan hệ giữa sinh thái và văn học
Giữa văn học va môi trường sinh thái co môi quan hệ hữu cơ mật thiết vớinhau Cung như mối quan hệ giữa con người va môi trường, con người va tư nhiên đãđược đê cập đến trong văn chương từ thời cổ đại Trong tâm thức của nhân loại noichung, người phương Đông va đặc biệt la giới tao nhân mặc khách noi riêng, thiênnhiên la người bạn lớn, người mẹ vĩ đại luôn tương giao, tương thông, tương cảm vớicon người, la bến bờ nương tựa va gột rửa linh hồn, la nơi lánh ân va di dương tinh
thần của ho Thi hao Tagore từng noi: “Nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên” Hồ Chi Minh cung từng khái quát: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mĩ” Việc thiên nhiên,
môi trường, tư nhiên tồn tại trong đời sông văn hoc môt cách lâu dai, bên bỉ như thế,hẳn đã tạo nên một nền văn hoc sinh thái? Không phai như thế Trong văn hoc quákhứ, dù nha văn co trân trong, co yêu thiên nhiên thiết tha đến mấy, miêu ta thiênnhiên đẹp đẽ, thơ mông va hùng vĩ đến mấy cung chỉ để to cái tình, cái tai, cái khi,cái chi của người cầm bút Va đương nhiên thiên nhiên chỉ la khách thể của văn
chương, la phương tiện nghệ thuật để nha văn “tai đạo”, “ngôn chí” Câu thơ “Cảm
thời hoa tiễn lệ/ Hận biệt điểu kinh tâm” (Cảm thương thời thế hoa rơi lệ/ Hận biệt li chim cũng động lòng) của Đỗ Phủ trong bai Xuân vong “là một biểu hiện điển hình của kiểu văn học lấy nhân loại làm trung tâm” Ban thân thiên nhiên cung như hoa va
chim không quan trong, quan trong la chúng co thể la công cu để biểu đạt tình cảmcủa các nha văn Ban chất của văn hoc sinh thái la kiên quyết bai trừ những thái đôcông cu hoa va phương pháp hoa đôi với tư nhiên Điêu nay giúp chúng ta co thểvạch môt ranh giới rõ rang trong việc miêu ta tư nhiên giữa tác phâm văn hoc sinhthái va tác phẩm văn hoc phi sinh thái
Hơn nữa, văn học sinh thái đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm va nghĩa vu củacon người đối với tư nhiên, khẩn thiết kêu gọi con người bảo vệ vạn vật trong tư nhiên
va duy trì cân bằng sinh thái, nhiệt tình ca ngợi sư hi sinh của con người vì lợi ich củamôi trường sinh thái No đưa trách nhiệm của nhân loại đối với tư nhiên thành địnhhướng đạo đức chủ yếu điều đo được đê cập đến trong các giai đoạn văn học
Trang 23Trong ca dao dân ca thì môi trường tư nhiên la hình anh để người dân lao đôngbay to nỗi niềm Như bai ca vê quê hương co bôn mùa với những hình anh quenthuôc như co gio, co trăng, co chùa để thể hiện sư thanh bình của lang quê
Quê em co gio bôn mùa
Co trăng giữa tháng, co chùa quanh năm
Chuông hôm, gio sớm, trăng rằmChỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi
Những hình anh dân dã quen thuôc đời thường được đưa vao câu thơ luc bát
để diễn ta môt tình cảm đẹp Đo la tình thương nhớ quê nha, nhớ những gì gần guithan quen dân dã như: canh rau muông, ca dầm tương … toan la những hương vị thânquen của cuôc sông đời thường gian dị ma thanh bình
Anh đi anh nhớ quê nhaNhớ canh rau muống nhớ ca dầm tương
Nhớ ai dãi năng dầm sươngNhớ ai tát nước bên đường hôm nao
(Ca dao)Thơ dân gian, môi quan hệ giữa con người va thiên nhiên la hòa đồng, gần gui.Khi noi vê thân phận người phu nư được so sánh như chẽn lúa đòng đòng phất phơdưới ngon nắng hồng ban mai
Thân em như chẽn lúa đòng đòngPhất phơ dưới ngon nắng hồng ban mai
(Ca dao)
Hay “Thân em như củ ấu gai”, “Thân em như hạt mưa sa”…
Cung như ca dao thơ trung đại với chủ đê thiên nhiên vẫn co vị tri quan trong
va được nhiêu nha thơ đê cập đến
Dâu gia lá rung tằm vừa chinLúa sớm nơ hoa thơm, cua đang lúc béoNghe noi ơ nha, dẫu nghèo vẫn tôtĐất Giang Nam tuy vui cung chẳng bằng vê nha
(Quy hứng - Nguyễn Trung Ngạn)…
Trang 24Hay trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nhan)Môt cặp câu đã lôt ta hết tất ca cuôc sông sinh hoạt va thức ăn hằng ngay của
“lão nông nghèo” Mùa nao đêu tương ứng với thức ăn đấy, tuy không co sơn hao
hai vị nhưng những thức ăn co sẵn nay lại đậm đa hương vị quê nha, khiến tác gia anphận va hai lòng Mùa thu co măng trúc ơ trên rừng, mùa đông ăn giá Chỉ với vai nétchấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Băc rất hao phòng,
đầy đủ thức ăn Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác hoa vai đường
nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sư thanh tao không ai sánh được Môt cuôcsông dường như chỉ co tác gia va thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau
Còn trong Thơ mới, thiên nhiên như môt khách thể thẩm mĩ để nha thơ soingắm va hương thụ Rất nhiêu thi sĩ thể hiện sư tinh tế tôt bậc khi miêu ta thiên nhiên.Xuân Diệu từng co những câu thơ như thế nay:
Dịu dang đan những ánh tơ xanh Cho gio du dương điệu múa canh Cho gio đượm buồn, thôi náo độngLinh hồn yểu điệu của đêm thanh
(Trăng)
Va đây la những câu thơ của Han Mặc Tử:
Trong lan năng ửng khoi mơ tanĐôi mái nha tranh lấm tấm vangSôt soạt gio trêu ta áo biếc
Trên gian thiên li - bong xuân sang
(Mùa xuân chin)
Như vậy trong Thơ mới, những vần thơ vê đồng quê thể hiện tình yêu ma cácthi sĩ dành cho thiên nhiên la những vẻ đẹp thanh tân Xét vê mặt nào đó, đây cũngchinh la ý thức chống lại sư tàn phá môi trường trong thời buổi văn minh công
nghiệp Nhớ rừng của Thế Lư mang vẻ đẹp “hoài cổ” qua khối ẩn ức lớn dần vì ý
thức được sư đối lập giữa quá khư va hiện tại, giữa tư do va bị tước đoạt tư do, giữa
tư nhiên hoang sơ rộng lớn va môi trường nhân tạo nho hẹp của con hổ
Trang 25Nao đâu những đêm vàng bên bờ suôi,
Ta say mồi đứng uông ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bôn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gôiTiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiêu lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết manh mặt trời gay găt
Để ta chiếm lấy riêng phần bi mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
(Nhớ rừng)
Đôc gia dễ dang nhận thấy “khối sầu đô thị” trong thơ Xuân Diệu (Lời kĩ nữ),
Vu Hoang Chương (Say), Đinh Hùng (Bài ca man rợ) Những bai thơ này, ta khôngđược gặp môt thư thiên nhiên trong trẻo, thanh bình của lang quê như trong thơ củaNguyễn Binh hay những nét văn hoa tươi tắn như trong thơ Tết của Đoan Văn Cừ
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong Thơ mới còn được thể hiện rất chân thực qua những
“bức tranh quê” của nhóm thi sĩ đồng quê hay trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp,
Nam Trân Những hình anh ấy co thể sẽ trơ thanh những bao tang nghệ thuật, nogiúp con người thời hiện đại tìm được niềm thư thái trong những trang thơ ấy
Han Mặc Tử:
Sao anh không vê chơi thôn Vĩ?
Nhìn năng hang cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngocLá trúc che ngang mặt chư điênNguyễn Binh:
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Thong tha dân gian nghỉ việc đồngLúa thì con gái mượt như nhung Đầy vườn hoa bươi hoa cam rung Ngao ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
(Xuân vê)
Trang 26Huy Cận:
Môt buổi trưa không biết ơ thời naoNhư buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Co cu gáy, co bướm vang nữa chư
Ma đôi lứa đang bên vườn tình tư
(Đi giữa đường thơm) Đâu đây không phải la những bức tĩnh vật ma la những sinh thể thiên nhiênluôn chuyển động, cựa quậy Thiên nhiên co thể bay ra hữu hình, co thể ẩn giấu, vôhình Dường như các nha thơ mới phải rất tinh tế mới co thể cảm nhận va hữu hìnhhoa những thư nhiều khi vô hình ấy Dĩ nhiên, sức quyến ru của thơ đo chinh la sư đandệt khéo léo giữa cái hữu hình va cái vô hình của thiên nhiên Đo la sư đan dệt để tạonên những khoảng trống ma người tiếp nhận sẽ làm đầy no bằng trường liên tưởng vakinh nghiệm thẩm mĩ của mình
Thư đoc môt đoan khúc của Huy Cận sẽ thấy:
Năng chia nửa bãi, chiều rồiVườn hoang trinh nư khép đôi lá rầuSợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ anh hầu quạt đây
(Ngậm ngùi)Thiên nhiên va thế giới tư nhiên trong thơ đã trơ thanh một điểm nhấn quantrọng khi li giải mối gắn kết giữa lịch sư của loài người va nơi sinh thành nuôi dưỡnghọ
Nhìn chung, môi trường sinh thái trong thơ ca đã được các thi sĩ moi thời đạikhám phá, biểu đạt hết sức phong phú va đa dạng, đa chiêu Cho dù tri tương tượngcủa ho co vượt thoát ra khoi hiện thực thì cuôi cùng, trong thẳm sâu tâm hồn ho vẫn
la nỗi mê đời, niềm khát sông, khát yêu, khát khao hòa nhập Va trong nhãn quannghệ thuật của ho, thiên đường không ơ đâu xa xôi ma hiện hữu ngay trong cõi thếđầy bi ân nay, đo la nơi trần thế
Vấn đê quan trong đặt ra ơ đây la văn bản nao co thể được sư dung lam đôi
tượng nghiên cứu của Phê bình sinh thái Dĩ nhiên, đôi tượng nghiên cứu li tương của
Phê bình sinh thái la những văn ban văn hoc sinh thái theo đúng nghĩa của no Văn
Trang 27hoc sinh thái đúng nghĩa chỉ thực sư xuất hiện khi môi trường toan cầu xấu đi môtcách nghiêm trong trong thời hiện đại Nếu phê bình sinh thái chỉ chon tác phẩm vănhoc sinh thái như vậy lam đôi tượng nghiên cứu thì phạm vi vận dung nghiên cứu của
no rất hạn hẹp Bơi vì trước thời kì cách mạng công nghiệp, trước thời kì môi trườngtoan cầu xấu đi một cách trầm trong rất kho tìm được tác phẩm văn hoc viết môt cách
tư giác vê vấn đê bao vệ môi trường ho chỉ viết co trong vô thức vê vấn đê đo mathôi Hơn nữa, ngay ca từ sau cách mạng công nghiệp phát triển môi trường sinh tháibị anh hương nghiêm trong, không phải đa sô tác phâm văn hoc trên thế giới đêu lavăn hoc sinh thái Ở Việt Nam đến thời điểm hiện nay chưa co môt dòng văn hocđược goi la văn học sinh thái, văn hoc bao vệ môi trường Vậy liệu co thể ứng dungphương pháp phê bình này ơ Việt Nam không? Chúng ta sẽ ứng xư như thế nao đôivới những văn ban tác phẩm văn hoc trung đại va những văn bản tác phẩm hiện đạikhông thực sư la văn hoc sinh thái theo đúng nghĩa của no?
Để lý giai cho vấn đê đo, Phê bình sinh thái trước hết tập trung vao phân tichvăn ban văn hoc, tìm ra những nhân tô thể hiện ý thức sinh thái Nếu đi theo hướngnay, thì phạm vi khao sát của phê bình sinh thái sẽ mơ rông rất nhiều Trên thực tế, tưtương sinh thái đã manh nha từ lâu, Trung Quôc cổ đại co tư tương “thiên nhân hợpnhất”, “đạo pháp tư nhiên”, châu Âu thế kỉ XVIII-XIX co trao lưu triết hoc trơ lại với
tư nhiên Những tư tương triết hoc đo hoặc it hoặc nhiêu đêu in dấu trong sáng tácvăn hoc cổ kim đông tây, co điêu trong nghiên cứu văn hoc trước kia chưa thực sưchú ý đến ham ý sinh thái trong đo Vì vậy, những tác phẩm miêu ta phan ánh vẻ đẹp
tư nhiên va quan hệ giữa con người va tư nhiên, mặc dù người viết đương thời khôngchủ đich viết sinh thái như hiện nay, nhưng chúng ta vẫn co thể đứng trên quan điểmcủa mình để phát hiện va tìm ra ý nghĩa sinh thái trong đó Do điêu kiện lịch sư nênphần lớn hình tượng thiên nhiên trong thơ ca trung đại đêu được dùng như môt ẩn du,một phương tiện để ki thác tâm trạng, cái cớ để thể hiện tình cảm chủ quan của nhathơ, nhưng ý thức sinh thái ham ân trong đo la môt thực tế khách quan không thể phủnhận Co nhiều tác phẩm coi thiên nhiên la đối tượng thẩm mĩ độc lập, nha thơ chiêmnghiệm vẻ đẹp tư nhiên của no, ho coi thiên nhiên la trung tâm của cái đẹp bởi sư
Trang 28khát khao hoan thiện trong mỗi con người Với những vần thơ của những nha Nho
ơ ẩn sống vui với cảnh điền viên như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta
dễ dang tìm thấy tư tưởng ca ngợi quan hệ hai hòa thân thiết giữa con người va tưnhiên Sư giao cảm giữa con người va vu tru trong văn học trung đại Việt Nam đãtạo nên cảnh giới tươi đẹp Như vậy, trong văn học trung đại, tư tưởng sinh tháichưa được hình thanh một cách tư giác va co hệ thống, nhưng ho đã thể hiện raniềm tôn kính, ngưỡng mộ, tình yêu đối với tư nhiên Ngay thời hiện đại cũng corất nhiều tác phẩm văn học không phải văn học sinh thái theo đúng nghĩa của no,
nhưng lại bao hàm trong đo ý thức sinh thái rất mạnh mẽ, chẳng hạn như “Ông già
và biển cả” của Hemingway hay “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
Những tác phẩm như vậy hoặc it hoặc nhiều đều co cống hiến nhất định cho việcthức dậy ý thức sinh thái trong người đọc
Khi phân tich văn bản văn hoc, Phê bình sinh thái chú ý đến hai loại cảmhứng: cam hứng ngợi ca va cam hứng phê phán Hiển nhiên văn học sinh thái thườngphan ánh mâu thuẫn giữa con người va tư nhiên, va thường la thông qua phan tư vaphê phán quan hệ mâu thuẫn này để thức tỉnh ý thức sinh thái, chỉ ra nguy cơ của việccon người chiếm đoạt tư nhiên, khai thác vô đô tư nhiên chinh la tư đao huyệt chônmình Hanh động đo không chỉ làm cho môi trường sinh tồn xấu đi, ma còn tác đông
xấu đến đời sông tinh thần của con người, đến nhân tinh Nguyễn Huy Thiệp “cảnh
tỉnh rằng, nếu vô cảm với muôn loài sẽ có thể làm con người vô cảm trước đồng loại” (Con thú lớn nhất), còn Nguyễn Bình Phương lại phát hiện ra “mối liên hệ giữa việc con người thích tàn sát động vật với hành vi giết người” (Thoạt kì thủy) Bên
cạnh đó, Phê bình sinh thái cung chú ý đến cam hứng ngợi ca vẻ đẹp của tư nhiên,ngợi ca quan hệ hai hòa giữa con người va tư nhiên Tìm ra những biểu hiện naytrong văn hoc cung chính la tìm mẫu li tương cho thái đô ứng xư với tư nhiên
Thêm môt vấn đê đặt ra cho Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn hoc la khitiến hanh nghiên cứu môi trường sinh thái vẫn phai tôn trọng nguyên tăc thẩm mĩ.Nếu xa rời nguyên tăc thẩm mĩ thì sẽ đánh mất tinh văn hoc va sẽ không còn la phêbình văn hoc nữa Vì thế, trong quá trình phân tich văn ban văn hoc, tìm ra nhữngnhân tô sinh thái, nhân tô thể hiện quan hệ giữa con người va tư nhiên, Phê bình sinhthái co thể vận dung các phương pháp của nghiên cứu nội tại Chẳng hạn tìm kiếm
Trang 29những biểu tượng nghệ thuật vê sinh thái như biểu tượng soi, biểu tượng thao nguyên,cánh đồng, sa mạc, biểu tượng nước, biểu tượng thiên tai, nạn dịch… Co thể noinhững biểu tượng kiểu như vậy la linh hồn của văn hoc sinh thái, chúng đong vai tròquan trong trong tư sư văn hoc sinh thái Phê bình sinh thái cung chú ý đến phân tichkết cấu mang tinh đôi thoại giữa con người va tư nhiên trong văn bản văn hoc.
Tom lại, văn hoc va môi trường sinh thái luôn luôn co môi tác động qua lại vớinhau Môt nha văn đich thực cung chinh la một nha sinh thái hoc, tác phẩm văn học
ma ho sáng tạo ra cung chinh la môt tác phẩm đa dạng hoa moi vấn đê trong cuôcsông của môt dân tôc nao đo va khi đến với đôc gia, được đôc gia tiếp nhận thì quátrình tiếp nhận tác phẩm văn hoc đo cung chinh la quá trình thương thức, tiếp nhậncái nhìn đa chiêu vê sinh thái hoc Thời đại ngay nay, với nhu cầu của cuôc sông conngười ngay cang coi trong môi trường sông của mình nên mỗi quôc gia, dân tôc ngaycang muôn tô điểm cho vẻ đẹp quê hương đất nước thân thiện với môi trường, tìm vêvới thiên nhiên để di dương tâm hồn
1.2 Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị sinh thái
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên
Thái Nguyên la một tỉnh nằm ơ phía đông bắc Việt Nam với diện tích hơn
3000Km2, tiếp giáp với thủ đô Ha Nội Thái Nguyên la tỉnh nổi tiếng với những đồichè bát ngát, với những nha máy thép co sản lượng khai thác hàng năm lớn va tốt vaoloại nhất nhì trong ca nước Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp va Đếquốc Mỹ, đây chinh la Thủ đô gio ngàn, căn cư địa cách mạng của cuộc kháng chiếnViệt Nam Ngay nay Thái Nguyên đã va đang trơ thanh trung tâm kinh tế, văn hóa, xãhội của khu vực đông bắc hay noi rộng hơn la của ca vùng trung du va miền núi phiabắc Việt Nam
Thái Nguyên cũng la một trong những mảnh đất co truyên thống văn hoa từlâu đời, những truyền thông văn hoa đo chính la mầm sông thúc đẩy sư ra đời va pháttriển của văn hoc Cung như tiến trình phát triển của văn hoc ca nước, văn hoc noichung va thơ ca Thái nguyên noi riêng cung được phát triển băt đầu từ văn hoc dângian, thơ ca dân gian với nhiêu tên tuổi va đạt được những thanh tựu nhất định
La môt tỉnh thuôc khu vực phia Băc co nhiêu dân tôc anh em sinh sống, ngoaingười Kinh ra còn co người Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao, H'Mông va ngườiHoa cho nên co một nền văn hoa rất phong phú, đa dạng Văn hoc Thái Nguyên chinh
Trang 30la tổng hòa của tất ca những giá trị văn hoc của các dân tộc anh em đang sinh sôngtrên địa ban Thái Nguyên No vừa chứa đựng những nguồn sông trong mạch chảychung của văn hoa công đồng người Việt Nam noi chung vừa tich tu những nét bansăc mang tính đặc trưng riêng của công động dân cư Thái Nguyên.
Trai qua rất nhiêu những biến thiên của lịch sư va thời đại, văn hoc dân gianThái Nguyên vẫn liên tuc phát triển với nhiều loại hình khác nhau như: loại hình tưsự, loại hình trư tình va loại hình trung gian Ở đây, do đôi tượng nghiên cứu cho nênchúng tôi xin phép không nhăc đến loại hình tư sự Loại hình trư tình trong văn hocdân gian Thái Nguyên bao trùm la ca dao Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì ca dao baogồm tất ca các thể loại hát dân ca trong đời sông sinh hoạt dân gian các dân tôc TháiNguyên, đặc biệt la các bai hát Sli, Lượn Những bai hát dân ca này đã phan ánh rõnét sư giao lưu văn hoa giữa người Kinh va người Tay
Văn hoc Thái Nguyên noi chung va loại hình trư tình noi riêng chinh la môtkho báu vê tri tuệ, tâm hồn, tình cảm, thẩm mĩ của nhân dân các dân tôc anh em ơThái Nguyên No chinh la côi nguồn, la nền tang cho sư phát triển của văn hoc noichung, thơ ca noi riêng giai đoạn sau nay
Sau Cách mạng tháng Tám thanh công, cùng với các nha thơ đan anh ơ moimiền đất nước, các tác gia la người dân tôc ít người co quê gôc ơ Việt Băc đã viếtnhững tác phẩm bằng tiếng Tay, Dao, Nùng gop phần làm cho văn hoc kháng chiếnthêm đa dạng, nhiều mau săc
Năm 1957, hôi Văn nghệ Việt Băc được thanh lập ơ thị xã Thái Nguyên đã tạonên môt cuộc hôi tu lớn của tất ca các nha thơ của sáu tỉnh miên núi phia băc la TháiNguyên, Băc Cạn, Tuyên Quang, Ha Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn
Đến thời kỳ kháng chiến chông Mỹ cứu nước bùng nổ đã đưa văn hoc bướcsang môt giai đoạn mới: toan Đang, toan dân tập trung, dồn toan bô sức lực cho sưnghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thông nhất đất nước Những tác phẩm sáng tác trongthời kì này đêu mang hơi thơ nong hổi của thời đại Tuy nhiên, do yêu cầu của thờiđại ma trong giai đoạn của hai cuôc kháng chiến chông Pháp va chống mỹ cứu nước,văn xuôi la thể loại phát triển hơn thơ ca trong văn hoc Thái Nguyên
Năm 1987 hôi văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên ra đời đã tạo nên môtbước ngoặt mới của thơ ca tỉnh nha
Trang 31Đến thế kỉ XXI, cùng với sư chuyển mình của đất nước, nền văn học Thái Nguyêntrong đo co thơ ca co bước tiến mới, đạt được nhiều thanh tựu mới ca vê sô lượng,giá trị tác phẩm cũng như đội ngu sáng tác Hòa vào dòng chảy văn chương của thờiđại, sư xuất hiện của hang loạt các nha thơ mới bên cạnh những nha thơ cu vớinhiều lứa tuổi, nhiều thể loại, nhiều bút pháp khác nhau đã làm cho kho tàng thơ canói riêng, văn chương Thái Nguyên nói chung ngày càng thêm phong phú, tiêu bi ểula: Trần Thị Việt Trung, Nguyễn Kiến Thọ, Võ Sa Hà, Ma Trường Nguyên, PhanThái, Minh Thắng, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh, Hoang Tô Nga, CaoHồng, Trong thơ của mình, các nha thơ đều it nhiều tư tạo cho mình một hướng điriêng, không hòa lẫn với nhau: co nha thơ thì nhẹ nhàng, co nha thơ lại mạnh mẽ,thách thức hoặc khiêm nhường, gai goc hoặc dịu êm Tuy co những nét rất riêngnhư vậy nhưng giữa các nha thơ vẫn co sư gặp ngơ nhau trong nỗi buồn, sư cô đơn
va đêu co sư bứt phá vê thi pháp thơ
Các nha thơ sinh ra va lớn lên trong thời kỳ đất nước thống nhất này đêuhướng ngòi bút của mình vao những biểu hiện của cuôc sông mới với những chủ đê
vê tình yêu, gia đình, cuôc sông va con người Các sáng tác của các nha thơ thời kỳnày đã it nhiều khẳng định được giá trị thông qua môt sô giai thương: giai thương thơcủa Văn nghệ Quân đôi va Báo Văn nghệ, giai thương của ủy ban toan quốc Liênhiệp các Hôi văn hoc Nghệ thuật Việt Nam, giai thương trong cuôc thi thơ tình Điêu này đã chứng to thơ ca Thái Nguyên ngày cang co môt vị tri quan trong trongnên thơ ca chung của ca dân tôc
1.2.2 Tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên
Lý thuyết Phê bình sinh thái la vấn đê khá mới mẻ va chưa nhận được nhiêu sưquan tâm Mới co môt sô công trình nghiên cứu vê vấn đê sinh thái như: Đỗ Văn
Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách tân, Tạp chi
phát triển nghiên cứu va khoa hoc, Đại hoc Quôc gia Hồ Chi Minh; Nguyễn Thị Tịnh
Thi (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học hậu hiện
đại-lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Băc chủ biên, NXB Đại học sư phạm, Ha Nôi; Lê Lưu
Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016) Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên
cứu văn học, Tạp chi Li luận phê bình văn học nghệ thuật, Sô 41, Tháng 1 va môt sô
công trình nghiên cứu của các tác gia khác
Trang 32Đáng chú ý la cuốn Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975 nhìn từ góc nhìn
phê bình sinh thái của tác gia Lê Lưu Oanh - Trần Thị Ánh Nguyệt; bai Cảm hứng nhân văn trong tiểu thuyết Vi Hồng đăng trên Tạp chi nghiên cứu Văn học sô 10
năm 2011 va Cảm quan sinh thái trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đương
đại của PGS TS Đào Thủy Nguyên đăng trên Tạp chi nghiên cứu văn học, sô
7-2016 Đây la những bai viết đã dựa trên li thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứumối quan hệ giữa con người va thiên nhiên, giữa con người va con người trong vănhọc dân tộc thiểu sô Việt Nam đương đại Những bai viết nay sẽ la hướng gợi mơ đểtôi vận dụng li thuyết phê bình sinh thái vao tiểu thuyết của nha văn Vi Hồng Chỉ
co một sô tác gia như Phạm Mạnh Hùng, Thiều Thị Phương Nga, Dương ThịXuân… trong công trình nghiên cứu của mình đã đê cập đến tư nhiên Việt Bắc, hiệnthực cuộc sống con người Việt Bắc
Vẻ đẹp tư nhiên đã được môt sô tác gia đê cập đến Trong Ảnh hưởng của văn
hóa dân gian trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng, tác gia Hoang Thị Minh Phương
đã nhận xét thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng rất đặc trưng của vùng miền
núi Đo la “bức tranh thiên nhiên đẹp đầy màu sắc, hoang sơ của rừng hoa, cánh
ruộng bậc thang bát ngát, trù phú với muôn vàn tiếng chim chóc, cũng có thể là thiên nhiên hùng vĩ hoang sơ đầy hiểm” [ 1, tr 23] Trong Vi Hồng - Tác phẩm và dư luận
co bai viết: Biểu tượng về thiên nhiên như một diễn ngôn về văn hóa Tày trong tiểu
thuyết Vi Hồng của tác gia Trần Thị Ngọc Anh va Nguyễn Thị Vân Anh khẳng định:
“Thiên nhiên đã trở thành một bộ phận hữu cơ gắn bó mật thiết với con người” [ tr.
229] Ở đây các tác gia đã đưa ra một sô biểu tượng thiên nhiên găn bo với con ngườinhư: thác nước, dòng sông, hoa, ánh trăng… Tuy nhiên, vẻ đẹp tư nhiên mới chỉ đượctìm hiểu rai rác chư chưa được nghiên cứu một cách toan diện
Truyện ngắn Cao Duy Sơn dưới góc nhìn phê bình sinh thái luận văn của
Trịnh Thị Thùy Dung.Trong công trình Văn học dân tộc thiểu sốViệt Nam thời
kỳ hiện đại - một số đặc điểm (2011), các tác gia Trần Thị Việt Trung - Cao Thị
Hảo co đê cập đến hình ảnh thế giới tư nhiên - đặc biệt la những con vật độc ácxấu xi để miêu ta nhân vật phản diện Tác gia đã chú ý đến mối quan hệ giữa
con người va tư nhiên như: “Với thủ pháp vật hóa các nhân vật phản diện trở
thành những con người tầm thường, thậm chí là dung tục, bản năng như loài cầm thú” [49, tr.144].
Trang 33Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số
(2014) của tác gia Đào Thủy Nguyên (Chủ biên) va môt sô tác gia khác đã khẳng
định “Thiên nhiên Cao Bằng trong sáng tác của Cao Duy Sơn không chỉ mang vẻ đẹp
của bức tranh sơn thủy mà còn hiện lên như một sinh thể hữu hình, biết chia sẻ với con người những vui buồn trong cuộc sống” [16, tr 163].
Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn (2010) của Lý Thị
Thu Phương co miêu ta thiên nhiên như sau “Cao Duy Sơn đã khám phá và sáng tạo
nên thế giới thiên nhiên đầy sức sống, đa săc màu, hung vĩ và thơ mộng,đưa người đọc đến một miền đất hoang sơ và chứa bao điều bí ẩn, diệu kì, cảm nhận phong vị miền núi phía Bắc độc đá, khó quên” [35, tr 55]
Một chút tình si trong thơ của Ma Trường Nguyên của tác gia Nguyễn Đức
Thiện đăng trên báo Văn nghệ Trẻ sô 43 ngày 22/10/2006 đã bình vê bai thơ “Câu hát
văt qua vai” Trong bài thơ chất chứa rất nhiều chi tiết đời thường của quê hương núi
rừng Núi chiều, mây bọc, con chim, con sóc, con gà gô …Ta thử hình dung giữa một vùng đồi núi hoang vu, nơi bản mường người ở thưa thớt chỉ có gió rừng, suối reo, chim kêu, vượn hú” [24, tr.2].
Đây la những bai viết đã dựa trên li thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứumối quan hệ giữa con người va thiên nhiên, giữa con người va con người trong vănhoc dân tôc thiểu sô Việt Nam đương đại Những bai viết nay sẽ la hướng gợi mơ đểtôi vận dung li thuyết phê bình sinh thái vao văn thơ Thái Nguyên
1.3 Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái và quá trình sáng tác
1.3.1 Quá trình sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên
1.3.1.1 Tiểu sử nhà thơ Ma Trường Nguyên
Ma Trường Nguyên la người dân tôc Tày Ông sinh ngày 17 tháng 5 năm 1944tại xóm Đồng Chân, xã Phú Định, huyện Định Hoa, tỉnh Thái Nguyên Ngay từ thuơthơ ấu, Ma Trường Nguyên đã được đắm mình trong những câu chuyện cổ tich,những điệu hát Sli, hát Lượn của dân tôc mình Điêu đo đã anh hưởng rất nhiêu đếnviệc sáng tạo nghệ thuật của nha thơ sau này
Trang 34Ma Trường Nguyên được coi la "người đốt lửa bừng trái tim" với "dáng
vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành" Ông được coi la một trong những tác gia
tiêu biểu của văn hoc dân tôc thiểu sô Việt Nam giai đoạn nửa cuôi thế kỉ XX, đầuthế kỉ XXI
Tham gia vao quân đôi va hoạt động trong môt đôi pháo cao xạ từ năm 1963.Ông đã được trai nghiệm qua những kho khăn, mất mát ma người linh pháo binh phaichịu đựng Đồng thời cung được chứng kiện tinh thần gan dạ, qua cam, sư lạc quantrong moi kho khăn gian khổ của đồng đôi, của nhân dân toan miên Băc Sau khihoan thanh nhiệm vu, Ông lam phong viên cho báo Quân khu 3, biên tập viên nhaxuất ban Văn hóa dân tôc Tiếp đo, ông theo hoc trường viết văn Nguyễn Du Sau khitôt nghiệp, ông vê công tác tại quê hương Thái Nguyên
Trai qua một quá trình sáng tác, nha thơ đã đảm nhiệm nhiêu chức vu quantrong trong nhiều cơ quan khác nhau của tỉnh Thái Nguyên: Pho giám đôc Sơ Vănhoa - thông tin (1985), Chủ tịch Hôi văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên (1998 -2003), Bi thư Đang đoan Hôi văn nghệ, Tổng biên tập báo Văn nghệ Thái Nguyên Cho dù ơ cương vị nao ông cung luôn hoàn thành xuất săc công việc được giao
Trong những năm tháng trai qua trong cuôc đời, Ma Trường Nguyên đã tichlũy được môt vôn tri thức phong phú, môt nhân cách đáng kinh trọng, môt tình yêuquê hương đất nước tha thiết Chính điêu đo đã tạo thanh môt mạch nguồn xuyên suôttrong các sáng tác của ông
1.3.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên
Theo Ma Trường Nguyên, người lam thơ lúc nao cung phai nuôi dương trong
lòng mình môt "dư vọng ngân nga" của cuôc đời, khi cần chỉ khẽ đông vao cung đã
thanh thơ Thơ chỉ đến với những người biết rung cảm, nồng nhiệt với đời ma thôi.Người làm thơ phải luôn găn với đời, giao cam với đời thì mới co thể co những vầnthơ chân thật, chân thanh nhất
Ma Trường Nguyên la nha thơ sáng tác thơ ca từ rất sớm Năm 16 tuổi, ông đã
khơi đầu sư nghiệp văn chương của mình với bai thơ “Cờ hồng” được in trong tập
“Tiếng trống đồng xuân” do Ty văn hóa Thái Nguyên xuất ban Nhuận bút ma nha
Trang 35thơ nhận được rất đặc biệt, đo la năm cuôn sách trong "Tủ sách lí luận - hướng dẫn
sáng tác" Đôi với Ma Trường Nguyên thì những quyển sách nay giông như những
người thầy đầu tiên dìu dăt ông trong những bước chập chững bước những bước điđầu tiên vao sư nghiệp sáng tác văn chương
Giai đoạn từ 1960 - 1990, Ma Trường Nguyên chủ yếu sáng tác thơ in trên các
báo, tạp chi Những tập thơ in chung co: Đường qua kỉ niệm (1975), Rừng sáng
(1980), Quê núi (1987) Và các tập thơ riêng: Mát xanh rừng cọ (1985), Trái tim không ngủ yên (1988).
Năm 1991, tiểu thuyết đầu tiên được ông cho trình lang với tên gọi "Mũi tên
ám khói" Va liên tiếp 8 năm tiếp theo, nha thơ đã cho ra đời tất ca 6 cuốn tiểu thuyết,
một tập truyện ki: Gió hoang (1992), Tình xứ mây (1993), Trăng yêu (1993), Bến đời
(1995), Rễ người dài (1996), Mùa hoa hải đường (1998), Cơn giông thời niên thiếu (Kí - 1997).
Đến năm 2004, sau một thời gian vắng bong, ông trơ lại với văn chương va gây
ấn tượng với một sô thể loại khác như: tư truyện “Dòng suốt tuổi thơ tôi” va bốn tập thơ: Câu hát vắt qua vai (2005), Cây nêu (2006), Bắc cầu vồng thăm nhau (2007), Mở
núi (2011).
Năm 2009, ông tiếp tục trình lang tập ki Những người bạn va gần đây nhất,
năm 2012 la cuôn tiểu thuyết “Phượng Hoàng núi”.
Ma Trường Nguyên đã nhận được nhiều giải thưởng cao vê văn học nghệthuật như:
Giai thương của Ủy ban toan quôc Liên hiệp các hôi văn học nghệ thuật Việt
Nam cho tiểu thuyết “Rễ người dài” (1996).
Giai C Hội Văn hoc nghệ thuật các dân tôc thiểu sô Việt Nam cho tập thơ
“Cây nêu” (2007).
Giai C giai thương văn hoc nghệ thuật 5 năm (1987 - 1992) của tỉnh Thái
Nguyên cho tập thơ “Trái tim không ngủ”.
Giai B giai thương văn hoc nghệ thuật 5 năm của tỉnh Thái Nguyên với tiểu
thuyết “Mũi tên ám khói”.
Giai B giai thương văn hoc nghệ thuật 5 năm (1992 - 1997) cho tiểu thuyết
“Mùi hoa hải đường”.
Trang 36Giải B văn học nghệ thuật 5 năm (2002 - 2007) cho tập thơ “Câu hát vắt qua
vai”.
Trang 37Với 50 năm miệt mai, say sưa với sư nghiệp văn chương, Ma Trường Nguyên
đã để lại nhiêu những trang viết chân thật, đậm đa tình cảm, mang đậm dấu ấn cánhân Những giai thưởng ma ông nhận được chinh la những thanh qua xứng đáng choquá trình sáng tạo không mệt moi của ông
1.3.2 Quá trình sáng tác của nhà thơ Võ Sa Hà
1.3.2.1 Tiểu sử nhà thơ Võ Sa Hà
Võ Sa Ha tên thật la Ngô Gia Võ, ông sinh ngay 27/10/1959 tại thị trấn QuangUyên, tỉnh Cao Bằng Quê gôc của ông la ơ Vong Nguyệt, xã Tam Giang, huyện YênPhong, tỉnh Băc Ninh
Võ Sa Ha la người ưa giao du, quý bạn va chiều bạn, cửa nha anh luôn rộng
mơ với bạn văn chương Quê gốc Bắc Ninh, sinh tại Cao Bằng, hiện sống va lam việc
ơ thanh phô Thái Nguyên: “Trông về đằng Đông chập chùng biên ải/ Ngược lên phía
Bắc đá dựng lô nhô/ Xuôi về phương Nam bắt tay Kinh Bắc” Những “dư địa chi” ấy
xuất hiện trong thơ Võ Sa Ha như những miền văn hóa, lúc xù xì dư dội, khi mềm mạitrư tình Khác với vẻ ngoai quảng giao, gặp nhau nói cười rộn rang, thơ Võ Sa Hadường như luôn phảng phất một nỗi buồn giau chiêm nghiệm của người bôn ba, tưlập từ nhỏ, cùng lúc phải lam nhiều nghê để mưu sinh Những bài thơ Võ Sa Ha viết
vê núi thường hay Núi với anh la bạn rượu, la người tình, la khi chất, la nơi lưu giư
ca sư cô đơn va kiêu hãnh
Quê hương Cao Bằng của ông nằm ơ địa đầu của tổ quôc, đã được hình thanh
từ rất lâu đời Trai qua quá trình hình thanh va phát triển lâu dai, Cao Bằng đã co môt
bê day vê truyền thống văn hoa cung như lịch sư trong công cuôc dựng nước va giưnước của dân tôc La một tỉnh miên núi co nhiêu dân tôc thiểu sô sinh sông cho nênCao Bằng la môt vùng đất co sư đa dạng, phong phú vê văn hoa nhờ co sư giao lưuvăn hoa của các dân tôc anh em Quê hương chinh la môt trong những ngon nguồncam hứng trong các sáng tác của nha thơ góp phần lam nên tinh dân tôc va phongcách riêng, đôc đáo trong thơ Võ Sa Ha Quê hương yêu dấu ấy đã hiện lên trongnhững trang thơ của ông thông qua những hình anh rất đỗi thân quen ma khi đocchúng ta không thể nhầm sang môt vùng quê khác như: ngon đèn dầu li ti, bếp lửa đosuôt ngày đêm, sương muôi phủ day
Trang 38Đặc biệt, những san vật đặc trưng của quê hương Cao Bằng như: hạt dẻ TrùngKhánh, lê Đông Khê cung đã được ông đưa vao trong thơ rất đỗi tư nhiên, môcmạc, gian dị gop phần lam nên môt sức hút rất riêng cho những bai thơ của ông Cothể khẳng định rằng, Võ Sa Ha la môt nha thơ yêu quê hương da diết, nồng đậm.
Võ Sa Ha co một tuổi thơ thiếu thôn tình cảm của mẹ: khi ông mới được 17ngay tuổi đã mất mẹ Đến khi 17 tuổi, săp trơ thanh sinh viên khoa văn thì lại mấtcha Đây la môt nỗi đau, sư mất mát quá lớn, không gì co thể bù đắp được Nỗi đau,nỗi buồn ấy luôn luôn thường trực trong tâm tri nha thơ va sau này đã trơ thanhnguồn cảm hứng cho nhiêu sáng tác của ông
Thuơ thiếu niên, Võ Sa Ha hoc phổ thông tại thị trấn Quang Uyên Năm 1976,ông đạt giai Nhất hoc sinh gioi văn toan tỉnh Cao Lạng đồng thời cũng trong năm nàyông đã tôt nghiệp phổ thông loại gioi
Từ năm 1976 - 1980, Võ Sa Ha hoc tại khoa Ngư văn trường Đại học Sư phạmViệt Băc Vì la sinh viên ưu tú cho nên sau khi tôt nghiệp ông được giư lại trườnglam giang viên Tuy nhiên không bao lâu, đến tháng 12/1980, ông tình nguyện nhậpngu va công tác tại trường Văn hoa Quân khu I
Đến tháng 2/1984, ông ra quân, trơ vê tiếp tuc lam giang viên tại trường Đạihoc Sư phạm Việt Bắc - nay la trường Đại hoc Sư phạm - Đại hoc Thái Nguyên.Tháng 12 năm 1999, ông chuyển sang lam giang viên khoa Giáo duc Tiểu hoc củatrường Đại hoc Sư phạm Hiện nay đang la trương khoa Giáo duc Tiểu hoc - Đại hoc
Sư phạm Thái Nguyên Đến năm 2002, Võ Sa Ha bao vệ thanh công luận án tiến sĩchuyên ngành Văn hoc Việt Nam
Võ Sa Ha la môt người luôn hết lòng vì công việc, dù cho ơ cương vị nao: môtngười thầy giáo, một vị trương khoa hay môt nha thơ ông cung luôn luôn dồn hết tâmsức của mình để hoan thanh Đồng thời ông cung la một người co nghị lực sông vavươn lên không ngừng, chinh sư phấn đấu vươn lên không mệt mỏi ấy đã giúp ôngtich lũy được môt vốn hiểu biết sâu rông, lam tiên đê cho những sáng tác của mình
1.3.2.2 Sự nghiệp sáng tác của Võ Sa Hà
Thơ ca la một phần không thể thiếu trong cuộc đời Võ Sa Hà Ông đã cho
xuất bản tất ca bốn tập thơ là: Sóng bạc hồn tôi (Nxb Văn học, 1998), Ngựa đá (Nxb Quân đội nhân dân, 2001), Cánh chim về núi (Nxb Hội nha văn, 2004), Lửa
trắng (Nxb Lao động, 2009).
Trang 39Thơ Võ Sa Ha rất giau tinh nhạc chinh vì vậy ma nhiêu bai thơ của ông đãđược nhiêu nhạc sĩ lựa chon để phổ nhạc, đáng chú ý la trong sô những bai được phổnhạc ấy co những bai gây được ấn tượng rất tôt va gianh được nhiều giai thương caonhư: Quê anh - nhạc sĩ Hoang Sòi (Đạt huy chương vang Liên hoan ca khúc CaoBằng), Thổ cẩm - nhạc sĩ Vu Lực (Đạt giai xuất săc trong Liên hoan âm nhạc các tỉnhkhu vực phia băc năm 2009), Chư O đầu đời - nhạc sĩ Phạm Đình Chiến
Trong quá trình sáng tác của mình, Võ Sa Ha đã gianh được nhiêu giai thươngcao như: Giai thơ Cao Bằng vê đê tai chiến tranh biến giới (1980); đoạt giai nhì(không co giai nhất) - giai thương văn hoc nghệ thuật 5 năm (1998 - 2002) tỉnh Thái
Nguyên cho tập "Sóng nhạc hồn tôi"; Giai A tác phâm văn hoc tỉnh Thái Nguyên với tập thơ "Cánh chim về núi" (2002 - 2006); Giai C - Giai thương Ủy ban toan quôc Hôi liên hiệp văn hoc nghệ thuật Việt Nam (2004) cũng với tập thơ "Cánh chim về
núi"; Giai B cuôc thi thơ tình do Hôi nha văn Việt Nam tổ chức trên báo Văn nghệ trẻ
trong hai năm 2006 - 2007; Giai khuyến khich cuôc thi thơ do Tạp chi Văn nghệQuân đôi tổ chức (2008 - 2009) Thơ la thể loại chủ yếu được ông sáng tác, tuy nhiênngoai sáng tác thơ thì Võ Sa Ha còn tham gia hoạt đông nghiên cứu, phê bình vănhoc; sáng tác truyện ngăn, tan văn va môt sô thể loại khác nữa
Với việc giành được nhiều giải thưởng cao đã nâng cao, khẳng định được giátrị của thơ Võ Sa Hà Thơ ông còn được tuyển chọn để đưa vào trong nhiều hợp tuyển
thơ ca của ca nước: "Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số" - Nxb Giáo dục, 2001,
"Thơ Việt Nam 1975 2000" Nxb Hội nha văn Việt Nam, 2002, "Thơ viết về mẹ"
-Nxb Lao động, 2002, "Tuyển tập thơ tình Việt Nam và thế giới" (-Nxb Quân đội nhân dân, 2005), "Thơ với lời bình đài tiếng nói Việt Nam" - Nxb Hội nha văn, 2006,
"Chung bước quân hành" - Tập thơ viết vê thương binh liệt sĩ, được xuất bản do Nxb
Quân đội nhân dân,
2006, "Thơ Việt Nam 1975 - 2000" - Nxb Hội nha văn, 2006, "Thơ tình Việt Nam thế
kỉ
XX" - Nxb Giáo dục, 2007, "Sống mãi với thời gian" - Nxb Lao động, 2010.
Noi tom lại, Võ Sa Ha la nha thơ co sư đóng góp lớn cho sư phát triển củaphong trào sáng tác thơ ơ khu vực miền núi Những bài thơ đậm đa bản sắc dân tộc,
Trang 40vùng miền của ông đã làm cho vườn hoa thơ ca dân tộc thêm nhiều mau sắc, nhiềuphong vị.