Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu mà còn là khát vọng của toàn nhân loại trong mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực tiễn đã hình thành các ý kiến khác nhau: Có ý kiến cho rằng, có những mâu thuẫn nhất định giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong quá trình phát triển; có ý kiến cho rằng, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội về cơ bản là đồng thuận với nhau trong quá trình phát triển; có ý kiến cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm quan hệ tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Những chính sách xã hội dựa trên mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế; Ngược lại, những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng bất bình đẳng và giảm công bằng xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn là một chủ đề lớn, một yêu cầu tất yếu đặt ra cho mọi thời đại, mọi quốc gia. Thực tiễn ở các nước cho thấy, muốn phát triển bền vững phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để thực hiện công bằng xã hội, ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo động lực để thúc đẩy kinh tế, bởi không có ổn định kinh tế thì sẽ không có phát triển kinh tế.Đối với nước ta, công cuộc đổi mới được Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã mang lại những thành tựu to lớn, làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta, trong đó phải kể đến thành tựu về tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đi đôi và gắn kết với đẩy nhanh tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội; Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh tế, việc thực hiện công bằng xã hội và việc thúc đẩy tiến bộ của Việt Nam còn chưa thật vững chắc.
Trang 1VẤN ĐỀ GẮN KẾT CHÍNH SÁCH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TIẾN
BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu
mà còn là khát vọng của toàn nhân loại trong mọi thời đại Tuy nhiên, việc đạtđược mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực tiễn đã hìnhthành các ý kiến khác nhau: Có ý kiến cho rằng, có những mâu thuẫn nhấtđịnh giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong quá trìnhphát triển; có ý kiến cho rằng, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xãhội về cơ bản là đồng thuận với nhau trong quá trình phát triển; có ý kiến chorằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm quan hệ tốt giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội Những chính sách xã hội dựa trên mục tiêutiến bộ, công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởngkinh tế; Ngược lại, những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làmgia tăng bất bình đẳng và giảm công bằng xã hội Bởi vậy, nghiên cứu về mốiquan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn là một chủ
đề lớn, một yêu cầu tất yếu đặt ra cho mọi thời đại, mọi quốc gia
Thực tiễn ở các nước cho thấy, muốn phát triển bền vững phải giảiquyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tăngtrưởng kinh tế là điều kiện cần để thực hiện công bằng xã hội, ngược lại giảiquyết tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo động lực để thúc đẩy kinh tế, bởi không có
ổn định kinh tế thì sẽ không có phát triển kinh tế
Đối với nước ta, công cuộc đổi mới được Đảng cộng sản Việt Namkhởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã mang lại những thành tựu to lớn, làmbiến đổi sâu sắc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta, trong đó phải
Trang 2kể đến thành tựu về tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đi đôi và gắn kết với đẩynhanh tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội; Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh
tế, việc thực hiện công bằng xã hội và việc thúc đẩy tiến bộ của Việt Nam cònchưa thật vững chắc
Trong thời gian qua, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh đãđược Đảng ta nghiên cứu và giải quyết một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợpvới điều kiện cụ thể ở nước ta Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã chỉ ra rằng cònnhiều vấn đề quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xãhội ở Việt Nam cần được nghiên cứu, tổng kết từ cuộc sống để làm sáng tỏ vàvận dụng một cách có hiệu quả, trong đó có vấn đề giải quyết hợp lý và đúngđắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là đòi hỏi tấtyếu của phát triển, trực tiếp nhất là phát triển kinh tế và xã hội, hướng tới pháttriển bền vững ở nước ta
Với ý nghĩa đó, trong quá trình nghiên cứu môn học quy luật cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Vấn đề gắn kết chính sách tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu và viết tiểu luận
NỘI DUNG
1 Tính tất yếu khách quan của chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
1.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
* Quan niệm chung về tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiềuquốc gia Đặc biệt, đối với Việt Nam - một nước đang phát triển, chịu tác
Trang 3động của toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu pháttriển kinh tế trí thức - thì mối quan hệ này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự
gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đo mức tăng trưởng kinh tế là mức tăngtổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GNP bìnhquân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác Nội hàm tăng trưởngkinh tế là sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng của nền kinh tế quốc dântrong một thời kỳ nhất định Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế là hiệuquả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế, khả năng cạnh tranh củanền kinh tế so với các nước khác trong khu vực và thế giới…
Tiến bộ xã hội, theo nghĩa rộng, là sự vận động của xã hội từ trình độ
thấp đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn minh, hiện đại; Tiến bộ xã hội trướchết phải xuất phát từ con người, vì con người và hướng tới sự tiến bộ của conngười; Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của
cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và ý thức xã hội Tiến bộ xã hội mà ViệtNam đang thực hiện chính là phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Theo nghĩa hẹp: tiến bộ xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, đờisống ngày càng văn minh, dân chủ được thực hiện và các quyền con ngườiđược bảo đảm Như vậy, tiến bộ xã hội được xem như nội hàm phát triển kinh
tế và công bằng xã hội
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan
niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia, công bằng xã hội là sự bìnhđẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, bình đẳng trong chế độ phânphối, thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội Như vậy côngbằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội… Những thước đo chủ yếu đối với công bằng xã hội bao
Trang 4gồm: chỉ số phát triển con người (HDI); đường cong Lorenz; hệ số GINI; mức
độ nghèo khổ; mức độ thoã mãn nhu cầu con người…
Có thể hiểu công bằng xã hội là các giá trị định hướng để con ngườisinh sống và phát triển trong các quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng
về vật chất cũng như về tinh thần Đó là những giá trị cơ bản trong các quan
hệ xã hội như: quan hệ giữa mức độ lao động và mức độ thu nhập; quan hệgiữa quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền định đoạt sự sản xuất và phânphối; quan hệ giữa mức độ phạm tội và mức độ bị trừng phạt; quan hệ giữacác thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ phát triển trí lựckhác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục, khám chữa bệnh, hưởngthụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao
*Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là mục tiêu phát triểncủa các quốc gia trong mọi thời đại; Tuy nhiên, xét về lý thuyết, đây cũng làmột nội dung trọng tâm của kinh tế học phát triển cho đến ngày nay Lý do làviệc đạt được mục tiêu này không hề dễ dàng, thậm chí còn tồn tại sự đối lậpgiữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội Chính sách phát triểnchỉ nhằm tăng trưởng nhanh có thể phải trả giá rất đắt nếu tình trạng bất bìnhđẳng về thu nhập, về cơ hội học hành, tiếp cận dịch vụ xã hội và nghèo đóigia tăng, thậm chí có thể dẫn đến mâu thuẫn, gây căng thẳng xã hội, nhưngngược lại, những chính sách chỉ thiên về mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội
có thể làm triệt tiêu các động lực kích thích tăng trưởng kinh tế
Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội ngày càng được thế giới nhận thức rõ hơn từ hai thập kỷ gần đây, đượccoi là một trọng tâm của chính sách phát triển ở tất cả các nước cũng như các
tổ chức quốc tế Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triểnbền vững Theo khái niệm mới nhất, phát triển bền vững gồm ba trụ cột có
Trang 5quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xãhội bền vững và bảo vệ môi trường Qua đó, có thể thấy rằng nếu chỉ tăngtrưởng không thôi sẽ không đủ để có xã hội bền vững Kết quả của mối quan
hệ này thể hiện một phần ở chỗ thành tựu về tăng trưởng kinh tế có đi liền vớitiến bộ, công bằng xã hội hay không
Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với tiến bộ và công bằng xã hội
và ngược lại không phải được quan tâm ngẫu nhiên, thiếu căn cứ Trái lại,mối quan hệ hai chiều này đã được lý giải cả về lý thuyết và chứng minh trênthực tiễn, đặc biệt là qua dòng lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tiến bộ và côngbằng xã hội - có thể đo bằng một số thước đo như chỉ số HDI, công bằngtrong tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế, vốn xã hội… - là những đại lượngxác định tăng trưởng trong dài hạn của một nền kinh tế Tiến bộ và công bằng
xã hội quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng ở cả hai khía cạnh: vừa là yếu tố đầuvào, vừa là thành quả của tăng trưởng, thể hiện ở sự phân phối thành quả củatăng trưởng cho các thành viên trong xã hội Do đó, đầu tư cho giáo dục, y tế,tạo cơ hội cho mọi người, nhất là người nghèo tiếp cận dịch vụ giáo dục, ytế…sẽ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Nếu tăng trưởng nhanh bằng mọigiá mà các chỉ số nêu trên không được cải thiện, sẽ khó hy vọng có được tăngtrưởng kinh tế bền vững, thậm chí còn dẫn đến mâu thuẫn, xung đột xã hội và
hệ luỵ có thể là bất ổn xã hội
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng về lượng, về tốc độ của nền kinh tế,tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, tăng năng suất lao động xã hội, đáp ứng nhucầu sản xuất, tiêu dùng trong xã hội Tăng trưởng là điều kiện của phát triển,của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng Một xãhội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trìđược sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suythoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng
Trang 6trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng Không có một nền kinh tế tăng trưởngthì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất -kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất
mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mứcsống, chất lượng cuộc sống của dân cư
Nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển
là kết quả và công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của quá trình tăngtrưởng, tiến bộ và phát triển Nói một cách khác, công bằng xã hội đóng vaitrò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm
ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của chính trị, làđộng lực, đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ kiểu mới, do bản chất kinh tế và chínhtrị ưu việt của nó càng phải chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng, càngphải chứng tỏ trong thực tế việc thực hiện công bằng xã hội đạt ở mức độ phổbiến, rộng rãi trong xã hội, đạt được những thành tựu to lớn, bền vững hơn sovới các chế độ trước đó, đem lại sự thụ hưởng lợi ích chính đáng cho số đôngdân chúng Đó là xét về mặt nguyên tắc, về mặt lý luận
1.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
* Những cơ sở lý luận của chính sách gắn kết giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội
- Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng cùng với việc kếthừa, phát triển một cách sáng tạo những yếu tố hợp lý trong tư tưởng về công
Trang 7bằng xã hội trong lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa raquan niệm mới, khoa học và toàn diện hơn về công bằng xã hội.
Trước hết: Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, công bằng xã hội là sản
phẩm của đời sống xã hội, là mối quan hệ giữa con người với con người hìnhthành trong quá trình hoạt động, sinh sống Quan hệ đó không phải do sự sángtạo thuần tuý chủ quan của con người hay do một lực lượng thần thánh, siêu
tự nhiên nào đó gây ra, là sản phẩm của đời sống xã hội, mà đời sống xã hộiluôn vận động, biến đổi, nên công bằng xã hội cũng biến đổi cùng với nhữngđiều kiện tồn tại của đời sống xã hội
Thứ hai: Công bằng xã hội thực chất là mối quan hệ về mặt lợi ích của
con người trong xã hội Lợi ích của con người biểu hiện trên nhiều lĩnh vực,như lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, nghệ thuật…; trong
đó, lợi ích về kinh tế là cơ bản nhất
Thứ ba: Để giải quyết vấn đề công bằng xã hội, trước hết phải giải
quyết vấn đề xã hội trên lĩnh vực kinh tế và phải thực hiện từng bước, xuấtphát từ những điều kiện thực tế của sự phát triển sản xuất Nghiên cứu nềnsản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ
cơ sở khách quan của sự bất công trên lĩnh vực kinh tế trong chủ nghĩa tư bản,
đó là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sản phẩmlao động Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng quan niệm, trong giai đoạn đầu chủnghĩa cộng sản do mới thoát thai từ xã hội tư bản, chủ nghĩa cộng sản chưaphát triển trên cơ sở chính mình, nên vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
tư bản Thực hiện phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu chủ nghĩa cộngsản là một bước tiến lớn trong việc thực hiện công bằng xã hội, tuy nhiên vẫn
chấp nhận sự bất công nhất định Mác viết: “Quyền không bao giờ có thể ở
Trang 8một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định”1
Thứ tư: Công bằng xã hội theo xu hướng vận động của nó luôn đối lập
với bất công xã hội, luôn hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu cơ bảncủa con người, bảo đảm tốt hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triểntoàn diện con người Do vậy, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là độnglực sự phát triển xã hội
- Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm củacác nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệgiữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam Người khẳng định: Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội
là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân Mục tiêu hàng đầu củaphát triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân laođộng, làm cho đời sống của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnhphúc Đồng thời, Người cũng xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nướctrong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: Xuất phát từmột nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giaiđoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều này chi phối quan điểm phân phối Đểbảo đảm tính công bằng trong phân phối, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phảichí công, vô tư Người quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã hội, tuy nhiên theoNgười, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản xuất Như vậy, vấn đề tăng trưởngkinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được xem xét trong quanđiểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Mục đích của xây dựng kinh tế để khôngngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; thực hiện công
1 C.Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 19, tr.35 - 36.
Trang 9bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các nhiệm vụphát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm phải gắn kết pháttriển kinh tế với công bằng xã hội ngay từ đầu và từng bước thực hiện, coi đókhông chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của tăng trưởng kinh tế Hồ ChíMinh coi việc thực hiện công bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết, và yêu cầu
đó lại càng bức thiết hơn khi cuộc sống còn nhiều khó khăn, Người căn dặn:
“Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” 2
Mặt khác, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng thực hiện công bằng xã hội theonguyên tắc ngang bằng nhau giữa người và người trong mối quan hệ giữa nghĩa
vụ và quyền lợi; giữa cống hiến và hưởng thụ… Do đó, không thể coi việc thựchiện công bằng xã hội như sự cào bằng trong nghèo khổ Người khẳng định:
“Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng Trái lại, chúng ta có
phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng”3 Người cũng viết: “Bình quân chủ nghĩa là trái chủ nghĩa xã hội”4
Hồ Chí Minh cho rằng bình đẳng xã hội trước hết là bình đẳng trongphân phối, mà ở đây là phân phối theo lao động Nhưng điểm xuất phát của sựphân phối đó lại chứa đứng sự bất bình đẳng trong cơ hội, cho nên ngay từ
đầu, Người đã đặt vấn đề phân phối theo lao động và theo phúc lợi: “Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”5 Người mong muốn:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn Người đủ ăn thì khá giàu
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.185.
3 Sđd, tập 7, tr.568
4 Sđd, tập 8, tr.386
5 Sđd, tập 8, tr.226
Trang 10Người khá giàu thì giàu thêm” 6
Nói đến việc thực hiện công bằng xã hội với tư cách là một yếu tố quantrọng của phát triển bền vững, không thể không nhắc tới chính sách nhân đạo
và khoan dung của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lo toan và bảo đảm những điều
kiện sống cho mọi người trong xã hội, bất kể thành phần, vị trí, hoàn cảnh Đối với người nghèo, lo cơm ăn áo mặc, học hành Đối với người hữu sản, lo làm sao giúp đỡ họ có thể đem tài năng và phương tiện để phát triển sản xuất, góp phần kiến quốc”7 Chính sách đó là tiền đề của chương trình an sinh
xã hội sau này
* Từ thực trạng của việc thực hiện tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay
- Những thành tựu nổi bật:
Về kinh tế, kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính
GDP tăng bình quân 7,2 %/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chínhphủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng1.000 USD Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng gópcủa yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 -1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố laođộng vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lênkhoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp(TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giaiđoạn 2006 - 2010) Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đấtnước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởngliên tục và thuộc nhóm “thị trường mới nổi” có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tếcủa Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể
6 Sđd, tập 5, tr.65
7 Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 – 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, t.1, tr.278
Trang 11Tiến bộ và công bằng xã hội càng thể hiện rõ nét hơn những thành quả của tăng trưởng kinh tế Thông thường, để đo tính chất công bằng trong phát
triển, người ta thường sử dụng 3 loại thang đo: Ngũ phân vị (chia các tầng lớpdân cư làm 5 tầng, dựa theo sự cách biệt trong chi tiêu, mỗi phân tầng là 20%,xem xét độ chênh lệch giữa các tầng); Hệ số bất bình đẳng GINI (được tính từ
0 đến 1) và Đường cong lô-ren (lorent) Ở nước ta, cứ hai năm một lần, Tổngcục Thống kê đều tiến hành điều tra và công bố sự chênh lệch giàu nghèo theothang đo thứ nhất
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (tháng 12 - 2007), sự bất bìnhđẳng trong chi tiêu giữa các tầng lớp dân cư ở nước ta từ năm 1993 đến năm
2006 ngày càng tăng Chêch lệch chi tiêu giữa nhóm người giàu nhất vànghèo nhất tăng từ 5 lần (năm 1993) lên 6 lần (năm 2006) Hệ số GINI tăng từ0,34 (năm 1993) lên 0,36 (năm 2006)
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, 60% tầng lớp dân
cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7% tổng chitiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006; trong khi đó,20% tầng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và tăng lên 43,3%(năm 2006) tổng chi tiêu của cả nước
Khái niệm bình đẳng mang tính chất tương đối khi so sánh giữa cáctầng lớp dân cư, nên khác với ý nghĩa của kết quả giảm hộ nghèo, mặc dùnhững năm qua, chúng ta đã rất thành công trong các chương trình xóa đói,giảm nghèo; nhất là các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyếtđược tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn Theo đó, tỷ lệ hộnghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuốngcòn khoảng 11% (năm 2009)
Dù nước ta hiện không còn nằm trong số 50 quốc gia nghèo nhất củathế giới theo tiêu chí xếp loại của UNDP (với mức GINI dưới 750USD/người/
Trang 12năm), nhưng vẫn chỉ là quốc gia có thu nhập trung bình ở ngưỡng thấp theotiêu chí đánh giá của Ngân hàng Thế giới (thu nhập trung bình GDP/người từ
936 USD đến 3.705 USD) Tuy nhiên, nhờ đường lối sáng suốt của Đảng tatrong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hộitrong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thànhtựu về tiến bộ xã hội
Cụ thể là: chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộcnhóm trung bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798) Tỷ lệ hộ nghèo đãgiảm xuống còn khoảng 11% theo tiêu chí Việt Nam (nếu theo tiêu chí quốc
tế là 2 USD/người/ngày thì số hộ nghèo còn khoảng 40%) Bảo hiểm y tếđược mở rộng đến 52% dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác
sĩ phụ trách Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinhdưỡng còn dưới 20% Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí chogiáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v…
Những thành tựu nêu trên phần nào phản ánh được sự đúng đắn trongđường lối đổi mới của Đảng nói chung và trong Chiến lược xóa đói, giảmnghèo giai đoạn 2001 - 2010 nói riêng Tuy vậy, trong quá trình thực thichính sách, vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cùng nhiều vấn đề xã hộikhác đang đặt ra
- Những vấn đề đang tồn tại:
Thứ nhất, giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa thực sự gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày càng lớn
Hiện ở nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập vàtài sản, mà chỉ có điều tra về mức chi tiêu Sự giàu nhanh của một bộ phậndân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế và yếu kém trong quản lý nhànước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả của lao động
Trang 13Chẳng hạn, trong 10 năm gần đây, có rất nhiều người giàu nhanh là nhờ vào
“lỗ hổng” trong quản lý đất đai Tuy chưa có cuộc điều tra nào về vấn đề này,nhưng thực tế dễ nhìn thấy được là do yếu kém và tiêu cực trong quản lý đấtđai, nhất là ở các đô thị lớn, đã biến nguồn vốn xã hội này thành của cải củamột thiểu số, tạo sự bất công xã hội ngày càng gay gắt
Do chính sách thiếu đồng bộ, nhất là sử dụng không hiệu quả các công
cụ quản lý, như quy hoạch, quản lý sử dụng đất, quản lý dự án đầu tư bấtđộng sản, sử dụng công cụ tài chính như thuế, phí… để điều tiết và chống đầu
cơ, đã tạo ra bất công xã hội
Thứ hai, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính sách điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội
Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đôthị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyểnmột bộ phận nông dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trongcác ngành nghề phi nông nghiệp Ở nhiều địa phương, chính quyền chủ yếuchỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một sốtiền theo kiểu “áp đặt giá mua”, trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổchức cuộc sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm.Nhiều người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu “thuậnmua vừa bán” trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệpsang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quantrọng nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội thông qua sự vận động của cơ chế thị trường, công cụ quan trọng nhất để Nhà nước điều tiết là thuế và phí
Trang 14Trong đó, chính sách thuế phải chuyển dần từ thuế gián thu sang thuếtrực thu, như thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản bất động sản trong nguồn thungân sách nhà nước Sau Đại hội IX (năm 2001), Chính phủ đã có chiến lượccải cách về thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 nhằm thay đổi cơ cấu nguồn thu.Thuế trực thu hiện mới đóng góp khoảng 7% - 8% cho ngân sách, còn chủyếu dựa vào thuế gián thu Mặt khác, những nỗ lực của Nhà nước thời gianqua để kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm điều tiết bằng công
cụ thuế thu nhập cá nhân đã không mấy thành công do chưa giải quyết đượctình trạng của nền kinh tế tiền mặt
Thứ tư, mô hình kinh tế dựa vào nền tảng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là mô hình tạo ra tầng lớp trung lưu chiếm chủ yếu trong cơ cấu
xã hội, nên tính bình đẳng càng cao
Trong nhiều năm qua, chúng ta cũng có chủ trương hỗ trợ để phát triểndoanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trên thực tế, khi thực hiện chủ trương này,hầu như không có chính sách cụ thể kèm theo, như chính sách thuế, chínhsách tín dụng, chính sách hỗ trợ về đất đai, dịch vụ sản xuất, ứng dụng côngnghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại Hiện nay, cả nước có đến hàngchục tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là cungcấp dịch vụ để thu phí, thay vì thực thi chính sách quốc gia hỗ trợ cho doanhnghiệp vừa và nhỏ phát triển
Thứ năm, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v…
Điển hình nhất là thương mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủtrương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh y tế, giáo dục Ai cũngbiết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không thể vừa cho lậpcông ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận Trong khi đó, y tế, giáodục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường Một khi
Trang 15để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn đượckhoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phầnnâng cao tính chất công bằng xã hội.
Mặc dù đến nay người ta nhận thấy rằng, chưa có mô hình kinh tế nàotạo động lực phát triển tốt hơn mô hình kinh tế thị trường, nhưng bản thân môhình kinh tế này cũng có nhiều khuyết tật mang tính bản chất, nổi bật, do đặcđiểm chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, lịch sử và năng lực quản trị khácnhau, nên việc giải quyết những khuyết tật đó ở mỗi quốc gia sẽ có kết quảkhác nhau Có thể nói: Vai trò của nhà nước là hạn chế những thất bại của thịtrường, đồng thời khắc phục những khuyết tật cố hữu của thị trường, chứcnăng này càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng
2 Quan điểm của Đảng ta và những giải pháp cơ bản nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.1 Quan điểm của Đảng ta về gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế
và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
* Quan điểm tổng quát:
Phát triển kinh tế gắn kết hợp lý với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trongtừng giai đoạn phát triển và trong suốt quá trình phát triển; phát triển kinh tếnhanh và bền vững gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, giảm bấtbình đẳng, bảo đảm thống nhất chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội.Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong chế độphân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội Phát triểnhài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa vụ với quyền lợi,cống hiến với hưởng thụ, quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích cá nhân với lợi ích