Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của mẹ và trẻ; tình trạng trước sinh; nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung; thực hành chăm sóc trẻ; kiến thức về suy dinh dưỡng của bà mẹ và tình tr
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian và địa điểm
– Địa điểm: Chọn ngẫu nhiên 3 trường mầm non thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa để tiến hành nghiên cứu:
Trường mầm non Hoằng Cát
Trường mầm non Hoằng Xuyên
Trường mầm non Hoằng Tiến
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu định lượng
Trẻ dưới 5 tuổi đang học tại các trường mầm non thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và bà mẹ của trẻ
Trẻ dưới 5 tuổi đang học tại 3 trường mầm non thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và bà mẹ của trẻ
Trẻ dưới 5 tuổi đang học tại 3 trường mầm non thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và bà mẹ của trẻ
– Trẻ nghỉ học trong thời gian tiến hành nghiên cứu
– Bà mẹ không có khả năng trả lời phỏng vấn do khó nghe, nói (câm, điếc…)
Nghiên cứu cắt ngang mô tả
Được tính theo công thức n = ⁄
– Z: trị số phân phối chuẩn (α: xác suất sai lầm loại 1, α = 0,05 vì vậy với độ tin cậy 95% thì Z (1-α/2) = 1,96)
– d: sai số tuyệt đối, chọn d = 0,05
Vào năm 2014, tỉnh Thanh Hóa ghi nhận tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 0,185 Trong một nghiên cứu, 240 trẻ em dưới 5 tuổi và mẹ của các trẻ đã được chọn, với cỡ mẫu cho mỗi trường mầm non là 80 trẻ và mẹ.
Kĩ thuật chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện những trẻ dưới 5 tuổi đang học tại 3 trường mầm non và bà mẹ của trẻ cho đến khi đủ cỡ mẫu
2.2.2.3 Phương pháp thu thập dữ liệu
Công cụ thu thập dữ liệu
– Cân đồng hồ và thước đo chiều cao
Cân đồng hồ Nhơn Hòa mang lại độ chính xác lên tới 0,1kg và có khả năng đo trọng lượng tối đa 25kg Sản phẩm đã được kiểm tra, chuẩn hóa và hiệu chỉnh để đảm bảo độ tin cậy trong quá trình sử dụng.
0 trước khi tiến hành nghiên cứu
Sử dụng thước đo bằng gỗ có độ chính xác 0,1cm
Bộ câu hỏi được soạn sẵn dựa trên nghiên cứu của Thái Kim Yến và các nghiên cứu liên quan khác đã được điều chỉnh sau khi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm.
Kĩ thuật thu thập dữ liệu
Thông tin chung về tình trạng trước sinh, nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung rất quan trọng Các bà mẹ cần nắm rõ kiến thức về chăm sóc trẻ và dinh dưỡng để đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ Việc thực hành chăm sóc trẻ đúng cách và cung cấp chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp trẻ khỏe mạnh và phát triển tốt trong những năm tháng đầu đời.
Cô nuôi dạy trẻ đang làm việc tại ba trường mầm non đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ của trẻ, dựa trên bộ câu hỏi đã được soạn sẵn (phụ lục 3).
– Đánh giá tình trạng dinh dƣỡng của trẻ
Đo chiều cao trẻ: Với trẻ dưới 24 tháng đo chiều dài nằm, với trẻ trên 24 tháng đo chiều cao đứng
Để đo chiều cao đứng của trẻ, hãy đặt thước đo sát tường và yêu cầu trẻ đứng quay lưng vào thước, nhìn thẳng phía trước với chân đứng thẳng Đảm bảo rằng có 5 điểm tiếp xúc với tường: chẩm, vai, mông, mặt sau cẳng chân và gót chân Sử dụng thước nhựa đặt ngang đỉnh đầu vuông góc với thước đo chiều cao, sau đó đọc và ghi lại kết quả với một số lẻ.
Để đo chiều dài nằm của trẻ, sử dụng thước đo có độ chính xác 0,1cm Đặt thước trên mặt phẳng và cho trẻ nằm ngửa, sao cho đỉnh đầu chạm vào đầu thước Đảm bảo đầu gối của trẻ thẳng và bàn chân vuông góc với thước Kéo thước để mặt phẳng thước và gan bàn chân tiếp xúc chặt chẽ, sau đó đọc và ghi lại số đo chiều dài nằm (cm) với một số lẻ.
Để cân trẻ, hãy cho trẻ đứng thẳng trên cân, không cử động, mắt nhìn về phía trước và trọng lượng phân bố đều trên hai chân Trước khi cân, cần cởi bỏ quần áo khoác, mũ và giày dép nếu có Cân phải được kiểm tra và điều chỉnh trước khi sử dụng Điều tra viên cần thực hành thành thạo kỹ năng cân đo trước khi thu thập số liệu Cuối cùng, ghi lại trọng lượng của trẻ (kg) với một số lẻ.
Sử dụng phương pháp tính tuổi theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) tại Việt Nam, cán bộ nghiên cứu phỏng vấn các bà mẹ về ngày sinh của con, ghi rõ ngày âm hoặc dương lịch và sau đó tra bảng quy đổi sang ngày dương lịch Nếu mẹ không nhớ chính xác, sẽ dựa vào thông tin trong giấy khai sinh Từ ngày tháng năm sinh của trẻ và ngày điều tra, có thể tính toán tháng tuổi của trẻ.
Theo WHO tháng tuổi của trẻ được qui ước như sau:
Trẻ đẻ ra sống 1 ngày đến trẻ 29 ngày: 1 tháng tuổi
Trẻ 1 tháng 1 ngày đến trẻ 1 tháng 29 ngày: 2 tháng tuổi
Trẻ từ 59 tháng 1 ngày đến trẻ 59 tháng 29 ngày: 60 tháng tuổi
Giới: là biến số nhị giá, có 2 giá trị:
Tuổi mẹ: là biến định lượng, được tính bằng cách lấy năm điều tra trừ năm sinh của mẹ, chia làm 3 nhóm:
Tuổi mẹ khi sinh bé: là biến định lượng, được tính bằng cách lấy năm sinh của con trừ năm sinh của mẹ, chia làm 4 nhóm:
Nghề nghiệp: là biến số danh định, có 5 giá trị:
Cán bộ, công nhân viên chức (CNVC)
Trình độ học vấn: là biến số thứ tự, có 6 giá trị:
Hộ nghèo: được xác định bằng cách hỏi và xem sổ hộ nghèo được cấp từ năm 2015 (nếu có), là biến số nhị giá, có 2 giá trị:
Khám thai: là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Số lần khám thai: là biến định lượng, có 2 giá trị:
Ăn uống khi mang thai: là biến thứ tự, có 3 giá trị:
Tiêm phòng uốn ván: là biến danh định, có 3 giá trị:
Nghe về bệnh thiếu máu do thiếu sắt: là biến danh định, có 3 giá trị:
Biết biểu hiện của bệnh thiếu máu: là biến danh định, có 7 giá trị:
Niêm mạc mắt nhợt nhạt
Tay/móng tay nhợt nhạt
Uống viên sắt/axit folic: là biến danh định, có 3 giá trị:
Biết lợi ích của vitamin A: là biến danh định, có 4 giá trị:
Phòng khô mắt, mù lòa
Giảm nguy cơ tử vong trẻ
Uống vitamin A sau sinh: là biến danh định, có 3 giá trị:
Có: bà mẹ uống vitamin A đủ liều trong vòng 1 tháng sau sinh
Không: bà mẹ không uống vitamin A đủ liều trong vòng 1 tháng sau sinh
– Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Trẻ từng bú mẹ: là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Không, chưa bú bao giờ
Biết về sữa non: là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Có: bà mẹ nêu được các đặc điểm: sữa mẹ có màu vàng, đặc, tiết ra trong những ngày cuối thai kỳ và đầu tuần sau sinh
Không: bà mẹ không nêu được các đặc điểm trên
Biết lợi ích của sữa non và cho bú sữa non: là biến danh định, có 4 giá trị:
Sữa có nhiều chất kháng khuẩn
Có nhiều chất dinh dưỡng
Cầm máu cho mẹ sau sinh
Thời gian cho trẻ bú sau sinh: là biến danh định, có 3 giá trị:
Trẻ còn bú mẹ: là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Thời gian cai sữa: là biến danh định, có 3 giá trị:
Trẻ bú trong 6 tháng đầu: là biến danh định, có 2 giá trị:
Hoàn toàn bằng sữa mẹ: trẻ chỉ bú mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu mà không ăn hoặc uống thêm bất kì thứ gì khác, kể cả nước
Bú mẹ, có ăn các loại thức ăn hoặc/và uống thêm các loại nước
Thời gian trẻ bắt đầu ăn dặm: là biến danh định, có 3 giá trị:
– Thực hành chăm sóc trẻ
Tẩy giun (cho các trẻ 24 tháng): là biến danh định, có 3 giá trị:
Tiêm chủng: Là biến nhị giá, có 2 giá trị
Đủ: tiêm đầy đủ các mũi tiêm tính đến độ tuổi hiện tại của trẻ (xem sổ tiêm chủng của trẻ nếu có)
Không đủ: tiêm không đầy đủ các mũi tiêm tính đến độ tuổi hiện tại của trẻ (xem sổ tiêm chủng của trẻ nếu có)
Trẻ uống vitamin A khi 6-36 tháng: là biến danh định, có 3 giá trị:
Có: trẻ được uống vitamin A đầy đủ 2 lần/năm khi trẻ 6-36 tháng
Không: trẻ không được uống vitamin A đầy đủ 2 lần/năm khi trẻ 6-36 tháng
Nghe nói về suy dinh dưỡng: Là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Định nghĩa SDD: là biến danh định, có 3 giá trị:
Cân nặng/chiều cao giảm
Biết lý do trẻ bị SDD: là biến danh định, có 8 giá trị:
Trẻ sinh ra nhẹ cân
Tiêm chủng không đầy đủ
Chăm sóc không đúng khi bị bệnh
Không biết cách cho ăn
Biết tác hại nếu trẻ bị SDD: Là biến nhị giá, có 2 giá trị:
Tác hại nếu trẻ bị SDD: là biến danh định, có 3 giá trị:
Nguồn thông tin: là biến danh định, có 8 giá trị:
Cán bộ đoàn thể khác
Bạn bè, người thân, hàng xóm
– Trẻ SDD thể nhẹ cân:
Có: khi chỉ số cân nặng theo tuổi dưới -2SD
Không: khi chỉ số cân nặng theo tuổi từ -2SD trở lên
– Trẻ SDD thể thấp còi:
Có: khi chỉ số chiều cao theo tuổi dưới -2SD
Không: khi chỉ số chiều cao theo tuổi từ -2SD trở lên
– Trẻ SDD thể gầy còm:
Có: khi chỉ số cân nặng theo chiều cao dưới -2SD
Không: khi chỉ số cân nặng theo chiều cao từ -2SD trở lên
Sử dụng phần mềm WHO Anthro 3.2.2 để xác định tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Kiểm soát sai lệch thông tin
Bộ câu hỏi đã được điều chỉnh và bổ sung sau nghiên cứu thử Trong quá trình phỏng vấn với nhiều người tham gia, có thể xảy ra sai lệch thông tin giữa các phỏng vấn viên Để khắc phục tình trạng này, các cộng tác viên đã được đào tạo kỹ lưỡng về cách đặt câu hỏi, thu nhận câu trả lời và điền thông tin vào bộ câu hỏi, nhằm đảm bảo sự nhất quán và hiểu rõ giữa tất cả các cộng tác viên.
– Các phiếu phỏng vấn được thu lại và kiểm tra tính hoàn tất ngay sau khi phỏng vấn kết thúc
Kiểm soát sai lệch thông tin do cân đo
– Dụng cụ đo lường thống nhất, chính xác, tin cậy
– Cộng tác viên đã được đào tạo cân, đo trẻ thông thạo trước khi tiến hành nghiên cứu
– Trong quá trình điều tra, chỉnh cân, kiểm tra cân, kiểm tra số liệu đã cân của từng trẻ, và loại bỏ số liệu không chính xác
2.2.2.6 Xử lý và phân tích số liệu
Dữ liệu bao gồm 2 phần:
Các chỉ số nhân trắc của trẻ sẽ được nhập và xử lý bằng phần mềm WHO Anthro 3.2.2, giúp xác định điểm phân phối của cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao so với tiêu chuẩn dân số của WHO Qua đó, chúng ta có thể đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ một cách chính xác.
– Các yếu tố dân số học của mẹ và các yếu tố liên quan được mã hóa và nhập liệu bằng phần mềm SPSS 17.0
– Hai nguồn dữ liệu được khớp lại dựa trên mã số nghiên cứu của đối tượng và được xử lý, phân tích bằng phần mềm SPSS 17.0
Các chỉ số thống kê mô tả được sử dụng để phân tích tần số và tỷ lệ phần trăm Đối với phân tích thống kê, các phương pháp như kiểm chi bình phương và kiểm chính xác Fisher được áp dụng để so sánh tỷ lệ SDD giữa các nhóm Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
2.2.2.7 Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu này đã được thực hiện với sự chấp thuận của Hội đồng Đạo đức thuộc Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng ý của hiệu trưởng ba trường mầm non nơi tiến hành nghiên cứu.
Bà mẹ và trẻ có quyền tự quyết định tham gia hoặc từ chối nghiên cứu này mà không ảnh hưởng đến quá trình học tập của trẻ tại trường.
– Bà mẹ đã được giải thích rõ về mục đích và ý nghĩa của nghiên cứu để đưa ra quyết định có tham gia nghiên cứu hay không
– Bà mẹ ký vào bản đồng thuận khi họ đồng ý tham gia nghiên cứu
– Mọi thông tin của đối tượng tham gia nghiên cứu được giữ bí mật và đảm bảo tính khuyết danh trên bộ câu hỏi nghiên cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu định tính
– Cô nuôi dạy trẻ đang làm việc tại 3 trường mầm non
2.3.2.1 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Chọn 3 hiệu trưởng 3 trường mầm non
12 cô giáo của các khối lớp, trong đó 4 cô/lớp nhà trẻ, 4 cô/lớp 3 tuổi, 4 cô/lớp 4 tuổi
Chọn mẫu có chủ đích là một bước quan trọng trong nghiên cứu định tính, với đối tượng chính là các bà mẹ và cô nuôi dạy trẻ tại trường mầm non trong thời gian nghiên cứu Phỏng vấn sâu sẽ được thực hiện cho đến khi thông tin thu thập được đạt đến mức bão hòa.
2.3.2.2 Kĩ thuật và công cụ thu thập số liệu
Phỏng vấn sâu đối tượng bằng bản hướng dẫn phỏng vấn sâu
2.3.2.3 Các biến số và chỉ số nghiên cứu
– Thông tin cơ bản về đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ: Tuổi, trình độ văn hoá, số con, thu nhập
Cô nuôi dạy trẻ: Chức vụ và số năm kinh nghiệm làm việc
Để xác định hiện trạng mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng dinh dưỡng của trẻ, cần thu thập các thông tin quan trọng như tình trạng dinh dưỡng hiện tại, chế độ ăn hàng ngày và thói quen ăn uống của trẻ Những dữ liệu này sẽ giúp đánh giá chính xác và đưa ra các giải pháp cải thiện dinh dưỡng cho trẻ em.
Các cuộc phỏng vấn sâu sẽ được ghi chép hoặc ghi âm với sự đồng ý của đối tượng nghiên cứu Sau mỗi cuộc phỏng vấn, nội dung sẽ được đánh máy và lưu trữ dưới dạng file Word Nghiên cứu viên sẽ đọc và mã hóa thông tin theo các chủ đề nghiên cứu, sau đó tập hợp và tóm tắt các thông tin có cùng mã hóa Cuối cùng, các nội dung nghiên cứu sẽ được so sánh giữa các đối tượng để phân tích và nhận định mối liên quan giữa các thông tin.
2.3.2.5 Vấn đề Đạo đức nghiên cứu
Các đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện và xác nhận bản thoả thuận nghiên cứu, được cung cấp đầy đủ thông tin về mục đích và nội dung nghiên cứu Thông tin thu thập chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học và hoàn toàn được giữ bí mật Trong quá trình phỏng vấn, họ có quyền từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào và có thể dừng cuộc phỏng vấn bất cứ lúc nào, không bị áp lực từ người nghiên cứu Họ cũng có quyền từ chối ghi âm và yêu cầu chỉ ghi chép nếu muốn.
2.3.2.6 Hạn chế của nghiên cứu Đây là nghiên cứu định tính có quy mô nhỏ, nhằm tìm hiểu sự kết hợp giữa gia đình và trường mầm non trong việc chăm sóc trẻ, vì vậy kết quả này không thể đưa ra nhận định toàn diện sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc trẻ tại 3 trường mầm non thuộc huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, cũng như trên toàn tỉnh
Hình 2.1: Sơ đồ nghiên cứu
Cân, đo trẻ Phỏng vấn bà mẹ
Tỷ lệ SDD và các yếu tố liên quan
Nghiên cứu định tính Áp dụng lý thuyết hệ thống sinh thái
Phỏng vấn sâu bà mẹ Phỏng vấn sâu cô nuôi dạy trẻ
Xác định mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng dinh dưỡng của trẻ
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm cá nhân của trẻ
Bảng 3.1 Đặc điểm cá nhân của trẻ Đặc điểm Tần số
Trong một nghiên cứu với 240 trẻ em, nhóm trẻ từ 49 đến 60 tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 38,3%, tiếp theo là nhóm trẻ từ 37 đến 48 tháng tuổi với 36,7% Ngược lại, tỷ lệ trẻ trong độ tuổi từ 12 đến 24 tháng là thấp nhất, chỉ chiếm 2,9%.
Tỷ lệ nam giới (53,3%) cao hơn nữ giới (46,7%)
3.1.2 Đặc điểm cá nhân của bà mẹ
Bảng 3.2 Đặc điểm cá nhân của bà mẹ Đặc điểm Tần số (n$0) Tỷ lệ (%)
58,8 37,9 3,3 Đặc điểm Tần số (n$0) Tỷ lệ (%) Tuổi mẹ sinh bé
Trong một khảo sát với 240 bà mẹ, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ cao nhất với 58,8%, trong khi độ tuổi từ 41 trở lên chỉ chiếm 3,3% Đặc biệt, độ tuổi sinh con chủ yếu nằm trong khoảng 21-30, với 76,3%, và chỉ 1,7% bà mẹ sinh con ở độ tuổi 41 trở lên Về nghề nghiệp, 41,3% bà mẹ làm ruộng, 32,1% là công nhân, và 13,8% là cán bộ công nhân viên chức, trong khi tỷ lệ bà nội trợ chỉ chiếm 0,4%.
Tỷ lệ bà mẹ có trình độ học vấn THCS cao nhất, đạt 35%, trong khi đó, bà mẹ có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 30% Tiếp theo là bà mẹ có bằng THPT với tỷ lệ 26,7% Đáng chú ý, không có bà mẹ nào trong diện mù chữ, và tỷ lệ bà mẹ biết đọc biết viết cùng với trình độ tiểu học chỉ dưới 5% Ngoài ra, tỷ lệ bà mẹ thuộc diện hộ nghèo cũng rất thấp, chỉ chiếm 2,5%.
Bảng 3.3 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về tình trạng trước sinh
Tình trạng trước sinh Tần số
13,1 86,9 Ăn uống khi mang thai Ăn ít hơn Ăn bình thường Ăn nhiều hơn
Nghe về bệnh thiếu máu do thiếu sắt Đã được nghe
Biểu hiện của bệnh thiếu máu do thiếu sắt
Niêm mạc mắt nhợt nhạt
Tay/móng tay nhợt nhạt
Uống viên sắt/axit folic
Tình trạng trước sinh Tần số
Biết lợi ích của vitamin A
Phòng khô mắt, mù lòa
Giảm nguy cơ tử vong trẻ
Mẹ uống vitamin A sau sinh
Tỷ lệ bà mẹ tham gia khám thai trong thai kỳ đạt 99,2%, với 238 bà mẹ được khảo sát Đặc biệt, có đến 86,9% trong số đó đã thực hiện từ 3 lần khám thai trở lên.
Tỷ lệ bà mẹ tiêm phòng uốn ván trong thai kỳ cao (93,3%)
Số bà mẹ ăn nhiều hơn bình thường chiếm tỷ lệ thấp với 37,1%
95% bà mẹ đã biết về bệnh thiếu máu do thiếu sắt, với các triệu chứng phổ biến như hoa mắt chóng mặt (94,3%), mệt mỏi (69,7%) và đau đầu (64,5%) Các biểu hiện ít được nhận biết hơn bao gồm tay/móng tay nhợt nhạt (13,5%), niêm mạc mắt nhợt nhạt (10,5%) và thường xuyên bị ốm (8,8%).
Hầu hết các bà mẹ (96,3%) sử dụng viên sắt và axit folic trong thai kỳ Đến 75,8% cho rằng vitamin A giúp trẻ phát triển, trong khi 68,3% nhận thức được tác dụng của nó trong việc phòng ngừa khô mắt và mù lòa Tuy nhiên, chỉ có 30,4% bà mẹ thấy vitamin A quan trọng trong việc chống bệnh nhiễm khuẩn và 20% nhận thức được khả năng giảm nguy cơ tử vong cho trẻ Sau sinh, chỉ 37,9% bà mẹ tiếp tục uống vitamin A.
3.1.4 Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Bảng 3.4 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung Tần số
Không, chưa bú bao giờ 240
Biết lợi ích của sữa non và cho bú sữa non
Sữa có nhiều chất kháng khuẩn
Có nhiều chất dinh dưỡng
Cầm máu cho mẹ sau sinh
Thời gian cho trẻ bú sau sinh
Trẻ bú trong 6 tháng đầu
Hoàn toàn bằng sữa mẹ
Bú mẹ, có uống thêm các loại nước
Thời gian trẻ bắt đầu ăn dặm
Tất cả 100% bà mẹ đều cho con bú sữa mẹ sau sinh Trong số 231 bà mẹ, có 96,3% biết về sữa non Đa số các bà mẹ nhận thức rằng sữa non mang lại nhiều lợi ích, với 82,7% cho rằng nó chứa nhiều chất dinh dưỡng và 79,7% cho rằng nó có nhiều chất kháng khuẩn Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ nhận thức về lợi ích kích thích tiết sữa và cầm máu sau sinh chỉ đạt 27,7% và 8,2% tương ứng.
Tỷ lệ bà mẹ cho con bú ngay sau khi sinh đạt 67,5%, trong khi 30% cho bú trong vòng 24 giờ, và 2,5% cho bú sau 24 giờ Nghiên cứu cho thấy 98,7% trẻ em đã cai sữa, trong đó 46,8% trẻ cai sữa sau 18 tháng, 44,7% cai trong khoảng 12 – 18 tháng, và 8,4% cai sữa trước 12 tháng.
Số trẻ bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong thời gian 6 tháng đầu chiếm tỷ lệ rất thấp (3,3%)
Theo thống kê, đa số các bà mẹ bắt đầu cho trẻ ăn dặm trong độ tuổi 4-6 tháng, chiếm 69,6% Trong khi đó, tỷ lệ trẻ được cho ăn dặm dưới 4 tháng tuổi là 27,1%, và chỉ có 3,3% trẻ được cho ăn dặm sau 6 tháng tuổi.
3.1.5 Thực hành chăm sóc trẻ
Bảng 3.5 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về thực hành chăm sóc trẻ
Thực hành chăm sóc trẻ Tần số
Tỷ lệ trẻ được tẩy giun, tiêm chủng đủ và uống vitamin A chiếm tỷ lệ cao lần lượt là 76,6%, 95,8%, 90,8%
3.1.6 Kiến thức về suy dinh dƣỡng
Bảng 3.6 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu kiến thức về suy dinh dưỡng
Kiến thức về SDD Tần số
Cân nặng/chiều cao giảm
Biết lý do trẻ bị SDD (n#7)
Trẻ sinh ra nhẹ cân
Tiêm chủng không đầy đủ
Chăm sóc không đúng khi bị bệnh
Thiếu sữa mẹ Ăn không đủ chất
Không biết cách cho ăn
Biết tác hại của SDD (n#7)
Cán bộ đoàn thể khác Địa điểm công cộng
Bạn bè, người thân, hàng xóm
Theo khảo sát, 98,8% các bà mẹ đã biết đến suy dinh dưỡng (SDD) Đáng chú ý, 71,7% cho rằng SDD thể hiện qua sự giảm cân nặng hoặc chiều cao Trong khi đó, chỉ 39,2% nhận định rằng giảm cân nặng theo tuổi và 24,1% cho rằng giảm chiều cao theo tuổi cũng là dấu hiệu của SDD.
Phần lớn các bà mẹ nhận thức rằng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em chủ yếu do ăn uống không đủ chất (90,3%), không biết cách cho ăn (54,0%), chăm sóc không đúng cách dẫn đến bệnh tật (53,6%), và trẻ thường xuyên bị bệnh (53,2%) Đáng chú ý, 98,3% bà mẹ hiểu rõ tác hại của SDD đối với trẻ, trong đó 92,3% cho rằng SDD sẽ dẫn đến tình trạng thấp còi, 69,1% lo ngại rằng trẻ sẽ dễ bị bệnh, và 57,1% tin rằng SDD có thể làm giảm khả năng thông minh của trẻ Các nguồn thông tin chủ yếu mà bà mẹ tiếp cận là từ tivi (84,8%) và cán bộ y tế (61,6%).
Hiện nay, kiến thức của các bà mẹ về suy dinh dưỡng (SDD) và hậu quả của nó đã tăng lên đáng kể, với khoảng 25% bà mẹ biết sử dụng chỉ số chiều cao/tuổi để xác định SDD Đa số các bà mẹ nhận thức được rằng SDD có thể dẫn đến dễ mắc bệnh, kém thông minh và thấp còi trong tương lai Điều này cho thấy hiệu quả của các chương trình phòng chống SDD thông qua các phương tiện truyền thông như tivi và báo chí.
Tình trạng suy dinh dưỡng
3.2.1 Tỷ lệ suy dinh dƣỡng
Bảng 3.7 Tỷ lệ suy dinh dưỡng các thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm
Nhận xét: Tỷ lệ SDD nhẹ cân chiếm 17,1%, SDD thấp còi chiếm 18,8%, SDD gầy còm chiếm 2,1%
3.2.2 Tỷ lệ suy dinh dƣỡng phân bố theo giới
Bảng 3.8: Tỷ lệ suy dinh dưỡng phân bố theo giới (n$0)
Tình trạng SDD Nam Nữ
Tần số Tỷ lệ Tần số Tỷ lệ
Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) nhẹ cân ở nam giới là 14,8% và ở nữ giới là 19,6% Đối với SDD thấp còi, tỷ lệ ở nam giới là 15,6% và ở nữ giới là 22,3% Trong khi đó, tỷ lệ SDD gầy còm ở nam giới là 3,1% và ở nữ giới chỉ là 0,9%.
3.2.3 Tỷ lệ suy dinh dƣỡng của trẻ theo nhóm tuổi
Bảng 3.9: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ theo nhóm tuổi (n$0)
SDD nhẹ cân: Tỷ lệ SDD nhẹ cân ở nhóm 37-48 tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất (11,4%), cao nhất là nhóm 25-36 tháng (20,8%)
SDD thấp còi: Tỷ lệ SDD thấp còi ở nhóm 37-48 tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất (12,5%), cao nhất là nhóm 49-60 tháng (23,9%)
SDD gầy còm: không có trẻ gầy còm ở độ tuổi 12-24 tháng và 49-60 tháng Tỷ lệ SDD gầy còm ở nhóm 25-36 tháng là 3,8%, ở nhóm 37-48 tháng là 3,4%.
Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của mẹ và trẻ; tình trạng trước sinh; nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung; thực hành chăm sóc trẻ; kiến thức về suy dinh dưỡng của bà mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng
Bảng 3.10 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của trẻ và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0) Đặc điểm
* Kiểm định chính xác Fisher
Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi và giới tính của trẻ với tình trạng SDD nhẹ cân ở mẫu nghiên cứu
Bảng 3.11 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của trẻ và tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi (n$0) Đặc điểm
* Kiểm định chính xác Fisher
Nhận xét: Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi, giới tính của trẻ và tình trạng SDD thể thấp còi ở mẫu nghiên cứu
3.3.2 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của mẹ và tình trạng suy dinh dƣỡng
Bảng 3.12 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0) Đặc điểm
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa độ tuổi của mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ em (p=0,03) Cụ thể, những bà mẹ từ 41 tuổi trở lên có tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng cao hơn so với các nhóm bà mẹ khác.
Không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện giữa tuổi của mẹ khi sinh con, nghề nghiệp, trình độ học vấn và tình trạng hộ nghèo của các bà mẹ với tình trạng suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ.
Bảng 3.13 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi (n$0) Đặc điểm
Không n (%) Tuổi mẹ sinh bé
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa độ tuổi của bà mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em (p=0,02) Cụ thể, những bà mẹ từ 41 tuổi trở lên có tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn so với các nhóm tuổi khác.
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa trình độ học vấn của mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em (p=0,04) Cụ thể, những bà mẹ chỉ học hết cấp 1 có tỷ lệ con bị suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn so với các nhóm mẹ có trình độ học vấn cao hơn.
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa độ tuổi sinh bé, nghề nghiệp, hộ nghèo của các bà mẹ với tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ
3.3.3 Mối liên quan giữa tình trạng trước sinh và tình trạng suy dinh dƣỡng
Bảng 3.14 Mối liên quan giữa tình trạng trước sinh và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0)
0,25 Ăn uống khi mang thai Ăn ít hơn Ăn bình thường Ăn nhiều hơn
Nghe về bệnh thiếu máu do thiếu sắt Đã được nghe
Không n (%) Biết biểu hiện của bệnh thiếu máu do thiếu sắt (n"8)
Niêm mạc mắt nhợt nhạt
Tay/móng tay nhợt nhạt
Uống viên sắt/axit folic
Mẹ uống vitamin A sau sinh
Không n (%) Biết lợi ích của vitamin A
Phòng khô mắt, mù lòa
Giảm nguy cơ tử vong trẻ
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa việc bà mẹ uống viên sắt và axit folic trong thai kỳ với tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ sơ sinh có ý nghĩa thống kê (p=0,02) Cụ thể, bà mẹ sử dụng viên sắt và axit folic trong thai kỳ có tỷ lệ trẻ sơ sinh bị suy dinh dưỡng nhẹ cân thấp hơn so với bà mẹ không sử dụng Các yếu tố khác không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa.
Bảng 3.15 Mối liên quan giữa tình trạng trước sinh và tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi (n$0)
Không n (%) Ăn uống khi mang thai Ăn ít hơn Ăn bình thường Ăn nhiều hơn
Nghe về bệnh thiếu máu do thiếu sắt Đã được nghe
Biết biểu hiện của bệnh thiếu máu do thiếu sắt (n"8)
Niêm mạc mắt nhợt nhạt
Tay/móng tay nhợt nhạt
Không n (%) Uống viên sắt/axit folic
Biết lợi ích của vitamin A
Phòng khô mắt, mù lòa
Giảm nguy cơ tử vong trẻ
Mẹ uống vitamin A sau sinh
* Kiểm định chính xác Fisher
Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các yếu tố tình trạng trước sinh và tình trạng SDD thấp còi
3.3.4 Mối liên quan giữa nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung và tình trạng suy dinh dƣỡng
Bảng 3.16 Mối liên quan giữa nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0)
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Không n (%) Biết về sữa non
Biết lợi ích của sữa non và cho bú sữa non (n#1)
Sữa có nhiều chất kháng khuẩn
Có nhiều chất dinh dưỡng
Cầm máu cho mẹ sau sinh
Thời gian cho trẻ bú sau sinh
Trẻ bú trong 6 tháng đầu
Hoàn toàn bằng sữa mẹ
Bú mẹ, có uống thêm các loại nước
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung SDD p
Có n (%) Không n (%) Thời gian trẻ bắt đầu ăn dặm
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức của bà mẹ về sữa non và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ em (p=0,04), với tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân thấp hơn ở những bà mẹ biết về sữa non so với những bà mẹ không biết Thêm vào đó, sự hiểu biết của bà mẹ về lợi ích dinh dưỡng của sữa non và việc cho bú sữa non cũng có mối liên hệ thống kê với tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (p=0,03), cho thấy rằng những bà mẹ nhận thức rõ về lợi ích này có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân thấp hơn.
Bảng 3.17 Mối liên quan giữa nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung và tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi (n$0)
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Không n (%) Biết về sữa non
Biết lợi ích của sữa non và cho bú sữa non (n#1)
Sữa có nhiều chất kháng khuẩn
Có nhiều chất dinh dưỡng
Cầm máu cho mẹ sau sinh
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung
Thời gian cho trẻ bú sau sinh
Trẻ bú trong 6 tháng đầu
Hoàn toàn bằng sữa mẹ
Bú mẹ, có uống thêm các loại nước
Thời gian trẻ bắt đầu ăn dặm
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa việc bà mẹ hiểu biết về lợi ích của sữa non và việc cho bú sữa non, với việc cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp còi thấp hơn (p=0,03) Những bà mẹ nhận thức rõ về lợi ích của sữa non có xu hướng cho con bú sữa non nhiều hơn, dẫn đến việc trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi thấp hơn so với những bà mẹ không nắm rõ thông tin này.
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố còn lại và tình trạng SDD thấp còi
3.3.5 Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc trẻ và tình trạng suy dinh dƣỡng
Bảng 3.18 Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc trẻ và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0)
Thực hành chăm sóc trẻ
Không n (%) Tẩy giun (n#5 trẻ 24 tháng)
* Kiểm định chính xác Fisher
Nhận xét: Không tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tẩy giun, tiêm chủng, uống vitamin A khi trẻ 6-36 tháng và tình trạng SDD nhẹ cân của trẻ
Bảng 3.19: Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc trẻ và tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi (n$0)
Thực hành chăm sóc trẻ
Không n (%) Tẩy giun (n#5 trẻ 24 tháng)
Thực hành chăm sóc trẻ
* Kiểm định chính xác Fisher
Không tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tẩy giun, tiêm chủng, uống vitamin A khi trẻ 6-36 tháng và tình trạng SDD thấp còi của trẻ
3.3.6 Mối liên quan giữa kiến thức về suy dinh dƣỡng và tình trạng suy dinh dƣỡng
Bảng 3.20 Mối liên quan giữa kiến thức về suy dinh dưỡng và tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân (n$0)
Cân nặng/chiều cao giảm
Không n (%) Biết lý do trẻ bị SDD (n#7)
Trẻ sinh ra nhẹ cân
Tiêm chủng không đầy đủ
Chăm sóc không đúng khi bị bệnh
Không Ăn không đủ chất
Không biết cách cho ăn
Biết tác hại của SDD (n#7)
* Kiểm định chính xác Fisher
Có mối liên hệ giữa việc bà mẹ nhận thức được nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng (SDD) do ăn không đủ chất và tình trạng SDD nhẹ cân Cụ thể, tỷ lệ trẻ bị SDD nhẹ cân ở những bà mẹ hiểu rõ lý do này thấp hơn so với những bà mẹ không nắm bắt thông tin (p=0,04)
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức của bà mẹ về tác hại của suy dinh dưỡng (SDD) và tình trạng SDD nhẹ cân ở trẻ em, với p=0,03 Những bà mẹ hiểu rõ tác hại của SDD có tỷ lệ con bị SDD nhẹ cân thấp hơn so với những bà mẹ không có kiến thức về vấn đề này.
Không (n, %) Nghe nói về SDD
Cân nặng/chiều cao giảm
Biết lý do trẻ bị SDD (n#7)
Trẻ sinh ra nhẹ cân
Tiêm chủng không đầy đủ
Không (n, %) Biết lý do trẻ bị SDD (n#7)
Chăm sóc không đúng khi bị bệnh
Không Ăn không đủ chất
Không biết cách cho ăn
Biết tác hại của SDD (n#7)
* Kiểm định chính xác Fisher
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa việc bà mẹ hiểu nguyên nhân gây suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ là do ăn không đủ chất và tình trạng SDD thấp còi của trẻ (p=0,04) Cụ thể, những bà mẹ nhận thức đúng về nguyên nhân này có tỷ lệ con bị SDD thấp còi thấp hơn so với nhóm bà mẹ không biết.
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa sự hiểu biết của bà mẹ về tác hại của suy dinh dưỡng (SDD) và tình trạng thấp còi ở trẻ Cụ thể, những bà mẹ nhận thức rõ về tác hại của SDD có tỷ lệ trẻ thấp còi thấp hơn đáng kể so với nhóm không nhận thức (p=0,02).
Hiện trạng mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng
Tại các trường mầm non, hầu hết trẻ em đi học 5/7 ngày trong tuần và được cung cấp 2 bữa ăn tại lớp mỗi ngày, bao gồm bữa trưa và bữa phụ Ngoài ra, trẻ cũng có thể nhận thêm thức ăn từ mẹ, như bánh và sữa.
– Đa số trẻ 24 tháng tuổi
3.4.2 Mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng dinh dƣỡng của trẻ
3.4.2.1 Có hay không sự kết hợp giữa gia đình và trường mầm non trong việc chăm sóc trẻ?
Việc trao đổi thông tin giữa gia đình và nhà trường về tình hình của trẻ diễn ra qua nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào từng trường học, theo phỏng vấn của bà mẹ và cô nuôi dạy trẻ.
Thời gian cho việc chăm sóc trẻ không cố định và có thể điều chỉnh linh hoạt dựa trên tình trạng sức khỏe của trẻ cũng như yêu cầu của mẹ, chẳng hạn như khi mẹ có thời gian rảnh hoặc khi trẻ đang ốm.
Giáo viên 6 chia sẻ rằng trong thời gian đón và trả trẻ, cô thường tranh thủ cập nhật cho phụ huynh về tình hình của bé trong ngày Nếu có trẻ nào có biểu hiện bất thường trong lớp, cô sẽ ngay lập tức liên lạc với gia đình để thông báo.
Bà mẹ 8: “khi nào tiện thì chị hỏi cô giáo thôi, hay bữa nào bé ốm thì nhờ cô giáo để ý chăm sóc bé giúp”
Hình thức trao đổi thông tin về trẻ có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể Nội dung trao đổi thường bao gồm nhiều thông tin quan trọng như chế độ ăn uống, giấc ngủ của trẻ tại lớp, và các khoản tiền ăn hàng tháng của trẻ.
Trao đổi trực tiếp với gia đình qua giờ đón trả trẻ, gọi điện thoại:
Giáo viên thường thông báo trực tiếp với phụ huynh trong giờ đón - trả trẻ, qua điện thoại, hoặc trao đổi trực tiếp với mẹ bé nếu bé sống gần nhà.
Họp phụ huynh được tổ chức hai lần mỗi năm, vào đầu và cuối năm học, nhưng hiệu quả không cao do sự tham gia không đầy đủ của phụ huynh Giáo viên cho biết: “Trường có tổ chức họp phụ huynh theo từng lớp, nhưng chỉ có vài phụ huynh tham gia, phần lớn còn lại là ông bà, vì vậy các cô phải gộp chung các lớp lại để tổ chức họp.”
Trao đổi gián tiếp thông qua bảng thông báo được dán tại từng lớp:
Giáo viên 18 cho biết rằng các cô thường tạo bảng thông báo về chiều cao và cân nặng của trẻ, sau đó dán ở cửa từng lớp học để phụ huynh dễ dàng theo dõi Trong trường hợp có những bất thường, các cô sẽ ngay lập tức thông báo cho phụ huynh.
Việc trao đổi giữa gia đình và nhà trường có nhiều hình thức, nhưng nội dung dinh dưỡng của trẻ vẫn chưa được chú trọng Thường chỉ khi trẻ ốm, gia đình và nhà trường mới có những cuộc gặp gỡ thường xuyên hơn Phụ huynh cũng dễ bị nhiễu thông tin liên quan đến tiền ăn hàng tháng và tình hình sinh hoạt của trẻ tại lớp Điều này cho thấy công tác dự phòng suy dinh dưỡng cho trẻ chưa được quan tâm đúng mức.
Các nội dung thông báo tập trung chủ yếu về tình trạng dinh dưỡng của trẻ, chế độ ăn hàng tuần, thói quen ăn uống của trẻ
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em tại trường học thường không được phụ huynh quan tâm đúng mức, mặc dù nhà trường đã công khai bảng thông báo chiều cao và cân nặng Nhiều bà mẹ không nắm rõ tình hình dinh dưỡng của con mình do các cô giáo chưa giải thích cụ thể các số liệu trên bảng thông báo.
Bà mẹ 5: “cô giáo thường nói bé ăn tốt hay tăng cân hơn, chứ chị không biết rõ bé nhà chị có bị suy dinh dưỡng hay không”
Bà mẹ 3: “chị chỉ thấy cô thông báo xem bé nhà chị ăn uống thế nào chứ không thấy nói đến tình trạng dinh dưỡng của bé”
Bà mẹ 4: “chắc cô giáo nghĩ con nhà mình bình thường nên không thấy cô nói gì cả”
Chế độ ăn hàng tuần tại trường thường được niêm yết trên bảng thực đơn ở nhà bếp, nhưng vị trí này thường khó quan sát Nhiều phụ huynh do bận rộn hoặc chưa chú ý nên không nắm rõ thực đơn và chế độ ăn hàng ngày của con em mình.
Bà mẹ 7 chia sẻ: “Khi đến giờ đón bé, tôi thường đón nhanh để về làm việc nhà, nên không chú ý nhiều đến bảng thực đơn Tôi chỉ hỏi bé hôm nay ở lớp con đã ăn gì.”
Vào đầu năm, trong buổi họp phụ huynh, các giáo viên đã thông báo về chế độ ăn uống của các bé, nhưng mẹ của một học sinh cho biết rằng thông tin chỉ mang tính chất chung chung và không có chi tiết cụ thể.
Khi nhà trường không thông báo chế độ ăn của trẻ ở trường cho gia đình, đa số bà mẹ nói rằng sẽ hỏi lại cô giáo
Bà mẹ 6: “chị nghĩ các cô ở đây chăm sóc các cháu chu đáo nên chị cũng tin tưởng, có gì thì nhờ các cô chăm sóc bé giúp chị”
Phần lớn các bà mẹ đều trao đổi với cô giáo về thói quen ăn uống của trẻ
Giáo viên 9 chia sẻ rằng các phụ huynh thường thông báo cho cô về sở thích ăn uống của trẻ, như món ăn yêu thích hay các loại thực phẩm mà trẻ bị dị ứng, để cô có thể điều chỉnh chế độ ăn phù hợp cho các em tại lớp.
Cô nuôi dạy trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ, được gia đình tin tưởng giao phó Sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là cần thiết, trong đó nhà trường cần thực hiện đầy đủ các quy định về thông báo tình trạng dinh dưỡng của trẻ Tuy nhiên, thông báo đôi khi còn mang tính hình thức và thiếu sự giải thích rõ ràng, khiến gia đình chưa hiểu hết tình trạng dinh dưỡng của trẻ Hơn nữa, gia đình thường chưa chú trọng đến việc hợp tác với nhà trường trong việc chăm sóc, chỉ tập trung vào thói quen ăn uống mà bỏ qua các yếu tố dinh dưỡng khác.
3.4.2.3 Ai là người nhận các thông báo về trẻ?
Mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Chương trình PCSDD giai đoạn 2001-2010 đã đạt nhiều thành tựu nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp và sự phối hợp liên ngành Công tác truyền thông và giáo dục dinh dưỡng cho toàn dân đã có kết quả tốt, với nhiều chính sách được ban hành tạo hành lang pháp lý cho công tác này Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đầu tư cho PCSDD, đặc biệt là cho trẻ em trước tuổi học đường Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm, hệ thống giáo dục phát triển mạnh mẽ, và ứng dụng khoa học dinh dưỡng đã cải thiện đời sống và giúp người dân tiếp cận thông tin về sức khỏe Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 31,9% năm 2001 xuống 17,5% năm 2010, và tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cũng giảm từ 43,3% năm 2000 xuống 29,3% năm 2010, mặc dù Việt Nam vẫn nằm trong số 36 quốc gia có tỷ lệ thấp còi cao Tuy nhiên, chương trình chủ yếu tập trung vào cải thiện kiến thức và thực hành dinh dưỡng cho bà mẹ và người chăm sóc trẻ, như nuôi con bằng sữa mẹ và chăm sóc trẻ khi ốm.
Nghiên cứu cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng (SDD) bao gồm tuổi mẹ, trình độ học vấn, việc bà mẹ uống sắt và axit folic trong thai kỳ, cũng như nhận thức về sữa non và tác hại của SDD Mặc dù điều kiện kinh tế cải thiện trong hơn 10 năm qua đã giúp bà mẹ chăm sóc con tốt hơn và tiếp cận thông tin dễ dàng hơn, nhưng việc đi làm sớm và gửi trẻ vào trường mầm non cũng làm tăng nguy cơ SDD ở độ tuổi này Theo mô hình của Urie Bronfenbrenner, các yếu tố trong khu vực vi mô và trung mô như trường mầm non và gia đình cũng có ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Trong xã hội hiện đại, người chăm sóc trẻ không chỉ là bố mẹ hay ông bà mà còn là cô nuôi dạy trẻ, người đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là trong môi trường mầm non Với hệ thống trường mầm non phát triển, trẻ em thường bắt đầu đi học từ 24 tháng tuổi và học 5/7 ngày trong tuần, trong đó thời gian lớn được chăm sóc bởi cô nuôi dạy trẻ Cô không chỉ là giáo viên mà còn là người mẹ, nhân viên y tế theo dõi sức khỏe, và chăm sóc trẻ từ ăn uống đến vệ sinh cá nhân Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ dưới 3 tuổi, cô giáo phải thực hiện nhiều công việc như cho trẻ ăn, giúp trẻ đi vệ sinh và dọn dẹp lớp học Việc giúp trẻ hòa nhập với môi trường học tập cũng là một nhiệm vụ quan trọng mà cô giáo cần thực hiện Do đó, để hoàn thành tốt vai trò của mình, cô nuôi dạy trẻ cần được đào tạo thêm về dinh dưỡng và phòng chống suy dinh dưỡng, nhằm hỗ trợ trẻ và gia đình trong giai đoạn có nhiều nguy cơ về sức khỏe.
Nghiên cứu cho thấy nhà trường đã thực hiện đúng quy định về thông báo tình hình dinh dưỡng và chế độ ăn hàng ngày của trẻ cho phụ huynh, nhưng việc thực hiện còn mang tính hình thức và chưa thu hút sự chú ý của phụ huynh Số lượng trẻ trong lớp quá đông và thiếu giáo viên (thường 2 giáo viên cho 25-30 trẻ/lớp) gây khó khăn trong việc chăm sóc và thông báo tình trạng trẻ Phụ huynh hiện nay thường yêu cầu cao về sức khỏe và sự phát triển trí tuệ của trẻ, nhưng ít chú trọng đến chỉ số dinh dưỡng Áp lực này đè nặng lên giáo viên, trong khi chế độ đãi ngộ cho họ vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến tâm huyết và sự tận tâm trong việc chăm sóc trẻ.
Gia đình thường có tâm lý chủ quan và phụ thuộc vào giáo viên trong việc chăm sóc trẻ, dẫn đến việc thiếu quan tâm đến tình hình của trẻ ở lớp Sự trao đổi giữa cô giáo và gia đình chủ yếu diễn ra qua giờ đón, trả trẻ và các cuộc họp phụ huynh định kỳ Tuy nhiên, do bận rộn với công việc, nhiều bà mẹ không thể trực tiếp trao đổi với cô giáo, mà phải nhờ ông bà hoặc người quen, điều này có thể gây ra sự thiếu sót và chậm trễ trong việc tiếp nhận thông tin Hệ quả là tình trạng phát triển của trẻ có thể bị bỏ quên, chỉ được quan tâm khi trẻ ốm đau hoặc có dấu hiệu suy dinh dưỡng.
Việc bà mẹ nắm rõ tình trạng dinh dưỡng (TTDD) và chế độ ăn hàng ngày của trẻ là rất quan trọng, giúp điều chỉnh khẩu phần ăn tại nhà cho phù hợp với tình trạng sức khỏe của trẻ, như suy dinh dưỡng hay thừa cân Trẻ thường ăn 2 bữa ở trường và 2 bữa ở nhà, nên sẽ có sự khác biệt trong thói quen ăn uống Sự trao đổi thường xuyên giữa gia đình và nhà trường về thói quen ăn uống của trẻ sẽ tạo ra kênh thông tin hữu ích, từ đó điều chỉnh chế độ ăn và chăm sóc hợp lý Nghiên cứu của Ninh Thị Nhung năm 2011 tại Thái Bình đã đề xuất tổ chức các khóa tập huấn về dinh dưỡng cho giáo viên và truyền thông cho các bà mẹ, giúp họ chủ động xây dựng chế độ dinh dưỡng cân đối cho trẻ Do đó, cần tăng cường sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường để chăm sóc trẻ toàn diện, góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Những hạn chế và tính ứng dụng của đề tài
4.5.1 Hạn chế của đề tài
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em dưới 5 tuổi Tình trạng SDD này cũng khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm sinh thái của từng vùng miền.
Do thời gian và chi phí hạn chế, nghiên cứu này chỉ thực hiện phương pháp cắt ngang mô tả với cỡ mẫu nhỏ, không đại diện cho toàn bộ dân số và không thể đánh giá quan hệ nhân quả giữa các yếu tố Thêm vào đó, thông tin thu thập chủ yếu dựa vào trí nhớ, do đó có thể xảy ra sai lệch.
Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thông tin quan trọng về tình trạng suy dinh dưỡng tại các trường mầm non ở huyện Hoằng Hóa, giúp Ban lãnh đạo chương trình mục tiêu PCSDD huyện đưa ra các biện pháp can thiệp hiệu quả trong thời gian tới.
Nghiên cứu có thể là cơ sở cho việc thực hiện những nghiên cứu can thiệp sâu hơn trong PCSDD.