1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ bàn về vấn đề PHÂN PHỐI TRONG tác PHẨM PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GOTA

11 340 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 11
Dung lượng 70,5 KB

Nội dung

Nhân kỷ niệm 195 năm ngày sinh của C. Mác (551818 – 552013), đây là dịp để chúng ta tưởng nhớ đến vĩ lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới với những đóng góp vô cùng lớn lao, có tính chất vạch thời đại. Trong bài tham luận này, tác giả chỉ xin đi sâu phân tích một đóng góp của C. Mác khi bàn về vấn đề mang tính sống còn của bất kỳ một quốc gia dân tộc – vấn đề phân phối thu nhập. Trong giới hạn cho phép xin đi sâu phân tích đánh giá sở đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C. Mác được trình bày trong “phê phán cương lĩnh Gôta”.

Trang 1

BÀN VỀ VẤN ĐỀ PHÂN PHỐI TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN CƯƠNG LÍNH GO TA

Nhân kỷ niệm 195 năm ngày sinh của C Mác (5/5/1818 – 5/5/2013), đây là dịp để chúng ta tưởng nhớ đến vĩ lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới với những đóng góp vô cùng lớn lao, có tính chất vạch thời đại Trong bài tham luận này, tác giả chỉ xin đi sâu phân tích một đóng góp của C Mác khi bàn về vấn đề mang tính sống còn của bất kỳ một quốc gia dân tộc – vấn đề phân phối thu nhập Trong giới hạn cho phép xin đi sâu phân tích đánh giá sở đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C Mác được trình bày trong “phê phán cương lĩnh Gôta”

Năm 1875, vào thời điểm mà ở Đức có hai tổ chức của công nhân Một lấy tên là Tổng Hội liên hiệp công nhân Đức do Látxan cùng đồ đệ lãnh đạo và Đảng xã hội dân chủ Đức còn gọi là Đảng Aidơnach do Liếpnếch và Bêben lãnh đạo Sau khi nước Đức thống nhất, vấn đề thống nhất hai tổ chức giai cấp công nhân Đức cũng được đặt ra Mác và Ăngghen đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách chớ có nóng vội liên hiệp hoặc hợp nhất, bởi vì phái Látxan là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội khoa học Mác và Ăngghen chủ trương là nên thống nhất phong trào công nhân Đức từ dưới, làm cho phái Látxan bị cô lập trong quần chúng nhân dân, nếu hợp nhất với phái Látxan phải dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học Nhưng những nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách đứng đầu Liếpnếch không làm theo ý kiến mà Mác và Ăng ghen đã nhắc nhở, họ tiến hành hợp nhất hoàn toàn vô điều kiện, và tới tháng 5-1875, Đại hội đại biểu đảng liên hiệp đã được triệu tập ở Gôta Người chủ chốt thảo ra cương lĩnh hợp nhất là Liếpnếch Khi Liếpnếch dự thảo bản cương lĩnh, Mác không biết, sau khi viết xong rồi mới đưa

dự thảo cho Mác Mác bất bình trước sự phản bội các nguyên

Trang 2

tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học được thể hiện trong cương lĩnh và sự nhượng bộ của Đảng Aiđơnách trước phái Látxan một cách nhục nhã với tinh thần cách mạng mácxít, C.Mác và Ph.Ăngghen đã biên soạn tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, giáng một đòn nặng nề vào bọn cơ hội chủ nghĩa

Trong đó, đặc biệt chú ý đến việc các ông phê phán quan điểm về phân phối của Latxan, đồng thời đưa ra những nguyên lý để tiến hành phân phối thu nhập Trong tác phẩm này, Mác đã phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan ghi trong Cương lĩnh là thực hiện phân phối công bằng, là đòi sản phẩm của lao động phải thuộc về mọi thành viên trong xã hội

Mác vạch rõ, cái gọi là “sản phẩm toàn vẹn của lao động” phải thuộc về mọi thành viên của xã hội, lập luận đó, yêu sách

đó là bông lông, rỗng tuếch, đó là câu nói của những người dốt đặc về khoa kinh tế học Giả thuyết theo cách nói của họ, mọi thành viên trong xã hội đều chiếu theo quyền lợi bình đẳng nhận được sự thu nhập “toàn vẹn” thế thì kẻ không lao động cũng vẫn được hưởng thu nhập, chỉ riêng điều đó cũng đã làm cho thu nhập của người lao động bị khấu trừ rồi Nếu bảo chỉ có những người làm việc mới được hưởng thu nhập, thế thì làm sao có thể nói được mọi thành viên trong xã hội đều có “quyền lợi bình đẳng” Cho nên, trong bản Cương lĩnh đã tự mâu thuẫn lôgic Hơn nữa, Mác nêu rõ là phương thức phân phối bao giờ cũng do phương thức sản xuất, do trình độ sản xuất quyết định

Mác cho rằng, ngay trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể nào có cái thu nhập gọi là “toàn vẹn của lao động”; không bị cắt xén Mà trước khi phân phối số sản phẩm cần thiết thỏa mãn nhu cầu cá nhân cho mọi người, thì xã hội cũng cần phải có khấu trừ một bộ phận để bù đắp các khoản: hao mòn tư liệu sản xuất, dùng cho tái sản xuất,

Trang 3

dùng quỹ bảo hiểm đề phòng tai nạn, dùng chi tiêu cho trường học, cho công cuộc bảo đảm sức khỏe, dùng làm quỹ nuôi những người không có khả năng lao động chi tiêu, xây dựng quê hương Chỉ sau khi khấu trừ những khoản đó, phần còn lại mới có thể đem phân phối cho mọi cá nhân

Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C Mác được cụ thể hóa như sau:

Như vậy, phân phối tổng sản phẩm xã hội để hình thành nên 3 bộ phận: bộ phận thứ nhất bao gồm quỹ bù đắp liệu sản xuất hao phí, quỹ tích lũy để tái sản xuất mở rộng và quỹ dự phòng; bộ phận thứ hai gồm quỹ chi về quản lý Nhà nước và quốc phòng, quỹ chi cho phát triển xã hội (y tế, giáo dục, bảo trợ

xã hội); bộ phận thứ ba đem phân phối cho tiêu dùng của cá nhân người lao động

Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm của C.Mác phản ảnh tính rộng lớn, toàn diện của lĩnh vực phân phối: vừa phải bảo đảm các yếu tố cho quá trình sản xuất vừa bảo đảm những yếu tố tiêu dùng của xã hội và đời sống của bản thân người lao động Đồng thời, sơ đồ phân phối này cũng thể hiện tính hợp lý và nhân đạo:

Tổng sản phẩm xã hội C+v+m

Quỹ

bù đắp

TLSX

đã hao

phí (c)

Quỹ tích lũy TSX mở rộng

Quỹ dự phòng

Quỹ tiêu dùng

Quỹ cho QLNN và QP Quỹ chi cho phát triển XH

Quỹ tiêu dùng cá nhân

Trang 4

vừa bảo đảm cho sản xuất không chỉ trong điều kiện bình thường mà cả khi có bất trắc xảy ra, bảo đảm đời sống cho người lao động và những người không có điều kiện lao động, cả hiện tại và tương lai

Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội được vận dụng cho các xã hội khác nhau, trong đó, quỹ bù đắp tư liệu sản xuất bị hao mòn, quỹ tích lũy tái mở rộng sản xuất, quỹ dự phòng và quỹ dành cho thu nhập cá nhân lao động là tất yếu cần thiết Còn quỹ dành cho tiêu dùng của xã hội bao gồm chi cho hoạt động của bộ máy Nhà nước, lĩnh vực quốc phòng và quỹ chi cho phát triển xã hội thì không phải trong hình thái kinh tế xã hội nào cũng có và cần thiết

Tuy nhiên, nên hiểu rằng: Phân phối cho tiêu dùng cá nhân không phải là đem phân phối hết mọi của cải mà xã hội sản xuất

ra cho tiêu dùng cá nhân Vì: Nếu kết quả sản xuất được đưa ra phân phối hết cho tiêu dùng cá nhân thì xã hội sẽ không còn tái sản xuất mở rộng, có nghĩa là không còn những yếu tố bảo đảm cho quá trình sản xuất tiếp theo, không thể bù đắp hao mòn máy móc trang thiết bị và giải quyết các tình huống trong quá trình sản xuất nảy sinh Đồng thời, phải đối mặt với những nguy cơ rất lớn từ nền kinh tế trong lĩnh vực y tế, giáo dục, tệ nạn xã hội, không thể bảo đảm nền tảng cho một xã hội phát triển bền vững Đây là quan điểm hoàn toàn khác hẳn với quan điểm của Lát -xan

Như vậy, trong tác phẩm này, Mác đã phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan mà Cương lĩnh Gôta đã đưa vào,

đã vạch ra rằng, yêu sách này là dựa trên cơ sở của kinh tế học

tư sản, nó cắt rời giữa phân phối với sản xuất

Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” trong khi phê phán sản phẩm, “toàn vẹn của lao động” của chủ nghĩa Látxan, Mác đồng thời cũng chỉ rõ cách đặt vấn đề phân phối như thế nào sau khi

Trang 5

chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt và chủ nghĩa cộng sản giành được thắng lợi Mác đã vứt bỏ những câu rỗng tuyếch trong Cương lĩnh về “phân phối công bằng và đặt vấn đề này trên một cơ sở khoa học” Mác đặt vấn đề phân phối trong sự liên hệ với trình

độ phát triển của bước sản xuất xã hội Mác cho rằng, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà nước

và pháp luật, và với sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải thực hiện phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”

Theo Lênin, cách phân phối này là một “bước tiến vĩ đại”

vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng theo lao động của mình Nhưng sự bình đẳng như vậy vẫn chưa phải

là tuyệt đối Ở đây mới chỉ xác lập quyền bình đẳng về quan hệ đối với tư liệu sản xuất và lập nên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, đã xóa bỏ chế độ người bóc lột người Nhưng về mặt tiêu dùng và phân phối, thực tế chưa hoàn toàn bình đẳng, vì tuy mọi người bình đẳng hưởng theo lao động nhưng thực tế mỗi người khác nhau: năng lực công tác có người giỏi người kém, nhân khẩu có gia đình nhiều người có gia đình ít người cho nên về tiêu dùng mọi người không hưởng như nhau Mác viết rằng:

“Nhưng đó là những thiếu sót không thể trách khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng

từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” Nhưng khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói

rõ thêm: cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ văn hóa được nâng cao;

sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành nhu cầu cần

Trang 6

thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên phải chuyển sang một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là

“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động nữa

Trên cơ sở những nguyên lý mà C.Mác đã vạch ra, căn cứ vào đặc điểm của tình hình đất nước, Đảng ta đã haochj địch chính sách phân phối một cách hợp lý Trong văn kiện Đại hội

XI khẳng định: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi

xã hội”(1) Đồng thời, Đại hội XI đã đưa ra những định hướng

và giải pháp để thực hiện chính sách phân phối thu nhập hợp lý trong những năm tiếp theo, cụ thể là

Một là, thực hiện tốt chính sánh lao động, việc làm.

Đây là động lực thúc đẩy người lao động phát huy cao nhất năng lực của bản thân, bảo đảm hài hoà các quan hệ trong lao động Do vậy, thời gian tới, cần tiếp tích cực cải thiện môi trường và điều kiện lao động, đảm bảo cho người lao động trong điều kiện bình thường được hưởng những quyền lợi được có và

kể cả khi có tai nạn lao động xảy ra; đẩy mạnh giáo dục đào tạo, dạy nghề và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và hộ nghèo; chú trọng hơn nữa lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng

đô thị hoá; phát triển hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề

Trang 7

nghiệp; chăm lo phát triển y tế nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm, có điều kiện tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực và điều kiện làm việc; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn Chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của những người và gia đình có công với cách mạng, giải quyết dứt điểm những tồn đọng trong công tác chính sách, tạo điều kiện để

họ tích cực tham gia phát triển kinh tế, nâng cao đời sống

Hai là, tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương.

Chính sách tiền lương, tiền công chính là cụ thể hoá sự

quan tâm đến người lao động của Đảng và Nhà nước Ở nước ta

hiện nay, chính sách về tiền công, tiền lương tuy đã được cải tiến nhưng nhìn chung vẫn chưa phù hợp với cơ chế kinh tế mới Tiền lương vẫn mang tính chất bình quân, bao cấp, chưa thực sự là thước đo và đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc; nhà nước vẫn chưa làm chủ hoàn toàn trong việc kiểm soát và quản lý tiền lương, thu nhập của tất cả các cá nhân trong xã hội; phân phối thu nhập cá nhân còn thiếu công bằng, chứa đựng những chênh lệch bất hợp lý giữa các vùng, miền, ngành… khác nhau; tiền lương thực tế giảm do giá cả tăng cao (chỉ số CPI năm 2011 là 18%), đời sống nhân dân khó khăn, đặc biệt là người nông dân, người làm công ăn lương

Do đó, phải tiếp tục hoàn chỉnh chính sách tiền lương, tiền

công, chống thu nhập bất hợp lý nhằm “giữ cho khoảng cách giàu, nghèo trong giới hạn hợp lý, giới hạn an toàn” (2)

Từng bước thực hiện tiền tệ hoá tiền lương, tức là trong

cấu thành tiền lương, tiền công phải tính toán đến các yếu tố để

Trang 8

đảm bảo cho đời sống của người lao động tương ứng với một vị trí công tác, cương vị đảm đương, trí tuệ, công sức và tài năng

đã cống hiến để phân phối cho phù hợp Trong lộ trình cải cách tiền lương đến năm 2020 chúng ta cũng đã tính toán đến các yếu

tố như nhà ở, tiền điện thoại… Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay những giải pháp đang được áp dụng chỉ mang tính chất tình thế chứ chưa đưa vào thực hiện một cách rộng rãi đối với tất cả các đối tượng Chẳng hạn, đối với những người có học vị giáo

sư, phó giáo sư, tiến sĩ được trả thêm trong thang bậc lương tương ứng với 2.0, 1.5, 1.0 tính theo lương cơ bản

Quy định mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời kỳ Vì

thực tế, chỉ số giá tiêu dùng luôn có xu hướng tăng lên, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người lao động, cũng đồng nghĩa với tiền công trên thực tế bị giảm xuống Tăng lương

cơ bản phù hợp với từng đối tượng là giải pháp để khắc phục những khó khăn về đời sống cho người dân Đến nay, trong lộ trình cải cách tiền lương, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh theo hướng tăng lương cơ bản đối với khối hành chính sự nghiệp từ 144.000 đồng/tháng năm 1997 lên 1.050.000 đồng/tháng 05/2011

và bắt đầu từ ngày 01/07/2013 mức lương tối thiểu sẽ tăng lên con số là 1.150.000 đồng/tháng, được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; đối với khối các doanh nghiệp bắt đầu áp dụng mức lượng mới từ ngày 01/10/2011 theo Nghị định 107 và 108/ 2010/NĐ-CP về quy định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam, làm việc cho doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam Theo đó, mức lương của khối này được chia thành 4 vùng I, II, III, IV

Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả sức lao động, coi hiệu quả kinh tế là tiêu chí cuối cùng

để phân phối cho tiêu dùng cá nhân Đấu tranh loại bỏ những tư

Trang 9

tưởng chây lười, ỷ lại, không tính toán đến hiệu quả sản xuất đảm bảo sự hợp lý trong thu nhập giữa các ngành, các khu vực… tránh tình trạng phân hóa và chênh lệch quá mức

Ba là, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư

Xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn đất nước, tình trạng phân hoá giàu nghèo hiện nay càng có

xu hướng giãn rộng ra Vì vậy, trong thời kỳ quá độ, một mặt phải thừa nhận mức chênh lệch trong thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là khách quan; mặt khác, Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập đó nhằm thu hẹp khoảng cách, duy trì sự ổn định của xã hội, tránh phân hoá thành hai cực đối lập thông qua các công cụ và chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô

Trước hết là điều tiết giảm thu nhập.

Đây là giải pháp được thực hiện thông qua hình thức thuế (gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản ) và sự đóng góp tự nguyện của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi, từ thiện…trong đó thuế thu nhập cá nhân là quan trọng nhất

Đi đôi với đó là điều tiết tăng thu nhập thông qua tăng các quỹ phúc lợi xã hội.

Tiếp tục xây dựng những chính sách, dự án nhằm giải quyết các vấn đề xã hội như: Xây dựng nhà tái định cư, nhà chung cư cho người có thu nhập thấp, có chương trình dạy nghề cho nông dân những vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chính sách đối với các gia đình có công với cách mạng, cho vay

ưu đãi lãi suất thấp…; kêu gọi các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đóng góp cho các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể nhằm giải quyết các vấn đề chung như di chứng chất độc màu da cam, trẻ em và người già có hoàn cảnh đặc biệt…

Trang 10

Bốn là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Đây là “nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài”(3) nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực bảo đảm giải quyết

hài hoà các nhóm lợi ích trong xã hội Do đó, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để răn đe người khác và ổn định xã hội Thực hiện tốt những định hướng và giải pháp đó sẽ là cơ sở để tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội

Chú thích:

(1), Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, trang 74

(2) Đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,

Trung tá, Phạm Xuân Hảo “Cơ chế thị trường sự phân hoá giàu nghèo và những vấn đề đặt ra”, Nxb QĐND H.1996

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, trang 143

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 “Giới thiệu tác phẩm của C Mác, Ph Ăngghen, V.I Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước”, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999

2 Đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Trung

tá, Phạm Xuân Hảo “Cơ chế thị trường sự phân hoá giàu nghèo và những vấn đề đặt ra”, Nxb QĐND H.1996.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011

Ngày đăng: 26/01/2018, 18:20

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w