1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài tập học kỳ môn Công pháp quốc tế

12 870 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 12
Dung lượng 202,48 KB
File đính kèm BTHK công pháp.zip (155 KB)

Nội dung

La một quốc gia ven biển có chỉ số tỉnh biển cao trong khu vực Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề biển đảo cũng như thực thi chủ quyền trên biển nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển va tạo điều kiện khai thác tối đa những tiềm năng biển, đảo mang lại.. Để hiểu rõ hơn vê vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên biển em xin trình bày những hiểu biết của mình để làm sáng tỏ đề tài : Bình luận những uy định của pháp luật thực tiễn ác lập, thực thi quyền chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam.

Trang 1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI

VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật;

VBADQPPL Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật;

UNCLOS United Nations Convention on the Law of the Sea - Công ước Liên

Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982);

CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa;

1

Trang 2

MỞ ĐẦU

Diện tích bề mặt trái đất 3/4 là biển Không chỉ chiếm vị trí lớn trong cấu tạo của Trái đất, biển còn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống của loài người và sự

phát triển của lịch sử Không thể nghi ngờ rằng chính biển là nguồn tài nguyên thiên

nhiên quan trọng bậc nhất của nhân loại Cũng như cũng không thể phủ nhận rằng biển giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các nước có biển nói riêng và thế giới nói chung

Là một quốc gia ven biển có chỉ số tính biển cao trong khu vực, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề biển đảo cũng như thực thi chủ quyền trên biển nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển và tạo điều kiện khai thác tối đã những tiềm năng biển, đảo mang lại Đặc biệt là sự

ra đời của Luật biển năm 2012, xác lập một cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc bảo vệ quyền chủ quyền và phát triển các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam Để hiểu rõ hơn về vấn đề quyền chủ quyền Việt Nam trên biển, em xin trình bày những hiểu

biết của mình để làm sáng tỏ đề tài “Bình luận những quy định của pháp luật và thực

tiễn xác lập, thực thi quyền chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam”.

NỘI DUNG

I MỘT SỐ KHÁI NIỆM.

Vùng (Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn

quyền tài phán quốc gia;

Quyền chủ quyền trên các vùng biển.

Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở chủ

quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió 1

II BÌNH LUẬN NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC VÙNG BIỂN THUỘC QUYỀN CHỦ QUYỀN QUỐC GIA.

1 “100 câu hỏi đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam”

2

Trang 3

2.1 Bình luận những quy định pháp luật về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế.

Công ước về luật biển 1982 là điều ước quốc tế tổng hợp (một bộ luật) mang tính dấu mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực pháp điển hóa vì sự phát triển tiến bộ của các quy phạm pháp luật quốc tế, quy định chế độ pháp lý của đại dương và điều chỉnh các dạng hoạt động cơ bản về sử dụng, nghiên cứu, khai thác và chinh phục đại dương phục

vụ cho các điều kiện phát triển kinh tế – xã hội hiện đại

Việc ghi nhận các Công ước liên quan đến cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia thể hiện những nỗ lực, đấu tranh và dung hòa

về quyền và lợi ích của cộng đồng quốc tế Mặc dù còn những quy định chưa được giải thích một cách cặn kẽ nhưng việc tuân thủ quy định liên quan đến các vùng biển này sẽ

là cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo cân bằng lợi ích cho các quốc gia có biển hay không có biển đồng thời thiết lập và duy trì trật tự pháp lí quốc tế chung, tránh những tranh chấp và xung đột có thể xảy ra giữa các quốc gia liên quan

Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền quốc gia đối với các vùng biển sau đây:

Vùng tiếp giáp lãnh hải

Về phương diện khoa học và pháp lý quốc tế, vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng nằm

ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền

có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.Đây là vùng biển mang tính chất đệm giữa vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển và vùng thuộc

quyền chủ quyền của quốc gia đó.Bề rộng vùng tiếp giáp được xác định“không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều của lãnh hải” 2

Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 303 Công ước 1982, đã mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ Mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển đều được coi là vi phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó

Hiện nay, hầu hết các quốc gia ven biển đều thừa nhận vùng biển tiếp giáp lãnh hải thuộc quyền chủ quyền quốc gia, tức là quốc gia ven biển chỉ có một số quyền lực tối cao nhất định chứ không phải là hoàn toàn Đây là xu thế chung của thế giới hiện nay, nhằm tạo điều kiện cho giao thông, vận tải biển phát triển thuận lợi và thông qua đó các quốc gia ven biển có thể thu một khoản lợi nhuận lớn từ việc xây dựng khu vực cung cấp hậu cần ở gần vùng biển tiếp giáp lãnh hải, nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp nhiên liệu và dịch vụ phụ trợ khác cho các phương tiện hoạt động trên biển dài ngày

3

Trang 4

Vùng đặc quyền kinh tế

Theo quy định của Công ước 1982, vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển

là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở

Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió;3

Chúng ta thấy rằng Công ước đã khẳng định một nguyên tắc pháp lý rất quan trọng

đã được các quốc gia ven biển liên tục đề xuất đó là quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với mọi tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình Đây là một thay đổi mới cực kỳ quan trọng trong Luật Biển quốc tế Có thể nói về nguyên tắc,

nó cho phép quốc gia ven biển có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt mọi tài nguyên sinh vật cũng như không sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế; mọi hoạt động thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy đều thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển Các quốc gia khác muốn tiến hành các hoạt động như vậy đều phải được sự chấp thuận hoặc cho phép của quốc gia ven biển

Đặc biệt công ước 1982 đã dành cho các quốc gia có biển hay không có biển hoặc bất lợi về địa lý được quyền tham gia vào việc khai thác số cá dư thừa trong các vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển cùng phân khu vực hoặc khu vực Tuy nhiên quyền này chỉ có thể được thực hiện khi quốc gia ven biển không có khả năng khái thác sản lượng cá và cho phép quốc gia khác được đánh bắt số cá dư thừa theo những điều kiện được các bên hữu quan thực hiện

Như vậy, trong vùng đặc quyền kinh tế cũng tồn tại quyền khai thác tài nguyên sinh vật của các quốc gia khác (là một quyền trong nguyên tắc tự do biển cả), nhưng quyền này chỉ mang tính chất hạn chế vì nó phụ thuộc vào việc nước ven biển có công bố tồn tại một lượng dư tài nguyên sinh vật hay không và không phụ thuộc vào việc giữa nước ven biển với nước hữu quan có sự thỏa thuận về chia sẻ nguồn tài nguyên hay không

Có thể nói rằng đây là một thay đổi lớn so với Công ước trước đây, khi mà tài nguyên trong những vùng như vậy do tất cả các quốc gia khai thác theo nguyên tắc quyền

tự do biển cả, chủ quyền của một quốc gia nào cũng không được mở rộng ra đối với tài nguyên cũng như đối với biển cả

Vùng thềm lục địa

4

Trang 5

Công ước 1982 quy định thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn.4

Theo quy định của Công ước 1982, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình và quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là đặc quyền, có nghĩa là quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được

sự đồng ý của quốc gia ven biển Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào việc chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên

bố rõ ràng nào (Điều 77) Điểm này hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế ở chỗ đối với vùng đặc quyền kinh tế ngoài việc quốc gia ven biển phải tuyên bố về yêu sách của mình, trong trường hợp không khai thác hết nguồn tài nguyên sinh vật với mức độ có thể chấp nhận được, quốc gia ven biển có thể cho các quốc gia khác như quốc gia không có biển, quốc gia bất lợi về mặt địa lý tiến hành khai thác phần tài nguyên sinh vật dư thừa trong vùng đặc quyền kinh tế của mình

Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với thềm lục địa là rất lớn nên nguyên tắc tự do biển cả chỉ có một phần ảnh hưởng, thể hiện ở việc quốc gia khác trên thềm lục địa có các quyền tự do về hàng hải, tự do bay, tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm song phải có sự thông báo trước với quốc gia ven biển

Chúng ta có thể thấy rằng mặc dù thềm lục địa không được coi như bộ phận của lãnh thổ quốc gia (vì nó không thộc chủ quyền của quốc gia trên biển) nhưng Luật Biển quốc tế đã quy định rất rõ ràng về phạm vi và quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thềm lục địa Đây là quyền rất riêng biệt của quốc gia ven biển

Nhìn chung, Công ước 1982 đã xây dựng một khung pháp lý tương đối công bằng

cho các hoạt động trên biển Đánh giá tổng quát, quá trình phát triển của Luật Biển quốc

tế, trong đó Công ước 1982 đã mang lại nhiều điểm lợi thế cho các quốc gia đang phát triển, các quốc gia ven biển đặc biệt là đối với các quốc gia trong khu vực Biển Đông, trong đó có Việt Nam Các quy định của Công ước 1982 không chỉ dừng lại trong khuôn Công ước 1982, mà được phát triển và hoàn thiện liên tục thông qua các điều ước quốc tế

cụ thể về các hoạt động thực tiễn của các quốc gia có biển hay không có biển

2 Bình luận những quy định pháp luật về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia trong pháp luật quốc gia.

Tham gia Công ước Luật biển 1982, Việt Nam, quốc gia ven biển, được thừa nhận

có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa

5

Trang 6

rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần một triệu km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền

Với tư cách là một chủ thể của Luật Quốc tế, Việt Nam đã có những quy định cụ thể cũng như những VBPL điều chỉnh phù hợp với các quy định của Luật Quốc tế, trong

đó có các quy định về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam

Về cơ bản, Luật Biển Việt Nam tôn trọng và tuân theo các quy định của Công ước, các nhà soạn thảo đã dựa vào Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982 để chi tiết hóa thành các điều khoản; hay nói cách khác là nội luật hóa các quy định của quốc tế để trở thành văn bản pháp luật có thể dễ hiểu, dễ áp dụng hơn trên thực tế và có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tế của quốc gia mình Nếu như quy chế pháp lí quy định trong Luật biển 1982 có sự bao quát để phù hợp với tất cả các chủ thể của luật quốc tế thì khi các quy định này được áp dụng vào trong Luật biển Việt Nam đã có những quy định cụ thể, chi tiết hóa, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam

II THỰC TIỄN XÁC LẬP, THỰC THI QUYỀN CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG BIỂN CỦA VIỆT NAM.

1 Những thành tựu đạt được

1.1 Hệ thống pháp luật về quyền chủ quyền quốc gia trên biển.

Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển đối với chủ quyền, an ninh quốc gia và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, những năm qua, Nhà nước ta đã

có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống pháp luật về biển, đảo

So với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam là quốc gia ven biển sớm có chính sách, pháp luật về chủ quyền và an ninh trên biển Ngay cả trước khi các bản Hiến pháp

1980, 1992 ra đời thì việc khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền đối với vùng biển

của mình của Việt Nam đã có ở hai văn bản quan trọng, đó là: Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 12/5/1977 và Tuyên

bố về đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982 Việt Nam có hơn

500 VBQPPL ở Trung ương và gần 400 VBQPPL ở địa phương quy định các vấn đề liên quan đến biển đảo5 đáng phải kể đến trong số đó là Luật Biên giới quốc gia năm 2003 và Luật Biển Việt Nam mới nhất năm 2012 Các VBPL này đã tạo thành một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động trên các vùng biển bao gồm trong đó

có các vùng mà Việt Nam có quyền chủ quyền

Bên cạnh đó, ngoài việc sớm gia nhập UNCLOS, Việt Nam đã tham gia ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương về biển, đảo Tham gia ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC)

6

Trang 7

Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong khu vực vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển bằng các biện pháp hòa bình của Công ước Luật biển

1982 VN đã giải quyết dứt điểm phân định biển với Thái Lan năm 1997, với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ năm 2000, ký Thỏa thuận phân định thềm lục địa với Indonesia năm 2003, cùng Malaysia nộp hồ sơ chung về ranh giới ngoài thềm lục địa trong phần phía Nam của Biển Đông lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của LHQ năm 2009

Việt Nam cũng có hai thỏa thuận khai thác biển chung với Campuchia tại vùng nước lịch sử chung năm 1982, với Malaysia tại thềm lục địa chồng lấn trong Vịnh Thái Lan năm 1992 và vùng đánh cá chung với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ năm 2004 Nhìn chung nội dung các VBPL của Việt Nam về biển và quản lý biển phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của Luật pháp quốc tế về biển

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nỗ lực tiến hành xác định chân dốc lục địa để

mở rộng thêm lục địa so với hiện nay phù hợp với các quy định của Công ước nhằm đảm bảo những quyền lợi chính đáng cho quốc gia; giải quyết vấn đề chồng lấn thềm lục địa với một số quốc gia láng giềng bằng việc thỏa thuận hoạch định qua các hiệp định cụ thể, đảm bảo cân bằng lợi ích và ổn định trong khu vực6

Cách xác định cũng như quy chế pháp lý các vùng biển Việt Nam có quyền chủ quyền được quy định rõ ràng trong các VBPL cho thấy sự kế thừa hợp lý các quy định của pháp luật quốc tế

1.2 Các hoạt động thực thi quyền chủ quyền quốc gia trên biển của Việt Nam.

Bên cạnh việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý là phương tiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước đối với các vùng biển, cũng như tiến hành các hoạt động pháp lý quốc tế để được công nhận quyền chủ quyền của mình, Nhà nước Việt Nam cũng đã thành lập các thiết chế để bảo vệ và thực thi quyền chủ quyền của mình một cách hợp pháp

Cụ thể, Nhà nước ta đã tập trung nỗ lực xây dựng hệ thống quốc phòng- an ninh với lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo, Hải quân nhân dân Việt Nam, Bộ đội Biên phòng, dân quân tự vệ biển Đặc biệt là lực lượng Kiểm ngư7 và Cảnh sát biển8 được thành lập năm 2013;

Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống

6 Phụ lục2

7 Phụ lục 3

8 Phụ lục 4

7

Trang 8

nhân dân Nhà nước cũng đã đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đảo, nhất là các ngành kinh

tế mũi nhọn

2 Những tồn tại hạn chế và khó khăn thách thức.

Thứ nhất, nước ta chưa thực thi triệt để quyền chủ quyền đã được xác lập của

mình trên các vùng biển Do đặc thù là có vùng biển rộng nhưng tiềm lực về kinh tế lại chưa tiêm xứng với tiềm năng, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng như các hoạt động kinh tế khác còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn Đầu tư phát triển kinh tế biển còn chưa đúng mức và chưa hiệu quả;

Việc tổ chức đánh bắt xa bờ còn tồn tại nhiều vấn đề Các phương tiện đánh bắt cá đặc biệt là đánh bắt xa bờ còn khá lạc hậu Khả năng dự đoán tình hình thời tiết còn thiếu tính chính xác và kịp thời, hơn nữa khả năng truyền thông, truyền tin liên lạc còn khá hạn chế, bên cạnh đó công tác phòng vệ bảo đảm an toàn tính mạng của ngư dân đánh bắt xa

bờ còn chưa hoàn thiện;

Một số lĩnh vực quản lý nhà nước trên biển chưa được triển khai đồng bộ hoặc bị xem nhẹ, dẫn đến thiếu chặt chẽ, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn đường biển, nhất là lĩnh vực giao thông vận tải biển, cấp phép lưu hành phương tiện trên biển…;

Bên cạnh đó, việc quản lý lỏng lẻo khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển dẫn đến thực trạng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững;

An ninh- quốc phòng trên biển còn yếu, thiếu về lực lượng cũng như trang thiết bị

Thứ hai, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển

Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo

và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ do đang tồn tại những nhận thức khác nhau về chủ quyền; có những yêu sách chủ quyền trái với thông lệ và luật pháp quốc tế;

áp đặt tư duy chủ quan, nước lớn trong các hoạt động ở Biển Đông như đẩy mạnh việc xây đắp phi pháp các đảo nhân tạo, cải tạo các đảo đã chiếm đóng trái phép, nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng trên Biển Đông; tăng cường các hoạt động chống phá,

mở rộng vùng hoạt động kinh tế;… Những hoạt động này đe dọa và ảnh hưởng không chỉ đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam mà cả an ninh, an toàn của nhiều nước trong khu vực

Những tranh chấp về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền do chồng lấn chưa được giải quyết triệt để, còn nhiều vấn đề chưa đạt được sự thống nhất với các nước có liên quan

3 Đề xuất một số phương hướng thực hiện.

8

Trang 9

Thứ nhất, hoàn thiện quy chế pháp lý đối với các vùng biển một cách thống nhất

trên cơ sở các chế đô pháp lý theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 và phù hợp với hoàn cảnh hiện nay cũng như lâu dài của nước ta Việc xây dựng hệ thống các quy chế hoàn chỉnh cần được tiến hành đồng bộ, cân nhắc các yếu tố sao cho phù hợp với pháp luật quốc tế và thực tiễn quốc gia

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quyền chủ quyền của Việt Nam trên biển có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp tuyên truyền nhằm làm cho người dân Việt Nam (nhất là nhân dân các vùng ven biển, hải đảo) cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực thuộc quyền chủ quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển 1982

Thứ hai, là các chiến lược về an ninh quốc phòng Trong đó, khai thác biển đòi hỏi

phải mở rộng khu vực và nội dung kiểm tra kiểm soát đảm bảo thi hành pháp luật trên

biển Có sự đầu tư hợp lý về cả lực lượng cũng như trang thiết bị cho an ninh biển; xây

dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ, thực thi

quyền chủ quyền quốc gia trên biển;

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển bền vững và có hiệu quả, kết hợp phát

triển kinh tế với làm chủ biển, đảo Chú trọng đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn

Cuối cùng là tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên

giới; phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với các vấn đề an ninh biển Chúng ta phải tích cực đối thoại với các bên liên quan, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị để tìm kiếm các giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm ứng phó với thách thức một cách chủ động

KẾT LUẬN

Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

9

Trang 10

PHỤ LỤC

1 Sơ đồ các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982

2 Ngày 7/5/2009, Chính phủ Việt Nam đã trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc Báo cáo quốc gia xác định Ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi

200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam Trước đó, ngày 6/5/2009, Việt Nam và Ma-lai-xi-a cũng đã phối hợp trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc Báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước Việc trình các báo cáo này là việc làm bình thường của quốc gia thành viên nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 Trong khi đó, phái đoàn Trung Quốc tại Liên LHQ đã gửi Tổng Thư ký LHQ công hàm phản đối việc Việt Nam nộp Báo cáo về Ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam

3 Kiểm ngư Việt Nam là lực lượng chuyên trách thuộc Tổng cục Thủy sản, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, được thành lập ngày 25 tháng

01 năm 2013 theo Nghị định số 102/2012/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 29/11/2012 Lực lượng này thực hiện chức năng tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và thanh tra chuyên ngành thủy sản trên các vùng biển Việt Nam.[3],[4] Bên cạnh đó, Kiểm ngư sẽ bảo vệ ngư dân và chủ quyền quốc gia trên biển

10

Ngày đăng: 20/01/2018, 03:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. “Luật biển quốc tế hiện đại”- TS Lê Mai Anh- NXB Lao động- xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Luật biển quốc tế hiện đại”-
Nhà XB: NXB Lao động- xã hội
6. “Tổng quan về chính sách, pháp luật biển Việt Nam”- PGS.TS Nguyễn Bá Diễn- Tạp chí Luật học- Đặc san Luật biển 8/2012- Trường ĐH Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Tổng quan về chính sách, pháp luật biển Việt Nam”
1. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 Khác
3. Luật Biên giới quốc gia năm 2003 Khác
7. “Bình luận về sự tương thích giữa Luật biển Việt Nam 2012 và Công ước Luật biển 1982 liên quan đến cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển thuộc Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w