MỤC LỤC Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI 1.1 Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền lợi người lao động khi cổ
Trang 14 VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN THỊ LAM HỒNG
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƯƠNG ĐỨC CHÍNH
HÀ NỘI, 2017
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố trong công trình nào khác Những con số, ý kiến khoa học trong luận văn được tham khảo và sử dụng đúng quy định
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả
Phan Thị Lam Hồng
Trang 3MỤC LỤC
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
1.1 Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
9
1.2 Khái niệm, nguyên tắc, nội dung bảo đảm quyền và vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
13
1.3 Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI
2.1 Quyền lợi chung của những người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa
27
2.2 Quyền lợi của người lao động tiếp tục làm việc tại Công ty cổ phần 33
2.3 Quyền lợi của người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu 35 2.4 Quyền lợi của người lao động sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động 37 2.5 Quyền lợi của người lao không bố trí được việc làm khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
38
Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Trang 4cổ phần
6 Nghị định 28/CP
ngày 07/5/1996
Nghị định số 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty
8 Nghị định
41/2002/NĐ-CP
ngày 11/4/2002
Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
9 Nghị định
64/2002/NĐ-CP
ngày 19/6/2002
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần
10 Nghị định
187/2004/NĐ-CP
ngày 16/11/2004
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần
11 Nghị định
109/2007/NĐ-CP
Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà
Trang 5ngày 26/6/2007 nước thành Công ty cổ phần
12 Nghị định
110/2007/NĐ-CP
ngày 26/6/2007
Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi
dư do sắp xếp lại công ty Nhà nước
13 Nghị định
91/2010/NĐ-CP
ngày 20/8/2010
Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 của Chính phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi
dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
14 Nghị định
59/2011/NĐ-CP
ngày 18/7/2011
Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần
15 Nghị định
60/2013/NĐ-CP
ngày 19/6/2013
Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc
16 Nghị định
63/2015/NĐ-CP
ngày 22/7/2015
Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 của Chính phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi
dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Cổ phần hóa (CPH) Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một trong những chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyển đổi các DNNN thành Công
ty cổ phần (CTCP) - loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, dễ dàng huy động
vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp, nhà đầu tư và người lao động (NLĐ) trong doanh nghiệp
CPH DNNN gắn liền với thay đổi cơ cấu công nghệ và đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp sẽ có những tác động to lớn, trực tiếp, cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực đến cuộc sống của NLĐ trong doanh nghiệp CPH Do vậy, việc đảm bảo quyền lợi cho những NLĐ trong doanh nghiệp CPH là rất cần thiết Thêm vào đó, việc đảm bảo quyền lợi cho NLĐ sẽ tạo động lực để họ phát huy vai trò làm chủ thực
sự của mình, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác CPH các DNNN Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH các DNNN, trong quá trình triển khai chủ trương CPH các DNNN của Việt Nam từ những năm 1990 đến nay, chúng ta cũng đã xây dựng được hệ thống các quy định pháp luật làm khung pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến CPH các DNNN nói chung và vấn đề đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN nói riêng
Tại Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chính sách đối với NLĐ theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần (đang có hiệu lực áp dụng) –
sau đây gọi tắt là Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 đã quy định tương đối đầy đủ những
quyền lợi cơ bản của NLĐ được áp dụng cho từng nhóm đối tượng trong DNNN CPH: quyền được mua cổ phần với giá ưu đãi, được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi… được áp dụng chung đối với những NLĐ có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh
Trang 7nghiệp CPH; quyền được hưởng chế độ hưu trí đối với những NLĐ đủ điều kiện nghỉ hưu; quyền được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc đối với những NLĐ sẽ chấm dứt hợp đồng lao động; quyền được hưởng chế độ của NLĐ dôi dư đối với những NLĐ không bố trí được việc làm và đủ điều kiện; quyền được hưởng chế độ trợ cấp mất việc đối với những NLĐ không đủ điều kiện hưởng chế độ đối với lao động dôi dư… Những quy định này là những hành lang pháp lý cơ bản, quan trọng bảo đảm cho quyền lợi của NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ nâng cao vị thế của mình trong DNNN CPH cũng như góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình CPH DNNN đến cuộc sống của NLĐ
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi cho NLĐ tại các DNNN CPH, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau… mà quyền lợi của NLĐ chưa được bảo đảm một cách tốt nhất Có nhiều NLĐ không có đủ tiền để mua cổ phần ưu đãi dành cho họ
do giá cổ phần ưu đãi vẫn còn cao so với thu nhập của họ; có trường hợp NLĐ mua được cổ phần ưu đãi nhưng chỉ với số lượng rất ít ỏi; có trường hợp NLĐ không được chia số dư từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp để mua cổ phần ưu đãi; có nhiều trường hợp NLĐ vẫn bị nợ lương, không được trả sổ bảo hiểm xã hội… Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập cho thấy việc nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với bản thân NLĐ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công tác CPH đang còn tồn tại nhiều vấn đề ở Việt Nam hiện nay
Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền lợi của người lao động
theo pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sỹ của mình
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Nhà nước ta được triển khai thử nghiệm
từ những năm 1990 – 1991, chính thức thực hiện từ năm 1992, được đẩy mạnh từ năm
1996 và quá trình CPH các DNNN diễn ra đến nay đã được hơn 20 năm Trong quá trình chúng ta tiến hành CPH các DNNN, có khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề CPH DNNN nói chung Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
Trang 8một cách quy mô, kỹ lưỡng liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN không nhiều và chủ yếu được tiến hành trong giai đoạn đẩy mạnh CPH DNNN ở nước ta, có thể kể đến một số công trình sau đây:
- “Chế độ, quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa DNNN” – Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường - Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2007;
- Nguyễn Thị Minh Trang - “Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong
quá trình cổ phần hóa DNNN với thực tiễn tại Hà Nội” – Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Xuân Vinh – “Bảo vệ quyền lợi người lao động trong và sau quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước: Pháp luật và thực tiễn” – Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Thanh Hải “Bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” – Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2012
Có thể thấy, trong 4 công trình khoa học nêu trên chỉ có 03 công trình Luận văn Thạc sỹ nghiên cứu liên quan đến vấn đề quyền lợi của NLĐ trong DNNN cổ phần hóa và có 01 là đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này Ngoài các công trình nêu trên, theo tác giả tìm hiểu thì còn có một số Khóa luận tốt nghiệp cử nhân nghiên cứu
về vấn đề này, tuy nhiên ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ Luật học, tác giả xin phép không trích dẫn những Khóa luận tốt nghiệp này.[37]
Đối với đề tài khoa học của Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, các tác giả đã đưa ra một cách hệ thống, kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong và sau CPH các DNNN theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, đề tài khoa học được thực hiện từ năm 2007, các quy định pháp luật được phân tích theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP (Nghị định
109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007) – đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 05/9/2011 trong khi chính
sách, pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN nói riêng đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh Trang [39], tác giả Luận văn
đã đưa ra được những nội dung cơ bản của vấn đề CPH các DNNN như: khái niệm
Trang 9CPH, tính tất yếu khách quan của CPH DNNN, mục tiêu và các hình thức CPH, những tác động của CPH DNNN đến quyền lợi của NLĐ Tuy nhiên, tác giả tập trung
dung lượng lớn (9 trang/17 trang của Chương 1) để phân tích về khái niệm CPH và
các hình thức CPH DNNN, 8 trang còn lại tác giả mới đưa ra vấn đề sự tác động của CPH DNNN đến quyền lợi của NLĐ nhưng tác giả lại không phân tích quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN từ khi triển khai CPH đến nay làm cơ sở để phân tích, so sánh với
các quy định pháp luật hiện hành (tại thời điểm tác giả triển khai Luận văn thì Nghị
định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 đang có hiệu lực) Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh
Trang cũng đã đưa ra những quy định pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 nhưng không có những so sánh, đối chiếu, đánh giá với các quy định pháp luật trong giai đoạn trước Thêm vào đó, tác giả tập trung vào việc phân tích những chính sách, mục tiêu và thực trạng quá trình CPH các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội và đánh giá một cách sơ lược tập trung vào việc giải quyết chế độ cho NLĐ dôi dư chứ không phân chia cụ thể theo các nhóm đối tượng Từ đó, phần kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ chưa được toàn diện cho các nhóm đối tượng theo các quyền lợi cụ thể của họ đã được pháp luật quy định mà chỉ tập trung theo các vấn đề đã được tác giả nghiên cứu trên phạm vi thành phố Hà Nội Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Xuân Vinh [45], tác giả có đưa ra được những vấn đề cơ bản liên quan đến CPH DNNN nhưng chưa phân tích chỉ rõ tác động của CPH DNNN đến quyền lợi NLĐ Vấn đề này chỉ được tác giả chỉ ra trong
hơn 01 trang (trang 17-18) của Luận văn chưa cho người đọc thấy được vai trò và
sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN Luận văn cũng có đưa ra vấn đề kinh nghiệm CPH DNNN ở một số nước trên thế giới nhưng chủ yếu tập trung vào vấn đề CPH nói chung mà chưa chỉ ra được kinh nghiệm áp dụng đối với Việt Nam trong việc bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN Thêm vào đó, Luận văn nghiên cứu dàn trải cả vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN và sau quá trình CPH DNNN nên chưa phân tích kỹ lưỡng được những thực trạng thực hiện pháp luật và hướng hoàn thiện cụ thể liên quan đến bảo vệ quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN
Trang 10Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thanh Hải [24], tại công trình của mình, tác giả đã trình bày được vấn đề sự cần thiết phải bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN một cách tương đối toàn diện, đầy đủ Tuy nhiên, công trình này chưa đi vào nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về vấn đề này Thêm vào đó, mặc dù tác giả có nghiên cứu vấn
đề quyền lợi của NLĐ trong DNNN CPH theo quy định của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước
thành CTCP (Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011), tuy nhiên trong vấn đề
quyền lợi của NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu thì tác giả trình bày nội dung theo quy định tại Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 quy định chính sách đối với NLĐ dôi
dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu (Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010) – đến thời điểm hiện tại đã
được thay thế bằng Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 quy định chính sách đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu (Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015) cho nên các
kiến nghị của tác giả liên quan đến việc giải quyết quyền lợi cho NLĐ dôi dư tại DNNN CPH cũng không còn phù hợp bởi các quy định đã được sửa đổi tại Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 nêu trên
Tóm lại, các công trình nêu trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau về đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo các quy định của pháp luật trong giai đoạn trước khi Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 được ban hành Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN theo quy định pháp luật hiện hành với cấp độ của một Luận văn Thạc sỹ luật học Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành về vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN, những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện trong thời gian tới là rất cần thiết Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu thực hiện Luận văn của mình
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích sau: Nghiên cứu hệ thống các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện
Trang 11pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như có biện pháp để bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi cho NLĐ trong DNNN tiến hành CPH Để thực hiện mục đích này, Luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích những vấn đề cơ bản về CPH DNNN và sự cần thiết của việc đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN
- Phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN trong các giai đoạn khác nhau, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN
- Trên cơ sở các nhận xét, đánh giá những vấn đề có liên quan và thực tiễn bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN, Luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN là một vấn đề lớn
Vì vậy, trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sỹ không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
Đối tƣợng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật từ những năm 1990 tới
nay, tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN
Trang 12- Về không gian: Nghiên cứu trên bình diện chung của cả nước, tập trung hơn vào một số doanh nghiệp thuộc Bộ xây dựng tiến hành CPH trong thời gian vừa qua theo tìm hiểu và số liệu thu thập được của tác giả
- Về thời gian: Các quy định của pháp luật từ những năm 1990 tới nay, tập trung vào
các quy định pháp luật hiện hành theo Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 (có hiệu
lực từ 05/9/2011 tới nay) về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, những quan điểm chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản cũng như các quy định pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích,
so sánh, đối chiếu, hệ thống, tổng hợp, suy luận, diễn giải, quy nạp… để làm rõ các quy định pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN qua các giai đoạn khác nhau cũng như đưa ra những đánh giá của tác giả trên cơ sở thông tin, dữ liệu thu thập được về vấn đề nghiên cứu của Luận văn
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn đã phân tích, so sánh một cách có
hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN qua các giai đoạn khác nhau khi tiến hành chủ trương CPH các DNNN ở nước ta
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về CPH nói chung và bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN nói riêng
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cũng là tài liệu thực tiễn có thể dùng để giảng dạy, tham khảo cho các chủ thể quan tâm tới vấn đề này
Ý nghĩa thực tiễn của Luận văn: Thông qua việc phân tích các vấn đề lý
luận và các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền - lợi ích hợp pháp của NLĐ khi CPH DNNN, Luận văn đã
Trang 13chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật đối với NLĐ và đưa ra một số các giải pháp cần thực hiện để góp phần hoàn thiện quy định về CPH DNNN nhằm bảo đảm quyền lợi của NLĐ Việc hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về CPH DNNN nói chung và về quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN nói riêng sẽ góp phần thúc đẩy chủ trương CPH được tiến hành mạnh mẽ, hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
7 Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo
ba chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trang 14Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1 Sự cần thiết của việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
DNNN là một mô hình doanh nghiệp không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà thực chất là một mô hình đã ra đời và tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới Đối với Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, DNNN đã được thành lập và phát triển với số lượng, quy mô lớn DNNN chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt
và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vai trò là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế đất nước Tuy nhiên, việc thành lập một cách tràn lan, thiếu cơ sở khoa học cũng như thiếu cơ chế và kinh nghiệm để điều hành DNNN hoạt động hiệu quả khiến cho nền kinh tế đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng DNNN tỏ ra hoạt động kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, chưa tương xứng với tiềm lực Nhà nước đầu tư cho DNNN [36, tr 127-136] Thực trạng này dẫn tới yêu cầu tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới hoạt động của DNNN Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội thì vấn đề này trở nên vô cùng bức thiết Từ quan điểm đó, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện sắp xếp và đổi mới DNNN Hàng loạt giải pháp quan trọng được tiến hành như chuyển một số DNNN thành CTCP, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN, và CPH DNNN là giải pháp được lựa chọn phổ biến.[21]
Có thể thấy, CPH DNNN là việc chuyển mình mạnh mẽ của DNNN từ hoạt động có sự bảo đảm của Nhà nước sang hoạt động một cách độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình Tuy nhiên, khi tiến hành CPH DNNN thì NLĐ
là đối tượng phải chịu những tác động to lớn và trực tiếp từ quá trình này Việc bảo
vệ quyền lợi của NLĐ là vấn đề rất cần thiết, cần được chú trọng, quan tâm bởi lẽ:
1.1.1 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến vấn đề việc làm của người lao động
Trang 15Việc làm là vấn đề được quan tâm đầu tiên và là mối quan tâm lớn nhất đối với NLĐ trong cuộc đời của họ CPH DNNN tác động trực tiếp đến vấn đề việc làm của NLĐ, bởi lẽ khi CPH DNNN, mục tiêu đề ra là thay đổi, tổ chức lại cơ cấu quản
lý doanh nghiệp, sắp xếp lại quy trình sản xuất kinh doanh cho hợp lý và hiệu quả hơn Điều này kéo theo sự thay đổi trong việc bố trí, sử dụng lao động Thêm vào
đó, sau khi CPH thì công nghệ và quy trình sản xuất, cơ chế quản lý lao động cũng
có thể thay đổi theo hướng giảm nhu cầu sử dụng lao động Tính chất của công nghệ hiện đại, tiên tiến được áp dụng trong quá trình sản xuất có thể khiến cho NLĐ trong DNNN chưa được đào tạo hoặc đào tạo không phù hợp với yêu cầu mới sẽ bị thay thế
Ngoài ra, không chỉ tại thời điểm CPH mà ngay cả khi CTCP đã đi vào hoạt động, NLĐ vẫn có thể đứng trước nguy cơ bị mất việc làm Sau CPH, doanh nghiệp huy động được một lượng vốn lớn để đầu tư công nghệ hiện đại, cơ cấu lại sản xuất nên những NLĐ được giữ lại làm việc theo phương án sử dụng lao động lại tiếp tục
bị mất việc làm Một số Công ty có thể đưa ra lý do thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc hay giải thể xưởng sản xuất để chấm dứt hợp đồng lao động đối với NLĐ chỉ một thời gian ngắn sau khi CPH
Có thể thấy, NLĐ làm việc tại DNNN có tên trong danh sách lao động dôi dư sẽ phải đi tìm việc làm mới nhưng trong tình trạng thiếu việc làm ở nước ta vẫn chưa được giải quyết thì điều này là tương đối khó khăn với họ Hơn thế nữa, nhiều NLĐ dôi dư là những NLĐ lớn tuổi, làm việc lâu năm trong DNNN thì tìm một công việc mới đối với họ là rất khó Những NLĐ có thể bị thất nghiệp và gia tăng sức ép lên thị trường lao động vốn đã căng thẳng do mất cân đối giữa cung và cầu như hiện nay Như vậy, khi CPH DNNN, NLĐ trong các doanh nghiệp CPH đứng trước nguy cơ mất việc làm Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp trên thực tiễn, khi giải quyết quyền lợi về việc làm cho NLĐ tại các doanh nghiệp CPH thì các doanh nghiệp thực hiện chưa đúng quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ
1.1.2 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến thu nhập của người lao động
Trang 16Về mặt tích cực thì CPH DNNN về cơ bản sẽ mang lại thu nhập cao hơn cho NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP do hiệu quả kinh doanh được nâng cao Tuy nhiên, điều này chỉ có ý nghĩa đối với NLĐ được chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp sau CPH Đối với những NLĐ không được tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp sau CPH thì thu nhập của họ có thể bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực
Như đã phân tích ở trên, đối với những NLĐ dôi dư thì kéo theo mất việc làm, thu nhập NLĐ đương nhiên cũng bị ảnh hưởng Nếu như trước đây tiền lương hàng tháng của NLĐ là nguồn thu nhập chính để nuôi sống cả gia đình thì khi bị mất việc làm, NLĐ sẽ tạm thời bị mất đi nguồn thu nhập này, đời sống của họ và những người thân cũng bị ảnh hưởng Họ có thể không có việc làm trong một khoảng thời gian 1 - 2 tháng nhưng cũng có thể không thể tìm được việc làm mới Điều đó đồng nghĩa với việc NLĐ và gia đình của họ mất đi một khoản thu nhập quan trọng để phục vụ những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống Mặc dù lao động dôi dư được hưởng một khoản trợ cấp nhưng nó chỉ mang tính chất tạm thời Thêm vào đó, quá trình giải quyết quyền lợi cho lao động dôi dư, nhiều doanh nghiệp cũng chưa đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo quy định pháp luật Nhiều sai phạm trong việc xác định thời điểm cho NLĐ nghỉ việc, tính toán sai thời gian thực tế làm việc tại doanh nghiệp đã khiến cho họ bị thiệt thòi khi tính trợ cấp thôi việc…
Ngoài ra, một vấn đề được NLĐ rất quan tâm đó là việc phân phối lợi ích từ quỹ lương, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi khi doanh nghiệp CPH Đây là nguồn tài chính
hỗ trợ cho NLĐ để mua cổ phần ưu đãi Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của NLĐ đã không đảm bảo quyền lợi này cho NLĐ, dẫn đến quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm phạm Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập trực tiếp họ nhận được để mua cổ phần ưu đãi tại thời điểm phân phối lợi ích
mà còn ảnh hưởng đến số lượng cổ phần NLĐ có thể mua tại DNNN CPH và ảnh hưởng tới mức cổ tức họ nhận được sau này khi doanh nghiệp phát triển hơn
Từ những phân tích trên có thể thấy, CPH DNNN có tác động rất lớn đến cả vấn đề thu nhập của NLĐ
1.1.3 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến vấn đề sở hữu cổ phần của người lao động
Trang 17Một trong những mục tiêu CPH DNNN đó là tạo điều kiện cho đông đảo NLĐ
có thể sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp CPH, trở thành những cổ đông, những người chủ thực sự của doanh nghiệp, tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý doanh nghiệp Pháp luật cũng có những quy định cụ thể để tạo điều kiện cho NLĐ trong việc sở hữu cổ phần của doanh nghiệp CPH Tuy nhiên, trên thực tế dù đã có
sự ưu đãi về giá cho NLĐ khi mua cổ phần nhưng mức giá ấy dường như vẫn còn chưa phù hợp với điều kiện của họ NLĐ thường có đối tượng có những khó khăn
về kinh tế nên họ không đủ điều kiện để mua cổ phần ưu đãi của doanh nghiệp Trong trường hợp mua được số cổ phần ưu đãi của doanh nghiệp đi chăng nữa thì sau đó cũng có thể họ sẽ bán lại số cổ phần này để hưởng mức chệnh lệch về giá
Từ đó quyền sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp của họ không được đảm bảo Ngoài ra, khi CPH thì việc thực hiện phân phối lợi ích từ Quỹ lương, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi trong doanh nghiệp để tạo điều kiện cho NLĐ được sở hữu thêm cổ phần trong nhiều trường hợp cũng không được các doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp luật khiến cho quyền - lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng bị ảnh hưởng Việc không được sở hữu cổ phần của doanh nghiệp CPH khiến quyền lợi của NLĐ bị ảnh hưởng ở nhiều khía cạnh khác nhau NLĐ đánh mất đi cả quyền
lợi về kinh tế (không được hưởng cổ tức, không được hưởng lợi khi giá cổ phiếu
trên thị trường tăng, không được quyền mua cổ phần tăng vốn khi CTCP tăng vốn điều lệ…) lẫn quyền lợi về quản lý doanh nghiệp khi không được tham gia Đại hội
cổ đông để bàn bạc, biểu quyết quyết định những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp
Tóm lại, NLĐ làm việc tại các DNNN là những người có sự gắn bó lâu dài, đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển của nền kinh tế nói chung Quá trình CPH DNNN sẽ có những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến đời sống của NLĐ Do đó, công tác bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi cổ phần hóa DNNN không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội Việc không bảo đảm được quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN có thể dẫn đến những phản ứng tiêu cực từ phía họ, gây ảnh hưởng tới sự thành công của chủ trương CPH DNNN cũng như những tác động không tốt tới xã hội
Trang 18Từ những lý do trên, có thể khẳng định rằng việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN là hết sức cần thiết Pháp luật về bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN sẽ tạo ra một cơ chế để bảo vệ NLĐ đồng thời cũng tạo ra một công cụ giúp cho NLĐ có thể tự bảo vệ mình Việc bảo đảm được những quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân họ mà còn quyết định sự thành công của chương trình CPH, góp phần ổn định xã hội và tăng cường sự phát triển của nền kinh tế đất nước
1.2 Khái niệm, nguyên tắc, nội dung bảo đảm quyền và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
- Khái niệm quyền lợi và bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
+ Quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là những lợi ích của người lao động làm việc trong DNNN được hưởng khi DNNN tiến hành cổ phần hóa, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ
Khi xem xét dưới khía cạnh pháp lý, quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa DNNN là các quy tắc xử xự chung áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan trong quá trình giải quyết quyền lợi cho người lao động trong DNNN tiến hành CPH để bảo đảm việc thực hiện thành công chủ trương cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay và bảo đảm tốt nhất quyền lợi của những người lao động tại doanh nghiệp
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là việc tạo ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để người lao động được hưởng các quyền lợi của họ khi CPH DNNN đã được pháp luật ghi nhận Trong các tiền đề này, tiền đề về pháp lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi
nó tạo ra những cơ sở vững chắc trong việc ghi nhận quyền cũng như bảo đảm các quyền lợi này được thực hiện trên thực tế
- Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
Trang 19Việc tạo ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý nhằm bảo đảm các quyền lợi cho người lao động khi CPH DNNN cần đảm bảo tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:
+ Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN được tiến hành toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực như: kinh tế, xã hội, pháp lý
+ Đối với các bảo đảm pháp lý: các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải được pháp luật ghi nhận đầy đủ và có biện pháp tổ chức thực hiện + Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa những người lao động trong DNNN cổ phần hóa
+ Việc đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải hướng đến giải quyết toàn diện các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động: vấn đề việc làm, vấn đề thu nhập, vấn đề quyền sở hữu cổ phần trong DNNN cổ phần hóa …nhưng cần đặc biệt chú trọng đến việc giải quyết việc làm cho người lao động
+ Các hành vi vi phạm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN cần được xử lý nghiêm minh
- Nội dung bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
Như đã phân tích ở mục 1.1 thì việc cổ phần hóa DNNN tác động trực tiếp đến người lao động thuộc nhiều đối tượng khác nhau, trên nhiều khía cạnh khác nhau
Có thể kể đến 03 lĩnh vực chính cần bảo đảm quyền lợi người lao động trong DNNN CPH như sau:
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề việc làm của người lao động
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề thu nhập của người lao động
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề sở hữu cổ phần của người lao động trong DNNN CPH
Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động cũng cần xem xét đến quyền lợi của từng đối tượng người lao động, cụ thể:
Trang 20+ Người lao động tiếp tục làm việc tại CTCP
+ Người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu
+ Người lao động tự nguyện chấm dứt Hợp đồng lao động
+ Người lao động không bố trí được việc làm khi CPH DNNN
- Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
+ Pháp luật là phương tiện để cụ thể hóa một cách chính thống phần lớn các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Các quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa DNNN trên thực tế có thể được triển khai trên nhiều mặt của đời sống xã hội Tuy nhiên, chỉ có tiền đề về pháp lý mới đảm bảo một cách chính xác, rõ ràng, triệt để nhất quyền lợi cho người lao động khi CPH DNNN
+ Pháp luật là phương tiện để giới hạn quyền lực của người sử dụng lao động trong mối quan hệ với người lao động – vốn được coi là đối tượng yếu thế hơn trong quan hệ lao động, từ đó góp phần bảo đảm quyền của người lao động Các quy định của pháp luật đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người lao động trong DNNN CPH cũng như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi cổ phần hóa Những quy định này là hành lang, là khung giới hạn hành vi của doanh nghiệp trong việc thực hiện các đảm bảo quyền lợi cho người lao động Doanh nghiệp không thể lạm dụng quyền lực của mình cũng như không thể cắt giảm quyền lợi của người lao động để gây ảnh hưởng đến những lợi ích mà người lao động được hưởng
+ Pháp luật là phương tiện để người lao động động, các cá nhân, tổ chức có liên quan kiểm soát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoạt động của DNNN cổ phần hóa và hoạt động của các đơn vị có liên quan trong quá trình CPH DNNN, từ đó ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật và bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN Khi nhận thức rõ được các quy định pháp luật, người lao động sẽ thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của mình một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn
+ Pháp luật là phương tiện pháp lý, bằng các phương thức, cách thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình CPH các
Trang 21DNNN khi các quyền lợi này bị xâm phạm Các quy định liên quan đến xử phạt vi phạm, các quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa DNNN sẽ là cơ chế hữu hiệu để người lao động bảo vệ được quyền lợi của mình
1.3 Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
CPH DNNN là giải pháp quan trọng và hữu hiệu mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn sử dụng để cải cách, đổi mới DNNN Trải qua các giai đoạn khác nhau, với những kinh nghiệm thực tiễn được rút ra, pháp luật về CPH DNNN nói chung
và pháp luật về quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH nói riêng cũng có những thay đổi cho phù hợp với đặc điểm của từng thời kỳ và quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta
1.3.1 Giai đoạn từ những năm 1986 đến trước năm 1996
Xuất phát từ tình hình thực tế và xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã chủ trương xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa Theo đó, DNNN đứng trước yêu cầu đổi mới để tồn tại và phát triển trên thị trường Ngày 10/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 143-HĐBT về việc tổng kết thực hiện Quyết định 217-HĐBT ngày 14/11/1987, các Nghị định 50-HĐBT ngày 22/03/1988 và 98-HĐBT ngày 02/6/1988 và làm thử việc tiếp tục đổi mới quản lý xí nghiệp quốc doanh Tại mục 2 Quyết định 143-HĐBT nêu trên
có khẳng định: “Tiến hành làm thử việc tổ chức lại bộ máy quản lý xí nghiệp; chuyển
xí nghiệp quốc doanh thành CTCP…” Quyết định 143-HĐBT ngày 10/5/1990 nêu
trên là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về vấn đề CPH DNNN, tuy nhiên, Quyết định này chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc CPH mà dường như mới chỉ khai sinh ra khái niệm này Quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH cũng chưa được đề cập tới Đây mới chỉ là bước đi đầu tiên mang tính chất nền tảng cho việc
CPH sau này
Đến ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
202-CT về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP (Quyết
định số 202-CT ngày 8/6/1992) Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 đã quy định về
Trang 22điều kiện của DNNN tiến hành CPH, các hình thức CPH DNNN cũng như trình tự, thủ tục để chuyển một số DNNN được chọn lựa thành CTCP Tại văn bản này, quyền lợi của NLĐ đã được đề cập một cách cụ thể hơn, theo đó mục tiêu của CPH
sẽ hướng đến việc tạo điều kiện để NLĐ thực sự làm chủ doanh nghiệp Tại Điều 7 Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 quy định về ưu đãi trong việc mua cổ phần của
NLĐ như sau: “…Cán bộ công nhân viên chức trong các doanh nghiệp CPH được
hưởng chính sách ưu đãi trong việc mua cổ phiếu trả chậm với thời gian trả không quá 12 tháng…” Đề án chuyển một số DNNN thành CTCP áp dụng tại các doanh
nghiệp được chọn làm thí điểm ban hành kèm theo Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 cũng đã khẳng định lại quyền ưu tiên mua cổ phiếu của NLĐ trong doanh
nghiệp tại điểm b Mục 4 như sau:
“…Trật tự ưu tiên về bán cổ phiếu như sau:
- Thứ nhất là bán cho công nhân viên chức đang làm việc trong doanh nghiệp Một số công nhân viên chức có hoàn cảnh khó khăn sẽ được ưu tiên trả chậm tiền mua cổ phiếu (không quá 12 tháng)…”
Các chế độ khác liên quan đến NLĐ như tiền lương, bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể trong DNNN khi CPH và sau khi CPH được Đề án dẫn chiếu đến quy định tại Thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về lao động và chính sách đối với NLĐ trong thí điểm chuyển DNNN thành CTCP theo Quyết định 202/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Theo đó, Nhà nước cho phép các doanh nghiệp áp dụng việc sắp xếp lại lao động theo Quyết định 176/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 09/10/1989 về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành và các Thông tư hướng dẫn kèm theo
- Đối với những NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP thì họ sẽ được hưởng các quyền lợi theo chế độ Hợp đồng lao động thỏa thuận với doanh nghiệp sau CPH
- Đối với những NLĐ đến tuổi nghỉ hưu thì họ sẽ được hưởng chế độ hưu trí theo quy định tại điểm c mục 3 của Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Trang 23- Đối với những NLĐ có nhu cầu xin chuyển công tác, thì được giải quyết theo nguyện vọng và doanh nghiệp có trách nhiệm cấp kinh phí đi đường, tiền tàu xe đến nơi làm việc mới
- Đối với những NLĐ mà doanh nghiệp xác định là dôi dư thì giải quyết theo chế độ thôi việc và được hưởng trợ cấp 1 lần theo chính sách quy định tại điểm a mục 3 Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 về việc sắp xếp lại lao động trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành, cụ thể: “…Đối với
số lao động ra làm việc ở khu vực ngoài kinh tế quốc doanh được thực hiện chế độ trợ cấp thôi việc thì cứ mỗi năm công tác liên tục được trợ cấp một tháng lương cơ bản cộng phụ cấp (nếu có), tối thiểu là 03 tháng, do đơn vị trả, Nhà nước trợ giúp một phần đối với đơn vị có nhiều khó khăn nhưng tối đa không quá 1/2 số trợ cấp, phần trợ giúp này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể…”
Ngoài ra, NLĐ tại doanh nghiệp CPH nói chung còn được hưởng quyền lợi từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp theo quy định tại điểm 2 Mục I Thông tư 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 hướng dẫn về lao động và chính sách đối với người lao động trong thí điểm chuyển DNNN thành CTCP theo Quyết định 202/1992 ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng do Bộ Lao động, thương
binh và xã hội ban hành như sau: “Quỹ phúc lợi còn lại, tài sản công trình phúc lợi
công cộng cần được kiểm kê lại giá trị Doanh nghiệp thành lập Hội đồng kiểm kê lại giá trị Doanh nghiệp thành lập Hội đồng kiểm kê có sự giám sát của các cơ quan: Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động Giá trị tài sản này (trừ nhà cửa, vật kiến trúc có hướng dẫn riêng) sẽ được phân chia cho toàn bộ công nhân viên chức đang làm việc trong doanh nghiệp tính đến thời điểm tiến hành cổ phần hoá…”
Có thể thấy, Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 mặc dù chưa quy định cụ thể nhưng đã có những dẫn chiếu đến pháp luật lao động thời kỳ này về việc giải quyết quyền lợi cho NLĐ trong doanh nghiệp CPH Các quyền lợi cơ bản của NLĐ có thể
dễ dàng nhận thấy đó là quyền ưu tiên mua cổ phiếu trong doanh nghiệp CPH và quyền được chia các nguồn lợi từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi còn lại của doanh nghiệp Đối với những NLĐ đủ điều kiện về hưu và NLĐ không tiếp tục làm việc
Trang 24tại doanh nghiệp sau CPH sẽ được hưởng các khoản trợ cấp riêng theo pháp luật lao
động tại thời kỳ này
Để đẩy mạnh triển khai thực hiện Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992, ngày 04/3/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 84-TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối
với các DNNN Chỉ thị số 84-TTg có nêu: “Quyết định số 202-CT ngày 8-6-1992
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP đã ban hành hơn 8 tháng, nhưng việc tiến hành còn quá chậm, không thực hiện được những yêu cầu và tiến độ đã quy định Nguyên nhân chính của các chậm trễ này là do các Bộ chức năng chưa kịp thời hướng dẫn, cụ thể hoá những quy định của Quyết định số 202-CT; các Bộ quản
lý các đơn vị sản xuất, kinh doanh, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa quán triệt sâu sắc về quan điểm, nội dung CPH và chưa quan tâm đúng mức chỉ đạo việc triển khai thực hiện công tác này…”
Có thể thấy, Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được ban hành nhưng việc thí điểm triển khai còn chậm trễ, không thực hiện được những yêu cầu và tiến độ đã đặt ra Chính vì vậy Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 84-TTg ngày 04/3/1993 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với các DNNN để đẩy mạnh triển khai và tiến hành có hiệu quả thí điểm CPH DNNN Điều này cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc triển khai chủ trương CPH các DNNN Tại Chỉ thị 84-TTg nêu trên, quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH về cơ bản được quy định giống như Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992, theo đó NLĐ được hưởng quyền ưu tiên mua cổ phiếu trả chậm, được chia số dư từ Quỹ phúc lợi và Quỹ khen thưởng để mua cổ phiếu Đối với những NLĐ thuộc diện nghỉ hưu, mất sức, thôi việc thì quyền lợi tiếp tục được giải quyết theo các quy định của pháp luật lao động
thời điểm này
Sau 4 năm thực hiện thí điểm, ngày 07/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định
28-CP về chuyển một số DNNN thành CTCP (Nghị định 28-CP ngày 07/5/1996)
Một năm sau đó, ngày 26/03/1997, Chính phủ ban hành Nghị định số
25/1997/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/25/1997/NĐ-CP ngày 07/5/1996 Các Nghị định này
Trang 25cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho quá trình CPH DNNN cũng như vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ khi CPH Theo quy định tại Điều 10, Điều 11 Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 thì những NLĐ sẽ được bảo đảm về vấn đề việc làm khi DNNN CPH Họ có quyền tiếp tục làm việc tại CTCP theo nhu cầu của mình Cụ thể, khoản 2 Điều 11 Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996
quy định: “…Được tiếp tục làm việc tại CTCP (nếu họ có nhu cầu) theo quy định
tại Điều 31 của Bộ Luật lao động ngày 23 tháng 6 năm 1994…” Ngoài việc tiếp
tục làm việc tại doanh nghiệp sau khi CPH, NLĐ được hưởng các ưu đãi rất cơ bản quan trọng khác như: Được Nhà nước cấp một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người Đối với số cổ phiếu này, NLĐ được hưởng cổ tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại CTCP nhưng không được chuyển nhượng; được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm trong 5 năm với lãi suất là 4% năm; được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh
nghiệp để mua cổ phiếu
So với quy định tại các văn bản pháp luật trước đó về CPH thì Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 đã có những ưu đãi lớn hơn đối với NLĐ trong DNNN CPH Quyền lợi của NLĐ không chỉ dừng lại ở việc được ưu tiên mua cổ phiếu, được mua cổ phiếu trả chậm trong một khoảng thời gian, được chia số dư của Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi để mua cổ phiếu mà còn được cấp một lượng cổ phiếu nhất định và hưởng cổ tức Thêm vào đó NLĐ còn được đảm bảo quyền lợi về vấn đề việc làm sau khi doanh nghiệp CPH - vấn đề quan tâm hàng đầu của NLĐ Các quy định về quyền lợi NLĐ tại Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 đã cho thấy chính sách
ưu đãi to lớn của pháp luật để đảm bảo tối đa các quyền lợi của NLĐ khi DNNN tiến hành CPH, hướng tới một trong những mục tiêu của việc CPH DNNN đó là nâng cao vai trò làm chủ thực sự của NLĐ, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả
1.3.2 Giai đoạn từ những năm 1996 đến trước năm 2011
Tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về CPH DNNN, ngày 29/6/1998 Chính
phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành CTCP (Nghị
định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998) Đối với vấn đề quyền lợi của NLĐ trong
DNNN CPH, so với Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996, ngoài quyền lợi được mua cổ
Trang 26phần trả chậm, quyền được chia số dư từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi để mua cổ phiếu thì NLĐ sẽ được mua cổ phần tại doanh nghiệp với giá ưu đãi, cụ thể khoản 1 Điều 14 Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 quy định về một trong những
ưu đãi của NLĐ như sau: “…Được Nhà nước bán với giá ưu đãi cho NLĐ trong
doanh nghiệp tùy theo năm công tác của từng người Một năm làm việc cho Nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 1 cổ phần: 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác…” Có thể thấy, Nghị định 44/1998/NĐ-CP
ngày 29/06/1998 không còn quy định về việc quyền lợi của NLĐ được cấp một lượng cổ phiếu nhất định trong doanh nghiệp CPH như quy định tại Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 nhưng đã bổ sung quy định về quyền mua cổ phần với giá ưu đãi của NLĐ Đây là một ưu đãi quan trọng của pháp luật đối với NLĐ cũng với mục tiêu khuyến khích NLĐ sở hữu cổ phần trong DNNN CPH Mặc dù quy định
về việc được cấp một lượng cổ phiếu nhất định và hưởng cổ tức theo quy định tại Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 dường như có lợi hơn cho NLĐ so với quy định
về việc mua cổ phần với giá ưu đãi, tuy nhiên quy định tại Nghị định
44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 là đảm bảo hài hòa quyền lợi của Nhà nước, quyền lợi của các nhà đầu tư cũng như của NLĐ tại doanh nghiệp
Tháng 8/2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về DNNN và ban hành Nghị quyết của Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN Để triển khai Nghị quyết trung ương này, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg ngày 08/02/2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN Trên cơ sở đó, ngày 19/6/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP
về chuyển DNNN thành CTCP (Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002) để tiếp
tục hoàn thiện hành lang pháp lý và đẩy mạnh việc CPH các DNNN
Các quy định của Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 đã quy định cụ thể hơn về quyền lợi của NLĐ khi DNNN CPH Theo đó, NLĐ có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp CPH sẽ được mua cổ phần với giá ưu đãi:
“…Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp CPH tại thời điểm quyết định CPH được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm
đã làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng…” (khoản 1 Điều 27 Nghị định
Trang 2764/2002/NĐ-CP); NLĐ nghèo sẽ được mua cổ phần và trả chậm trong một khoảng
thời gian: “…NLĐ nghèo trong doanh nghiệp CPH được mua chịu cổ phần theo giá
ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất.…” (khoản 2 Điều 27 Nghị định 64/2002/NĐ-CP); được sở
hữu một số cổ phần hình thành từ nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh
nghiệp (khoản 4 Điều 9 Nghị định 64/2002/NĐ-CP); NLĐ chuyển sang làm việc tại
CTCP được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật; NLĐ đã có đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm CPH được giải quyết quyền lợi theo chế độ quy định; NLĐ mất việc, thôi việc tại thời điểm
CPH được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật (khoản
3, khoản 4, khoản 5 Điều 27 Nghị định 64/2002/NĐ-CP)…
Điều đặc biệt của pháp luật về CPH DNNN trong giai đoạn này đó là vấn đề lao động dôi dư đã được quy định riêng trong Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày
11/4/2002 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN (Nghị định
41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002) Theo quy định tại Nghị định 41/2002/NĐ-CP
ngày 11/4/2002 thì bên cạnh các quyền lợi chung mà NLĐ được hưởng theo quy định của Bộ luật lao động thì những NLĐ bị mất việc làm do CPH DNNN còn được hưởng một số quyền lợi khác Quyền lợi của họ được xác định căn cứ trên loại Hợp đồng lao động mà họ đang thực hiện là Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 -
3 năm hay Hợp đồng lao động không xác định thời hạn Nhìn chung, theo quy định tại Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 thì NLĐ dôi dư trong DNNN tiến hành CPH được hưởng chế độ trợ cấp khi mất việc làm cao hơn so với chế độ trợ cấp dành cho NLĐ bị mất việc làm tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Rút kinh nghiệm từ những năm tiến hành CPH trước đây, ngày 16/11/2004 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển
công ty Nhà nước thành CTCP (Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004) thay thế
cho Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 Tại Điều 37 Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 quy định về quyền lợi của NLĐ trong DNNN 187/2004/NĐ-CPH như sau:
“1 NLĐ có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định CPH được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá giảm 40 % so với giá đấu bình quân bán cho nhà đầu tư khác
Trang 282 Được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo chế độ hiện hành nếu chuyển sang làm việc tại CTCP
3 Được hưởng chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ hiện hành nếu đã
có đủ điều kiện tại thời điểm cổ phần hóa
4 Nếu bị mất việc, thôi việc tại thời điểm CPH được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật”
Có thể thấy, so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 thì số lượng cổ phần ưu đãi tối đa bán cho NLĐ được quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP
ngày 26/6/2007 đã tăng lên (từ 10 cổ phần lên tới 100 cổ phần cho mỗi năm làm
việc thực tế trong khu vực Nhà nước) và mức ưu đãi về giá giảm từ 30% xuống tới
40% cùng với sự thay đổi về căn cứ xác định giảm giá là so với giá đấu bình quân cho các nhà đầu tư khác chứ không phải so với mệnh giá ban đầu như quy định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 Tuy nhiên, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 không còn quy định về vấn đề cổ phần ưu đãi đối với NLĐ nghèo như quy định tại Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996, Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 và Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 Đây cũng là một quy định làm giảm đi quyền lợi của NLĐ nghèo khi CPH DNNN so với các quy định trước đây Từ Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 trở về sau, pháp luật cũng không còn duy trì quy định về cổ phần ưu đãi cho NLĐ nghèo như các quy định tại các Nghị định trong giai đoạn trước đây
Các chế độ đối với NLĐ dôi dư tiếp tục được áp dụng theo quy định tại Nghị
định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 (được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị
định 155/2004/NĐ-CP ngày 10/8/2004 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN)
Trong bối cảnh đất nước ta không ngừng hội nhập với nền kinh tế thế giới, năm 2007 Chính phủ đã đồng thời ban hành hai Nghị định quan trọng đó là: Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 và Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chính sách đối với NLĐ dôi dư do sắp xếp lại Công ty Nhà nước
(Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 và Điều 51 Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 thì NLĐ được hưởng ưu đãi mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm
Trang 29thực tế làm việc tại khu vực Nhà nước với mức giá giảm bằng 60% so với giá đấu thành công bán cho các nhà đầu tư khác Ngoài quyền được mua cổ phần với giá ưu
đãi, NLĐ còn được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi (bao
gồm cả giá trị tài sản dùng trong sản xuất, kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi) để mua cổ phần (khoản 2 Điều 51 Nghị định 109/2007/NĐ/CP); được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội
theo chế độ hiện hành nếu chuyển sang làm việc tại CTCP (khoản 3 Điều 51 Nghị
định 109/2007/NĐ-CP); được hưởng chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ hiện
hành nếu đã có đủ điều kiện tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp (khoản 4 Điều
51 Nghị định 109/2007/NĐ-CP); nếu bị mất việc, thôi việc tại thời điểm công bố giá
trị doanh nghiệp thì được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của
pháp luật (khoản 5 Điều 51 Nghị định 109/2007/NĐ-CP)
Đối với NLĐ dôi dư tại DNNN CPH, các chế độ được áp dụng theo quy định tại Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 phụ thuộc vào loại Hợp đồng lao động mà họ giao kết So với Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 thì Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 đã có những sự thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế về quyền lợi của NLĐ dôi dư Tuy nhiên, về cơ bản chế độ áp dụng đối với NLĐ dôi dư trong DNNN CPH vẫn có nhiều ưu đãi hơn so với lao động bị mất việc làm ở các thành phần kinh tế khác
1.3.3 Giai đoạn từ năm 2011 đến nay
Để tiếp tục đẩy mạnh chủ trương CPH các DNNN, ngày 18/7/2011 Chính phủ
đã ban hành thêm Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 Ngày 20/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định 189/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 Tiếp đó, ngày 11/11/2015, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 116/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 Các quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011
Ngoài ra, quyền lợi của những NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu sẽ được áp dụng theo quy định tại Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 của Chính phủ quy định
Trang 30chính sách đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty TNHH một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu (Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015)
Các Nghị định này hiện nay đang có hiệu lực và được áp dụng sẽ được tác giả trình bày cụ thể tại Chương 2 của Luận văn
Nhìn chung, xem xét một cách tổng quan quá trình CPH các DNNN có thể thấy rằng pháp luật về CPH DNNN nói chung và pháp luật về quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN không ngừng được bổ sung, thay đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn nhằm đẩy mạnh chủ trương CPH các DNNN của Đảng và Nhà nước
ta Với sự cố gắng, nỗ lực của các cơ quan có thẩm quyền cũng như của chính doanh nghiệp, quá trình CPH đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng còn tồn tại không ít những hạn chế cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới đây
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tại nội dung Chương 1, tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản liên quan đến vấn đề CPH DNNN, cụ thể: khái niệm DNNN; thực trạng hoạt động của các DNNN và yêu cầu cần phải đổi mới, sắp xếp lại hoạt động của các DNNN; khái niệm CPH DNNN; khái niệm CTCP và vai trò, ý nghĩa của việc CPH các DNNN đối với nền kinh tế đất nước ta Về cơ bản, có thể thấy rằng, CPH DNNN là việc chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông thuộc các thành phần kinh tế khác nhau nhằm mục đích huy động mọi nguồn vốn từ tất cả các thành phần kinh tế vào doanh nghiệp, phát huy tính tự chủ của NLĐ, đổi mới hoạt động tổ chức quản lý doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp
Thông qua việc làm rõ những vấn đề liên quan đến CPH DNNN, tác giả cũng
đã chỉ rõ những tác động của quá trình CPH DNNN đến vấn đề việc làm, thu nhập, vấn đề sở hữu cổ phần của NLĐ Từ đó, chúng ta có thể thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu và hoàn thiện quy định pháp luật cũng như có những biện pháp để bảo đảm tốt nhất quyền lợi của những NLĐ trong quá trình CPH DNNN Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân những NLĐ mà còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thành chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước ta
Trang 31Để có cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền lợi NLĐ trong DNNN CPH tại Chương 2, tác giả cũng đã khái quát
về quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN tại Việt Nam trong giai đoạn từ những năm 1986 cho tới những năm 2011 Các quy định cụ thể liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong DNNN CPH theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/7/2011 đang có hiệu lực tại thời điểm hiện nay sẽ được tác giả trình bày cụ thể tại Chương 2 của Luận văn
Trang 32Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2.1 Quyền lợi chung của những người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa
Căn cứ theo quy định tại Điều 45 Bộ Luật lao động năm 2012 và Điều 10 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì CTCP có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lao động tại thời điểm quyết định CPH và giải quyết chế độ cho NLĐ nghỉ việc, thôi việc theo quy định của pháp luật hiện hành Đối với những NLĐ đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng thì sẽ được giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội Những NLĐ dôi dư, bị mất việc làm thì sẽ được giải quyết quyền lợi theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, có một điểm chung đó là dù NLĐ thuộc đối tượng nào nhưng có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp CPH thì đều thuộc diện được hưởng chính sách ưu tiên trong việc mua cổ phần và trở thành cổ đông trong CTCP
Chính sách cổ phần ưu đãi đối với NLĐ đã được nhiều doanh nghiệp tại Việt
Nam áp dụng từ lâu, đặc biệt là trong một số lĩnh vực có nguy cơ “chảy máu” chất
xám cao Phương pháp thông thường là tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ sở hữu cổ phần như ưu đãi về giá, ưu đãi về điều kiện thanh toán Đây là một chế độ ưu đãi cho NLĐ để tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa NLĐ và doanh nghiệp, đồng thời có chính sách thu hút được lao động giỏi gắn bó lâu dài với doanh nghiệp NLĐ được mua cổ phần ưu đãi khi công ty Nhà nước tiến hành CPH Đối tượng và số lượng cổ phần NLĐ được ưu đãi mua được quy định tại khoản Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 10 Điều 1 Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015, cụ thể:
Một là, NLĐ được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại
khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá đấu thành công thấp nhất (trường hợp
đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà
đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước)
Trang 33NLĐ thuộc đối tượng doanh nghiệp cần sử dụng và có cam kết làm việc lâu
dài cho doanh nghiệp trong thời hạn ít nhất là 03 năm (kể từ ngày doanh nghiệp
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ được mua thêm cổ
phần ưu đãi theo quy định sau:
- Mua thêm theo mức 200 cổ phần/01 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2.000 cổ phần cho một NLĐ
Riêng NLĐ là các chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao làm việc tại doanh nghiệp được mua thêm theo mức 500 cổ phần/01 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 5.000 cổ phần cho một NLĐ Doanh nghiệp CPH căn cứ đặc thù ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của mình xây dựng và quyết định các tiêu chí để xác định chuyên gia giỏi, có trình độ nghiệp vụ cao và phải được nhất trí thông qua tại Đại hội công nhân viên chức của doanh nghiệp trước khi CPH
- Giá bán cổ phần ưu đãi cho NLĐ mua thêm được xác định là giá đấu thành
công thấp nhất (trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư
chiến lược trước)
Hiện nay, theo quy định tại Điều 113 Luật doanh nghiệp năm 2014, CTCP có
2 loại cổ phần: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi Cổ phần ưu đãi về cơ bản gồm có: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ Công ty quy định
Theo quy định tại Điều 117 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì khác với người
sở hữu cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức sẽ được nhận cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của người sở hữu cổ phần phổ thông hoặc mức
ổn định hàng năm (gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng) Dù vậy, người sở hữu cổ
phần này lại không có quyền biểu quyết, không có quyền tham dự họp Đại hội đồng
cổ đông của Công ty và không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 113 và Điều 116 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết và họ không được chuyển nhượng
Trang 34cổ phần đó cho người khác Tuy nhiên, ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ
có hiệu lực trong ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông Được biểu quyết với số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ
thông, đó là đặc quyền của người sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết (số phiếu biểu
quyết nhiều hơn là bao nhiêu sẽ do Điều lệ của Công ty cổ phần đó quy định) Đối
với loại cổ phần này, người sở hữu sẽ được biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông
Căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 118 Luật doanh nghiệp năm
2014 thì cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được Công ty hoàn lại vốn bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, dự họp Đại Hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát
Đối với NLĐ mua cổ phần trong doanh nghiệp CPH, NLĐ mua chủ yếu hai loại cổ phần ưu đãi là cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại
Đây là một chính sách đúng đắn được áp dụng ở nhiều doanh nghiệp trên khắp thế giới Nó làm tăng nhiệt huyết của NLĐ với công việc khi họ đồng thời trở thành
chủ sở hữu doanh nghiệp Ngoài ra, nó còn giúp NLĐ không bị “trắng tay” khi doanh nghiệp bị “đổi chủ”
Ngoài chính sách bán cổ phần ưu đãi cho NLĐ hiện hành, Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 đã bổ sung thêm nội dung quy định mới so với Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 trước đó về vấn đề NLĐ có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp CPH, thuộc đối tượng doanh nghiệp cần sử dụng và có cam kết làm việc lâu dài cho doanh
nghiệp trong thời hạn ít nhất là 03 năm (kể từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ được mua thêm cổ phần ưu đãi với
mức mức 200 cổ phần/01 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2000 cổ phần cho một NLĐ Đối với NLĐ giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao được mua thêm theo mức 500 cổ phần/01 năm cam kết làm việc tiếp
Trang 35trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 5000 cổ phần cho một NLĐ Quy định này là một sự tiến bộ hơn, một sự mở rộng hơn quyền của NLĐ so với quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 bởi đã có sự ưu đãi hơn đối với những NLĐ thể hiện rõ mong muốn gắn kết lâu dài với doanh nghiệp CPH cũng như NLĐ
có trình độ chuyên môn cao Điều này cũng là hợp lý để đảm bảo mục tiêu đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển sau cổ phần hóa với sự gắn bó, sự tham gia tích cực từ phía NLĐ, đặc biệt là từ những NLĐ có trình độ cao
Tuy nhiên, việc quy định hạn chế số lượng cổ phần tối đa mà NLĐ được mua thêm vẫn dẫn đến tình trạng nhiều NLĐ có điều kiện kinh tế nhưng không được mua thêm cổ phần cũng chưa đảm bảo tối đa quyền lợi cho NLĐ
Giá bán cổ phần ưu đãi cho NLĐ mua thêm này được xác định là giá đấu
thành công thấp nhất (trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho nhà đầu
tư chiến lược trước) Số cổ phiếu ưu đãi NLĐ mua thêm được chuyển đổi thành cổ
phần phổ thông sau khi kết thúc thời gian cam kết
Đối với số cổ phần được mua ưu đãi theo cơ chế hiện hành (mua tối đa 100 cổ
phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước) thì giá bán đã được điều
chỉnh là bằng 60% giá đấu thành công thấp nhất (trường hợp đấu giá công khai
trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước)
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Mục I Chương II Thông tư 196/2012/TT-BTC ngày 26/12/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi thành CTCP thì thành viên Ban chỉ đạo CPH doanh
nghiệp (trừ các thành viên là đại diện của doanh nghiệp cổ phần hoá) và NLĐ là
người nước ngoài tuy là NLĐ nhưng không thuộc đối tượng được mua cổ phần ưu đãi theo quy định này
So với Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007, Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 đã sửa đổi sẽ theo hướng mở rộng ưu đãi đối với NLĐ cam kết tiếp tục
làm việc lâu dài cho doanh nghiệp về giá bán cổ phiếu ưu đãi từ “60% giá đấu giá
thành công bình quân” của Nghị định 109/2007/NĐ-CP sang 60% giá đấu giá thành
Trang 36công thấp nhất (trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư
chiến lược trước)
Liên quan đến vấn đề bán, chuyển nhượng cổ phần ưu đãi: Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011, số cổ phiếu ưu đãi NLĐ mua thêm quy định tại điểm a khoản 2 Điều này được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông sau khi kết thúc thời gian cam kết Trong trường hợp này, NLĐ được tự do chuyển nhượng cổ phần theo quy định tại Điều 125, Điều 126 Luật doanh nghiệp năm 2014
Trường hợp CTCP thực hiện tái cơ cấu dẫn tới NLĐ phải chấm dứt hợp đồng lao động, thôi việc, mất việc theo quy định của Bộ luật Lao động trước thời hạn đã cam kết thì số cổ phần đã được mua thêm sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông Trường hợp NLĐ có nhu cầu bán lại cho doanh nghiệp số cổ phần này thì CTCP có trách nhiệm mua lại với giá sát với giá giao dịch trên thị trường
Hai là, NLĐ được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi (bao gồm cả giá trị tài sản dùng trong sản xuất, kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi) để mua cổ phần (khoản 3 Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần) Cụ thể, theo quy định tại khoản 5 Điều 14 Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011thì khi xác định giá trị doanh nghiệp, đối với tài sản dùng trong sản xuất, kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp CPH được tính vào giá trị doanh nghiệp và CTCP tiếp tục sử dụng trong sản xuất, kinh doanh Phần vốn tương ứng với giá trị tài sản này doanh nghiệp CPH có trách nhiệm hoàn trả Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi để chia cho NLĐ đang làm việc ở doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp theo
số năm công tác tại doanh nghiệp cổ phần hóa Ngoài ra, theo quy định tại Điều 19 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, sau khi bù đắp các khoản đã chi vượt quá chế độ cho NLĐ, được chia cho NLĐ đang làm việc ở doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp theo số năm công tác tại doanh nghiệp CPH
Trang 37Trở thành cổ đông của CTCP không chỉ giúp NLĐ có thêm nguồn thu nhập
mà quan trọng hơn là giúp NLĐ cải thiện vị trí yếu thế của mình trong quan hệ lao
động (nhất là đối với những NLĐ còn tiếp tục làm việc tại Công ty sau CPH)
Ba là, NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP còn được hưởng quyền lợi thông qua
việc mua cổ phần của tổ chức Công đoàn cơ sở Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì Công đoàn cơ sở tại doanh
nghiệp được sử dụng nguồn quỹ công đoàn tại doanh nghiệp CPH (không huy động,
vay vốn) để mua cổ phần ưu đãi nhưng không quá 3% vốn điều lệ Số cổ phần ưu
đãi này do tổ chức công đoàn nắm giữ nhưng không được chuyển nhượng Trường hợp tổ chức công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp CPH được Đại hội cán bộ, công nhân viên chức tại doanh nghiệp CPH ủy quyền sử dụng nguồn quỹ khen thưởng, phúc lợi để mua và thay mặt cán bộ công nhân viên chức quản lý cổ phần này thì số cổ phần này được giảm trừ vào số lượng cổ phần ưu đãi NLĐ được mua và tổ chức công đoàn được quyền chuyển nhượng hoặc mua lại số cổ phần được mua từ quỹ khen thưởng, phúc lợi khi có yêu cầu của NLĐ Có thể thấy, việc tổ chức Công đoàn mua cổ phần của DNNN CPH thì bản thân tổ chức Công đoàn cũng đã trở thành cổ đông của CTCP, được tham gia quyết định các công việc của Công ty với
tư cách là chủ sở hữu của Công ty và sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để bảo vệ NLĐ Thêm vào đó, thông qua việc mua cổ phần và trở thành cổ đông của CTCP, quỹ Công đoàn sẽ ngày càng lớn mạnh, đời sống vật chất và tinh thần của NLĐ từ đó cũng có thể được nâng cao
Bốn là, quyền được hưởng lãi từ số tiền mua cổ phần đã nộp trong trường hợp
doanh nghiệp chậm CPH
Điểm g khoản 4 Điều 10 Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 5/9/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP (Thông tư
127/2014/TT-BTC ngày 5/9/2014) quy định như sau: “…Trường hợp thời gian tính từ ngày hết hạn nhà đầu tư nộp tiền mua cổ phần đến thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp kéo dài trên 3 tháng thì doanh nghiệp được tính chi phí lãi vay để chi trả cho các nhà đầu tư theo nguyên tắc:
Trang 38- Chỉ tính lãi từ tháng thứ tư trở đi trên tổng mệnh giá của số cổ phần được mua Đối với cổ phần NLĐ mua cổ phần ưu đãi giảm giá, nếu giá mua cổ phần ưu đãi dưới mệnh giá thì chỉ được tính lãi trên số tiền thực nộp
- Tỷ lệ trả lãi không vượt quá lãi suất vay ngắn hạn cùng kỳ của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp CPH đang mở tài khoản tại thời điểm tính lãi
- Số tiền trả lãi cho nhà đầu tư doanh nghiệp CPH được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo không vượt quá số tiền phải trả theo quy định và doanh nghiệp CPH không bị lỗ khi lập báo cáo tài chính để bàn giao sang CTCP….”
Như vậy trong trường hợp DNNN CPH vi phạm tiến độ cổ phần doanh nghiệp theo quy định của pháp luật thì NLĐ nói riêng và các nhà đầu tư mua cổ phần tại
DNNN CPH nói chung sẽ được bảo đảm quyền lợi bằng việc được trả lãi (theo tỷ lệ
lãi suất vay ngắn hạn cùng kỳ của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp CPH đang mở tài khoản tại thời điểm tính lãi) đối với số tiền mua cổ phần đã nộp Đây là
một quy định mới của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 so với các quy định trước đây, được xuất phát từ thực tiễn chậm CPH của các DNNN ở nước ta Tuy nhiên quy định này chưa thực
sự bảo đảm quyền lợi hợp pháp của NLĐ trong quá trình CPH DNNN sẽ được tác
giả phân tích ở phần thực tiễn của Luận văn
2.2 Quyền lợi của người lao động tiếp tục làm việc tại Công ty cổ phần
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì những NLĐ
sẽ chuyển sang làm việc tại CTCP bao gồm:
- Lao động đang thực hiện hợp đồng lao động còn thời hạn
- Lao động đang nghỉ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội (ốm đau; thai sản; tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) mà hợp đồng lao động còn thời hạn
- Lao động đang tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động
Ngoài những quyền lợi chung của NLĐ như đã phân tích tại mục 2.1.1 trên đây thì sau khi hoàn thành CPH DNNN, những NLĐ tiếp tục làm ở CTCP sẽ được
Trang 39hưởng các quyền lợi của NLĐ khi làm việc tại Công ty này NLĐ tiếp tục được tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ khác
(khoản 4 Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011) Đối với các công
trình phúc lợi: nhà trẻ, nhà mẫu giáo, bệnh xá và các tài sản phúc lợi khác đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi thì được chuyển giao cho tổ chức Công
đoàn tại CTCP quản lý, sử dụng để phục vụ tập thể NLĐ trong CTCP (khoản 4,
khoản 5 Điều 14, Điều 19 Nghị định 59/2011/NĐ-CP) Ngoài ra, quyền lợi của
những NLĐ sẽ được xác định theo theo Hợp đồng lao động đã giao kết với DNNN
trước đó, theo thỏa ước lao động tập thể của CTCP (nếu có) và theo Nội quy, Quy
chế lao động của CTCP phù hợp với các quy định của pháp luật lao động hiện hành Trên thực tế, có thể giữa CTCP và NLĐ thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung Hợp đồng lao động đã ký giữa NLĐ với DNNN trước đó hoặc giao kết Hợp đồng lao động mới Lúc này quyền lợi của NLĐ sẽ thay đổi tương ứng với những sự thay đổi hợp pháp trong Hợp đồng lao động sau khi sửa đổi, bổ sung hoặc Hợp đồng lao động mới này Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng dù Hợp đồng giữa hai bên có thay đổi hay không thì thời gian làm việc của NLĐ trong khu vực Nhà nước trước đó đều được tính vào thâm niên làm việc của NLĐ để giải quyết các quyền lợi có liên quan, trừ trường hợp NLĐ đã hưởng hết quyền lợi tương ứng với thâm niên làm việc tại DNNN trước khi chuyển sang làm việc tại CTCP
Đối với những NLĐ mua cổ phần tại DNNN CPH thì họ sẽ đóng tư cách kép trong quá trình làm việc sau này: vừa là NLĐ hưởng các quyền lợi của NLĐ khi làm việc tại CTCP, vừa là cổ đông – chủ sở hữu của CTCP và hưởng những quyền lợi của một cổ đông theo quy định của pháp luật và Điều lệ hợp pháp của Công ty Bên cạnh đó, nhằm tạo điều kiện để NLĐ được biết, được tham gia ý kiến, được quyết định và giám sát những vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của NLĐ; nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý Công ty đối với NLĐ; tạo điều kiện để các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội của công ty hoạt động theo quy định của pháp luật trong việc thực hiện quyền dân chủ cho NLĐ và thiết lập mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tranh chấp lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh, ngày 28/5/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 87/2007/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở CTCP, Công
Trang 40ty trách nhiệm hữu hạn (được thay thế bằng Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày
19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc hiện đang có hiệu lực)
Theo quy định tại Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 nêu trên thì để phát huy thực hiện quyền dân chủ ở Công ty, NLĐ trong các DNNN CPH có quyền được biết về một số nội dung người sử dụng lao động phải công khai quy định tại Điều 6 như sau: Kế hoạch sản xuất, kinh doanh và tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phòng, ban, phân xưởng, tổ, đội sản xuất; Nội quy, quy chế, quy định của doanh nghiệp; Tình hình thực hiện các chế độ, chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, tiền lương, tiền thưởng, khấu trừ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế cho NLĐ… Ngoài ra, NLĐ còn được tham gia ý kiến về một số vấn đề được quy định tại Điều 7 Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 như: Xây dựng hoặc sửa đổi,
bổ sung nội quy, quy chế, quy định phải công khai tại doanh nghiệp; Các giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ; Xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành, hình thức thỏa
ước lao động tập thể khác (nếu có)… Bên cạnh đó, NLĐ được trực tiếp quyết định
và tham gia kiểm tra, giám sát một số vấn đề như: Giao kết hợp đồng lao động, thực hiện hợp đồng lao động, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật; Nội dung thương lượng thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp,
thỏa ước lao động tập thể ngành, hình thức thỏa ước lao động tập thể khác (nếu có);
Thông qua nghị quyết hội nghị NLĐ…
Có thể thấy, các quyền lợi của NLĐ khi chuyển sang làm việc tại DNNN CPH
đã được quy định khá cụ thể và đầy đủ Các cơ quan, tổ chức có liên quan cần phổ biến cho NLĐ cũng như NLĐ cần chủ động tìm hiểu quy định pháp luật về quyền lợi của mình để yêu cầu doanh nghiệp CPH đảm bảo chế độ, quyền lợi cho mình
2.3 Quyền lợi của người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu
Như đã phân tích ở mục 2.1.1, bên cạnh các quyền lợi chung được hưởng, căn
cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày