PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY THIỆT HẠI CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM .... Qua việc ng
Trang 1VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH THỊ THỤC OANH
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Trang 2VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH THỊ THỤC OANH
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện khoa học xã hội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Huỳnh Thị Thục Oanh
Trang 4MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT 6
1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 6
1.2 Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 8
1.3 Các bộ phận cấu thành trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật 13
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG 26
2.1 Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 26
2.2 Chủ thể của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 34
2.3 Xác định thiệt hại của NTD về tài sản, tính mạng, sức khỏe 36
2.4 Nguyên tắc bồi thường 40
2.5 Miễn trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 41
2.6 Thực tiễn giải quyết BTTH về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 43
2.7 Đánh giá pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 46
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY THIỆT HẠI CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM 54
3.1 Tiếp tục nghiên cứu lý luận về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 54
3.2 Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 57
3.3 Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD 65
KẾT LUẬN 71
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi
để lưu thông, trao đổi hàng hóa, pháp luật Việt Nam cũng cần có cơ chế ngăn chặn các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia
Vì yêu cầu đó những năm gần đây, nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH), phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh
tế khu vực và thế giới Thực tiễn ở Việt Nam, đã có rất nhiều hàng hóa (máy móc, thiết bị đồ gia dụng, thực phẩm, dược phẩm…) được sản xuất (kể cả từ nước ngoài cung cấp tại Việt Nam) không đảm bảo chất lượng, gây nguy hại hoặc gây thiệt hại cho người tiêu dùng (NTD) không chỉ về tài sản mà còn về tính mạng, sức khỏe Đây là vấn đề bức xúc trong xã hội Trước thực tế này, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật CLSPHH năm 2007 Đây là các đạo luật chuyên ngành về CLSPHH Luật CLSPHH có những quy định đặc thù
về trách nhiệm dân sự một số điểm đáng chú ý sau:
- Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của các chủ thể sản xuất, kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH mà gây ra thiệt hại cho người khác là
cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu BTTH cho mình
- Xác định quyền được BTTH không những của NTD mà còn của người mua đối với các thiệt hại do vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá gây ra
- Quy định cụ thể các loại thiệt hại mà tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH gây ra phải bồi thường cho người bị thiệt hại Trên cơ sở các quy định về BTTH của BLDS, Luật CLSPHH đã quy định cụ thể các loại thiệt hại được xác định để bồi thường: thiệt hại về giá trị hàng hoá, tài sản bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại; thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người; thiệt hại về lợi ích gắn
Trang 7liền với việc sử dụng, khai thác tài sản và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
- Quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường trên cơ sở nguyên tắc của pháp luật dân sự là một người chỉ phải bồi thường nếu có thực hiện hành vi có lỗi gây ra thiệt hại của người khác Đây là những trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường mà chưa được quy định trong luật dân sự và luật thương mại
Bên cạnh Luật CLSPHH, để bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường, Nhà nước còn ban hành nhiều quy định có liên quan trong BLDS (2015), Bộ luật hình sự (1999, 2015), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Dược (2005, 2015), Luật An toàn thực phẩm (2010), Luật BVQLNTD (2011)
Mặc dù vậy, việc thực thi các quy định pháp luật có liên quan còn khá hạn chế Nhiều cơ quan, chính quyền địa phương chưa tích cực tham gia bảo vệ NTD như yêu cầu luật định Khả năng tiếp cận các điểm khiếu nại của của NTD (đặc biệt là NTD ở nông thôn, miền núi, vùng biên giới, hải đảo) còn rất hạn chế, NTD đa phần còn chưa ý thức rõ được quyền năng và quy trình thực hiện quyền năng của mình Đây là điều cần được phân tích, luận giải thấu đáo hơn
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế: “Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật theo pháp luật Việt Nam” là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, nghiên cứu về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD vẫn đang còn đang bỏ ngỏ để các nhà nghiên cứu khai phá Đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc diễn đàn khoa học đề cập đến trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD như: luận văn cử nhân luật học “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật cộng đồng Châu Âu và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thị Tường Vi; luận văn tiến sỹ luật học “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa” của TS Chu Đức Nhuận
“Trách nhiệm sản phẩm và việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam”
Trang 8của GS.TS Lê Hồng Hạnh; “Luật bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Như Phát”; “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam” của TS Nguyễn Văn Cương; “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm trách nhiệm trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm” của Ths Phạm Thị Phương Anh;…Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người NTD chưa được nghiên cứu làm
rõ mà luận văn này có thể góp thêm tiếng nói vào các hoạt động nghiên cứu này
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD và việc thực tiễn giải quyết việc BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa
có khuyết tật gây ra cho NTD, từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức đối với CLSPHH, BVQLNTD, thúc đẩy nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định
và bền vững
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD như khái niệm BTTH ngoài hợp đồng; khái niệm NTD; khái niệm hàng hóa khuyết tật; khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; kinh nghiệm về trách nhiệm BTTH cho NTD của một số nước trên thế giới
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
Trang 9- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc áp dụng các quy định này trong thực tế
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật gây ra thiệt hại cho NTD là một đề tài rộng, được nhiều ngành luật điều chỉnh như hình sự, hành chính, dân sự Vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các nội dung của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề chính liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD theo pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế Từ đó, luận văn sẽ đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, cũng như nâng cao nhận thức của NTD trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp phân tích (được sử dụng để phân tích, làm rõ nội dung các quy định hiện hành, phân
Trang 10tích các dữ liệu phản ánh thực trạng thực thi quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng v.v.), phương pháp tổng hợp (trên cơ sở các kết quả phân tích, luận văn tổng hợp các dữ liệu để đưa ra các nhận định mang tính khái quát về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi) Ngoài ra, trong luận văn học viên còn sử dụng phương pháp luật học so sánh và phương pháp thống kê khi cần thiết
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Thông qua việc tiến hành phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD, Luận văn chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và đưa ra một số các giải pháp cần thiết để góp phần hoàn thiện chính sách, quy định về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên việc phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD để có thể nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa đối với NTD nhưng vẫn đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể này
7 Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu gồm 03 chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng ở Việt Nam
Trang 11CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG
HÓA CÓ KHUYẾT TẬT
1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia La Mã
đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành phần Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens - sự thiệt hại, sự mất mát của một bộ phận tài sản
cụ thể Thành phần thứ hai là Lucrum cessans - bỏ mất lợi tức, sự mất mát tài sản có
thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường [49] Ngày nay, những tư tưởng pháp lý
này của các luật gia La Mã đã được các nhà lập pháp kế thừa Ví dụ, Điều 1149 của BLDS Cộng hoà Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có
quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng” [26]
Hơn nữa, các nhà lập pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại phi vật chất (thiệt hại về tinh thần) BLDS Nhật Bản quy định tại Điều 707 thì một người chịu trách nhiệm BTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất
kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác [15]
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất
mát, hư hỏng nặng nề về người và của” [58, tr 1570] Quan điểm pháp lý của nhiều
quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [48,tr 118]
Theo quy định của BLDS năm 1995, thiệt hại được xác định gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy định về trách nhiệm BTTH như sau: 1 Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH
về tinh thần; 2 Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút;
Trang 123 Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi
vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người
bị thiệt hại [33, Điều 310] BLDS năm 2005 tiếp tục được kế thừa tại quy định này tại Điều 307 [34] BLDS 2015 lại quy định ngắn gọn hơn về trách nhiệm BTTH do
vi phạm nghĩa vụ tại Điều 360 [38] và phân tích rõ hơn về thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ tại Điều 361[38] như sau: 1 Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt
hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần; 2 Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; 3 Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (TNBTTH) là một loại trách nhiệm dân sự bao gồm TNBTTH
về vật chất và TNBTTH về tinh thần, phát sinh khi người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô
ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng
Theo BLDS năm 1995, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được quy định như sau: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại,
thì phải bồi thường” [33, Điều 609] Như vậy, người gây thiệt hại cho người khác
về tài sản, về sức khỏe, tính mạng và các quyền nhân thân khác thì phải bồi thường theo nguyên tắc của trách nhiệm dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 605 BLDS
1995 BLDS năm 2005 thay thế BLDS năm 1995 quy định căn cứ phát sinh trách
Trang 13nhiệm BTTH tại Điều 604 và nguyên tắc bồi thường tại Điều 605 với nội dung tương tự như những quy định trong BLDS năm 1995 Ngoài ra, BTTH ngoài hợp đồng còn được đặt ra trong trường hợp không cần điều kiện lỗi Đó là trách nhiệm
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải BTTH
do tài sản của mình gây ra; trách nhiệm BTTH của người gây ô nhiễm môi trường BLDS hiện hành được ban hành năm 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH tại điều 584 và nguyên tắc BTTH tại điều 585, nhìn chung nội dung của các quy định này tại BLDS 2015 cũng không khác so với quy định tương ứng trong BLDS 2005
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại Chế định "Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở chương XX BLDS
2015, với các qui định từ Điều 584 đến Điều 608 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
1.2 Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
1.2.1 Khái niệm NTD
“Tiêu dùng là dùng của cải, vật chất để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất”
[58, tr 1640] Đây là một trong những hoạt động cơ bản và tự nhiên của con người
Khái niệm NTD ra đời và tồn tại gắn với nền kinh tế thị trường, do đó, là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam NTD là người mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu của bản thân hoặc gia đình mình, là NTD cuối cùng (“end consumer”) Sản phẩm hàng hóa qua sử dụng của NTD sẽ dần mất đi tính năng, công dụng, số lượng, nói chung là không được tái tạo lại NTD (“consumer” theo tiếng Anh và “consommateur” theo tiếng Pháp) là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [40, Điều 3]
Trang 14Như vậy, nhìn chung, để xác định một chủ thể có phải là NTD hay không, pháp luật các nước thường dựa vào các điều kiện sau:
Thứ nhất, đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được phép lưu
thông và đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân con người Những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu hằng ngày của con người như đồ ăn, thức uống, thuốc chữa bệnh, đồ chơi, đồ dùng học tập được coi là đối tượng đương nhiên của giao dịch với NTD Khi đó, các quy định của pháp luật BVQLNTD liên quan đến vệ sinh, an toàn đối với con người được áp dụng, kể cả đối với trường hợp hàng hóa chưa được bán cho NTD, cần phải kết hợp với mục đích của việc mua hàng hóa
đó dùng vào việc gì
Thứ hai, NTD là cá nhân Xác định NTD là cá nhân xuất phát từ chính mục
đích cho sự ra đời của lĩnh vực pháp luật BVQLNTD là hỗ trợ những NTD yếu thế trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa Nhìn chung, khi tìm hiểu về sản phẩm, khả năng tiếp cận và tiếp nhận thông tin, tham vấn của cá nhân đơn lẻ là hạn chế hơn rất nhiều đối với một tổ chức Hơn nữa, việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của một tổ chức cũng là một điều khó xác định; đồng thời sẽ khó coi việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của tổ chức là không vì hoạt động chức năng hoặc nghề nghiệp của
tổ chức đó Chính vì vậy, nhìn chung, đa số pháp luật BVQLNTD các nước và vùng lãnh thổ không coi tổ chức là NTD
Thứ ba, việc mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cho cá
nhân, hộ gia đình Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây có nghĩa là NTD mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho các nhu cầu của cá nhân và gia đình mình Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt không phải là phục vụ cho việc bán lại, hoạt động sản xuất kinh doanh khác hoặc các hoạt động nghề nghiệp Việc mua sản phẩm phục vụ tiêu dùng nhằm bán lại (ví dụ: mua bánh mỳ từ nhà sản xuất để về bán lẻ), hoặc chế biến thành sản phẩm khác để bán (ví dụ: mua bánh mỳ từ nhà sản xuất, thêm các gia vị, thức ăn khác tạo thành các món ăn mới rồi đem bán) không được coi là hành vi tiêu dùng và chủ thể thực hiện chúng không phải là NTD Cũng cần lưu ý là NTD có thể không có quan hệ trực tiếp với nhà cung cấp Họ có thể được người mua tặng, cho, cấp phát
Trang 151.2.2 Khái niệm về hàng hóa có khuyết tật
Định nghĩa của Luật BVQLNTD về hàng hóa có khuyết tật như sau: “Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho NTD, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho NTD, bao gồm: a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng
không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho NTD [40, Điều 3].” Như vậy, quan
điểm của pháp luật Việt Nam về hàng hóa có khuyết tật đã thể hiện nội dung cơ bản
là hàng hóa không đảm bảo an toàn cho NTD vì những khuyết tật của hàng hóa phát sinh do thiết kế, sản xuất hay việc hướng dẫn, cảnh báo, sử dụng
Theo Chỉ thị số 85/374/EEC ngày 25 tháng 7 năm 1985 của Cộng đồng Châu
Âu về sự tương quan hóa các bộ luật, quy định và các điều khoản hành chính của các quốc gia thành viên liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với các sản phẩm khuyết tật (sau đây gọi tắt là Chỉ thị 85 về trách nhiệm sản phẩm) thì một sản phẩm được coi
là khiếm khuyết khi nó không an toàn mà người có liên quan mong đợi [7] Theo
Luật trách nhiệm đối với sản phẩm Nhật Bản, sản phẩm khuyết tật xuất phát từ sự thiếu an toàn mà sản phẩm ban đầu mang lại, phải kể đến bản chất của sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm có thể nhìn thấy trước được từ ban đầu, thời gian khi nhà sản xuất phân phối sản phẩm và các hoàn cảnh khác liên quan đến sản phẩm
Như vậy, mặc dù có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về hàng hóa khuyết tật, tuy nhiên một điểm tương đồng trong các định nghĩa về sản phẩm có khuyết tật đó là sản phẩm có thể gây ra nguy hiểm trong điều kiện sử dụng bình thường, không bảo đảm an toàn mà NTD mong đợi một cách chính đáng Chất lượng hàng hóa được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá trình tạo ra sản phẩm
với vòng đời gồm các giai đoạn sau: thiết kế, chế tạo và đưa vào lưu thông [11]
Trang 16Do vậy, khuyết tật của sản phẩm có thể có 03 loại: khuyết tật do thiết kế, khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do không cảnh báo hoặc cảnh báo không đầy đủ những nguy hiểm có thể xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm Khuyết tật do thiết kế, do sản xuất là những khuyết tật phát sinh do việc thiết kế hoặc hoạt động sản xuất mà tạo ra những “thiếu sót vốn có trên sản phẩm”, làm cho sản phẩm có
“đặc tính” nguy hiểm cho người sử dụng Sự khác nhau cơ bản giữa khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế là khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm xuất hiện khi thành phẩm không tuân theo dự kiến hoặc quy cách chất lượng mà nhà sản xuất đề ra Tuy nhiên, khuyết tật của sản phẩm phải chứa đựng sự thiếu an toàn một cách bất hợp lý (unreasonably) khi sử dụng và gây nguy hiểm quá mức với NTD Nên không được coi là sản phẩm khuyết tật khi thuốc gây tác dụng phụ, màn hình máy tính gây nhức mắt cho người xem, điện thoại di động nghe lâu sẽ làm đau đầu…vì đó là những khuyết tật “hợp lý” trong điều kiện khoa học công nghệ hiện tại Do vậy, một sản phẩm chứa đựng sự nguy hiểm này là bản chất của sản phẩm, luôn tồn tại hợp lý trong cấu tạo sản phẩm, trong quá trình sử dụng sản phẩm thì không bị coi là sản phẩm khuyết tật
Trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hóa, sản phẩm của thế hệ sau được hoàn thiện trên nền tảng sản phẩm của thế hệ trước Do vậy, một sản phẩm không bị coi là khuyết tật khi có một sản phẩm khác hoàn thiện hơn được đưa vào lưu thông Một trong những yếu tố để đánh giá một sản phẩm có khuyết tật ngoài khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế là sự cảnh báo thích hợp về đặc tính nguy hiểm tiềm ẩn trong sản phẩm mà nếu không được cảnh báo hoặc cảnh báo không đầy đủ thì sản phẩm sẽ gây thiệt hại cho NTD Sự cảnh báo thích hợp về sự nguy hiểm tiềm ẩn trong sản phẩm phải thỏa mãn điều kiện: khi sử dụng sản phẩm
đó sẽ không phát sinh các rủi ro một cách vô lý cho người sử dụng Hiện nay, có rất nhiều hình thức cảnh báo và hướng dẫn sử dụng sản phẩm thể hiện được đặc tính nguy cơ tiềm ẩn của sản phẩm để việc sử dụng sản phẩm không phát sinh rủi ro vô
lý cho NTD Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều những cảnh báo và hướng dẫn ghi trên nhãn mác sản phẩm như: “Không sử dụng đối với phụ nữ
Trang 17đang mang thai và cho con bú”, “Để xa tầm tay trẻ em”, “Không được uống”, “Hút thuốc là có thể gây ung thư phổi”, “Không được để hóa chất tiếp xúc với da”…Do
đó, nếu một sản phẩm có ẩn chứa những nguy cơ gây nguy hiểm mà được cảnh báo một cách thích hợp cho người sử dụng theo cách thức thông thường thì nhà sản xuất không phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại do nguồn nguy hiểm đó gây ra cho
NTD [30] Ví dụ, theo tính toán của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm Việt
Nam có khoảng 40.000 người tử vong vì các bệnh liên quan đến sử dụng thuốc lá
[6] nhưng không có tổ chức, cá nhân kinh doanh nào bị khởi kiện về các thiệt hại to
lớn này vì các nhà sản xuất thuốc lá đã thực hiện những hình thức cảnh báo thích hợp trên vỏ bao thuốc lá
1.2.3 Khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
Theo quy định của Hiến pháp, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi
của người sản xuất và NTD [35, Điều 28] Việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa đã cung cấp hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD cũng là hành vi vi phạm quyền tài sản, quyền nhân thân của cá nhân - các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ [35, Điều 58, Điều 7]
Trách nhiệm, theo cách hiểu thông thường, là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh
chịu phần hậu quả [55, tr 985] Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trách nhiệm pháp
lý hiện nay còn nhiều tranh luận khác nhau Có ý kiến cho rằng, trách nhiệm pháp lý gồm hai loại: trách nhiệm theo nghĩa tích cực và trách nhiệm theo nghĩa tiêu cực
[23, tr 9] Trách nhiệm pháp lý theo nghĩa tích cực là sự tự giác, chủ động của chủ
thể trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý phù hợp với yêu cầu của pháp luật, việc chủ thể không thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý, vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu trừng phạt của Nhà nước Theo nghĩa tiêu cực “trách nhiệm pháp lý là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật”
Trang 18[21,tr 445] Trách nhiệm pháp lý này luôn gắn liền với việc cưỡng chế của Nhà
nước Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm pháp lý là những ràng buộc mà chủ thể pháp luật phải tuân thủ và gắn liền với việc áp dụng các chế tài do pháp luật quy định khi chủ thể đó có hành vi vi phạm pháp luật Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: (i) là những việc mà chủ thể nhất định phải thực hiện (theo nghĩa này, trách nhiệm đồng nghĩa với nghĩa vụ); (ii)
là những hậu quả mà chủ thể đã thực hiện những hành vi nhất định phải gánh chịu
[2] Theo pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD được đề cập dưới góc độ pháp lý tích cực (trách nhiệm mà mỗi cá nhân,
tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa phải bảo đảm cho NTD và xã hội) và trách nhiệm pháp lý tiêu cực (hậu quả bất lợi mà mỗi cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi
vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa) Trong luận văn này, trách nhiệm được sử dụng theo nghĩa thứ hai Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, trách nhiệm này được xem là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Pháp luật Việt Nam quy định: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm
chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho NTD thì phải bồi thường” [34, Điều 630]
Như vậy, trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD là những hậu quả bất lợi về mặt vật chất mà tổ chức, cá nhân phải gánh chịu do cung cấp hàng hóa có khuyết tật gây ra thiệt hại cho NTD, không phụ thuộc vào tổ chức,
cá nhân đó có lỗi hay không trong việc tạo ra hàng hóa có khuyết tật
1.3 Các bộ phận cấu thành trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật
1.3.1.Căn cứ xác định trách nhiệm
Cũng giống như các trường hợp khác của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD sẽ phát sinh khi thỏa mãn bốn điều kiện:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Có hành vi trái pháp luật;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại đã xảy ra;
Trang 19- Có lỗi của người gây ra thiệt hại
Tuy nhiên, khi phân tích từng điều kiện ta sẽ thấy được nét khác biệt của trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD so với các trường hợp khác của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế: Có thể nói đây là điều kiện tiền đề
của trách nhiệm bồi thường bởi có “thiệt hại” thì mới cần “bồi thường” Thiệt hại là điều kiện xác định trách nhiệm dân sự và cũng là điều kiện cần thiết để ấn định mức bồi thường cho bên gây ra thiệt hại Mục đích của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm gắn với việc bồi thường những thiệt hại đã xảy ra Vì vậy, thiệt hại là một điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
Vậy “thiệt hại” là gì và ảnh hưởng của thiệt hại đến trách nhiệm như thế nào? Thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân
hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ” [55] Từ định nghĩa trên và căn cứ vào
cách phân chia của BLDS 2015 thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm;
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm;
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm;
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Ta cũng có thể phân chia theo cách thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản
bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm,
bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm…và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu Thiệt hại do tổn thất về
Trang 20tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là
tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu Ngoài ra, nếu căn cứ vào diện được bồi thường thì ta có thể phân ra thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp
Mặc dù ta có thể phân chia thiệt hại theo cách này hay cách khác nhưng để được bồi thường thì thiệt hại đó phải là thiệt hại thực tế (đã xảy ra hoặc chắc chắn
sẽ xảy ra) phải là cái khách quan và có thật Người có hành vi trái pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của họ gây ra Vì vậy, nếu là BTTH trong hợp đồng thì mức bồi thường có thể bằng hoặc cao hơn thiệt hại thực
tế vì trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận và quy định phạt vi phạm… nhưng BTTH ngoài hợp đồng thì việc bồi thường phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật trên nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời Nghĩa
là việc bồi thường phải ngang giá theo đúng quy luật hàng – tiền của nền sản xuất hàng hóa, để đảm bảo rằng không ai được lợi không có căn cứ pháp luật từ việc bồi thường Mặt khác, ý nghĩa của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình trạng trước khi có thiệt hại, không nhằm mục đích trừng phạt, đảm bảo sự công bằng cho các bên Do vậy, BLDS cũng quy định người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình
Hầu hết các trường hợp BTTH ngoài hợp đồng thì trước thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường các bên không có mối quan hệ với nhau về quyền và nghĩa
vụ pháp lý Tuy nhiên trong trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD thì trách nhiệm lại thường phát sinh từ một hợp đồng trước đó (có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ…) Bởi vậy việc bồi thường cho NTD thường có sự đan xen giữa trách nhiệm trong và ngoài hợp đồng Vì vậy cần xác định cụ thể thiệt hại nào thuộc về trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD Thiệt hại do vi phạm quyền lợi NTD thường là những thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
Trang 21Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 590, BLDS 2015: Theo đó, “thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
- Thiệt hại khác do luật quy định
Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương
cơ sở do Nhà nước quy định.” Thiệt hại về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm là cái trừu tượng thuộc về bên trong con người, rất khó nắm bắt và xác định Để xác định thiệt hại về tinh thần sẽ không có một công thức chung vì tùy từng đối tượng, tùy từng điều kiện, hoàn cảnh mà ta có thể xem xét có thiệt hại về tinh thần hay không Theo quy định của BLDS thì trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại Mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định Như vậy ta có thể hiểu rằng khoản tiền bồi thường này là không đương nhiên và nó phụ thuộc khá nhiều vào ý chí của các bên đương sự Trước đây, trong BLDS năm 2005 chỉ quy định mức bồi thường tối đa không quá ba mươi tháng
Trang 22lương tối thiểu, tuy nhiên BLDS hiện hành đã nâng mức bồi thường lên thành năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định
Vậy theo BLDS 2015 ta có thể hiểu khoản BTTH về tinh thần là đương nhiên, nhưng các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì sẽ căn cứ vào quy định tương ứng tại BLDS Việc quy định mức trần trong BLDS sẽ tạo điều kiện thực thi bản án trên thực tế Nhìn chung những quy định trong BLDS là khá đầy đủ và hợp lý Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn rất chi tiết về việc xác định, tính toán những khoản thiệt hại kể trên nên ở đây tác giả chỉ xin bàn thêm một số vấn đề sau: Để đảm bảo cho nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời thì những chi phí được nêu ở trên phải là những “chi phí hợp lý” Nghĩa là bên cạnh việc đảm bảo yếu tố cần thiết và nhanh chóng (để giảm thiểu thiệt hại) thì những chi phí đó phải “là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí” (Nghị quyết 03)
Căn cứ vào hướng dẫn tại Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1, Phần 1, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại… Tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, nó chứa đựng những thuộc tính mà các loại “tài sản” khác không có Vì vậy, một khi tính mạng, sức khỏe con người đã
bị xâm phạm thì việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu” là rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể Tuy thuộc về mặt vật chất nhưng tính mạng và sức khỏe không thể quy ra một “lượng” cụ thể để định giá bởi vậy việc bồi thường chỉ mang tính chất khắc phục, nhằm bù đắp phần nào những tổn thất, mất mát mà người bị thiệt hại và gia đình của họ phải gánh chịu NTD là những người phải chịu những hậu quả trực tiếp từ việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng Những sản phẩm này đã có tác động không nhỏ đến sức khỏe, tính mạng NTD Tuy nhiên,
Trang 23NTD muốn được bồi thường thì phải chứng minh có thiệt hại và có những khoản chi phí để khắc phục Điều cần thiết là phải căn cứ vào những hóa đơn, chứng từ hợp lệ làm cơ sở cho việc yêu cầu BTTH
Thứ hai, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: “Hành vi trái pháp
luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động
vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật…” [51] Theo đó cũng có thể hiểu hành
vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật
Theo quy định chung của pháp luật thì mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, uy tín, nhân phẩm Vì vậy, người có hành vi xâm phạm đến những quyền tuyệt đối này đều bị coi là có hành vi trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay vô ý thậm chí trong những trường hợp cá biệt không có lỗi “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” [35, Điều 50] “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…” [35, Điều 71] “Cá nhân, pháp nhân không
được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm
nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật” [38, Điều 10] “Cá
nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” [38, Điều
13] Khi pháp luật đã có những quy định chặt chẽ như trên mà chủ thể nào xâm
phạm thì sẽ bị coi là có hành vi trái pháp luật và phải gánh chịu những hậu quả bất lợi Bởi lẽ pháp luật ghi nhận và cho phép các chủ thể có quyền chọn lựa cách xử sự phù hợp nhưng nếu đi trái lại nghĩa là trái pháp luật Xét về khía cạnh bảo vệ NTD thì hành vi trái pháp luật ở đây chính là hành vi vi phạm quyền lợi NTD Đó chính là sự
vi phạm những quyền căn bản của NTD đã được pháp luật ghi nhận và được xã hội tôn trọng Tiếp cận một bước gần hơn thì sự vi phạm quyền lợi của NTD xuất phát
Trang 24chính từ hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho NTD Vậy hàng hóa như thế nào là không đảm bảo chất lượng?
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng hàng hóa có ảnh hưởng đến cuộc sống con người và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này như: Luật Đo lường số 04/2011/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2012; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006… Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa có hiệu lực vào đầu năm 2008 thay thế cho Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999 Theo Luật Chất lượng hàng hóa 2007 thì: “Người sản xuất thông báo sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp chuẩn) hoặc với quy
chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy) [37 Khoản 1, Điều 24] Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật giải thích như sau: Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của NTD và các yêu cầu thiết yếu khác Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới
dạng văn bản để bắt buộc áp dụng [37 Điều 3]
Cũng theo Luật này, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu chuẩn kỹ thuật mà mình áp dụng và đảm bảo việc phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế tương ứng Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật thì các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các chỉ số để đánh giá chất lượng sản phẩm Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong DIS 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất lượng hàng hóa là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
Trang 25hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.” Hàng hóa không đảm bảo chất lượng là những hàng hóa được sản xuất, kinh doanh không đúng theo tiêu chuẩn (có thể là tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn Việt Nam…)
đã được cơ sở sản xuất kinh doanh đó công bố Cũng trên lập luận đó, hành vi sản xuất, kinh doanh sản phẩm trên bị coi là trái luật Khi có bất kỳ sự cố kỹ thuật nào xảy ra trong thời hạn bảo hành thì nhà sản xuất kinh doanh phải có trách nhiệm sửa chữa, bảo hành, thậm chí BTTH cho NTD Tuy nhiên, trong trường hợp NTD không thực hiện đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kinh doanh mà gây ra thiệt hại thì nhà sản xuất kinh doanh không phải chịu trách nhiệm bồi thường
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực
tế xảy ra: Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn Nếu giữa hành
vi và thiệt hại không có một mối liên hệ nào thì sự tồn tại khách quan và riêng lẻ đó
sẽ không là cơ sở để quy trách nhiệm cho một chủ thể cụ thể nào
Trong trách nhiệm BTTH nói chung và BTTH do vi phạm quyền lợi NTD thì việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là việc chỉ ra thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra trên thực tế Nó phải được gắn bó với nhau trong một quá trình vận động Mối quan hệ này luôn có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu Nghĩa là không phụ thuộc vào ý chí của con người, tồn tại trong mọi xã hội và cùng một nguyên nhân nhất định thì trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau Ở đây hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng, vi phạm quyền lợi của NTD phải là nguyên nhân và thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… của NTD là hậu quả của hành vi đó Tuy nhiên, một hậu quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và một nguyên nhân cũng có thể làm phát sinh nhiều hậu quả Bởi vậy, việc xác định mối tương quan giữa chúng là một việc vô cùng phức tạp Muốn xác định đúng thiệt hại nào là hậu quả của hành vi trái pháp luật nào thì trước hết cần phải có những căn cứ đầy đủ và khách quan làm cơ sở để đánh giá Sau đó cần xem xét, phân tích nó trong tổng thể những sự kiện, hoàn cảnh khi thiệt
Trang 26hại xảy ra, nếu cần thiết phải có sự hỗ trợ của cơ quan giám định Việc đánh giá phải rất thận trọng vì chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến những đánh giá sai lầm và sẽ không thể tìm được mối dây liên hệ BLDS 2015 không quy định nghĩa vụ chứng minh nhưng trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định nghĩa
vụ chứng minh của các đương sự Theo đó, trong trường hợp này, NTD yêu cầu BTTH phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ Sau đó, việc chứng minh không có lỗi thuộc về nghĩa vụ của nhà sản xuất kinh doanh
Hiện nay, BLDS 2015 chưa có quy định cụ thể về cách xác định mối quan hệ nhân quả Việc xác định mối quan hệ nhân quả vẫn dựa trên yếu tố ảnh hưởng của các nguyên nhân đối với thiệt hại Nghĩa là ta phải tìm ra nguyên nhân có tính chất tất yếu và quyết định dẫn đến thiệt hại, từ đó mới xác định được người chịu trách nhiệm bồi thường Có hai trường hợp:
+ Một là: có nhiều hành vi trái pháp luật nhưng chỉ có một hành vi trái pháp luật duy nhất có tính chất quyết định gây ra thiệt hại Ví dụ: một người đang điều khiển xe máy trên đường nhưng đột nhiên xe bị chết máy giữa đường Một chiếc xe tải do chạy quá tốc độ đã đâm vào xe máy đó gây hậu quả chết người Trong trường hợp này có thể nhà sản xuất đã không đảm bảo chất lượng để xe máy vận hành bình thường nhưng đó không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho người điều khiển xe máy mà nguyên nhân chính là do người lái xe tải đã không làm chủ được tốc độ của mình và gây tai nạn
+ Hai là: tất cả những hành vi trái pháp luật đều là nguyên nhân có quyết định như nhau dẫn đến thiệt hại Trường hợp này sẽ phát sinh trách nhiệm liên đới giữa các chủ thể cùng gây ra thiệt hại Ví dụ: A sản xuất rượu giả, B biết nhưng vẫn mua
về bán dẫn đến NTD bị ngộ độc, một số trường hợp bị tử vong Trường hợp này cả
A và B đều có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trực tiếp cho NTD và phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường
Trang 27Tóm lại việc xác định mối quan hệ nhân quả rất có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của người gây ra thiệt hại Đó phải là trách nhiệm được nhìn nhận đúng đắn và khách quan trên cơ sở đảm bảo quyền được bồi thường của NTD
Thứ tư, có lỗi của người gây ra thiệt hại: Lỗi là một trong những yếu tố làm
phát sinh trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng Điều 364 BLDS 2015 quy định: “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi
cố ý, lỗi vô ý Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”
Trong trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD ta có thể dễ dàng nhận ra một điều là nhà sản xuất kinh doanh là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm và bán ra thị trường nên chính họ là những người am tường nhất về sản phẩm của mình về tất cả các mặt, từ kỹ thuật đến tính năng, công dụng, phản ứng… còn NTD chỉ là những người được cung ứng và sử dụng sản phẩm trên cơ sở hướng dẫn của nhà sản xuất kinh doanh Bởi vậy, NTD sẽ ở một vị trí “yếu thế” hơn so với nhà sản xuất kinh doanh Trong trường hợp sản phẩm không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại thì nhà sản xuất kinh doanh mặc nhiên bị coi là có lỗi (có thể không phải là lỗi cố ý nhưng do một khiếm khuyết tại một khâu nào đó trong dây truyền sản xuất dẫn đến sản phẩm không đảm bảo chất lượng như tiêu chuẩn…) Lỗi ở đây là lỗi suy đoán Trong trường hợp này muốn thoát khỏi trách nhiệm nhà sản xuất kinh doanh phải chứng minh mình không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng nhà sản xuất kinh doanh phải chịu trách nhiệm BTTH trong mọi trường hợp không phụ thuộc vào yếu tố lỗi Nghĩa là lỗi không phải là một căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH cho NTD (không tính đến yếu tố lỗi) Quan điểm này phù hợp với xu hướng hiện nay các nước đều rất chú trọng đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và vấn đề bảo vệ quyền lợi của NTD trước những cách thức tinh
Trang 28khoa học công nghệ tiên tiến Quy định như vậy cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà sản xuất kinh doanh đối với NTD và lợi ích của cả cộng đồng Tuy nhiên quan điểm này chưa đủ sức thuyết phục vì nó không dựa trên cơ sở những quy định
cụ thể của pháp luật, tất cả mới chỉ là sự phỏng đoán và có thể đúng trong trường hợp này nhưng lại không đúng trong trường hợp khác Điều đó sẽ tạo nên sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật Như vậy sẽ không đảm bảo sự công bằng cho nhà sản xuất kinh doanh trong mối quan hệ với NTD Cũng có tác giả cho rằng một trong những trường hợp phải BTTH ngay cả khi không có lỗi là khi hàng hóa là nguồn nguy hiểm cao độ Nhưng theo tác giả đây không phải là một trường hợp khác của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bởi nguyên nhân sau: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ phải BTTH ngay cả khi không có lỗi…” [38, Điều 601] nhưng khi
hàng hóa đã được chuyển quyền sở hữu cho NTD thì NTD sẽ là chủ sở hữu chứ nhà sản xuất kinh doanh không còn là chủ sở hữu nữa Vì vậy, nếu NTD sử dụng sản phẩm không đảm bảo chất lượng đó mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì trước tiên NTD phải bồi thường trước còn việc hàng hóa là nguồn nguy hiểm cao độ đó không đảm bảo chất lượng lại là trách nhiệm trong hợp đồng giữa nhà sản xuất và NTD Như vậy trách nhiệm của nhà sản xuất kinh doanh không hề liên quan đến trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Việc hàng hóa có là nguồn nguy hiểm cao độ hay không không ảnh hưởng đến việc xác định lỗi của nhà sản xuất trong trường hợp này Theo quan điểm của tác giả lỗi của nhà sản xuất kinh doanh trong trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD là lỗi suy đoán Tựu chung lại, yếu tố lỗi là một trong những điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD Yếu tố lỗi trong nhiều trường hợp rất khó xác định và cần phải căn cứ vào những quy định của pháp luật ở nhiều ngành luật khác nhau kết hợp với các điều kiện khác làm phát sinh trách nhiệm BTTH thì mới có thể đưa ra phương án giải quyết hợp lý
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật mặc dù là loại trách nhiệm pháp lý đặc thù, phát sinh không phụ thuộc vào lỗi của tổ
Trang 29khuyết tật đã gây ra cho NTD Do vậy, trách nhiệm này phát sinh khi có các điều kiện sau đây:
- Có sản phẩm, hàng hóa khuyết tật;
- Có thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa khuyết tật gây ra;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sản phẩm, hàng hóa khuyết tật Như vậy, trách nhiệm này hướng trọng tâm vào sản phẩm, hàng hóa khuyết tật
1.3.2.Các yếu tố khác
- Chủ thể chịu trách nhiệm:
Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho NTD Tuy nhiên, sản phẩm đến tay NTD có thể thông qua một chuỗi các hoạt động cung ứng sản phẩm của nhiều chủ thể như người sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối hoặc người trực tiếp bán hàng với vai trò, ảnh hưởng rất khác nhau đối với chất lượng hàng hóa Để có thể bảo vệ kịp thời quyền lợi của NTD, cần xác định nguyên tắc người có quan hệ pháp lý trực tiếp với NTD, dù là người sản xuất hay không phải người sản xuất phải chịu trách nhiệm về khuyết tật sản phẩm đã cung cấp cho NTD Mối liên hệ trực tiếp với sản phẩm có thể dưới các hình thức sau:
+ Là người sản xuất ra sản phẩm
+ Người thực hiện vai trò phân phối trung gian với sản phẩm
+ Người cung cấp trực tiếp sản phẩm đến NTD
Với các hình thức trên, những người phải chịu trách nhiệm bao gồm: Người sản xuất sản phẩm, người nhập khẩu hoặc người trực tiếp bán sản phẩm cho NTD
- Hình thức của trách nhiệm:
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa bị khuyết tật có mục đích là khôi phục, phục hồi các thiệt hại đã gây ra cho NTD Theo trách nhiệm này, bên cạnh việc BTTH còn khắc phục nguy cơ gây ra thiệt hại của sản phẩm, hàng hóa khuyết tật
- Phạm vi trách nhiệm:
Trang 30Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật không chỉ áp dụng với thiệt hại về nhân thân và tài sản của người có quan hệ trực tiếp với tổ chức, cá nhân kinh doanh (mua bán hàng hóa) mà còn với người thứ ba (sử dụng hàng hóa) nhưng không áp dụng với chính sản phẩm, hàng hóa khuyết tật
- Thời hiệu:
Thời hiệu là thời gian phù hợp với việc sử dụng sản phẩm mà tổ chức, cá nhân kinh doanh phải chịu trách nhiệm đối với NTD Theo pháp luật các nước thì trách nhiệm BTTH của nhà sản xuất chấm dứt sau 10 năm, kể từ ngày đưa sản phẩm vào lưu thông Thời hiệu yêu cầu bồi thường là 3 năm kể từ ngày người yêu cầu bồi thường biết
về thiệt hại
-Miễn trừ trách nhiệm:
Để bảo vệ sự công bằng và không làm hạn chế hoạt động kinh doanh, tổ chức,
cá nhân kinh doanh được miễn trách nhiệm trong một số trường hợp sau:
+ Đã không đưa sản phẩm vào lưu thông;
+ Khuyết tật gây ra thiệt hại không tồn tại vào thời điểm đưa sản phẩm vào lưu thông hoặc khuyết tật này phát sinh sau đó;
+ Trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm đưa sản phẩm vào lưu thông không cho phép phát hiện ra khuyết tật;
+ Khuyết tật là do phải tuân thủ các quy định bắt buộc của pháp luật
Kết luận chương 1
Trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa bị khuyết tật là trách nhiệm phát sinh do cung cấp sản phẩm, hàng hóa khuyết tật cho NTD, không phụ thuộc vào lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh
Trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa bị khuyết tật nhằm ngăn ngừa và khôi phục thiệt hại nên tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa khuyết tật gây ra
Trang 31CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO
Thiệt hại về tài sản được biểu hiện cụ thể là những mất mát về tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản
Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ Những thiệt hại này được quy định cụ thể tại Khoản 1, Điều
590 và Điều 591 BLDS năm 2015
2.1.1.2 Thiệt hại về tinh thần
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại thì thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm hoặc những suy sụp tình cảm, tâm lý của cá nhân bao gồm: Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất
uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp
Trang 32nhân và các chủ thể khác không phải là cá nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là
do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn
thất mà tổ chức phải chịu [13, Điều 1]
Như vậy thiệt hại về tinh thần do vi phạm quyền lợi NTD là NTD do sử dụng hàng hoá dịch vụ với mục đích sinh hoạt gây ra những tổn thất về sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, uy tín hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà những người thân của NTD phải chịu đau thương buồn phiền mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín,
bị bạn bè xa lánh do bị hiểu lầm Ví dụ: anh A mua mỹ phẩm đến tặng cô B nhân kỉ niệm ngày họ chia tay tròn 2 năm nhưng do mỹ phẩm đó không đảm bảo chất lượng làm cho cô B bị nhiễm trùng da và làm biến dạng khuôn mặt Vì vậy mà anh A bị cô
B và bạn bè xa lánh do hiểu lầm anh cố tình huỷ hoại dung nhan cô B vì vẫn còn thù hận cô B đã bỏ rơi anh
2.1.2 Có tồn tại của hàng hóa có khuyết tật
Hàng hóa có khuyết tật bao gồm: Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn
trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho NTD [36,
Điều 3] Từ đó, có thể nhận diện những khuyết tật cụ thể như sau:
Thứ nhất, khuyết tật do sản xuất bao gồm việc lắp ráp không đúng quy định,
thiếu các chi tiết, các bộ phận liên kết không chặt, sử dụng nguyên vật liệu không
đạt tiêu chuẩn hoặc nguyên vật liệu hư hỏng [17] Khuyết tật do sản xuất có thể
được giảm thiểu hoặc được loại bỏ hoàn toàn nếu sản phẩm được chế tạo với các nguyên, vật liệu đạt tiêu chuẩn hoặc được chế tạo bởi một người lao động tuân thủ đúng các quy trình kỹ thuật và có tay nghề cao
Thứ hai, khuyết tật do thiết kế xuất phát từ lỗi thiết kế không đạt tiêu chuẩn
quy định mặc dù sản phẩm được sản xuất hoàn hảo và được chế tạo bằng các nguyên vật liệu tốt nhất Ví dụ, mỗi loại máy cưa điện được sản xuất đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhưng trong thiết kế không có hệ thống bảo vệ để bảo vệ
Trang 33bàn tay của người dùng vì lưỡi dao chuyển động quá nhanh khiến người dùng có nguy cơ bị thương rất cao
Thứ ba, khuyết tật do cảnh báo tức là không thực hiện việc cảnh báo hoặc thực
hiện cảnh báo không đầy đủ Vấn đề đặt ra ở đây không phải là vấn đề với bản thân sản phẩm Thay vào đó, một khuyết tật do cảnh báo là khuyết tật khi đưa ra thị trường, nhà sản xuất không cảnh báo cho NTD biết về những nguy hiểm khi sử dụng sản phẩm hoặc sử dụng không đúng sản phẩm Theo học thuyết về “việc sử dụng không đúng có thể thấy trước” (forseeable misuse) thì nhà sản xuất phải cảnh báo cả những mối hiểm họa liên quan đến việc sử dụng không đúng sản phẩm Khiếm khuyết do cảnh báo phát sinh ngay cả khi nhà sản xuất không cảnh báo đầy
đủ cho người sử dụng ở tất cả các rủi ro có thể dự đoán trước hoặc khi có cảnh báo nhưng cảnh báo rất “mơ hồ”, không rõ ràng khiến NTD dù ở trình độ hiểu biết ở mức trung bình cũng không hiểu cảnh báo nguy hiểm đó là gì và làm thế nào để phòng tránh nguy hiểm xảy ra với mình Trên thế giới, đã phát sinh nhiều vụ kiện của NTD với nhà sản xuất về việc không cảnh báo đặc tính nguy cơ tiềm ẩn của sản phẩm được coi là khuyết tật Một trong những vụ kiện nổi tiếng thế giới là vụ những người hút thuốc lá kiện nhà sản xuất thuốc lá Malborro về những thiệt hại liên quan đến đường hô hấp, đặc biệt là ung thư phổi do không được cảnh báo về sự nguy hiểm của việc sử dụng sản phẩm này Tòa án đã phán quyết sản phẩm thuốc lá Malborro là có khuyết tật và nhà sản xuất sản phẩm này phải bồi thường cho người
bị thiệt hại Có tồn tại hàng hóa khuyết tật, tức là hàng hóa ấy phải tồn tại trên thực
tế thông qua giao dịch mua bán giữa NTD với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa hoặc thông qua sự trao đổi, tặng cho giữa NTD và người sử dụng hàng hóa Những khuyết tật của hàng hóa phải là những khuyết tật có thể phát hiện được với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa
2.1.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật và thiệt hại
Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan của bản thân các sự vật, tất
cả các hiện tượng đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định Khi xem xét
Trang 34mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật của hàng hóa với thiệt hại xảy ra, cần xem xét dưới các khía cạnh sau:
Thiệt hại xảy ra là kết quả từ việc NTD sử dụng hàng hóa có khuyết tật hay ngược lại khuyết tật của hàng hóa là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra Điều này được quy định tại Điều 584 BLDS 2015: “Người nào…xâm phạm…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường” Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là một vấn
đề rất phức tạp Theo phép biện chứng duy vật thì quan hệ nhân quả là một dạng của mối liên hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được coi là nguyên nhân với những điều kiện nhất định đã làm phát sinh một hiện tượng khác Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD dựa trên cơ sở của mối quan hệ mang ý nghĩa nhân quả giữa khuyết tật của hàng hóa với thiệt hại xảy ra với NTD Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD sẽ không phát sinh nếu thiệt hại xảy ra không phải là kết quả tất yếu, trực tiếp của hàng hóa
có khuyết tật Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật của hàng hóa và thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD cần phải đảm bảo cho được tính tất yếu khách quan vốn có quy luật của sự việc, hiện tượng chứ không thể chỉ căn cứ vào một sự ngẫu nhiên nào đó
2.1.4 Vấn đề lỗi trong trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
2.1.4.1 Có lỗi của chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường [38, Điều 584] Trên cơ sở nguyên tắc này, Luật CLSPHH quy định:
“Người sản xuất, người nhập khẩu, người bán hàng phải BTTH cho NTD trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của mình; lỗi của người sản xuất, người nhập khẩu, người bán hàng thể hiện ở việc không bảo đảm chất lượng hàng hóa đã cung
cấp cho NTD” [37, Điều 61] Như vậy, theo các quy định trên, trách nhiệm BTTH
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD chỉ phát sinh khi có đầy đủ điều kiện,
Trang 35trong đó lỗi là một điều kiện bắt buộc, cụ thể là: có hành vi vi phạm pháp luật; lỗi của chủ thể sản xuất, kinh doanh; có thiệt hại gây ra cho NTD; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại gây ra cho NTD
Trong lý luận về trách nhiệm BTTH nói chung, các nhà khoa học cho rằng trách nhiệm này phát sinh khi có đầy đủ bốn điều kiện, trong đó lỗi là một điều kiện
cần và đủ [23, tr 105-109], [49, tr 48 - 52], [13] Cho đến thời gian gần đây, về
mặt lý thuyết, lỗi đóng vai trò quan trọng trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH trong hay ngoài hợp đồng Do đó, nếu có hành vi trái pháp luật, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả nhưng người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
không có lỗi thì trách nhiệm BTTH không phát sinh [12]
Với nguyên tắc trách nhiệm BTTH dựa trên cơ sở lỗi, trách nhiệm này chỉ phát sinh khi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa có lỗi, dù là lỗi cố ý hoặc
vô ý Theo nguyên tắc này, NTD chỉ được BTTH khi chứng minh được các chủ thể
đã có lỗi trong việc tạo ra hàng hóa khuyết tật mà gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe hay tính mạng cho NTD Nếu NTD không chứng minh được lỗi của chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa có khuyết tật thì yêu cầu BTTH của NTD sẽ không được thực hiện và chủ thể sản xuất, kinh doanh gây thiệt hại nhưng không phải bồi thường
Chứng minh lỗi là chứng minh yếu tố chủ quan - đó là “nhận thức” hoặc
“trạng thái tâm lý” của các chủ thể trong quá trình tạo ra hàng hóa có khuyết tật có thể gây hậu quả cho NTD Pháp luật về BTTH không định nghĩa về lỗi mà chỉ quy định chung về hai hình thức lỗi là lỗi cố ý, lỗi vô ý nhưng đều quy định chung về hai hình thức lỗi này là “nhận thức” về thiệt hại của người có hành vi gây thiệt hại Trong cả hai hình thức lỗi, người gây thiệt hại đều nhận thức (biết hoặc phải biết)
hành vi của mình gây thiệt hại cho người khác [38, Điều 364]
Các tác giả bình luận BLDS năm 2015 cho rằng: Lỗi là thái độ tâm lý hay trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại đối với hành vi…Như vậy, một người bị coi là có lỗi khi người gây thiệt hại nhận thức được hoặc không nhận thức được
Trang 36nhưng có đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất gây thiệt hại của hành vi
và có đủ điều kiện để điều khiển một hành vi không gây thiệt hại [4, tr 703 - 704,]
Tuy nhiên, việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật gặp phải một số khó khăn sau:
Thứ nhất, để tồn tại và phát triển, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa phải
áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm tạo ra hàng hóa có nhiều tính năng, tác dụng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NTD Hàng hóa có hàm lượng chất xám càng cao thì giá trị gia tăng và lợi ích mang lại càng lớn Tuy nhiên, bản thân nó cũng chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho tài sản, sức khỏe con người
mà khi ứng dụng nó, con người chưa có hiểu biết đầy đủ, chưa kể việc lợi dụng khoa học công nghệ cho những mục đích xấu khác như cho đioxin vào thức ăn chăn nuôi để kích thích tăng trọng vật nuôi, cho formole vào thực phẩm để tăng độ dai và kéo dài thời gian bảo quản, dấm quả xanh thành quả chín bằng đất đèn chỉ trong thời gian siêu ngắn, cho nitơ vào sữa để tăng độ đạm giả tạo, sử dụng hóa chất để kích thích tăng trọng của cây trồng…Thực tiễn, nhiều sản phẩm mới được tạo ra do ứng dụng khoa học công nghệ mà trong quá trình sản xuất, bảo quản tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và sản phẩm trước khi đưa vào lưu thông đã được nhà nước kiểm soát chất lượng chặt chẽ, nhưng ở thời điểm đó, chính các nhà khoa học cũng chưa phát hiện được tính nguy hiểm cũng như tính hữu ích của hàng hóa
Có nghiên cứu cho rằng, Với việc tiếp cận nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt, người tiêu dùng ở châu Âu không cần phải chứng minh lỗi của nhà sản xuất nếu phát hiện ra khuyết tật Tuy nhiên, với pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này còn khá nhiều bất cập trong nghĩa vụ chứng minh Ngoài ra, quy định miễn trừ trách nhiệm là quy định tiến bộ trong pháp luật châu Âu mà Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm Thiết nghĩ, trong thời gian gần đây có rất nhiều vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần phải làm rõ hơn những yêu cầu pháp lý nhằm giải quyết hiệu quả sản phẩm khuyết tật gây thiệt hại
cho người tiêu dùng [41]
Trang 37Thứ hai, mỗi hàng hóa đều sản xuất theo quy trình, tiêu chuẩn nhất định mà
người hiểu biết và nắm rõ nhất quy trình sản xuất và bảo quản hàng hóa là nhà sản xuất Với nhiều hàng hóa, quy trình sản xuất là yếu tố quyết định đặc trưng, chất lượng hàng hóa, là bí mật kinh doanh, quyết định sự thành bại của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa trong môi trường cạnh tranh toàn cầu quyết liệt Do vậy, bí mật kinh doanh được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bảo vệ bí
mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận [36, Điều 85] Vì
vậy, quy trình sản xuất luôn được tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa luôn bảo
vệ, giữ gìn nghiêm ngặt và có thể là bí mật kinh doanh được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ Do vậy, việc tiếp cận quy trình sản xuất của NTD trong nhiều trường hợp là không được phép, ngay cả trường hợp có tranh chấp về hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD Ngoài ra, NTD thường không có điều kiện về chuyên môn kỹ thuật, không thể biết quy trình sản xuất ra hàng hóa nên việc chứng minh được lỗi trong quá trình tạo ra hàng hóa khuyết tật là rất khó khăn Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp để chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa còn tốn kém hơn số tiền có thể được bồi thường vì phải thuê các tổ chức, cá nhân cung
cấp dịch vụ tư vấn, giám định [30, tr 43] Nếu các hàng hóa không an toàn, gây
thiệt hại cho NTD vẫn để sử dụng trước khi không chứng minh được lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa thì có thể gây thiệt hại rất lớn cho cộng đồng, cho NTD Ở các nước, việc bỏ yếu tố lỗi dựa trên thực tiễn xét xử đã đưa ra kết luận
là rất khó chứng minh yếu tố lỗi Khi đó, lỗi còn được quan tâm chủ yếu trong trách nhiệm ngoài hợp đồng Vì vậy, ngay từ đầu những năm 80, Cộng đồng châu Âu đã xác định trách nhiệm bồi thường do sản phẩm khiếm khuyết gây ra không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của nhà sản xuất mới có thể giải quyết được vấn đề giảm thiểu rủi ro
do các sản phẩm có được trong quá trình hiện đại hóa sản xuất và tiến bộ kỹ thuật
[18, tr 43, 44]
2.1.4.2 Không có lỗi của chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Ở Việt Nam hiện nay, việc chứng minh lỗi của nhà sản xuất trong việc cung cấp hàng hóa có khuyết tật cũng không thuận lợi hơn các nước đã từng vấp phải
Trang 38Trong Báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của Dự án Luật BVQLNTD: “theo các căn cứ yêu cầu BTTH hiện tại, NTD hầu như không có cơ hội chứng minh thiệt hại của chính mình là do lỗi của thương nhân gây ra Ngay cả trong trường hợp thương nhân không chứng minh được mình có lỗi thì khả năng yêu cầu BTTH của NTD chỉ khoảng 5% thành công” [1] Như vậy, với thực tế này, nếu như không chứng minh được lỗi thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa cũng không phải BTTH, mặc dù hàng hóa khuyết tật do họ cung cấp đã gây thiệt hại cho NTD Trường hợp chuyển việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người
có trách nhiệm BTTH thì khả năng NTD được BTTH vẫn phải phụ thuộc vào việc
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có lỗi khi gây ra khuyết tật của hàng hóa thì trách nhiệm BTTH sẽ không được đặt ra Trong khi đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa nắm trong tay bí quyết công nghệ, quy trình sản xuất và các chứng cứ chứng minh lỗi nên không khó khăn chứng minh được rằng mình không có lỗi với
lý do khuyết tật của hàng hóa nằm ngoài nhận thức, hiểu biết của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa Để tạo điều kiện cho NTD trong việc đòi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa BTTH cần phải xác định trách nhiệm BTTH không có yếu tố
lỗi [12]
Luật BVQLNTD năm 2010 quy định như sau: Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm BTTH trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD, kể cả khi tổ chức,
cá nhân đó không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường
hợp quy định tại Điều 24 của Luật này [40, Điều 23]
Điều 24 Luật BVQLNTD năm 2010 quy định: Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa quy định tại Điều 23 của luật này được miễn trách nhiệm BTTH khi chứng minh được khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa cung cấp cho
NTD [40, Điều 24]
Như vậy, ngoại trừ trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa chứng minh được khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ khoa học,
Trang 39kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa cung cấp cho NTD thì
dù tổ chức bán hàng không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật vẫn phải có trách nhiệm BTTH
Ngoài ra, Luật BVQLNTD quy định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự
về BVQLNTD như sau: NTD có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại Tòa án quyết định bên có lỗi trong
vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi NTD [40, Điều 42]
Do đó, trong trường hợp nêu trên, NTD có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
2.2 Chủ thể của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
2.2.1 Chủ thể chịu trách nhiệm BTTH
Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia vào quan hệ pháp luật đó Điều 608 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ
mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.” Luật BVQLNTD quy định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH là: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa bao gồm: a) Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa; b) Tổ chức, cá nhân xuất khẩu hàng hóa; c) Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa; d) Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa có khuyết tật cho NTD trong trường hợp không xác định được tổ chức, cá nhân có trách nhiệm BTTH
quy định tại các điểm a, b và c khoản này” [40, Điều 23]
Luật CLSPHH quy định về BTHH do hàng hóa có khuyết tật gây ra rất cụ thể,
chi tiết [37, Điều 10, Điều 12, Điều 16, Điều 61] Theo đó, người sản xuất, nhập
Trang 40khẩu phải BTTH cho NTD trong trường hợp hàng hoá gây thiệt hại do lỗi của nhà sản xuất, nhập khẩu không đảm bảo chất lượng hàng hoá Người bán hàng phải bồi thường cho NTD trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng
không đảm bảo CLSPHH [37, Điều 62]
Xác định được chủ thể chịu trách nhiệm BTTH có ý nghĩa quan trọng, bởi chỉ khi nào xác định rõ người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp có chuỗi chủ thể tham gia cung ứng sản phẩm thì yêu cầu bồi thường của NTD mới có thể thực hiện được, nếu không các chủ thể sẽ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau
Quy định chủ thể là tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại chịu trách nhiệm BTTH phù hợp với tổ chức, hoạt động thương mại của tổ chức, cá nhân đó Theo đó, các tổ chức, cá nhân có quyền nhượng quyền thương mại cho tổ chức, cá nhân khác gia công hàng hóa mang tên thương mại hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại của mình Tổ chức, cá nhân nhượng quyền thương mại hoặc cho tổ chức, cá nhân khác gia công hàng hóa phải bảo đảm chất lượng hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác sản xuất được mang tên thương mại hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại của mình Đây là quy định vừa bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân vừa bảo đảm quyền lợi của NTD
2.2.2 Chủ thể được BTTH
Thông qua các quy định của pháp luật về xác định thiệt hại thì chủ thể được nhận BTTH là những người bị thiệt hại trực tiếp, là những người bị chính hành vi vi phạm pháp luật của người gây thiệt hại gây ra cho họ và những người bị thiệt hại gián tiếp là những người được người thiệt hại chăm sóc, cấp dưỡng nuôi dưỡng hoặc là những người thân thích của người bị thiệt hại bị tổn thất về tinh thần Cụ thể:
- Thiệt hại về tài sản: chủ tài sản được BTTH
- Thiệt hại về sức khoẻ: những người được BTTH bao gồm: Một là, người bị thiệt hại về sức khoẻ được BTTH Thực tế thì sức khoẻ của con người là vô giá nên không tính toán tổn thất thực tế như tài sản được mà việc BTTH chỉ mang tính hỗ trợ, bù đắp một phần nào đó cho người bị thiệt hại Đó là các chi phí cần thiết để họ