1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Logic hình thức dành cho sinh viên khối ngành kỹ thuật

172 303 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 172
Dung lượng 1,49 MB

Nội dung

Sách logic hình thức dành cho sinh viên khối ngành kỹ thuật gồm 6 chương: CHƯƠNG 1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LOGIC HỌC, CHƯƠNG 2. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA LOGIC HÌNH THỨC, CHƯƠNG 3. KHÁI NIỆM, CHƯƠNG 4. PHÁN ĐOÁN, CHƯƠNG 5. SUY LUẬN, CHƯƠNG 6. CHỨNG MINH VÀ BÁC BỎ

Trang 1

LÊ THỊ QUỲNH TRANG (Chủ biên)

TRƯƠNG THỊ THU HƯƠNG, ĐỖ THỊ TÁM,

PHẠM THANH CƯỜNG, NGUYỄN THỊ LINH, TRƯƠNG TUẤN ANH

LOGIC HÌNH THỨC

DÙNG CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KỸ THUẬT

Trang 2

MÃ SỐ:

05-542016

Trang 3

ĐHTN-MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LỊCH

SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LOGIC HỌC 10

1.1 Đối tượng nghiên cứu của Logic học 10

1.1.1 Logic và Logic học 10

1.1.2 Tư duy và tư duy logic 12

1.1.3 Tư duy và ngôn ngữ 15

1.1.4 Nội dung và hình thức của tư tưởng 17

1.1.5 Đối tượng nghiên cứu của logic học 23

1.2 Lịch sử phát triển của logic học 24

1.2.1 Lược sử phát triển của logic học 24

1.2.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu logic học 31

CHƯƠNG 2 CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA LOGIC HÌNH THỨC 34

2.1 Quy luật đồng nhất 34

2.1.1 Nội dung của quy luật đồng nhất 34

2.1.2 Cơ sở khách quan của quy luật đồng nhất 35

Trang 4

2.2.3 Yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn và các

sai lầm có thể phạm phải 38

2.3 Quy luật loại trừ cái thứ ba 39

2.3.1 Nội dung của quy luật loại trừ cái thứ ba 39

2.3.2 Cơ sở khách quan của quy luật loại trừ cái thứ ba 40

2.3.3 Yêu cầu của quy luật loại trừ cái thứ ba và sai lầm có thể phạm phải 41

2.4 Quy luật lý do đầy đủ 42

2.4.1 Nội dung của quy luật lý do đầy đủ 42

2.4.2 Cơ sở khách quan của quy luật lý do đầy đủ 42

2.4.3 Yêu cầu của quy luật lý do đầy đủ và các sai lầm có thể phạm phải 43

CHƯƠNG 3 KHÁI NIỆM 48

3.1 Đặc điểm chung của khái niệm 48

3.1.1 Dấu hiệu của đối tượng tư duy 48

3.1.2 Định nghĩa khái niệm 49

3.1.3 Phân biệt khái niệm, đối tượng và mô tả 49

3.2 Khái niệm và từ 50

3.3 Cấu trúc logic của khái niệm 52

3.3.1 Khái niệm Tập hợp 52

3.3.2 Cấu trúc logic của khái niệm 53

3.4 Phân loại khái niệm 58

3.4.1 Phân loại theo nội hàm 58

3.4.2 Phân loại theo ngoại diên 59

Trang 5

3.4.3 Phân loại theo nguồn gốc tạo thành đối tượng 60

3.5 Quan hệ giữa các khái niệm 60

3.5.1 Quan hệ so sánh được và không so sánh được 60

3.5.2 Quan hệ hợp và không hợp 61

3.5.3 Quan hệ giữa các khái niệm hợp 62

3.5.4 Quan hệ giữa các khái niệm không hợp 65

3.6 Các thao tác trên khái niệm 67

3.6.1 Thao tác thu hẹp và mở rộng khái niệm 67

3.6.2 Thao tác định nghĩa khái niệm 68

3.6.3 Thao tác phân chia khái niệm 76

3.6.4 Phân loại khái niệm 79

CHƯƠNG 4 PHÁN ĐOÁN 84

4.1 Tổng quan về phán đoán 84

4.1.1 Định nghĩa 84

4.1.2 Giá trị logic của phán đoán 86

4.1.3 Phán đoán và câu 86

4.1.4 Các loại phán đoán 88

4.2 Phán đoán đơn 89

Trang 6

4.2.6 Quan hệ giữa bốn loại phán đoán A - E - I - O 105

4.3 Phán đoán hợp 108

4.3.1 Định nghĩa 108

4.3.2 Phán đoán hợp và câu phức hợp 108

4.3.3 Các phép toán logic dùng để xây dựng phán đoán hợp 108

4.3.4 Tính đẳng trị của các phán đoán 113

CHƯƠNG 5 SUY LUẬN 122

5.1 Tổng quan về suy luận 122

5.1.1 Định nghĩa 122

5.1.2 Cấu trúc logic của suy luận 123

5.1.3 Điều kiện để thực hiện suy luận 123

5.1.4 Các dạng suy luận 124

5.2 Suy luận suy diễn 125

5.2.1 Định nghĩa 125

5.2.2 Các loại suy luận suy diễn 125

5.3 Suy luận suy diễn trực tiếp 125

5.3.1 Định nghĩa 125

5.3.2 Các phương pháp suy luận suy diễn trực tiếp 126

5.4 Suy luận suy diễn gián tiếp 132

5.4.1 Định nghĩa 132

5.4.2 Luận ba đoạn đơn (Tam đoạn luận) 132

5.4.3 Luận ba đoạn phức 137

5.4.4 Luận hai đoạn 138

Trang 7

5.5 Suy luận quy nạp 139

5.5.1 Định nghĩa 139

5.5.2 Các dạng suy luận quy nạp 140

5.6 Phép quy nạp về mối quan hệ nhân quả (Phép quy nạp Bê Cơn - Mi Lơ) 145

5.6.1 Phương pháp giống nhau duy nhất 146

5.6.2 Phương pháp khác nhau duy nhất 147

5.6.3 Phương pháp kết hợp sự giống nhau và khác nhau 148 5.6.4 Phương pháp biến đổi cùng nhau 149

5.6.5 Phương pháp còn dư 150

5.6.6 Về vấn đề giải thích các sự kiện 150

CHƯƠNG 6 CHỨNG MINH VÀ BÁC BỎ 154

6.1 Chứng minh 154

6.1.1 Định nghĩa 154

6.1.2 Vai trò của chứng minh trong nhận thức chân lý 154 6.1.3 Cấu trúc logic của chứng minh 154

6.1.4 Các phương pháp chứng minh 156

6.1.5 Các bước chứng minh một luận đề 160

Trang 8

6.3.2 Qui tắc luận cứ 165

6.3.3 Qui tắc về lập luận 166

6.3.4 Các lỗi trong chứng minh 166

TÀI LIỆU THAM KHẢO 171

Trang 9

Nội dung và hình thức của tư tưởng

Đối tượng nghiên cứu của logic học

Lịch sử phát triển của logic học

Lược sử phát triển của logic học

Ý nghĩa của việc nghiên cứu logic học

Trang 10

Chương 1

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LOGIC HỌC

1.1 Đối tượng nghiên cứu của Logic học

1.1.1 Logic và Logic học

Tên gọi “Logic” có nguồn gốc từ một từ cổ Hy Lạp là

“Logos” vốn có hai nghĩa:

Thứ nhất, là từ, lời nói, câu, quy tắc viết;

Thứ hai, là tư tưởng, ý nghĩ, sự suy tư

Logic học là một khoa học đặc thù bởi khách thể của nó là

tư duy Đây là khoa học về tư duy Tuy nhiên, tư duy lại là khách thể nghiên cứu không chỉ của riêng logic học, mà còn của nhiều khoa học khác như triết học, tâm lý học, sinh lý học, thần kinh cấp cao, điều khiển học, ngôn ngữ học v.v

Logic học nghiên cứu tư duy khác với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy ở chỗ:

- Triết học với bộ phận quan trọng là nhận thức luận

nghiên cứu tư duy trong tổng thể nhằm giải quyết vấn đề triết học cơ bản là quan hệ của tư duy con người với thế giới xung quanh, tri thức của con người về nó có đáng tin cậy hay không;

Trang 11

- Tâm lý học nghiên cứu tư duy như một trong các quá

trình tâm lý chẳng hạn cảm xúc, ý chí, v.v , vạch ra sự tương tác của tư duy với các quá trình ấy, phân tích các động cơ thúc đẩy hoạt động tư tưởng của con người, làm rõ những nét đặc thù của

tư duy ở trẻ em, người lớn, những người tâm lý bình thường và của cả những người có các lệch lạc tâm lý;

- Sinh lý học hoạt động thần kinh cấp cao nghiên cứu các

quá trình vật chất, sinh lý diễn ra ở vỏ các bán cầu đại não, vạch

ra các tính quy luật của các quá trình ấy, các cơ chế sinh - lý - hoá của chúng;

- Điều khiển học vạch ra những tính quy luật chung của

hiện tượng điều khiển và liên hệ trong cơ thể sống, trong các thiết bị kỹ thuật, nhất là trong tư duy con người, phần tư duy trước hết gắn với hoạt động điều khiển;

- Ngôn ngữ học chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ của tư duy với

ngôn ngữ, sự thống nhất và khác biệt của chúng, sự tương tác của chúng với nhau, vạch ra các phương thức thể hiện tư tưởng nhờ các phương tiện ngôn ngữ;

Còn logic học xem xét tư duy dưới góc độ chức năng và

Trang 12

1.1.2 Tư duy và tư duy logic

a Tư duy

Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào

trong bộ não người, quá trình đó diễn ra “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” (Lê-nin) Trực quan sinh động (từ nhận

thức cảm tính) là giai đoạn xuất phát của quá trình nhận thức Nhận thức cảm tính diễn ra dưới ba hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng Những hình ảnh do nhận thức cảm tính đem lại là nguồn gốc duy nhất của sự hiểu biết của chúng ta về thế giới bên ngoài Tuy nhiên, nhận thức cảm tính mới chỉ cung cấp cho ta tri thức về những biểu hiện bề ngoài của sự vật Để có thể phát hiện ra những mối liên hệ nội tại có tính qui luật của chúng, cần phải tiến đến tư duy trừu tượng (khái niệm, phán đoán, suy luận, giả thuyết, v.v…) Với tư duy trừu tượng, con người chuyển từ nhận thức hiện tượng đến nhận thức bản chất,

từ nhận thức cái riêng đến nhận thức cái chung, từ nhận thức các đối tượng riêng đến nhận thức mối liên hệ và các qui luật phát triển của chúng Tư duy trừu tượng hay gọi tắt là tư duy chính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức Đó là giai đoạn nhận thức

lý tính, giai đoạn được hình thành và phát triển trên cơ sở các tài liệu do giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại

Một cách chung nhất: Tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động thực tiễn cải biến thế giới xung quanh

Trang 13

Thứ nhất, việc xác định tư duy là sự phản ánh, cũng có

nghĩa thừa nhận tư duy là cái có sau các sự vật; vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với tư duy, ý thức của con người Tuy nhiên, tính phản ánh của tư duy không phải là sự

phản ánh trực tiếp mà là sự phản ánh gián tiếp Bởi vì, tư duy

phải thông qua giai đoạn nhận thức cảm tính - giai đoạn con người sử dụng các giác quan để trực tiếp tri giác các sự vật, hiện tượng mới phản ánh được thế giới hiện thực

Thứ hai, sự phản ánh của tư duy không chỉ là gián tiếp mà còn là trừu tượng Bởi lẽ, sự phản ánh của tư duy bao giờ cũng

có xu hướng giữ lại những đặc điểm, thuộc tính bản chất; loại bỏ những đặc điểm, thuộc tính không bản chất của các sự vật Vì đặc trưng này nên người ta thường gọi là tư duy trừu tượng

Thứ ba, sự phản ánh của tư duy không phải là sự phản ánh

đối tượng riêng rẽ, mà là sự phản ánh có tính chất khái quát, bao hàm tập hợp các thuộc tính bản chất của đối tượng

Ví dụ: Thuộc tính “chia hết cho 2” được rút ra từ trong lớp

số chẵn (gồm 2, 4, 6, ) và thuộc tính đó làm nên bản chất của khái niệm "số chẵn"

Trang 14

b Tư duy logic

Định nghĩa: Tư duy logic là tư duy có hệ thống chặt chẽ, hợp lý, phản ánh đúng mọi sự vật, mọi hiện tượng khách quan Đặc trưng cơ bản nhất của tư duy logic là tính chặt chẽ

Đặc trưng này thể hiện sự liên kết, gắn bó lẫn nhau, không thể tách rời giữa các yếu tố, các bộ phận hợp thành trong nội dung của tư duy

Ngoài ra, tư duy logic phải có tính hệ thống Tính hệ thống

phản ánh sự sắp xếp các nội dung lập luận theo một trình tự nhất định Nội dung được xác định phía trước phải là cơ sở để tìm hiểu và phát triển các nội dung phía sau Trình tự sắp xếp ấy tạo

ra tính chỉnh thể, nhất quán, không thể đảo ngược được

Mặt khác, tư duy logic phải có tính tất yếu Đây là tính

tuân thủ các quy luật và quy tắc logic Đó là quy luật đồng nhất, không mâu thuẫn, có cơ sở rõ ràng và đầy đủ Đó là sự ngắn gọn, không rườm rà, không luẩn quẩn trong quá trình lập luận

Đặc trưng cuối cùng của tư duy logic là tính chính xác

Tính chính xác được biểu hiện bằng việc phản ánh đúng đắn những đặc điểm bản chất của đối tượng vào trong các dấu hiệu

cơ bản của khái niệm, đồng thời nó là sự xác định được giá trị của tư tưởng trong phán đoán, suy luận, chứng minh, bác bỏ Tính chính xác của tư duy logic đòi hỏi phải có sự lập luận rõ ràng, rành mạch, khúc triết để đạt tới chân lý nhằm làm cho người khác hiểu đúng được nội dung mà tư duy phản ánh, tránh sự hiểu sai, hiểu lầm sang các nội dung khác thuộc đối tượng khác

Trang 15

Như vậy, đặc trưng cơ bản của tư duy logic là tư duy chặt chẽ, có hệ thống, tất yếu và chính xác Thiếu một trong những đặc trưng đó thì không thể có tư duy logic Trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại thì tư duy logic không phải được hình thành ngay từ khi con người xuất hiện mà nó được hình thành dần dần, chuyển từ tính tự phát sang tính tự giác trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới Việc hình thành, phát triển tư duy nói chung và tư duy logic nói riêng gắn bó chặt chẽ với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ

1.1.3 Tư duy và ngôn ngữ

Tư duy con người như là hệ thống phản ánh luôn gắn liền, thống nhất hữu cơ với ngôn ngữ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, là sự vật chất hoá của nó vào lời nói và chữ viết Nếu toàn bộ hiện thực khách quan là nguồn gốc của nội dung tư duy, thì toàn bộ ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải nội dung đó Ngôn ngữ xuất hiện cùng với xã hội trong quá trình lao động và tư duy C Mác và Ph Ănghen nhận xét: “Ngay từ đầu

“tinh thần” đã phải chịu một điều bất hạnh là “bị vấy bẩn” bởi vật chất thể hiện ở đây dưới hình thức những lớp không khí chuyển động, những âm thanh, nói tóm lại là thể hiện dưới

Trang 16

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu toàn diện để thể hiện các tư tưởng - đầu tiên dưới dạng các tổ hợp âm thanh, sau đó dưới dạng các ký tự

Ngôn ngữ giữ vai trò là phương tiện thu nhận và củng cố các tri thức, lưu giữ và truyền lại chúng cho những người khác Tuy nhiên, sự thống nhất của tư duy và ngôn ngữ không loại trừ những khác biệt căn bản giữa chúng Tư duy mang tính chất toàn nhân loại Nó thống nhất ở tất cả mọi người không phụ thuộc vào trình độ phát triển xã hội của họ, vào chỗ ở, vào chủng tộc, dân tộc, vị thế xã hội Nó có cấu trúc thống nhất, những hình thức có ý nghĩa chung, chịu sự tác động của những quy luật chung (nếu không thì người ta thuộc các chủng tộc khác nhau trên thế giới đã không thể hiểu nhau) Trên trái đất thật là nhiều tiếng nói: cỡ vào 8 nghìn Và mỗi ngôn ngữ đều có nguồn

từ vựng riêng, những quy luật cấu tạo đặc biệt, ngữ pháp riêng Nhưng những khác biệt ấy chỉ mang tính tương đối Sự thống nhất của tư duy ở tất cả mọi người quy định cả sự thống nhất xác định của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới Chúng cũng có một

số kết cấu chung, đều có thể phân tách được thành các từ và các

từ ghép, chúng có khả năng kết hợp đa dạng với nhau tương ứng với các quy tắc xác định để thể hiện các tư tưởng

Ngôn ngữ luôn cùng phát triển với sự tiến bộ của xã hội, lao động và tư duy Từ những âm thanh tối thiểu (cơ bản), còn chưa phân thành các âm tiết đến những tổ hợp dấu hiệu ngày càng phức tạp thể hiện sự phong phú và chiều sâu ngày càng tăng của các tư tưởng - đó là xu hướng chung của sự phát triển này Kết quả của những quá trình đa dạng - sinh thêm những ngôn ngữ mới

Trang 17

và mất đi những ngôn ngữ cũ, sự tách ra của một số ngôn ngữ và

sự xích lại gần nhau hay hợp nhất của các ngôn ngữ, sự hoàn thiện và cải biến một số ngôn ngữ khác - đã làm nên diện mạo các ngôn ngữ hiện đại ngày nay Cũng như chủ thể của chúng là các dân tộc, ngôn ngữ cũng có các trình độ phát triển khác nhau Cùng với các ngôn ngữ tự nhiên và trên cơ sở của chúng đã sinh

ra ngôn ngữ nhân tạo (hình thức) Đó là những hệ thống tín hiệu đặc biệt xuất hiện không phải tự phát, mà được chủ ý tạo nên, chẳng hạn, bởi toán học Một số ngôn ngữ trong số chúng gắn liền với “tư duy máy”

Logic học bên cạnh ngôn ngữ tự nhiên, còn sử dụng cả ngôn ngữ nhân tạo, chuyên ngành - dưới dạng các biểu tượng logic (các công thức, các hình vẽ, các bảng, các dấu chữ cái và các dấu hiệu khác) để thể hiện ngắn gọn, chính xác, đơn nghĩa các tư tưởng, các mối liên hệ đa dạng của chúng

1.1.4 Nội dung và hình thức của tư tưởng

Mọi đối tượng đều có nội dung và hình thức nằm trong sự thống nhất và tương tác với nhau Nội dung được hiểu là tổng thể các bộ phận và quá trình liên hệ với nhau một cách xác định

để tạo nên đối tượng Ví dụ, tổng thể các quá trình trao đổi chất,

Trang 18

Tư duy cũng có nội dung và các hình thức, nhưng khá đặc thù Nếu như nội dung của các đối tượng nằm trong chính chúng, thì tư duy lại không có nội dung riêng, không được sinh

ra một cách tuỳ tiện, mà vốn là hệ thống phản ánh, nó khai thác nội dung của mình từ thế giới bên ngoài Hiện thực được phản ánh, đó là nội dung của tư duy

Như vậy, nội dung của tư duy là toàn bộ sự phong phú các

tư tưởng về thế giới xung quanh, là những tri thức cụ thể về thế giới ấy Cả tư duy kinh nghiệm thông thường, lẫn tư duy khoa học lý luận như là phương thức cao nhất định hướng con người trong thế giới, đều cấu thành từ những tri thức như thế

Hình thức của tư duy hay hình thức logic, là kết cấu của tư tưởng, là phương thức liên hệ các bộ phận của tư tưởng Đó là cái, mà các tư tưởng cho dù khác nhau bao nhiêu về nội dung cụ thể, thì ở trong đó vẫn tương tự nhau Cái chung trong những mệnh đề rất khác nhau về nội dung, kiểu như: “mọi kim loại đều dẫn điện” và “sông Hồng đổ ra biển Đông”, chính là kết cấu của chúng Các mệnh đề được xây dựng theo một hình mẫu thống nhất: chúng khẳng định về một điều gì đó Và đó là cấu trúc logic thống nhất của chúng

Những hình thức tư tưởng chung và rộng nhất được logic học nghiên cứu là khái niệm, phán đoán, suy luận, và chứng minh Cũng như nội dung, các hình thức này không phải do chính tư duy sinh ra, mà là sự phản ánh các mối liên hệ cấu trúc chung giữa các đối tượng hiện thực

Trang 19

Để có một quan niệm sơ bộ về các hình thức logic của tư duy, hãy lấy vài nhóm tư tưởng để làm ví dụ Bắt đầu từ những

tư tưởng đơn giản được diễn đạt bằng các từ “hành tinh”, “cây cối”, “nhà triết học” Dễ nhận ra là chúng rất khác nhau về nội dung: tư tưởng thứ nhất phản ánh các đối tượng của giới vô cơ,

tư tưởng thứ hai - các đối tượng của thế giới hữu cơ, còn thứ ba

- của đời sống xã hội Nhưng chúng có điểm chung: mỗi trường hợp đều suy ngẫm về một nhóm các đối tượng ở những dấu hiệu chung và bản chất nhất của chúng Cái đó cũng còn là cấu trúc đặc thù, hay hình thức logic của chúng Chẳng hạn, khi nói

“hành tinh”, chúng ta ám chỉ không phải trái Đất, sao Thổ, hay sao Hoả trong tính cụ thể và bản sắc riêng của nó, mà tất cả các hành tinh nói chung Và chúng ta lại suy ngẫm về cái liên kết chúng vào một nhóm, đồng thời phân biệt chúng với các nhóm khác như các vì sao, các vệ tinh của hành tinh Còn với “cây cối”, chúng ta cũng không hiểu về một loại cây, hay một cái cây

cụ thể nào, không phải là cây tre, cây thông, cây bạch đàn , mà

là cây cối nói chung ở những nét chung và đặc trưng hơn cả Còn “nhà triết học” - cũng không phải là một cá nhân cụ thể: Hêghen, Aristốt, Cantơ, v.v , mà là nhà triết học nói chung, điển hình cho tất cả các nhà triết học Hình thức tư tưởng như thế

Trang 20

có cái, mà tư tưởng nói về, và cái, mà chính nó được nói lên Kết cấu như vậy của tư tưởng, hình thức logic của nó được gọi là phán đoán

Chúng ta xét tiếp những tư tưởng còn phức tạp hơn Trong logic học, để trực quan và phân tích cho thuận tiện chúng được trình bày như sau:

Mọi kim loại đều dẫn điện

Đồng là kim loại

Suy ra, đồng dẫn điện

Những tư tưởng vừa được dẫn ra ngày càng đa dạng và phong phú hơn về nội dung Nhưng không vì thế mà loại trừ mất

sự thống nhất về kết cấu của chúng, ở chỗ, một tư tưởng mới được rút ra từ hai phán đoán liên hệ với nhau một cách xác định Kết cấu hay hình thức logic như thế của tư tưởng gọi là suy luận Cuối cùng chúng ta còn có thể dẫn ra các ví dụ về chứng minh được sử dụng ở các khoa học khác nhau, và chỉ ra là, tuy nội dung khác nhau, nhưng chúng cũng có kết cấu chung, tức là một hình thức logic như nhau

Trong quá trình tư duy, nội dung và hình thức của tư tưởng không tồn tại tách rời nhau, mà liên hệ hữu cơ với nhau Mối liên hệ ấy thể hiện ở chỗ, không và không thể có các tư tưởng tuyệt đối phi hình thức, cũng như không và không thể có hình thức logic “thuần tuý”, phi nội dung Chính nội dung xác định hình thức, còn hình thức thì không chỉ phụ thuộc vào nội

Trang 21

dung, mà còn có tác động ngược trở lại nó Nội dung các tư tưởng càng phong phú, thì hình thức của chúng càng phức tạp Mặt khác, việc tư tưởng có phản ánh hiện thực chân thực hay không cũng phụ thuộc không ít vào hình thức (kết cấu) của tư tưởng Trong hoạt động nhận thức, một nội dung có thể có các hình thức logic khác nhau, mặt khác, một hình thức logic có thể chứa đựng trong mình những nội dung không giống nhau Đáng ngạc nhiên là, toàn bộ tri thức phong phú không kể xiết mà nhân loại đã tích luỹ được cho đến ngày nay, rốt cục đều được chứa hết trong bốn hình thức cơ bản - khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh Vì thế giới cũng được cấu tạo chính là như vậy, biện chứng của tính đa dạng và sự thống nhất của nó là như vậy Chỉ có hơn một trăm nguyên tố hoá học mà đã tạo hợp nên toàn

bộ giới tự nhiên vô cơ và hữu cơ, kể cả các hợp chất nhân tạo do con người chế ra Từ bảy màu cơ bản tạo nên toàn bộ sự đa sắc màu của hiện thực xung quanh Từ một vài chục chữ cái người

ta đã viết ra vô lượng các cuốn sách, báo chí của các dân tộc, từ vài nốt nhạc - là tất cả các giai điệu của cuộc sống

Tính độc lập tương đối của hình thức logic, sự không phụ thuộc của nó vào nội dung cụ thể của tư tưởng còn tạo ra khả

Trang 22

hình thức để làm giảm ý nghĩa của nội dung Logic học cũng là khoa học mang nội dung sâu sắc Nhưng tính tích cực của hình thức logic so với nội dung làm cho việc phân tích nó trở thành cần thiết

Tất cả các hình thức tư duy mà logic học nghiên cứu có cái chung nhất là chúng bị tước đi tính trực quan và đều gắn chặt với ngôn ngữ Đồng thời chúng khác hẳn nhau cả về chức năng, lẫn về cấu trúc Sự khác nhau chủ yếu của chúng với tư cách các kết cấu tư tưởng là ở độ phức tạp của chúng Đó là những trình

độ cấu trúc khác nhau của tư duy Khái niệm, trong khi là hình thức tư duy tương đối độc lập, thì tham gia vào phán đoán như

là bộ phận cấu thành Phán đoán, đến lượt mình, trong khi là hình thức khá độc lập, thì đồng thời cũng là bộ phận hợp thành của suy luận Còn suy luận lại là phần hợp thành của chứng minh Như vậy, chúng là các hình thức không đơn giản đứng cạnh nhau, mà là thứ bậc của nhau Và theo nghĩa này chúng tương tự như cấp độ cấu trúc của vật chất - các hạt cơ bản, các nguyên tử, các phân tử, và các vật thể Tuy nhiên điều đó cũng hoàn toàn không có nghĩa là, trong quá trình tư duy các khái niệm được tạo nên đầu tiên, từ đó chúng liên kết lại với nhau để tạo thành phán đoán, rồi sau đó các phán đoán kết hợp với nhau mới sinh ra suy luận Chính các khái niệm, trong khi là tương đối đơn giản hơn cả, lại được hình thành như là kết quả của tư duy trừu tượng phức tạp và dài lâu, mà tham gia vào công việc

đó có cả các phán đoán, suy luận và chứng minh Các phán đoán đến lượt mình lại được xây đắp từ các khái niệm Cũng chính

Trang 23

xác như vậy, các phán đoán nhập vào các suy luận, còn những phán đoán mới lại là kết quả của suy luận Điều này thể hiện tính chất biện chứng sâu sắc của các hình thức tư duy trong quá trình nhận thức

1.1.5 Đối tượng nghiên cứu của logic học

Tư duy nói chung và tư duy logic nói riêng tồn tại trong sự thống nhất giữa hai mặt nội dung và hình thức Do cách thức nghiên cứu, tiếp cận tư duy logic ở hai góc độ khác nhau là “nội dung” và “hình thức” nên đã hình thành hai ngành logic khác nhau, đối lập nhưng lại thống nhất với nhau và bổ sung cho nhau trong quá trình đi tới chân lý, đó là “logic biện chứng” và “logic hình thức”

Logic biện chứng là môn khoa học nghiên cứu nội dung và những quy luật, quy tắc chi phối sự vận động, phát triển của nội dung của tư duy nhằm đạt tới chân lý

Điều đó có nghĩa là khi khảo sát nội dung của tư duy, người ta có quyền trừu tượng mặt hình thức của nó Sự trừu tượng đó là cần thiết để làm sáng tỏ nội dung và những quy luật, quy tắc chi phối sự vận động, phát triển của nội dung tư duy: Đó

Trang 24

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội dung của tư duy và cho dù có phát hiện được tính đúng đắn của các quy luật và quy tắc của tư duy thì vẫn chưa đủ, chưa cho ta một cái nhìn toàn diện về bản chất của tư duy logic Muốn đạt được

sự hiểu biết toàn diện về tư duy logic đòi hỏi phải khảo sát cả hình thức của tư duy Nhiệm vụ này được thực hiện bởi logic hình thức

Logic hình thức là môn khoa học nghiên cứu những hình thức, những quy luật và những quy tắc chi phối sự liên kết của các hình thức của tư duy nhằm đạt tới chân lý Những hình thức

mà logic học khảo sát đó là khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh cùng với các quy luật đồng nhất, không mâu thuẫn, loại trừ các thứ ba, lý do đầy đủ và rất nhiều các quy tắc khác nhau tương ứng với các hình thức của tư duy xác định Những quy luật và những quy tắc đó là các điều kiện cần của bất

kỳ một sự tư duy đúng đắn và chân thực nào Trong phạm vi giáo trình này, chúng ta chỉ tập trung làm sáng tỏ ở phạm vi của logic hình thức

1.2 Lịch sử phát triển của logic học

1.2.1 Lược sử phát triển của logic học

a Sự xuất hiện và các giai đoạn phát triển của logic học hình thức truyền thống

Logic học có lịch sử lâu dài và phong phú gắn liền với lịch

sử phát triển xã hội nói chung Sự xuất hiện của logic học như là

lý thuyết về tư duy đã có sau thực tiễn con người suy nghĩ hàng nghìn năm Cùng với sự phát triển của lao động sản xuất con người đã hoàn thiện và phát triển dần các khả năng suy nghĩ, rồi biến tư duy cùng các hình thức và quy luật của nó thành khách thể nghiên cứu

Trang 25

Những vấn đề logic đã lẻ tẻ xuất hiện trong suy tư người

cổ đại từ hơn 2,5 nghìn năm trước đây đầu tiên ở Ấn Độ và Trung Quốc Sau đó chúng được vạch thảo đầy đủ hơn ở Hy Lạp

và La Mã

Có hai nguyên nhân cơ bản làm xuất hiện logic học Thứ nhất, sự ra đời và phát triển ban đầu của các khoa học, trước hết là của toán học Sinh ra trong đấu tranh với thần thoại và tôn giáo, khoa học dựa cơ sở trên tư duy duy lý đòi hỏi phải có suy luận và chứng minh Do vậy, logic học đã nảy sinh như là ý đồ vạch ra và luận chứng những đòi hỏi mà tư duy khoa học phải tuân thủ để thu được kết quả tương thích với hiện thực Hai là sự phát triển của thuật hùng biện trong điều kiện dân chủ Hy Lạp cổ đại Người sáng lập logic học - “cha đẻ của logic học” là triết gia lớn của Hy Lạp cổ đại, nhà bách khoa Aristốt (384-322 TCN) Ông viết nhiều công trình về logic học

có tên gọi chung là “Bộ công cụ”, trong đó chủ yếu trình bày về suy luận và chứng minh diễn dịch Aristốt còn phân loại các phạm trù – những khái niệm chung nhất và khá gần với phân loại từ trước của Đêmôcrit về phán đoán Ông đã phát biểu ba quy luật cơ bản của tư duy, trừ luật lý do đầy đủ Học thuyết

Trang 26

đi liền với tên tuổi của nhà triết học và tự nhiên học kiệt xuất người Anh Ph Bêcơn (1561-1626) Ông là người khởi xướng logic quy nạp “ Logic học đang có, là vô dụng trong việc đem lại tri thức mới” Vì thế Bê cơn đã viết “Bộ công cụ Mới” như là thứ đối nghịch với “Bộ công cụ” của Aristốt, trong đó tập trung vạch thảo các phương pháp quy nạp để xác định sự phụ thuộc nhân quả giữa các hiện tượng Đó chính là công lao

to lớn của Bêcơn

Logic quy nạp về sau này được nhà triết học người Anh

Đz Mill (1806 - 1873) hệ thống hoá và phát triển thêm trong tác phẩm hai tập “Hệ thống logic học tam đoạn luận và quy nạp”

Nó đã ảnh hưởng căn bản đến sự phát triển tiếp theo của nhận thức, thúc đẩy khoa học vươn tới tầm cao mới

Những nhu cầu của khoa học không chỉ về phương pháp quy nạp, mà còn về phương pháp diễn dịch vào thế kỷ XVII đã được nhà triết học người Pháp R Đêcác (1596-1650) nhận diện đầy đủ hơn cả Trong tác phẩm “Luận về phương pháp ”, dựa trên những dữ liệu toán học, ông đã nhấn mạnh ý nghĩa của diễn dịch như là phương pháp nhận thức khoa học cơ bản nhất Những người theo Đêcác ở tu viện Por-Roiale là A Arnô và

P Nhikơn đã viết cuốn sách “Logic học, hay nghệ thuật tư duy”

Nó đã nổi tiếng dưới tên gọi “Logic học Por-Roiale” và trong thời gian rất dài được dùng như là sách giáo khoa logic học Các tác giả ở đây đã vượt xa ranh giới của logic học truyền thống và chú ý nhiều đến phương pháp luận nhận thức khoa học, đến logic của phát minh Việc tạo ra “những logic học mở rộng” kiểu ấy đã trở thành điểm đặc thù ở thế kỷ XIX - XX

Trang 27

b Sự xuất hiện và phát triển của logic toán

Cuộc cách mạng thực sự trong các nghiên cứu logic diễn ra nhờ sự xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XIX logic toán, chính nó đã

mở ra một thời kỳ mới, hiện đại trong sự phát triển của logic học Những phôi thai của logic toán đã có ngay từ ở Aristốt, cũng như ở các nhà khắc kỷ kế tục ông, dưới dạng các yếu tố của logic vị từ, lý thuyết các suy luận tình thái và logic mệnh đề Những thành tựu ngày càng nhiều của toán học và sự thâm nhập của các phương pháp toán vào các khoa học khác ngay ở nửa sau thế kỷ XIX đã đặt ra hai vấn đề cơ bản Thứ nhất, là ứng dụng logic học để xây dựng cơ sở lý thuyết cho toán học; thứ hai, là toán học hoá logic học G Lepnhít – nhà triết học và toán học lớn người Đức (1646-1716) đã có ý đồ sâu sắc và thành công nhất trong việc giải quyết những vấn đề nêu trên Do vậy,

về thực chất ông là người khởi xướng logic toán Ông đã phát minh ra ngôn ngữ biểu tượng vạn năng với kỳ vọng nhờ đó có thể duy lý hoá mọi khoa học thực nghiệm

Những tư tưởng của Lépnhit được phát triển tiếp ở thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX Tuy nhiên, chỉ từ nửa sau thế kỷ XIX mới có những điều kiện chín muồi cho sự phát triển của

Trang 28

học hình thức hoá Nhà triết học, logic học, toán học người Anh

B Raxel (1872-1970) cùng với A Uaitkhed (1861-1947) trong tác phẩm cơ bản ba tập “Các nguyên tắc của toán học” với các mục đích luận chứng cho nó về mặt logic đã cố xây dựng hệ tiên

đề diễn dịch cho logic học

c Sự hình thành và phát triển của logic học biện chứng

Logic học biện chứng cũng là nhánh quan trọng của logic học hiện đại Ngay Aristốt đã đặt ra và có ý giải quyết nhiều vấn

đề cơ bản của logic học biện chứng – phản ánh các mâu thuẫn hiện thực vào các khái niệm, vấn đề tương quan cái riêng và cái chung, sự vật và khái niệm về nó và v.v Những yếu tố của logic biện chứng dần được tích luỹ trong các công trình của các nhà tư tưởng kế tiếp Nhưng logic biện chứng chỉ thực sự bắt đầu được định hình vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX Và điều đó cũng trước hết gắn liền với sự tiến bộ của các khoa học

và với tên tuổi của các nhà triết học kinh điển Đức mở đầu bởi Cantơ (1724-1804) Bên cạnh logic học hình thức, ông thấy cần thiết phải xây dựng một thứ logic học nội dung, mà ông gọi là logic học siêu nghiệm Nó phải nghiên cứu các hình thức thực

sự cơ bản của tư duy như phạm trù, tức là những khái niệm chung nhất Cantơ là người đầu tiên phát hiện ra tính chất mâu thuẫn khách quan, biện chứng sâu sắc của tư duy con người Nhân đó, ông hướng tới việc vạch thảo những chỉ dẫn tương ứng cho các nhà khoa học Mặc dù đã đặt ra những nguyên tắc của logic học mới với vấn đề trung tâm là vấn đề mâu thuẫn biện chứng, song Cantơ lại chưa trình bày nó một cách hệ thống

Trang 29

Ông cũng không vạch ra cả mối tương quan thực sự của nó với logic học hình thức, mà hơn thế nữa còn định đặt đối lập logic học này với logic học kia

Hêghen (1770-1831) tiếp tục ý đồ vạch thảo hệ thống chỉnh thể logic biện chứng mới Trong công trình “Khoa học logic” ông đã khám phá ra mâu thuẫn giữa các lý thuyết logic hiện có với thực tiễn tư duy mà ở thời điểm đó đã rất gay gắt Ông đã tìm ra phương tiện giải quyết mâu thuẫn này bằng việc xây dựng hệ thống logic học mới dưới dạng đặc thù, tôn giáo thần bí Tiêu điểm ở đó là biện chứng của tư duy trong toàn bộ tính phức tạp và mâu thuẫn của nó

Hêghen nghiên cứu lại bản chất của tư duy, các hình thức

và quy luật của nó Nhân đấy ông đi đến kết luận “Phép biện chứng cấu thành lên bản chất của chính tư duy, các quy luật và hình thức của nó, rằng với tư cách là lý tính nó cần phải phủ định chính mình, phải rơi vào mâu thuẫn” Ông thấy nhiệm vụ của mình là phải tìm ra phương thức giải quyết các mâu thuẫn ấy Những vấn đề của logic biện chứng, mối tương quan của nó với logic hình thức đã được C Mác (1818-1883) và

Ph Ănghen (1820-1895) tiếp tục cụ thể hoá và phát triển trong

Trang 30

C Mác và Ph Ănghen không phủ nhận ý nghĩa của logic học hình thức, nhưng nhấn mạnh tính lịch sử của nó Ph Ănghen đã ghi nhận rằng tư duy lý luận ở mỗi một thời đại là sản phẩm lịch

sử, ở những thời điểm khác nhau có những hình thức và đồng thời nội dung rất khác nhau “Suy ra, khoa học về tư duy, cũng như mọi khoa học khác, là khoa học lịch sử, khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con người”

Đồng thời, C Mác và Ph Ănghen cũng chỉ ra sự khác biệt

về chất sâu sắc giữa học thuyết biện chứng của mình với của Hêghen: ở Hêghen nó là duy tâm, còn phép biện chứng Mác-xít

là duy vật, xem xét tư duy, các hình thức và quy luật của nó như

là sự phản ánh thế giới bên ngoài

C Mác trong tác phẩm “Tư bản” đã ứng dụng logic biện chứng vào việc phân tích xã hội đương đại với ông Tuy nhiên những công trình chuyên về logic biện chứng đều chưa được C Mác và Ph Ănghen viết ra Sự hình thành logic biện chứng như là khoa học vẫn tiếp tục ở các nước khác nhau vào cuối thế kỷ XIX

và trong toàn bộ thế kỷ XX Ở Nga việc vạch thảo một số vấn đề của logic biện chứng, mối tương quan của nó với logic hình thức được G Plêkhanôv (1856-1918) và V I Lênin (1870-1924) thực hiện Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn ” V I Lênin đã chỉ

ra sự khác nhau có tính nguyên tắc giữa logic hình thức và logic biện chứng Có rất nhiều chỉ dẫn phong phú về logic biện chứng (và hình thức) trong “Bút ký triết học” của V I Lênin

Sau V I Lênin những công trình nghiên cứu nhằm trình bày logic biện chứng một cách hệ thống được tiến hành trên hai

Trang 31

hướng lớn Thứ nhất, lần theo sự khám phá các tính quy luật của

sự phản ánh hiện thực đang phát triển, các mâu thuẫn khách quan của nó vào tư duy con người; thứ hai, khám phá các tính quy luật của sự phát triển của chính tư duy, của biện chứng riêng của nó

Trong điều kiện khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh

mẽ và vai trò của tư duy biện chứng đang gia tăng, thì nhu cầu đối với logic học biện chứng cũng ngày càng tăng lên Ngày nay đang có những nhân tố mới kích thích sự phát triển hơn nữa của logic học biện chứng

1.2.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu logic học

Việc nghiên cứu và nắm vững logic học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho con người nói chung và sinh viên nói riêng Điều đó được thể hiện trước hết ở chỗ nó trang bị cho con người

lý luận chung nhất, cơ bản nhất về tư duy logic để cho mọi người

có thể soi sáng vào trong suy nghĩ của mình, phát hiện ra những thiếu sót và hạn chế của lối tư duy tự phát; góp phần nâng cao trình độ tư duy logic; tạo thói quen suy nghĩ, lập luận chặt chẽ, có

hệ thống, không mâu thuẫn, rõ ràng, mạch lạc, có cơ sở, để đạt tới những tri thức chính xác, khách quan và khoa học

Trang 32

Việc nghiên cứu logic học hỗ trợ đắc lực cho hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học Hình thành ở con người con đường tìm kiếm những tri thức khoa học mới; tạo ra cách sử dụng các từ, các thuật ngữ diễn đạt nội dung tư tưởng rõ ràng, trong sáng; xây dựng phương pháp trình bày một vấn đề nào đó một cách sinh động, khúc triết, hùng biện, có sức lôi cuốn người khác chú ý lắng nghe, tăng cường hiệu quả và niềm tin vào những thông tin đã truyền đạt, đã trao đổi

Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, khối lượng thông tin khoa học phát triển như vũ bão, việc tổ chức hợp lý quá trình giảng dạy logic có một ý nghĩa vô cùng to lớn Việc nâng cao tri thức logic sẽ góp phần xây dựng phương pháp suy luận hợp logic, hình thành tư duy sáng tạo, phát triển trí tuệ

cá nhân và hình thành thế giới quan khoa học cho con người nói chung và đặc biệt là sinh viên nói riêng

CÂU HỎI ÔN TẬP

1 Trình bày các nghĩa khác nhau của thuật ngữ logic? Logic học quan tâm đến nghĩa nào của thuật ngữ đó? Cho ví dụ

và phân tích!

2 Thế nào là tư duy và tư duy logic? Nêu các đặc trưng cơ bản của tư duy logic!

3 Thế nào là nội dung, hình thức của tư duy?

4 Trình bày đối tượng nghiên cứu của logic học!

5 Trình bày ngắn gọn về lịch sử xuất hiện và phát triển của logic học Phân biệt các nhánh logic học: logic hình thức truyền thống, logic toán và logic biện chứng!

6 Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu logic học!

Trang 33

2 CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN

CỦA LOGIC HÌNH THỨC 2.1 Quy luật đồng nhất

2.1.1 Nội dung của quy luật đồng nhất

2.1.2 Cơ sở khách quan của quy luật đồng nhất

2.1.3 Yêu cầu của quy luật đồng nhất và các sai lầm có thể

phạm phải

2.2 Quy luật không mâu thuẫn

2.2.1 Nội dung của quy luật không mâu thuẫn

2.2.2 Cơ sở khách quan của quy luật không mâu thuẫn

2.2.3 Yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn và các sai lầm

có thể phạm phải

2.3 Quy luật loại trừ cái thứ ba

2.3.1 Nội dung của quy luật loại trừ cái thứ ba

2.3.2 Cơ sở khách quan của quy luật loại trừ cái thứ ba

2.3.3 Yêu cầu của quy luật loại trừ cái thứ ba và các sai lầm

có thể phạm phải

2.4 Quy luật lý do đầy đủ

Trang 34

Chương 2

CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA LOGIC HÌNH THỨC

Những quy luật cơ bản của logic hình thức là sự phản ánh vào đầu óc con người các quan hệ xác định giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, là quy luật chi phối sự liên kết của các hình thức tư duy Trong quá trình tư duy, để đạt tới chân

lý nhất thiết phải tuân theo các quy luật của logic học Nếu vi phạm các quy luật này thì những tư tưởng của con người mất chính xác, mất tính chứng minh được và do đó nó trở nên mơ hồ hoặc mâu thuẫn Tuy nhiên, các quy luật cơ bản của logic hình thức chỉ mang tính tương đối và có giới hạn Do đó, mặc dù việc nhận thức và vận dụng các quy luật này là rất quan trọng và cần thiết nhưng cũng cần phải hết sức thận trọng trong việc xác định phạm vi, giới hạn cụ thể để đạt tới chân lý

2.1 Quy luật đồng nhất

2.1.1 Nội dung của quy luật đồng nhất

Trong một khoảng không gian nhất định, một khoảng thời gian nhất định và trong những điều kiện xác định, một sự vật luôn luôn đồng nhất với chính nó

Hay nói cách khác: “Mỗi sự vật luôn đồng nhất với chính nó”

Trang 35

Quy luật đồng nhất thể hiện tính xác định của tư duy Thật vậy trong quá trình lập luận bất cứ tư tưởng nào cũng phải có nội dung xác định và phải được diễn đạt chính xác Thuộc tính

cơ bản này của tư duy được biểu thị trong quy luật đồng nhất Vì

vậy quy luật đồng nhất có thể phát biểu dưới dạng: Tính xác định của tư tưởng là điều kiện tồn tại của tư tưởng Nếu không

có sự rành mạch, chính xác của nội dung tư tưởng thì không có

tư tưởng

2.1.2 Cơ sở khách quan của quy luật đồng nhất

Tính chính xác của tư tưởng là sự phản ánh tính xác định, tính ổn định tương đối về chất của của sự vật, hiện tượng khách quan được phản ánh

Sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển nhưng trong quá trình đó nếu chưa có sự thay đổi căn bản về chất thì nó vẫn là nó Vì vậy nếu xét sự vật trong một khoảng không gian, thời gian đủ nhỏ và trong những điều kiện xác định thì sự vật coi như không biến đổi Thực tế khách quan đó phản ánh vào trong đầu óc con người hình thành nên quy luật đồng nhất

2.1.3 Yêu cầu của quy luật đồng nhất và các sai lầm có thể phạm phải

Trang 36

phát triển của sự vật trong không gian, thời gian và điều kiện đang xét Điều đó có nghĩa là, trong quá trình tư duy không được biến đồng nhất thành khác biệt và không được biến khác biệt thành đồng nhất Đồng nhất và khác biệt phải xét trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ, liên hệ,… cụ thể

Cụ thể là:

- Phải phản ánh đúng đối tượng, tức là phải phản ánh

đúng những dấu hiệu vốn có của bản thân đối tượng Các sai lầm có thể phạm phải:

+ Ngộ biện: Vô tình phản ánh không đúng đối tượng do nhận thức, thiếu tri thức,… về đối tượng

Ví dụ: + Mọi sự cháy đều cho tro và muội

+ Mọi sự oxi hoá đều là sự đốt cháy

→ Do đó, mọi sự oxi hoá đều cho tro và muội

Sai lầm ở đây là đã đồng nhất khái niệm "Oxi hoá" với khái niệm "Sự đốt cháy", là hai khái niệm có nội hàm và ngoại diên hoàn toàn khác nhau

+ Ngụy biện: Cố tình phản ánh sai về đối tượng Chẳng hạn có nhiều trường hợp đã đồng nhất khái niệm "quà tặng" với

"hối lộ" nên không phân biệt rõ người nhận quà tặng với kẻ ăn hối lộ

- Phải sử dụng đúng ngôn ngữ biểu thị đối tượng Các sai

lầm có thể phạm phải:

+ Không sử dụng đúng ngôn ngữ biểu thị đối tượng + Không hiểu ngôn ngữ biểu thị đối tượng

Trang 37

Các sai lầm đó dễ dàng dẫn đến “Ông nói gà, bà nói vịt”

- Tái tạo đối tượng như nguyên mẫu trong tư duy, nghĩa là

phải tạo đối tượng trong bộ não giống như đối tượng tồn tại trong hiện thực Các sai lầm có thể phạm phải

+ Thu nhận thông tin về đối tượng không đúng, không đầy đủ

+ Xử lí thông tin về đối tượng không đúng

Các sai lầm đó sẽ đưa đến “Nhìn gà hóa cuốc”

2.2 Quy luật không mâu thuẫn

2.2.1 Nội dung của quy luật không mâu thuẫn

Trong một khoảng không gian nhất định, một khoảng thời gian nhất định và trong những điều kiện nhất định, một sự vật không đồng thời có hai thuộc tính đối lập nhau

Nói cách khác: “Trong cùng một quan hệ và cùng một lúc,

một sự vật không thể vừa là A vừa là không A”

Quy luật không mâu thuẫn thể hiện quy luật đồng nhất về phương diện thuộc tính của sự vật Để đảm bảo tính đồng nhất

Trang 38

- Các phán đoán đối lập chung: "Tất cả S là P"; "Không S nào là P"

- Các phán đoán mâu thuẫn: "Tất cả S là P"; "Một số S không là P"

"Không S nào là P "; "Một số S là P"

Với mỗi cặp phán đoán đó, quy luật không mâu thuẫn chỉ

ra rằng chúng không thể cùng chân thực, một trong hai phán đoán đó là giả dối, nhưng nó không chỉ ra phán đoán kia là chân thực hay giả dối

2.2.2 Cơ sở khách quan của quy luật không mâu thuẫn

Một sự vật, hiện tượng hoặc một thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong cùng một thời gian, một điều kiện, cùng một quan hệ xác định không thể đồng thời vừa tồn tại lại vừa không tồn tại

2.2.3 Yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn và các sai lầm có thể phạm phải

Đối với một vấn đề trong cùng một thời gian, cùng một điều kiện thì trong suy nghĩ và trong biện luận không được vừa khẳng định vừa phủ định, vừa đúng vừa sai, vừa phải vừa không phải

Sẽ không vi phạm quy luật không mâu thuẫn nếu:

- Khẳng định thuộc tính của một đối tượng rồi lại phủ định thuộc tính ấy nhưng ở thời điểm khác

- Đối tượng tư tưởng định xem xét trong các quan hệ khác nhau

Trang 39

Nếu không tuân theo những yêu cầu trên trong lập luận

sẽ mắc sai lầm:

- Khi lập luận, xem xét đối tượng bị nhầm lẫn về quan hệ, không gian, thời gian hoặc cùng một sự việc, có lúc giải thích thế này, có lúc giải thích thế khác mang tính đối lập Chẳng hạn, khi giải thích lý do nghỉ học hôm trước của mình, sinh viên A vừa nói rằng: “Do mình ốm” lại vừa nói rằng hôm đó mình “Về quê thăm gia đình”

- Khi lập luận, xem xét về đối tượng mắc lỗi phủ định của phủ định Ví dụ như: “Cấm không được hút thuốc lá” hay “Cấm không được đổ rác” Hoặc vô tình làm thay đổi bản chất sự việc,

ví dụ, mẹ hỏi: “Con đã ngủ chưa?” cậu con trai liền trả lời “Con ngủ rồi mẹ ạ!”

2.3 Quy luật loại trừ cái thứ ba

2.3.1 Nội dung của quy luật loại trừ cái thứ ba

Trong một khoảng không gian nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định và trong những điều kiện nhất định, một sự vật hoặc có thuộc tính P hoặc có thuộc tính đối lập với P không có thuộc tính thứ ba

Trang 40

quán của tư duy Nó giúp cho chúng ta tránh được những cách biểu thị không xác định, không rõ ràng, không nhất quán trong lập luận Nó là cơ sở của nhiều suy luận và chứng minh gián tiếp

Ví dụ trong hai phán đoán:

"Không có hành tinh nào có khí quyển" và "Một số hành tinh có khí quyển" chắc chắn phải có một phán đoán đúng

Các cặp phán đoán sau đều tuân theo quy luật loại trừ cái thứ ba:

- Các phán đoán đơn nhất: "S này là P"; "S này không là P"

- Các phán đoán mâu thuẫn: "Tất cả S là P" ; "Một số S không là P"

"Không S nào là P"; "Một số S là P"

Quy luật khẳng định: Hai phán đoán mâu thuẫn không thể cùng giả dối hoặc cùng chân thực, một trong hai phán đoán là giả dối, phán đoán kia là chân thực Hai phán đoán như thế là hai phán đoán phủ định nhau Nếu đặt chúng trong cùng một không gian, thời gian xác định, bất luận nội dung cụ thể của chúng là gì, một trong hai phán đoán đó nhất định là chân thực

2.3.2 Cơ sở khách quan của quy luật loại trừ cái thứ ba

Quy luật loại trừ cái thứ ba là sự phản ánh trong tư duy con người thực tế khách quan là: Một sự vật hoặc một thuộc tính nào đó của sự vật, trong cùng một thời gian, một điều kiện hoặc tồn tại hoặc không tồn tại

Ngày đăng: 20/11/2017, 21:12

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] - Giáo trình Logic học - Dùng cho sinh viên khối kỹ thuật, Giáo trình nội bộ trường Đại học Kĩ thuật Công nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Logic học - Dùng cho sinh viên khối kỹ thuật
[2] - PGS.TS. Vương Tất Đạt, Logic hình thức, Đại học Sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Logic hình thức
[3] - PGS.TS. Vũ Ngọc Pha, Logic học, Viện Đại học Mở Hà Nội, 1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Logic học
[4] - Bùi Thanh Quất và Nguyễn Tuấn Chi, Giáo trình Logic hình thức, Đại học Tổng hợp Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Logic hình thức
[5] - Vương Tất Đạt, Nguyễn Thị Vân Hà, Phương pháp giải bài tập Logic học, Nxb. Giáo dục, 2011.Tài liệu tham khảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp giải bài tập Logic học
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
[1] - Lê Tử Thành, Tìm hiểu Logic học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu Logic học
Nhà XB: Nxb. Trẻ
[2] - Nguyễn Văn Tuấn, Logic vui, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Logic vui
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w