1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Nghiên cứu sự thay đổi văn hóa và hoạt động sinh kế của người dân tộc thiểu số xinh mun tại huyện điện biên đông, tỉnh điện biên

85 360 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 1,3 MB

Nội dung

Trên cơ sở các công trình của các tác giả đi trước, đề tài tìm hiểu thực trạng đời sống và sinh kế, tìm hiểu thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xinh Mun, từ

Trang 1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

-

TRẦN VĂN THƯỢNG

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI VĂN HÓA VÀ HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ XINH MUN TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG,

TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Thái Nguyên - 2016

Trang 2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

-

TRẦN VĂN THƯỢNG

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI VĂN HÓA VÀ HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ XINH MUN TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG,

TỈNH ĐIỆN BIÊN

NGÀNH: PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

MÃ SỐ: 60.62.01.16

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƯƠNG VĂN SƠN

Thái Nguyên - 2016

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức và bậc đào tạo nào Mọi sự giúp

đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2016

Tác giả luận văn

Trần Văn Thượng

Trang 4

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt 2 năm học tập cao học, với nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được

sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân và tập thể, đến nay luận văn của tôi đã được hoàn thành Nhân dịp này, cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành tới:

- Ban Giám hiệu, bộ phận Quản lý Đào tạo Sau Đại học thuộc phòng Đào tạo trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên; Khoa Kinh tế & PTNT cùng toàn thể cán bộ, giảng viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

- Lãnh đạo và nhân dân xã Chiềng Sơ; lãnh đạo huyện ủy, UBND huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập

và thực hiện đề tài luận văn

Với lòng biết ơn chân thành, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Dương Văn Sơn đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp

Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và đặc biệt là gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thiện đề tài luận văn

Xin chân thành cảm ơn!

Thái nguyên, tháng 11 năm 2016

Tác giả

Trần Văn Thượng

Trang 5

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN Error! Bookmark not defined.iiLỜI CẢM ƠN Error! Bookmark not defined.vMỤC LỤC……….vDANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Error! Bookmark not defined

DANH MỤC CÁC HÌNH, HỘP ix

11.3 Giá trị, biến đổi văn hóa và sinh kế trong tiến trình hội nhập và

phát triển

14

1.2 Một số nghiên cứu về văn hóa và sinh kế ở nước ta 20

Trang 6

Chương 2: Đối tượng, phạm vi, nội dung và phương pháp nghiên cứu 30 2.1 Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu 30

3.1 Một số đặc trưng bản địa truyền thống của dân tộc Xinh Mun cư

trú tại xã Chiềng Sơ

35

3.2 Thực trạng một số nét về văn hóa và sinh kế người Xinh Mun 41 3.2.1 Thực trạng một số nét về văn hóa người Xinh Mun hiện nay 41 3.2.2 Thực trạng sinh kế và thu nhập của người Xinh Mun ở Chiềng Sơ 47

3.3 Mối quan hệ, những thay đổi văn hóa-sinh kế và giải pháp bảo

tồn các giá trị văn hóa bản địa, cải thiện sinh kế, nâng cao đời

sống vật chất cộng đồng dân tộc Xinh Mun

59

Trang 7

3.3.2 Những thay đổi về văn hóa và sinh kế 62

3.3.3 Giải pháp bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa, cải thiện sinh kế, nâng

cao đời sống vật chất cho cộng đồng dân tộc Xinh Mun

Trang 8

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á

CV% Coefficient of Variation: Hệ số biến động

PivotTable Một công cụ phân tích rất mạnh trong Excel, có thể kết nối các

dãy số liệu trong các cột Excel khác nhau để tạo sự liên hệ

UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural

Organization:Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

Trang 9

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1 Một số đặc điểm văn hóa truyền thống người Xinh Mun 38 Bảng 3.2 Trang phục truyền thống của phụ nữ người Xinh Mun 39 Bảng 3.3 Sinh kế bản địa truyền thống người Xinh Mun 41 Bảng 3.4 Tỷ lệ biết chữ và học vấn bậc học phổ thông chủ hộ Xinh Mun 42 Bảng 3.5 Phân loại kinh tế hộ, khoảng cách từ nhà đến đường giao

thông và số năm định cư

44

Bảng 3.6 Kết quả học tập và rèn luyện của học sinh người Xinh Mun 46 Bảng 3.7 Hộ Xinh Mun có vô tuyến, điện thoại di động và xe máy 47 Bảng 3.8 Số lao động và nhân khẩu hộ dân tộc Xinh Mun 48 Bảng 3.9 Đất canh tác, số hộ trồng và diện tích trồng các loại cây trồng chính 49 Bảng 3.10 Số hộ nuôi và số đầu một số vật nuôi chủ yếu của hộ Xinh Mun 51 Bảng 3.11 Thu nhập tiền mặt, cấu trúc thu nhập nông nghiệp và phi nông nghiệp 52 Bảng 3.12 Cấu trúc thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi của người Xinh Mun 55 Bảng 3.13 Số hộ trồng và cấu trúc thu nhập từ các cây trồng chủ yếu của

Trang 10

DANH MỤC CÁC HÌNH, HỘP

Hình 2.1 Sự biến đổi về văn hóa và sinh kế 32 Hình 3.1 Tỷ lệ biết chữ và học vấn bậc học phổ thông chủ hộ Xinh Mun 43 Hình 3.2 Tỷ lệ các nhóm hộ người Xinh Mun ở xã Chiềng Sơ 45 Hình 3.3 Diện tích canh tác bình quân (m2/hộ) phân theo nhóm hộ 50 Hình 3.4 Tổng thu nhập các nhóm hộ người Xinh Mun 53 Hộp 3.1 Hộ bà Lường Thị Tím nghèo đói cứ bám dai dẳng 54 Hộp 3.2 Hộ ông Lường Văn Thiện giàu có từ phát triển kinh tế gia đình 54 Hình 3.5 Mối quan hệ giữa văn hóa và sinh kế người Xinh Mun 61

Trang 11

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Điện Biên là một tỉnh dân tộc thiểu số chưa phát triển, vừa có đường biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở phía tây, lại có đường biên giới với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở phía bắc Địa hình của tỉnh tuy cũng có thung lũng đồng bằng thấp, nhưng chủ yếu là vùng núi cao, trong đó đỉnh Pu Đen Đinh ở huyện Mường Nhé cao 1.886 mét Vì vậy có thể nói, về địa hình tự nhiên, Điện Biên thực sự là một trong những địa bàn dân tộc thiểu số điển hình của vùng Tây Bắc nước ta Trên địa bàn của tỉnh, hiện có tới 21 dân tộc Trong đó người Thái chiếm lớn nhất (38%), thứ hai đến người Mông (30%), tiếp theo là Kinh (20%), Khơ Mú (3,9%), còn lại là các dân tộc khác như Dao, Xinh Mun, Hà Nhì, Kháng, Lào, Tày, Cống, Si La,… Sự đa dạng về nguồn gốc khiến cho các dân tộc ở đây vừa có những nét văn hóa đặc trưng, vừa có nền văn hóa chung cho cả khu vực Tây Bắc Đây là một lợi thế lớn trong việc khai thác phục vụ phát triển bền vững xã hội, song cũng đặt ra nhiệm vụ hết sức quan trọng trong vấn đề giữ gìn khối đoàn kết đại dân tộc và ổn định chính trị xã hội

Xinh Mun là dân tộc thiểu số sinh sống ở miền Tây Bắc nước ta, tập trung tại hai tỉnh Sơn La và Điện Biên Họ cư trú ở lưng chừng núi trên dải đất dọc biên giới Việt Nam - Lào Trải qua nhiều thế kỷ do điều kiện sinh sống chi phối, họ phải sống xen kẽ với người Thái, bị ảnh hưởng nhiều bởi người Thái, nên người Xinh Mun nói tiếng Thái rất tốt Cuộc sống sinh kế lam lũ, nghèo khó, dẫn tới hệ lụy là văn hóa người Xinh Mun đang trở nên một vấn đề nghiêm trọng, bị nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự bảo tồn và phát huy những giá trị bản sắc cộng đồng Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa và sinh kế của cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun đang đặt ra ngày càng trở nên bức xúc và cấp thiết

Về sinh kế, người Xinh Mun được đánh giá là cư dân nông nghiệp nương rẫy

có hệ thống cây trồng đơn điệu với lúa, ngô là hai cây lương thực chính Ruộng nương được phân chia thành 3 loại: Nương dùng gậy chọc lỗ bỏ hạt, nương dùng

Trang 12

cuốc, nương dùng cày Chăn nuôi gia súc, gia cầm kém phát triển, tuy mỗi gia đình

có thể có nuôi dê, bò, gà, cá,… (Ủy ban Dân tộc Miền núi) [19]

Tại tỉnh Điện Biên, người Xinh Mun sống tập trung tại huyện Điện Biên Đông Theo thống kê của UBND huyện Điện Biên Đông, trên địa bàn huyện hiện

có 1.724 đồng bào Xinh Mun đang cư trú, chiếm hơn 3% dân số toàn huyện Trong

đó, xã Na Son có 5 người, xã Chiềng Sơ có 1.719 người Như vậy, người Xinh Mun ở riêng xã Chiềng Sơ chiếm khoảng 55%, so với tổng số 3.131 người Xinh Mun của cả tỉnh Lai Châu cũ - thời điểm tháng 12/2003 (Hoàng Huynh, 2005) [6]

Biến đổi văn hóa và sinh kế có tính tất yếu của quá trình phát triển Biến đổi văn hóa là quá trình biến đổi làm cho một trạng thái văn hóa nào đó khác với trạng thái trước đây của chính nó Biến đổi sinh kế là quá trình biến đổi làm cho hình thức hay loại hình sinh kế nào đó khác với hình thức, loại hình sinh kế trước đây của chính nó Dưới tác động của những yếu tố bên ngoài và theo dòng chảy thời gian, văn hóa và sinh kế có nhiều xu hướng phát triển với những ưu điểm (biến đổi tích cực) và nhược điểm (biến đổi không tích cực) khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể

Bao năm nay, cuộc sống của người dân tộc Xinh Mun ở xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông vẫn nằm trong cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo Dù rất nhiều

cố gắng trong lao động sản xuất nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn xấp xỉ 70% (theo tiêu chuẩn nghèo cũ) Tình trạng thiếu ăn 3-5 tháng trong năm xảy ra liên miên, nên

Nhà nước phải luôn trợ cấp cứu đói Những ngôi nhà tạm bợ, những bữa ăn sơ sài

và cả trong cái mặc của bà con cũng chưa đầy đủ, tươm tất (Hoàng Huynh, 2005) [6] Đây là tình trạng chung trong cuộc sống hàng ngày của bà con dân tộc Xinh Mun ở Chiềng Sơ nói riêng, của toàn bộ cộng đồng dân tộc Xinh Mun đang sinh sống tại các tỉnh Sơn La và Điện Biên nói chung

Trong nhiều thập niên trở lại đây, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, cơ sở để xây dựng, phát triển nền văn hóa thống nhất trong đa dạng là xu hướng chung của các quốc gia Ở nước ta, văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung, văn hoá dân tộc Xinh Mun nói riêng là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý văn hóa và nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong

Trang 13

nước Các công trình nghiên cứu thời gian qua có giá trị hết sức to lớn, tạo nên một cái nhìn tổng quan về văn hoá dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số và một phần

về những nét văn hóa cụ thể của dân tộc Xinh Mun, đề cập đến thực trạng và đưa ra một số giải pháp cho sự phát triển văn hóa các tỉnh khu vực phía Bắc, cũng như dân tộc Xinh Mun nói riêng và các dân tộc Việt Nam nói chung Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách hệ thống về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cũng như sinh kế dân tộc Xinh Mun Trên cơ sở các công trình của các tác giả đi trước, đề tài tìm hiểu thực trạng đời sống và sinh kế, tìm hiểu thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xinh Mun, từ đó

đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới, góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Đề tài: “Nghiên cứu sự thay đổi văn

hóa và hoạt động sinh kế của người dân tộc thiểu số Xinh Mun tại huyện Điện Biên

Đông, tỉnh Điện Biên” của chúng tôi đi theo hướng trên đây nhằm giải quyết các

vấn đề vừa có tính lý luận và đặc biệt đi sâu giải quyết các vấn đề có tính thực tiễn đang tồn tại trong đời sống văn hóa, vật chất của người Xinh Mun, từ đó xác định những biến đổi tích cực, không tích cực về văn hóa và sinh kế của tộc người này, là

cơ sở đề xuất những can thiệp để bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa truyền thống, nâng cao đời sống vật chất cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun

2 Mục tiêu nghiên cứu

- Nhận diện, xác định một số đặc trưng bản địa truyền thống của dân tộc Xinh Mun

cư trú tại huyện Điện Biên Đông

- Xác định thực trạng một số nét về đời sống văn hóa và sinh kế cộng đồng dân tộc Xinh Mun tại địa bàn nghiên cứu

- Nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa văn sinh kế, những thay đổi văn sinh kế, tìm hiểu nguyên nhân của sự biến đổi để đề xuất giải pháp bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa truyền thống, cải thiện sinh kế, nâng cao đời sống vật chất cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun

hóa-3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Trang 14

- Nghiên cứu văn hóa và sinh kế dân tộc thiểu số Xinh Mun nói riêng, các dân tộc thiểu số khác nói chung - chỉ rõ những nét văn hóa và sinh kế đặc trưng, vừa có nền văn hóa và sinh kế chung cho cả khu vực Tây Bắc, góp phần sức quan trọng trong giữ gìn khối đoàn kết đại dân tộc và ổn định chính trị xã hội

- Cung cấp cơ sở và dẫn chứng khoa học về sự biến đổi văn hóa, biến đổi sinh kế của cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun đang có nguy cơ suy giảm ngày càng mạnh mẽ các giá trị truyền thống, là những dữ liệu, luận cứ thực tiễn để các nhà lập chính sách có nững hành động can thiệp kịp thời, góp phần phát triển kinh tế văn hóa xã hội cho cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun ở nước ta

- Khẳng định những giá trị về văn hoá và sinh kế dân gian dân tộc Xinh Mun huyện Điện Biên Đông trong quá trình vận động, biến đổi và tác động trong bối cảnh hội nhập và phát triển Khơi dậy lòng tự hào, tự tôn về văn hóa truyền thống của tộc người Xinh Mun ở huyện Điện Biên Đông nói riêng, cả nước nói chung Từ đó, động viên, khuyến khích họ tích cực tham gia vào chủ trương bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trang 15

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan

1.1.1 Tộc người Xinh Mun ở Việt Nam

Người Xinh Mun, theo cắt nghĩa của đồng bào Xinh Mun thì: Xinh là người, Mun là núi; Xinh Mun có nghĩa tộc người sống ở trên núi Người Xinh Mun được chia làm 2 nhóm: Xinh Mun (Puộc Dạ) và Xinh Mun (Puộc Nghẹt) Tên gọi xưa kia của người Xinh Mun là Xá, Xá Puộc hay Puộc, chữ Puộc là biến âm từ chữ Thái Pụa (Thái đen) hay Pô (Thái trắng) Xinh Mun là tên tự gọi, nay đã trở thành tên gọi chính thức của dân tộc có nhóm địa phương Xinh Mun Dạ và Xinh Mun Nghẹt (những tên gọi này dựa theo tên địa phương cư trú lâu đời như bàn Nà Dạ, bản Nà Nghẹt) Như vậy, theo Ủy ban Dân tộc Miền núi, một cách tự nhiên đã hình thành ra hai nhóm địa phương có những đặc điểm khác biệt cả về ngôn ngữ, cả về trình độ phát triển kinh tế xã hội Bà con Xinh Mun ở xã Chiềng Sơ (huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) thuộc nhóm Xinh Mun (Puộc Nghẹt), có tổ tiên của họ

cư trú ở Sầm Nưa thuộc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Hoàng Huynh, 2005) [6]

Tiếng nói của người Xinh Mun thuộc ngữ hệ Nam - Á, mặc dù về mặt từ vựng, các nhà Ngôn ngữ học cũng chỉ ra rằng có nhiều từ giống với ngữ hệ Môn - Khơme Trong cuộc sống du canh du cư xưa kia, mỗi bản của người Xinh Mun thường chỉ lưa thưa vài ba nóc nhà Từ sau ngày hoà bình lập lại, số hộ trong một bản Xinh Mun dần dần tăng lên

Dân tộc Xinh Mun chưa có chữ viết riêng, trong hệ thống số đếm, trừ 4 số đầu (1 - 2 - 3 - 4) người Xinh Mun dùng tiếng của dân tộc mình, còn lại là tiếng Thái Việc nhiều người Xinh Mun sử dụng thành thạo tiếng Thái, đó là một điều mừng Tuy nhiên, hiện tượng ở một số nơi có những người Xinh Mun không biết tiếng Xinh Mun, đó là một chuyện lạ, là một vấn đề đáng lo, đang đặt ra những thách thức trong việc bảo tồn

Nhà ở của người Xinh Mun, về cơ bản và trông từ bên ngoài, tương tự như nếp nhà cổ truyền của dân tộc Thái (ngành Thái đen): Nhà sàn, vật liệu chủ yếu

Trang 16

bằng gỗ và tre, 2 mái dài, 2 chái hình mai rùa Mỗi nhà có 2 cầu thang, đặt ở 2 đầu quản Riêng cái cầu thang, người Xinh Mun không đặt thành vấn đề số bậc lẻ hay chẵn Trong nhà, người Xinh Mun chia không gian làm 2 phần, phần "PLầng" và phần "Xìa" Phần "PLầng" (gốc) là nơi ngủ của khách và con trai chưa vợ, con rể tuyệt đối không được ngủ ở đây Phần "PLầng" có một bếp lửa, dùng để sưởi ấm và đun nước tiếp khách; trong hoàn cảnh nào cũng không sử dụng bếp này để nấu thức

ăn Người Xinh Mun kiêng nhất chuyện làm nhà quay cửa vào nhau, hoặc nhà nằm theo hướng chéo nhau

Tại huyện Điện Biên Đông, người Xinh Mun có 6 họ: Vì, Lò, Lường, Mè, Hoàng và Lừ; 2 họ Vì và Lò phổ biến hơn cả Mỗi họ đều kiêng ăn hoặc sờ mó vào một số loài động, thực vật nhất định Riêng với giống chim đeđe (loài thân nhỏ, chân dài), thì người Xinh Mun dù thuộc dòng họ nào cũng đều không ăn thịt Hiện nay, trong cưới hỏi cũng như tang ma, mỗi dòng họ Xinh Mun có những kiêng kị khác nhau, thậm chí trái ngược nhau Theo các nhà nghiên cứu, sự khác biệt giữa các nhóm họ này, có thể là tàn dư nào đó của xã hội thị tộc nguyên thuỷ còn rớt lại? Tuy vậy, đấy cũng chỉ là những giả thiết, chứ chưa phải là những kết luận bền vững

về nhân chủng học (Hoàng Huynh, 2005)[6]

Dân tộc Xinh Mun theo chế độ phụ hệ, trong gia đình người cha có quyền quyết định tất cả các vấn đề Khi cha chết, người con trai cả quán xuyến công việc:

Từ đối nội, đối ngoại, đến ruộng nương, cưới xin, Trước kia, gia đình người Xinh Mun tồn tại trong nguyên tắc "gia đình lớn", rất nhiều thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà Đặc trưng lớn nhất của thời kỳ này là "nền kinh tế không dựa trên sở hữu tập thể, mà chỉ dựa trên sự chiếm hữu tập thể về tư liệu sản xuất" Dưới sự điều hành của người đứng đầu gia đình (bố hoặc con trai cả), các thành viên làm chung nương lúa, nuôi chung lợn, dệt chung vải Và đương nhiên, việc hưởng thụ cũng mang tính tập thể Trải qua quá trình tồn tại và biến đổi, trong "gia đình lớn" dần dần xuất hiện hình thái "gia đình nhỏ"; các cặp vợ chồng có nương riêng, chăn nuôi riêng và tất yếu thu nhập cũng riêng Xưa kia, hôn nhân người Xinh Mun có tục đa thê, người con trai phải ở rể trên dưới 10 năm Nhưng nay hôn nhân tiến bộ 1 vợ 1 chồng, sinh hoạt chủ yếu ở bên nội; con chú con bác (tức con của anh em trai)

Trang 17

không được lấy nhau, nhưng con dì con già (con của chị em gái) thì được phép kết hôn (Hoàng Huynh, 2005)[6]

Văn hoá của người Xinh Mun mang đậm dấu ấn của văn hoá Thái, đó là các

lễ hội xên bản xên mường, các vòng xoè cuộc vui; đặc biệt, về trang phục và nhất

là trang phục nữ Nếu trước kia, người phụ nữ Xinh Mun mặc váy có hàng hoa văn thêu vòng quanh từ bắp chân lên trên đầu gối, thì nay váy của chị em người Xinh Mun cũng như của chị em người Thái đen Đi cạnh đó là cái áo cóm với hàng khuy bạc, cổ cài cao, cùng dây xà tích, túi thổ cẩm và chiếc piêu đội đầu hoàn toàn mang dáng dấp phụ nữ Thái đen

1.1.2 Văn hóa và sinh kế

1.1.2.1 Văn hóa và văn hóa truyền thống

Văn hóa là một trong những khái niệm trung tâm của ngành nhân học nhưng lại được định nghĩa theo rất nhiều cách khác nhau Văn hóa là một khái niệm rất rộng Theo thống kê của một học giả thì có tới 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa Theo một số tác giả văn hóa là "một phức hợp bao gồm tri thức, tín điều, nghệ thuật, những nguyên tắc đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những năng lực

và thói quen nào khác mà con người thủ đắc được với tư cách là một thành viên của

xã hội" Có người cho rằng văn hóa là biết hành động, văn hóa là biết cư xử, là hiểu biết, là trình độ học vấn, tức là văn hóa được hiểu là người có học Văn hóa là hành

vi ứng xử, là phong cách sống, (Dương Văn Sơn và Nguyễn Trường Kháng, 2010)[14] Như vậy có thể xem văn hóa như là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách, bản sắc của một cộng đồng, một dân tộc

Theo nghĩa rộng, văn hóa bao quát toàn bộ ứng xử của một cộng đồng và nó quy định thái độ tổng quát của cộng đồng và cá nhân thành viên cả về suy tư và hành động Bởi thế người ta cũng có thể hiểu văn hóa một cách cụ thể và sinh động như là lối sống của một cộng đồng và mỗi cá nhân Nền văn hóa là thể thống nhất trong đa dạng của một hệ thống chuẩn mực, giá trị và biểu tượng của một cộng đồng người, được hình thành trong một môi trường tự nhiên xác định

Trang 18

Xã hội học nhìn nhận văn hoá như một di sản văn hoá, như là một tập hợp những quan niệm, những giá trị, những chuẩn mực và những mục tiêu mọi người trong xã hội cùng nhau chia sẻ trong đời sống hoạt động hàng ngày của họ Những khuôn mẫu, tác phong nói trên đặc thù cho từng nhóm, cộng đồng xã hội, đặc thù cho mỗi xã hội nhất định Văn hoá cũng có những đặc điểm phổ quát cho toàn nhân loại Mỗi yếu tố văn hóa đều mang tính quy luật xã hội

Biểu hiện rõ nét nhất của văn hoá là những triết lý, chân lý, hệ giá trị, khuôn mẫu văn hoá, những phong tục tập quán và lối sống của cộng đồng xã hội nông thôn Theo UNESCO, thì văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản,

có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựư của bản thân, tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân

Theo quan điểm của Triết học và Kinh tế chính trị học Mác - Lê nin thì văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, của cộng đồng và xã hội

Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới toàn diện mọi mặt của đời sống kinh

tế xã hội hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con người, với xã hội và với thiên nhiên Văn hóa vừa là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội, vừa là mục tiêu của chúng ta Văn hóa là bộ phận cấu thành của phát triển, là mục đích cuối cùng của sự phát triển đầy đủ, là yếu tố nội sinh, yếu tố tạo nên tiến bộ xã hội

Đời sống văn hóa của một cộng đồng về cơ bản tương ứng với trình độ phát triển kinh tế của cộng đồng đó Mặt khác sự phát triển kinh tế lại chịu sự chi phối của bối cảnh văn hóa bao chứa nó Do đó trong chương trình phát triển kinh tế, văn hóa -

xã hội cần coi văn hóa là một bộ phận cấu thành của sự phát triển đầy đủ

Trong việc xác định thành phần dân tộc, từ ngữ văn hóa thường được dùng với ý nghĩa là những nét văn hóa (culture trait) Đây là những hiện tượng riêng lẻ

Trang 19

thuộc mọi phạm vi sinh hoạt có thể quan sát được bao gồm cả trong lãnh vực văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần Những hiện tượng mà nhiều học giả Pháp trước kia nêu lên làm tiêu chí phân biệt thành phần dân tộc ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên như làm lúa nước, làm lúa rẫy, ở nhà sàn, ở nhà trệt, có nhà rông, không có nhà rông, theo chế độ mẫu hệ, theo chế độ phụ hệ,… có thể xem là những nét văn hóa đặc thù có thể quan sát được từ bên ngoài Như chúng ta thường nghe nói, đó là những đặc điểm văn hóa, có thể thấy ở một nhóm người này mà không thấy ở một nhóm người khác sống kế cận, và dựa vào đó nhà nghiên cứu có thể lập luận rằng hai nhóm người đó thuộc hai dân tộc khác nhau

Từ những phân tích trên đây cho thấy: Văn hóa là một thuật ngữ rất rộng, bao trùm một khối lượng rất lớn nội dung mà nó bao hàm Nội dung của văn hóa nông thôn sẽ được tập trung vào các vấn đề văn hóa làng xã, văn hóa giao tiếp và ngôn ngữ ở nông thôn Một số đặc trưng cơ bản của văn hóa nông thôn cũng được giới thiệu với ý định coi nó như là xuất phát điểm và cơ sở để khẳng định vai trò của các yếu tố văn hóa mới ở nông thôn và bảo tồn văn hóa truyền thống trong sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Dương Văn Sơn và Nguyễn Trường Kháng, 2010)[14]

Trong các định nghĩa trên, văn hóa chính là những sáng tạo của con người, mang lại giá trị cho con người, trong đó bao gồm giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần, nó rút ra từ đời sống thực tiễn của con người, tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội mà họ đang sống Điều đó có nghĩa, không phải tất cả những cái gì con người tạo nên đều là văn hóa, mà chỉ những gì kết tinh thành giá trị, thành bản sắc thì cái đó mới là cốt lõi văn hóa

Văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên

và xã hội) luôn được chọn lọc, tiếp nhận, bổ xung để hình thành tính cách của từng tộc người và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng

Văn hóa - văn hóa truyền thống và xã hội hòa hợp với nhau và muốn duy trì

sự ổn định phải có những giá trị trung tâm và những tiêu chuẩn chung đủ mạnh Do

Trang 20

vậy, trên một góc độ khác, có thể những giá trị và tiêu chuẩn trung tâm ấy được dùng để duy trì đặc quyền, đặc lợi của một nhóm người trong xã hội Khi đó, ý thức

hệ là một tập hợp các niềm tin và thực tiễn văn hóa giúp duy trì các lợi ích về kinh

tế, xã hội và chính trị Bởi các chuẩn mực đạo đức có tầm quan trọng nhất định, nên thường được luật pháp hỗ trợ để định hướng hành vi của các cá nhân Ví dụ hành vi tham ô, hối lộ, lừa đảo là vi phạm chuẩn mực đạo đức, ngoài việc bị xã hội phản ứng một cách mạnh mẽ, luật pháp còn quy định những hình phạt mang tính cưỡng chế (Mai Thanh Sơn, 2010) [15]

Mỗi nền văn hóa phải thích nghi với một môi trường tự nhiên nhất định, theo một truyền thống riêng phù hợp với các điều kiện sinh tồn riêng biệt của nền văn hóa ấy Mỗi cộng đồng được phân biệt với các cộng đồng khác bởi các huyền thoại của mình và các giá trị của những huyền thoại ấy cũng như bởi cây cỏ mình trồng, súc vật mình nuôi, bởi sự khác nhau khi chọn địa điểm cho bản, làng cư trú, bởi phương thức xây dựng nhà cửa, sự khác nhau giữa tín ngưỡng, phong tục tập quán Bởi thế, các nhà nghiên cứu tiền sử đã nhận thấy không phải chỉ có một nền văn minh, mà "một số vô hạn những nền văn minh đồ đá mới", tính đa dạng ấy nhất thiết được phản ánh trong các truyền thống của chúng

Với tư cách là hành vi của một cộng đồng, mọi truyền thống nhập thành cơ chế của cộng đồng và với cách riêng biệt của mình truyền thống xuất hiện trong cộng đồng qua những giá trị chủ yếu của mình Truyền thống không chỉ là cái trung gian

và cái tích hợp đối với mọi nền văn hóa Bằng cách bảo tồn và truyền đạt lại cái mình biết, một cộng đồng "tự tái sáng tạo" bản thân nó và "làm thành mới" cái nó

đã có theo như nó muốn có, muốn là (Chu Thùy Liên, 2013)[8]

Văn hóa truyền thống hay giá trị văn hóa truyền thống chính là văn hóa và các giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp Truyền thống của một cộng đồng được xây dựng trên cơ sở của thế giới tâm lý - kinh nghiệm, của những mối quan hệ tâm linh, huyền thoại và biểu tượng, là những mối quan hệ, đối với các thành viên của cộng đồng ấy, là sự tái hiện lịch sử trong mối tương quan với các dấu hiệu và các đối tượng hiện hình của cái thiêng liêng Truyền thống khác biệt với các nền văn

minh hiện đại Sự gắn bó tự phát của cộng đồng truyền thống chính là tết, nguồn

Trang 21

gốc của những lễ hội, mà ở đó mỗi người được hòa hợp với tất cả mọi người, cùng đồng cảm trong một tâm thức theo kiểu hòa hợp giữa CON NGƯỜI - THIÊN NHIÊN - THẦN LINH (Chu Thùy Liên, 2013)[8]

Bởi thế, truyền thống bằng cách riêng của mình đã quy định các thái độ ứng

xử, những niềm tin thiêng liêng hằng ngày cũng như trong đời sống đạo lý và tâm linh, từ hoạt động trao truyền con người tiếp tục sáng tạo ý nghĩa huyền thoại hay biểu tượng của một cách cư xử hay của những cử chỉ đặc biệt, ở mỗi lúc và ở vô vàn trường hợp khác nhau Tạo thành khuôn mẫu tạo nên niềm tin sâu sắc giữa cái

đã được tin với cái được sáng tạo ví như hoạt động lễ hội của dân tộc nào trong 18 dân tộc tỉnh Điện Biên cũng là mong muốn mùa màng bội thu, con người khỏe mạnh, bản mường an hòa Truyền thống chính là những gì đã hình thành lâu đời, được thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau Truyền thống chính là dòng chảy từ quá khứ đến hiện tại và tới tương lai, tạo nên những giá trị văn hóa trường tồn (Chu

Thùy Liên, 2013) [8]

1.1.2.2 Sinh kế

Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về sinh kế Theo một số tác giả, sinh

kế bao gồm năng lực tiềm tàng, tài sản (gồm các nguồn lực vật chất và xã hội như: cửa hàng, nguồn tài nguyên, đất đai, nước mặt, đường xá,…) cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện để kiếm sống của con người

Sinh kế của nông hộ là hoạt động kiếm sống của con người, được thể hiện qua hai lĩnh vực chính là nông nghiệp và phi nông nghiệp

Hoạt động nông nghiệp bao gồm: (1) Trồng trọt: Lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, cây ăn quả, rau màu,…, (2) Chăn nuôi: Lợn, gà, trâu, bò, cá,…, và (3) Lâm nghiệp: Trồng cây keo, bạch đàn, mỡ, rừng,… (Nguyễn Đức Quang, Lành Ngọc Tú, Phạm Đăng Định)[13], [17], [3]

Hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu bao gồm các dịch vụ, buôn bán, làm thuê và các ngành nghề khác

Như vậy, trong phạm vi luận văn này, sinh kế của người dân nông thôn được hiểu là các hoạt động sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp để nuôi sống cho chính gia đình họ Vì vậy, xây dựng kế hoạch chiến lược cải thiện sinh kế chính là việc xây

Trang 22

dựng các thí nghiệm trình diễn hiện trường để góp phần cải thiện sinh kế địa phương Qua đó góp phần phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo

Một sinh kế được xem là bền vững khi nó phải phát huy được tiềm năng con người để từ đó sản xuất và duy trì phương tiện kiếm sống của họ Nó phải có khả năng đương đầu và vượt qua áp lực cũng như các thay đổi bất ngờ Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi trường hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại

và tương lai Trên thực tế thì nó nên thúc đẩy sự hòa hợp giữa chúng và mang lại những điều tố đẹp cho tương lai Sinh kế bền vững, nếu theo nghĩa này, phải hội đủ những nguyên tắc sau: Lấy con người làm trung tâm, dễ tiếp cận, có sự tham gia của người dân, xây dựng dựa trên sức mạnh con người và đối phó với các khả năng dễ bị tổn thương, tổng thể, thực hiện ở nhiều cấp, trong mối quan hệ với đối tác, bền vững

và năng động [11]

Về cơ bản, các loại vốn sinh kế có 5 loại cơ bản là: vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội, vốn con người và vốn tự nhiên Sinh kế bền vững của đồng bào dân tộc thiểu số là sinh kế có thể đương đầu với khủng hoảng và phục hồi sau khủng hoảng, duy trì hoặc nâng cao năng lực, tài sản và cung cấp những cơ hội sinh kế bền vững cho những thế hệ tương lai của họ và đóng góp lợi ích lâu dài cho những nghề nghiệp khác

ở các cấp địa phương, quốc gia trong một thời gian ngắn và dài hạn (Ngô Quang Sơn, 2014) [16]

1.1.2.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa

Đời sống của con người cũng như của xã hội bao gồm hai mặt vật chất và tinh thần Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội, thì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội Tăng trưởng kinh tế là cơ sở và điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển văn hóa, phát triển văn hóa chính là mục tiêu và động lực của tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế phải nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người Sức sản xuất càng phát triển, thì quan hệ giữa văn hoá và kinh tế càng mật thiết Mọi hoạt động kinh tế từ thiết kế sản phẩm tới trao đổi và sử dụng sản phẩm đều thấm sâu yếu tố văn hoá, vì toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động của người, và con người, thông qua các hoạt động của

Trang 23

mình thiết lập, các quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện đề kinh tế phát triển nhanh chóng, và những thay đổi trong phát triển kinh tế có tác động rất lớn đến văn hóa Mặt khác, chỉ khi những quyết sách và chiến lược phát triển kinh tế mang hàm lượng văn hóa cao, thì sự phát triển mới thật sự có giá trị

Hiện nay, tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ với phát triển văn hoá còn vì bên cạnh yếu tố vốn, kỹ thuật, tài nguyên, thì lao động, nhất là năng lực sáng tạo của con người ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng hơn của sự giàu có và phát triển Một chính sách phát triển đúng đắn phải là một chính sách làm cho các yếu tố văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người, nhân tố văn hóa phải trở thành nội dung quan trọng của hệ thống chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước

Có lẽ chưa bao giờ những giá trị văn hóa vốn rất phong phú, đặc sắc, đã sống trong cộng đồng cư dân các dân tộc thiểu số tự lâu đời lại đứng trước nhiều thách thức và nguy cơ mất mát như hiện nay Văn hóa công nghiệp theo chân cùng tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã tràn vào bản làng Người dân các dân tộc ít người bỗng chốc bị "sốc" trước nhịp độ tác động mạnh mẽ, gấp gáp của môi trường công nghiệp "Văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người vốn được bảo tồn trong môi trường biệt lập bỗng trở nên đơn độc, yếu ớt Nhà cửa và không gian của nhiều bản làng đã không còn giữ được nét riêng, không chỉ thay đổi về nguyên liệu,

kiến trúc mà không gian bản làng truyền thống cũng bị phá vỡ

Mai một văn hóa tộc người đang là nguy cơ đối với tất cả các dân tộc thiểu

nếp sống thực dụng khiến cho tính cộng đồng truyền thống không còn và các tập quán cộng đồng cũng mai một Một phần nguyên nhân của sự mất mát được cho rằng xuất phát từ chính chủ thể các giá trị văn hóa Đồng bào hiện nay có xu hướng ham chuộng những thứ mới lạ, những gì của cha ông để lại bị cho là lạc hậu Nhiều người sùng bái các hiện tượng văn hóa ngoại lai, không phù hợp với văn hóa truyền thống và với bản sắc tộc người Nhiều chuyên gia nhận định, sự mất mát những giá

Trang 24

trị truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số đã không còn là nguy cơ mà đang trở thành hiện thực Vì vậy nếu không sớm có giải pháp thì không ít giá trị

cộng đồng các dân tộc thiểu số có nguyên nhân từ các yếu tố thời đại, văn minh công nghiệp Nhiều giá trị mới từng ngày, từng giờ tác động mạnh mẽ, xâm lấn vào những giá trị lâu đời và trở thành nguy cơ khiến cho các giá trị văn hóa tộc người bị mai một Những cộng đồng có dân số ít càng có nguy cơ bị tác động mạnh đến "sức

đề kháng" của bản sắc văn hóa tộc người

Với tất cả những phân tích trên đây cho thấy rõ ràng là phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ không gian văn hóa, không gian sống của đồng bào dân tộc thiểu số Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đồng bào các dân tộc thiểu số

1.1.3 Giá trị, biến đổi văn hóa và sinh kế trong tiến trình hội nhập và phát triển 1.1.3.1 Giá trị

Giá trị (value) với tư cách là sản phẩm của văn hóa và thuật ngữ giá trị có thể quy vào những mối quan tâm, thích thú, những ưa thích, những sở thích, những bổn phẩn, những trách nhiệm, những ước muốn, những nhu cầu, những ác cảm, những lôi cuốn và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn Khó có một xác định nào mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận Khoa học xã hội coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất cứ cái gì tốt, xấu đều là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể Giá trị là cái mà ta cho là đáng

có, mà ta thích, ta cho là quan trọng để hướng dẫn cho hành động của ta

Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều

gì là đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu, Trong một xã hội, các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và về thế giới dựa trên những giá trị văn hóa Trong quá trình trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội, và thông qua

đó xác định nên suy nghĩ và hành động như thế nào theo những giá trị của nền văn hóa Giá trị là sự đánh giá trên quan điểm văn hóa nên khác nhau ở từng cá nhân

Trang 25

nhưng trong một nền văn hóa, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên trong nhiều nền văn hóa đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc, Giá trị cũng luôn luôn thay đổi và ngoài xung đột

về giá trị giữa các cá nhân hoặc các nhóm trong xã hội, trong chính bản thân từng

cá nhân cũng có xung đột về giá trị chẳng hạn như giữa thành công của cá nhân mình với tinh thần cộng đồng

Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay lý tưởng, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu hoặc gán cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ

Cần phân biệt cái gọi là bản chất và quy luật của bản thân sự vật, hiện tượng với cái gọi là giá trị của sự vật, hiện tượng Bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng tồn tại một cách khách quan Còn giá trị chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ với nhu cầu của con người Tuỳ theo việc con người có hay không có nhu cầu nào

đó mà một sự vật hay hiện tượng đối với con người là có hay không có giá trị

Giá trị luôn mang tính khách quan - sự xuất hiện, tồn tại, mất đi của giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức con người là chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mà nó phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người, không phải do ý thức mà do yêu cầu của hoạt động, của thực tiễn, trong đó con người sống và hoạt động

Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện

sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể

Giá trị là một khái niệm rộng, trong đó chỉ có các giá trị định hướng mới gần với chuẩn mực Còn giá trị văn hoá và chuẩn mực là hai khái niệm giao nhau, chúng phân biệt với nhau theo tiêu chí thời gian Giá trị văn hoá bao gồm các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại (có tính lịch sử) Chuẩn mực (thường là về đạo đức: core values, code of ethics) là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương lai Chỉ khi nào trong quá trình hướng tới ấy, chuẩn mực đạo đức đi vào đời sống thì nó mới dần dần trở thành giá trị văn hoá nhưng xã hội loài người cũng như mỗi dân tộc, quốc gia hay mỗi tộc người lại luôn

Trang 26

luôn vận động, phát triển vì vậy các giá trị chuẩn mực luôn được điều chỉnh, đặt ra cho phù hợp với từng thời đại, từng giai đoạn lịch sử của sự phát triển

Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức, đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá Giá trị, giá trị văn hoá là một hình thái ý thức của đời sống tinh thần, nó phản ánh

và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người Cho nên quan điểm cho rằng văn hóa hay giá trị chỉ là lĩnh vực tinh thần thôi thì chưa thỏa đáng bởi bên cạnh giá trị tinh thần còn có giá trị vật chất Nếu hiểu khái niệm "tinh thần" theo nghĩa hẹp thì người ta còn có thể phân biệt ba loại giá trị: giá trị vật chất, giá trị xã hội - chính trị và giá trị tinh thần Giá trị văn hoá đối lập với giá trị tự nhiên và bao gồm tất cả các loại giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị ký hiệu học, giá trị toán học, vì mọi giá trị và hệ giá trị do con người sáng tạo ra đều thuộc về văn hoá

Giá trị văn hoá là một bộ phận của giá trị, nó mang đầy đủ đặc tính của giá trị, nó có tính chủ quan, tính tương đối và tính khách quan Giá trị văn hóa của mỗi

công đồng tạo nên hệ giá trị Trong hệ giá trị thường chứa đựng các nhân tố của

quá khứ, của hiện tại và cả những nhân tố có thể có trong tương lai Hệ giá trị văn hoá của một dân tộc bao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể (dân tộc) của nền văn hoá đó đã tích lũy được, bao gồm tổng cộng hàng triệu giá trị, cả vật chất lẫn tinh thần

1.1.3.2 Biến đổi văn hóa

Biến đổi văn hóa là quá trình biến đổi làm cho một trạng thái văn hóa nào đó khác với trạng thái trước đây của chính nó Dưới tác động của những yếu tố bên ngoài và theo dòng chảy thời gian, văn hóa có nhiều xu hướng phát triển với những

ưu điểm và nhược điểm khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể Vấn đề biến đổi văn hóa không chỉ mang lại thành tựu mà bao hàm trong nó sự thay đổi có khi không mang lại kết quả tốt đẹp nào cho dù hình thức thay đổi

Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn các vùng dân tộc thiểu số hiện nay đang chịu tác động và ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện kinh tế - xã hội theo cả 2 chiều tích cực và tiêu cực Tích cực là kinh tế - xã hội ngày càng phát

Trang 27

triển, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện

và nâng cao, các điều kiện vật chất đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, hưởng thụ văn hóa của đồng bào ngày càng tốt hơn Tiêu cực ở chỗ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số thì không gian văn hóa ở vùng này cũng bị thu hẹp, biến dạng, bào mòn và các giá trị văn hóa truyền thống cũng theo đó ra đi hàng ngày, thậm chí là từng giờ (Hoàng Cầm và Phạm Quỳnh Phương, 2012) [1]

Biến đổi văn hóa của dân tộc thiểu số trước hết thể hiện ở môi trường không gian sinh sống của dân tộc thiểu số Môi trường không gian sinh sống truyền thống trước đây của dân tộc thiểu số là bản làng, sông suối, rừng núi, thung lũng, Không gian văn hóa của dân tộc thiểu số hiện nay đã thay đổi với tốc độ nhanh chóng Những cánh rừng nguyên sinh ngan ngát màu xanh, những dòng sông thơ mộng, những dòng suối trong xanh bây giờ chỉ còn trong ký ức Ai cũng biết, bà con dân tộc thiểu số chỉ quen gắn bó với tự nhiên, sống dựa vào tự nhiên, với núi rừng, sông, suối Thế mà rừng, núi, sông, suối cạn kiệt, hoặc bị ô nhiễm Bây giờ, nhìn vào một bản dân tộc thiểu số, những ngôi nhà xi măng, cốt thép còn nhiều hơn nhà sàn truyền thống Thậm chí chúng ta còn thấy những nhà văn hóa trung tâm của xã, hay nhà văn hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số ở các bản cũng chỉ là ngôi nhà xi măng, cốt thép đã làm mất đi giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Đáng buồn hơn vì người đưa ra thiết kế mẫu lại chính là những người làm công tác văn hóa Tại sao nhà văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số không thể là nhà sàn truyền thống, nếu có là nhà bê tông, cốt thép chăng nữa thì ít nhất cũng theo lối kiến trúc của nhà sàn truyền thống vì đã mất bản sắc văn hóa, mất hồn của người dân tộc thiểu số (Hoàng Cầm và Phạm Quỳnh Phương, 2012) [1]

Cùng với thay đổi môi trường không gian sinh sống, ngôn ngữ chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nguy cơ mai một Hầu hết con, em cán bộ công chức người dân tộc thiểu số ngày nay nói tiếng Kinh nhiều hơn tiếng dân tộc mình, thanh niên các dân tộc thiểu số không mặn mà với trang phục dân tộc, không thích nhảy sạp, không ham thổi pí, thổi khèn và hát dân ca,…

Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho biết: lối sống gấp gáp và nếp sống thực dụng khiến cho tính cộng đồng truyền thống không còn Các tập quán cộng

Trang 28

đồng cũng mai một Một phần nguyên nhân của sự mất mát được cho rằng xuất phát từ chính chủ thể các giá trị văn hóa Đồng bào hiện nay có xu hướng ham chuộng những thứ mới lạ, những gì của cha ông để lại bị cho là lạc hậu Nhiều người sùng bái các hiện tượng văn hóa ngoại lai, không phù hợp với văn hóa truyền thống và với bản sắc tộc người Mặt khác, sự biến đổi các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số có nguyên nhân từ các yếu tố thời đại, văn minh công nghiệp Nhiều giá trị mới từng ngày, từng giờ tác động mạnh mẽ, xâm lấn vào những giá trị lâu đời và trở thành nguy cơ khiến cho các giá trị văn hóa tộc người bị mai một Những cộng đồng có dân số ít càng có nguy cơ bị tác động mạnh đến "sức

đề kháng" của bản sắc văn hóa tộc người

Như vậy, biến đổi văn hóa có tính tất yếu, tính quy luật của sự phát triển Theo Nguyễn Văn Mạnh (2009) [10] cho biết: biến đổi văn hóa là xu hướng tất yếu Các xu hướng biến đổi văn hóa tộc người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình vừa có những mặt tích cực lại vừa có những mặt tiêu cực Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu các di sản, các giá trị văn hóa tộc người, nắm bắt các quy luật tất yếu để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình phát triển văn hóa các tộc người thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng bình đang trở nên cấp thiết

Vì vậy, khảo sát quá trình biến đổi văn hóa về phong tục tập quán dân tộc thiểu số Xinh Mun trong nghiên cứu này tại huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên) liệu có chỉ ra rõ quy luật này hay không? Đây là giả thiết cần được giải đáp trong nghiên cứu này

1.1.3.3 Biến đổi sinh kế

Biến đổi sinh kế là quá trình biến đổi làm cho hình thức hay loại hình sinh kế nào đó khác với hình thức, loại hình sinh kế trước đây của chính nó Sinh kế truyền thống của dân tộc thiểu số chủ yếu gắn liền với canh tác nương rẫy, “chọc lỗ bỏ hạt”, sử dụng đầu tư ít, không bón phân với phương thức sản xuất “tự cung tự cấp” Cây trồng truyền thống của họ thường là lúa nương, ngô, rau đậu,… Ngoài ra, săn bắn và hái lượm các sản vật tự nhiên từ rừng núi, sông suối cũng là hoạt động sinh

kế quan trọng của đồng bào dân tộc thiểu số Cùng với dòng chảy của thời gian và

Trang 29

các tác động can thiệp từ bên ngoài, các sinh kế bản địa tuyền thống của cộng đồng địa phương có thể thay đổi cả về hình thức, loại hình và trình độ sinh kế

Theo một số ý kiến, thay đổi sinh kế của dân tộc thiểu số ở nước ta trước hết

là do thay đổi cấu trúc dân cư và tộc người trong không gian miền núi, vùng cao

Có thể nói, trước năm 1954 ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam, cư dân sinh sống ở miền núi, vùng cao chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số bản địa Cùng với sự cách trở về địa lý, sự khác biệt về khí hậu cũng như tập quán sinh sống giữa miền xuôi

và miền núi, hệ thống bản địa truyền thống đã ngăn cản làn sóng di cư của người miền xuôi vào miền núi sinh sống (Hoàng Cầm và Phạm Quỳnh Phương, 2012) [1] Sau giải phóng, làn sóng di cư ồ ạt của người miền xuôi lên miền núi là khởi đầu cho thay đổi sinh kế của dân tộc thiểu số trước hết làm cho không gian sinh sống của người dân tộc thiểu số bị dần thu hẹp lại, sau đó với sự đan xen cùng làm ăn sinh sống của người miền xuôi và người dân bản địa miền núi, buộc người dân tộc thiểu số phải thay đổi sinh kế truyền thống của họ

Cũng có ý kiến cho rằng, sự thay đổi về sinh kế của dân tộc thiểu số có thể được khởi đầu bằng cách mạng xanh - thực chất đó là công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp - với việc áp dụng các giống cây trồng và con gia súc mới, áp dụng phân hóa học, thức ăn gia súc chế biến và máy móc trong sản xuất Kết quả của công cuộc này là năng suất và sản lượng gia tăng, đảm bảo an ninh lương thực trên phạm

vi rộng lớn có tính toàn cầu Tuy nhiên, mặt trái của cách mạng này là cùng với việc sử dụng cường độ đất cao là những suy thoái đất và ô nhiễm môi trường

Ở Việt Nam, sự chuyển đổi xã hội Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã diễn ra một cách mạnh mẽ và triệt để hơn bao giờ hết Đó là Việt Nam chuyển dần từ xã hội nông nghiệp tiểu nông sang xã hội công nghiệp hóa hiện đại hóa, để đến năm

2020 Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp, tuy rằng mục tiêu này đang có nguy cơ khó thực hiện được Công cuộc này cũng có tác động rất lớn đến sinh kế của dân tộc thiểu số

Vì thế, phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi - dân tộc thiểu số - phải đi đôi với phát triển văn hóa, phải biết trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Nếu coi nhẹ việc phát triển văn hóa, không tôn trọng giá

Trang 30

trị văn hóa bản địa dễ dẫn đến tình trạng đánh mất mình, đánh mất bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Khi xây dựng chính sách kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải có sự hài hòa giữa kinh tế và văn hóa Để chính sách đi vào được cuộc sống cần bảo đảm sự thống nhất trong tất cả các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư nguồn lực thích đáng Những giải pháp phát triển về kinh tế để đáp ứng những nhu cầu dân sinh phải gắn với nhu cầu bảo vệ đời sống tinh thần, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Muốn vậy, mọi chính sách đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng quyền quyết định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu sắc về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp

Một điều cần chú ý là nghiên cứu sự biến đổi về văn hóa và sinh kế dân tộc Xinh Mun cần phải đặt ra trong bối cảnh cả nước ta đang trong tiến trình hội nhập

và phát triển Việc khảo sát quá trình biến đổi sinh kế của cộng đồng dân tộc Xinh Mun trong nghiên cứu này liệu có chỉ rõ quy luật này hay không? Đây là giả thiết cần được giải đáp trong nghiên cứu này

1.2 Một số nghiên cứu về văn hóa và sinh kế ở nước ta

1.2.1 Một số nghiên cứu về văn hóa

Văn hóa là một hiện tượng xã hội có tính kế thừa và tính bền vững, nó luôn tồn tại trong dòng chảy của sự vận động, phát triển của lịch sử - xã hội Mỗi dân tộc với điều kiện và lịch sử của mình đều có một nền văn hóa với những nét riêng, lâu đời và bền chặt, đó là bản sắc văn hóa Bản sắc văn hóa là một tiêu chí để khẳng định sự tồn tại của một dân tộc; giữ gìn bản sắc là cách thức cơ bản để các dân tộc không tự đánh mất mình Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu đời sống văn hóa của các dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng tạo và phát minh của các dân tộc trong lịch sử xã hội Qua đó để tìm ra những đặc sắc, tinh túy trong hệ thống giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, để tôn vinh, phát huy lên tầm cao mới để không ngừng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ hôm nay và mai sau (Chu Thùy Liên, 2013) [8]

Có con người là có văn hóa Trong lịch sử dân tộc, Việt Nam chưa bao giờ

có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hóa như bây giờ, nhưng cũng chưa

Trang 31

bao giờ chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc như hiện nay

Do vậy, khi xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải kết hợp được giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, nghĩa là việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc phải trên cơ sở chủ động tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ, tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới Muốn phát triển vững chắc, ngoài yếu tố mang tính quyết định là dựa vào nội lực, tức là bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, thì đồng thời phải quan tâm chú trọng đến nhân tố ngoại lực, tức là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại Việc giao lưu văn hóa, hợp tác quốc tế là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển văn hóa Việt Nam Thông qua giao lưu và hợp tác văn hóa mà Việt Nam tiếp thu, nắm bắt được những thành tựu văn minh, những tinh hoa văn hóa của nhân loại Mở rộng giao lưu văn hóa, hợp tác quốc tế, Việt Nam có điều kiện để phát huy lợi thế

so sánh của mình, đánh giá được đúng mình và nhận thức được thế giới xung quanh

để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những tiến bộ của thế giới nhằm mục tiêu phát triển văn hóa Việt Nam Lênin đã từng nói phải dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài Hợp tác, giao lưu văn hóa được tiến hành trên cơ sở độc lập,

tự chủ thực sự của quốc gia dân tộc Ngày nay, trong quan hệ giao lưu văn hóa, tất

cả các nước đều phải thực hiện theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và cùng

có lợi, tự chủ, tự quyết Có thể nói, nguyên tắc này là cơ sở trong giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới (Phạm Xuân Nam, 2013) [12]

Đa dạng văn hóa, do đó, là điều kiện cần thiết cho phát triển Mỗi tộc người

và cộng đồng có cách hiểu riêng về văn hóa, phụ thuộc vào những nhận thức về môi trường sống và thực hành hàng ngày của họ, và do đó mỗi nền văn hóa luôn chứa đựng trong nó sự đa dạng Đối với các nước thế giới thứ 3, các nước đang phát triển, đa dạng văn hóa còn đóng vai trò quan trọng hơn nữa, bởi nó không chỉ biểu hiện tính phong phú trong thực hành văn hóa, mà còn bảo đảm cho sự sinh tồn của họ (Hoàng Cầm, Phạm Quỳnh Phương, 2012) [1]

Trang 32

Trong văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bên cạnh những yếu tố vốn

kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc, cũng có những yếu tố tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại Chính nhờ sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc làm cho nhiều giá trị của bản sắc dân tộc ta được khẳng định, đồng thời qua đó chúng ta học hỏi, tiếp thu, bổ xung thêm nhiều giá trị mới, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc phong phú,

đa dạng hơn Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam chủ động giao lưu văn hóa và phát huy những lợi thế so sánh của mình, giới thiệu với thế giới những tiềm năng, thành tựu văn hóa, những hình ảnh về đất nước, về con người Việt Nam, đồng thời vừa là điều kiện để Việt Nam có thể tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú, đa dạng và hoàn thiện hơn nền văn hóa Việt Nam (Phạm Xuân Nam, 2013) [12]

Nghiên cứu về văn hóa tộc người thiểu số đang đặt ra rất nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi cần giải quyết một cách thấu đáo Theo Hoàng Cầm, Phạm Quỳnh Phương (2012) [1], văn hóa và đa dạng văn hóa đóng vai trò gì đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của các cộng đồng tộc người? Sự biến đổi văn hóa rất lớn ở vùng miền núi trong vài thập kỷ qua đã và đang diễn ra là do đâu? Những định kiến về dân tộc thiếu số đã có tác động ra sao đối với đời sống kinh tế xã hội và văn hóa của họ? Thông qua phân tích các góc tiếp cận văn hóa tộc người cũng như diễn ngôn và chính sách đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam, nghiên cứu chỉ ra rằng những quan niệm nhận thức luận và ngôn thuyết chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa đơn tuyến và triết lý phát triển kinh tế xã hội theo mô hình phương Tây, là một trong những lý do dẫn đến những thực hành chưa thể hiện quan điểm tôn trọng sự

đa dạng văn hóa đã được đề ra trong Hiến pháp Việt Nam Đồng thời, nó cũng dẫn đến nhiều chính sách chưa hiệu quả đối với dân tộc thiểu số, và gây nên những tác động không mong đợi cho các cộng đồng ít người trong quá trình phát triển và duy trì bản sắc của họ

Tác giả Chu Thùy Liên (2013) [8] đã công bố một công trình nghiên cứu toàn diện về vai trò văn hóa truyền thống dân tộc Thái tỉnh Điện Biên trong tiến trình hội nhập và phát triển Tác giả đã đề cập một cách toàn diện và hệ thống đến các vấn đề văn hóa người Thái tỉnh Điện Biên, gồm: (1) Tập quán sinh sống: trồng trọt,

Trang 33

chăn nuôi, săn bắt hái lượm và kinh nghiệm làm ruộng trong thung lũng của người Thái; (2) Đan mây tre và các ngành thủ công dân tộc Thái; (3) Nhà ở và cấu trúc nhà ở dân tộc Thái; (4) Trang phục dân tộc Thái tỉnh Điện Biên; (5) Tập quán ẩm thực của người Thái Điện Biên; (6) Tổ chức bản mường, luật tục truyền thống với điều hành xã hội; (7) Tập quán sinh đẻ, nuôi con của người Thái; (8) Những hình thức tìm hiểu và bước cơ bản của lễ cưới, tục ở rể và đón dâu về nhà chồng; (9) Tập quán tang ma của người Thái thò cúng ma nhà, thần bản, mệnh của bản; (10) Một số hình thức tín ngưỡng bản địa; (11) Ma thuật và sa man giáo; (12) Y học truyền thống của người Thái Điện Biên; (13) Giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của người Thái Điện Biên; (14) Các tri thức quản lý cộng đồng và dự đoán thời tiết; (15) Văn hóa tâm linh và văn học dân gian của người Thái; (16) Bảo tồn và phát triển triết lý ân dương của văn hóa dân gian dân tộc Thái trong giai đoạn hiện nay; (17) Khía cạnh văn hóa của địa danh nơi người Thái Điện Biên cư trú; (18) Vai trò cộng đồng dân cư Thái Điện Biên với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; (19) Sự biến đổi cấu trúc gia đình ở dân tộc Thái Điện Biên hiện nay; (20) Bảo tồn phát huy nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật múa dân gian, nghệ thuật tạo hình, trang trí dân tộc Thái Điện Biên; (21) Bảo tồn phát huy ngôn ngữ và chữ viết dân tộc Thái,… Rõ ràng đây là công trình nghiên cứu toàn diện và hệ thống về một dân tộc ở miền Tây Bắc nước ta, là cơ sở, tiền đề cho những nghiên cứu tương tự cho những tộc người thiểu số khác ở nước ta

Tuy nhiên, hiện trạng văn hóa của các tộc người thiểu số vẫn là vấn đề nhạy cảm, vì có nhiều vấn đề đang đặt ra một cách bức xúc Theo Mai Thanh Sơn, 2010 [15], hiện trạng văn hoá và những vấn đề đặt ra đối với nước ta là: (1) văn hoá mưu sinh thay đổi: Nguy cơ bị bần cùng hoá; (2) môi trường vật chất của văn hoá tinh thần bị phá huỷ, nhiều giá trị văn hoá tinh thần bị mai một; (3) phân cực xã hội, và (4) tâm lý bất mãn và nguy cơ tiềm ẩn Do đó, từ góc độ tâm lý và văn hóa, chúng

ta có thể thấy một cách rõ ràng là nguy cơ hiện hữu để có thể xảy ra xung đột dân tộc, sắc tộc - một trong những vấn đề có tính thời sự hiện nay trên thế giới - đó là ít nhất những nguyên nhân dẫn đến xung đột dân tộc như: (1) xung đột dân tộc gắn liền với nhận thức và cảm xúc; (2) xung đột thường gắn liền đặc điểm tâm lý tổng

Trang 34

hợp, đặc điểm xâm kích của loài người hoặc nhóm người kết hợp với sự thất vọng của họ; (3) xung đột do định khuôn, định kiến, thành kiến dân tộc của người bên ngoài (Lê Thị Minh Loan, 2005) [9] Đây có thể nói là vấn đề nghiêm trọng và nhạy cảm về sắc tộc, dân tộc

Theo Hoàng Cầm, Phạm Quỳnh Phương (2012) [1], trong nghiên cứu của mình đã đặt ra những câu hỏi: (1) Văn hóa và đa dạng văn hóa đóng vai trò gì đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của các cộng đồng tộc người? (2) Sự biến đổi văn hóa rất lớn ở vùng miền núi trong vài thập kỷ qua đã và đang diễn ra là do đâu? (3) Những định kiến về dân tộc thiếu số đã có tác động ra sao đối với đời sống kinh

tế xã hội và văn hóa của họ? Thông qua phân tích các góc tiếp cận văn hóa tộc người cũng như diễn ngôn và chính sách đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam, công trình nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra rằng những quan niệm nhận thức luận và ngôn thuyết chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa đơn tuyến và triết lý phát triển kinh

tế xã hội theo mô hình phương Tây, là một trong những lý do dẫn đến những thực hành chưa thể hiện quan điểm tôn trọng sự đa dạng văn hóa đã được đề ra trong Hiến pháp Việt Nam Đồng thời, nó cũng dẫn đến nhiều chính sách chưa hiệu quả đối với dân tộc thiểu số, và gây nên những tác động không mong đợi cho các cộng đồng ít người trong quá trình phát triển và duy trì bản sắc của họ

Như vậy, rõ ràng là trong mấy năm gần đây, các nghiên cứu về văn hóa đang được quan tâm chú ý Sở dĩ các nghiên cứu về văn hóa đang nở rộ như vậy bởi các

- Thứ ba, thế giới ngày càng nhận thấy những giá trị của các bản sắc văn hóa dân tộc, nên những nghiên cứu về giá trị bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa dân tộc thiểu số ngày càng được tập trung chú ý của các nhà nghiên cứu

Sáu giải pháp phát triển văn hóa trong thời kỳ mới được xác định là:

Trang 35

Thứ nhất, Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa: Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng, một trong những trụ cột bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội Đổi mới về chính trị và kinh tế phải đồng thời với việc xây dựng, phát triển văn hóa

và con người Việt Nam

Thứ hai, Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đồng thời với việc không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới Quan điểm xuyên suốt của Đảng từ

Đề cương Văn hóa Việt Nam là: “Văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động” Mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu, phải thực sự tiêu biểu về đạo đức, lối sống, thực sự gần dân, thân dân, trọng dân, phấn đấu vì lợi ích của dân, thấm nhuần đạo

lý “Dân là gốc nước”, “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu Khó vạn lần dân liệu cũng xong” như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói

Thứ ba, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ văn hóa với nhiệm vụ chính trị Trong cuộc đấu tranh chống suy thoái về đạo đức, lối sống hiện nay, văn hóa phải phát huy hơn nữa sứ mệnh “soi đường quốc dân đi”, xây dựng hệ giá trị văn hóa mới, hướng con người đến chân-thiện-mỹ, phải thực sự trở thành điểm tựa tinh thần và khởi nguồn cho sức mạnh nội sinh trong mỗi cá nhân, cộng đồng, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước Văn hóa phải có tiếng nói mạnh mẽ, kiên quyết hơn nữa đối với những quan điểm mơ hồ, sai trái, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa

Thứ tư, Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa, mức đầu tư của Nhà nước cho các hoạt động văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế Sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư của Nhà nước đi đôi với việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa, với những cơ chế, chính sách cụ thể, thiết thực Thực hiện tốt sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ văn hóa, khơi dậy và huy động tiềm năng sáng tạo của các tổ chức,

Trang 36

doanh nghiệp và của toàn dân tham gia xây dựng văn hóa, con người Việt Nam Thực hiện tốt chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đi đôi với thực hiện các chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ làm việc trong các lĩnh vực hoạt động văn hóa-nghệ thuật

Thứ năm, Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ hợp tác quốc tế về văn hóa vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân tộc Đẩy mạnh truyền bá văn hóa, ngôn ngữ, giới thiệu Đất nước, Con người Việt Nam ra thế giới Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

Thứ sáu, Phát huy thế mạnh, hiệu quả của mô hình quản lý nhà nước đa ngành,

đa lĩnh vực trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, để Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; Gia đình Việt Nam no ấm, tiến

bộ, hạnh phúc; Thể dục, thể thao vì sự nghiệp dân cường, nước thịnh; Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước

Tóm lại: Các nghiên cứu về văn hóa đều tựu chung là cần bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa Việt Nam và văn hóa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cơ sở để xây dựng, phát triển nền văn hóa thống nhất trong đa dạng là

xu hướng chung của các nhà nghiên cứu Vai trò của văn hóa ngày càng được các quốc gia đề cao, coi trọng Văn hóa trở thành một trong các trụ cột của phát triển bền vững, là động lực của quá trình hiện đại hóa, là nhân tố phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia Vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế được chú trọng, kết hợp khai thác tiềm năng của văn hóa với phát triển kinh tế, du lịch Đời sống văn hoá ở cơ sở có bước phát triển về chiều rộng và chiều sâu

1.2.2 Một số nghiên cứu về sinh kế

Sinh kế là một đề tài được nhiều nơi trên thế giới cũng như trong nước quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay người nông dân chịu sự tác động lớn từ công

Trang 37

nghiệp hóa - hiện đại hóa, sự tác động của các khu công nghiệp, sự chênh lệch giàu nghèo, hội nhập kinh tế, sự biến đổi khí hậu và nhiều yếu tố khác

Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, bài viết đi sâu phân tích về hoạt động sinh kế của người dân, đặc biệt chú ý đến đời sống của cư dân nghèo khổ Ý tưởng nghiên cứu về sinh kế xuất hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả Các tác giả đều cho rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đời sống của cá nhân cũng như từng hộ gia đình Hiện nay, các đề tài liên quan đến hoạt động sinh kế và bàn về cách thức để xây dựng mô hình sinh kế bền vững cũng vô cùng phong phú Những câu hỏi tại sao, phải làm như thế nào vẫn đang tìm câu trả lời Làm thế nào để lựa chọn một sinh kế bền vững, hay nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là gì?,…

Theo Trần Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh (2012) [7], khái niệm tài sản sinh

kế rất mềm dẻo và tùy thuộc vào bối cảnh cụ thể của địa phương nơi áp dụng Trong đó, vốn tự nhiên ám chỉ các nguồn lực tự nhiên mà con người có thể sử dụng cho cuộc sống Vốn tự nhiên rất đa dạng, có thể hữu hình hay vô hình, hoặc dưới dạng hàng hóa công như khí hậu, sinh quyển làm nền tảng cho sản xuất Vốn tự nhiên có thể được biểu thị bằng các chỉ báo khác nhau như diện tích đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, độ phì nhiêu của đất đai, khả năng được tưới, khả năng tăng vụ, trữ lượng cá, trữ lượng tài nguyên rừng, Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng cơ bản và các tài sản vật chất cần thiết cho sinh kế Cơ sở hạ tầng là hệ thống giao thông thuận tiện, nhà ở tốt và được bảo đảm, điều kiện vệ sinh môi trường và cung cấp nước sạch tốt, sử dụng năng lượng sạch và thuận tiện, dễ dàng tiếp cận thông tin truyền thông bằng các phương tiện máy móc thiết bị Ngoài ra hàng hóa vật chất cho sản xuất như công cụ, thiết bị cũng là các chỉ báo quan trọng Vốn tài chính ám chỉ đến các nguồn lực tài chính

mà hộ gia đình có thể tiếp cận và sử dụng để đạt được mục đích sinh kế của họ Hai nguồn vốn tài chính chủ yếu của hộ gia đình là nguồn lực dự trữ và dòng tiền vốn lưu động Tiền gửi tiết kiệm, dự trữ tiền mặt, tài sản có tính thanh khoản cao như vàng bạc đá quý-gia súc lớn, lương hưu, hay các khoản tiền hỗ trợ từ nhà nước,

và tiền gửi của người thân từ nơi khác là những chỉ báo phù hợp Vốn xã hội chính

Trang 38

được hiểu chính là các quan hệ hay sự kết nối giữa cá nhân hay hộ gia đình và các

tổ chức, các mạng lưới xã hội Vốn xã hội có thể được chỉ thị bằng các chỉ báo cụ thể như thành viên của các tổ chức, nhóm, mạng lưới, các đặc quyền có được, vị trí

xã hội,

Từ những khái niệm trên, đã có nhiều nghiên cứu cải thiện sinh kế theo hướng bền vững Theo tác giả Ngô Quang Sơn (2014) [16], có thể cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng dân tộc thiểu số cần gắn với tri thức bản địa bằng các biện pháp như: (1) tuyên truyền giáo dục, vận động nâng cao nhận thức; (2) xây dựng chính sách cải thiện sinh kế phù hợp với văn hóa, tri thức bản địa; (3) chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với văn hóa, tri thức bản địa; (4) xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín của dân tộc thiểu số; (5) xây dựng mô hình phát triển sinh kế bền vững dựa trên tiềm năng các tri thức bản địa

Còn theo tác giả Vũ Thị Thanh Minh, 2014 [11], để cải thiện sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta cần đặc biệt chú ý vấn đề bảo vệ môi trường, vì (1) tài nguyên môi trường rừng đang bị tàn phá, (2) tài nguyên đất, nước bị suy giảm, ô nhiễm, (3) môi trường không khí bị ô nhiễm, (4) vệ sinh môi trường nông thôn kém, (5) các sự cố môi trường gia tăng Xác định các sinh kế hiện tại được cho là bước đâu tiên để có thể đề xuất những can thiệp cải tiến sinh kế Theo Nguyễn Đức Quang (2013) [13], sinh kế chăn nuôi chủ yếu của nông hộ nông dân tại xã Kim Lư (huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn) xếp theo thứ tự quan trọng gồm: Chăn nuôi gà, lợn, trâu, cá, vịt, ngan, ngỗng, ngựa, bò,… Trong đó, các hộ có kinh tế khá hơn thì cũng chăn nuôi nhiều hơn, vì phát triển chăn nuôi cần nhiều vốn đầu tư, nên hộ nghèo không đủ khả năng để đầu tư Sinh kế sản xuất ngành trồng trọt của nông hộ tại địa phương này chủ yếu là trồng ngô, lúa, sắn, đỗ lạc, cây lâm nghiệp, dong riềng,… Trong đó các hộ nghèo có thể do thiếu đất để trồng cây lương thực (lúa, ngô) nên dẫn đến tình trạng nghèo đói

Còn theo Lành Ngọc Tú (2013) [18], sản xuất nông nghiệp vẫn là sinh kế chủ yếu của người dân trên địa bàn nghiên cứu xã Xuân Trạch (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) chiếm gần 60% thu nhập, phi nông nghiệp đóng góp trên 40% thu

Trang 39

nhập của nông hộ Cũng giống như giả thiết nghiên cứu rằng thu nhập phi nông nghiệp thấp hơn thu nhập từ nông nghiệp Trong khi ngành trồng trọt đóng góp trung bình trên 60 % thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì chăn nuôi đóng góp chưa đến 40 % thu nhập Sinh kế sản xuất ngành trồng trọt được xếp thứ tự theo đóng góp vào thu nhập của trồng trọt lần lượt là: lạc, sắn, ngô, hồ tiêu, Sinh kế sản xuất ngành chăn nuôi được xếp thứ tự theo đóng góp vào thu nhập của chăn nuôi lần lượt là: lợn, bò, trâu, gà, vịt

Theo Phạm Đăng Định (2015) [4], sinh kế của cộng đồng nông dân tại các xã Vĩnh Kiên và Phúc An (thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái) gồm trồng trọt (sắn, lúa, ngô), lâm nghiệp (keo, bạch đàn), chăn nuôi (lợn, trâu, bò, cá, ) và phi nông nghiệp (chế biến tinh bột sắn ướt, chế biến gỗ dán, đan rọ tôm, buôn bán, )

Tóm lại, từ trước đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về văn hóa,

sinh kế Và kết quả của công trình nghiên cứu này cũng góp phần đóng góp cho những nghiên cứu về văn hóa và sinh kế, đặc biệt là những biến đổi về văn hóa và sinh kế của người Xinh Mun, một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta Có rất nhiều nghiên cứu về sinh kế và văn hóa vẫn còn ở phía trước, cần được tiếp tục nghiên cứu

Trang 40

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu

2.1.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là văn hóa và sinh kế của hộ gia đình và cộng đồng dân tộc thiểu số Xinh Mun đang sinh sống tại xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên Mô tả đặc điểm xã Chiềng Sơ được trình bày ở mục cuối của chương này

2.1.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Đời sống của con người cũng như của xã hội bao gồm hai mặt vật chất và tinh thần Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội, thì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội Tăng trưởng kinh tế phải nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người Đề tài tập trung nghiên cứu về những đặc trưng bản địa truyền thống văn hóa và sinh kế của người dân tộc thiểu số Xinh Mun và những thay đổi, biến đổi về văn hóa và tập tính sinh kế của họ theo dòng chảy thời

gian dưới tác động của môi trường (những can thiệp, những chính sách, dự án,…)

2.1.3 Địa bàn nghiên cứu

Xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên

2.2 Nội dung nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau đây:

- Một số đặc trưng bản địa truyền thống của dân tộc Xinh Mun đang cư trú tại huyện Điện Biên Đông

* Văn hóa bản địa truyền thống

+ Dân cư và địa bàn cư trú: Dân số, phân bố cư trú,…

+ Tập quán ăn, ở: Nhà ở, thức ăn truyền thống,…

+ Văn hóa bản địa truyền thống: Ngôn ngữ, trang phục, ứng xử cộng đồng, hôn nhân, ma chay, tín ngưỡng, quan niệm, thế giới quan,…

* Sinh kế bản địa truyền thống

Ngày đăng: 07/09/2017, 10:13

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hoàng Cầm, Phạm Quỳnh Phương, 2012. Diễn ngôn, chính sách và sự biến đổi văn hóa-sinh kế tộc người. Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn ngôn, chính sách và sự biến đổi văn hóa-sinh kế tộc người
2. Phan Ngọc Chiến, 2014. Những quan điểm lý thuyết trong nhân học về vấn đề dân tộc. Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những quan điểm lý thuyết trong nhân học về vấn đề dân tộc
3. Trần Trí Dõi, 2015. Vấn đề mù chữ và chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số: Khảo sát trường hợp tỉnh Điện Biên. Kỷ yếu hội thảo Quốc tế “Kinh tế và văn hóa-xã hội các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập ASEAN”. Thái Nguyên, 14-15/5/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế và văn hóa-xã hội các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập ASEAN
4. Phạm Đăng Định, 2015. Nghiên cứu hoạt động sinh kế cộng đồng nhằm phát triển sản xuất tại hai xã Phúc An và Vĩnh Kiên (huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái). Luận văn thạc sỹ Phát triển nông thôn, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu hoạt động sinh kế cộng đồng nhằm phát triển sản xuất tại hai xã Phúc An và Vĩnh Kiên (huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái)
6. Hoàng Huynh, 2005. Người Xinh Mun ở huyện Điện Biên Đông. Báo Điện Điện Biên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người Xinh Mun ở huyện Điện Biên Đông
7. Trần Tiến Khai, Nguyễn Ngọc Danh, 2012. Quan hệ giữa sinh kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam. Báo cáo khoa học. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ giữa sinh kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam
8. Chu Thùy Liên, 2013. Vai trò văn hóa truyền thống dân tộc Thái tỉnh Điện Biên trong tiến trình hội nhập và phát triển. Đề tài nghiên cứu khoa học. Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Điện Biên, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò văn hóa truyền thống dân tộc Thái tỉnh Điện Biên trong tiến trình hội nhập và phát triển
9. Lê Thị Minh Loan, 2005. Xung đột dân tộc dưới góc độ tâm lý. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xung đột dân tộc dưới góc độ tâm lý
10. Nguyễn Văn Mạnh, 2009. Biến đổi văn hóa các tộc người thiểu số ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Khoa học. Đại học Huế, số 54, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi văn hóa các tộc người thiểu số ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay
11. Vũ Thị Thanh Minh, 2014. Một số vấn đề bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay. Kỷ yếu hội thảo Quốc tế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay
12. Phạm Xuân Nam, 2013. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ
13. Nguyễn Đức Quang, 2013. Nghiên cứu hoạt động sinh kế nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp tại xã Kim Lư, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn . Luận văn thạc sỹ Phát triển nông thôn, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu hoạt động sinh kế nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp tại xã Kim Lư, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn
14. Dương Văn Sơn và Nguyễn Trường Kháng, 2010. Giáo trình Xã hội học nông thôn. Nxb Nông nghiệp, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Xã hội học nông thôn
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
16. Ngô Quang Sơn, 2014. Phát triển mô hình cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng dựa trên tiềm năng tri thức bản địa các dân tộc thiểu số. Kỷ yếu hội thảo Quốc tế “Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi”. Nxb Đại học Thái Nguyên, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển mô hình cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng dựa trên tiềm năng tri thức bản địa các dân tộc thiểu số". Kỷ yếu hội thảo Quốc tế “Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
Nhà XB: Nxb Đại học Thái Nguyên
17. Lê Hùng Tiến, 2008. Nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu dân tộc học: Hai phương pháp cơ bản trong ngôn ngữ ứng dụng. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Ngoại ngữ 24 (2008) 12-21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu dân tộc học: Hai phương pháp cơ bản trong ngôn ngữ ứng dụng
18. Lành Ngọc Tú, 2013. Nghiên cứu hoạt động sinh kế nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp tại xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Luận văn thạc sỹ Phát triển nông thôn, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu hoạt động sinh kế nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp tại xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
5. Đào Minh Hương, 2014. Tăng trưởng kinh tế và phát triển con người: Một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Viện Nghiên cứu Con người, 2014 Khác
15. Mai Thanh Sơn, 2010. Mối quan hệ giữa đất đai và văn hóa tộc người: Nhìn từ một vài điển cứu. Hà Nội, 2010 Khác
20. UBND xã Chiềng Sơ, 2014. Đề án xây dựng nông thôn mới xã Chiềng Sơ (huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) giai đoạn 2014-2017, tầm nhìn 2020 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w