1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng việt

72 1,3K 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 72
Dung lượng 807 KB

Nội dung

Nếu như “từ” được xem là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp để tạo câu thì chương trình ngữ pháp ở tiểu học lấy câu làm trung tâm dạy học, dạy cho học sinh những kiến thức sơ giản, cơ bản về thàn

Trang 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: GIÁO DỤC TIỂU HỌC

-& -

PHÙNG THỊ LÝ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học

Người hướng dẫn khoa học:

TS Hoàng Thị Thanh Huyền

Trang 2

LỜI CẢM ƠN

Sau quãng thời gian cố gắng làm việc, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt” Tôi xin chân thành cám ơn các thầy

cô giáo trong khoa Giáo dục tiểu học cùng các thầy cô và các em học sinh trường Tiểu học Hùng Vương, Phúc Yên, Vĩnh Phúc và đặc biệt cảm ơn sâu sắc

cô giáo – TS Hoàng Thị Thanh Huyền đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này

Vì điều kiện thời gian có hạn nên khóa luận này không tránh khỏi những hạn chế nhất định Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô

và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn

Hà Nội, tháng 4 năm 2017

Sinh viên

Phùng Thị Lý

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo

-TS Hoàng Thị Thanh Huyền

Tôi xin cam đoan rằng:

- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm hiểu của riêng tôi

- Những tư liệu được sử dụng, trích dẫn trong khóa luận là trung thực

- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng với bất kì công trình nghiên cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm

Hà Nội, tháng 4 năm 2017

Sinh viên

Phùng Thị Lý

Trang 4

QUY ƢỚC VIẾT TẮT

TN Trạng ngữ

CN Chủ ngữ SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên

VD Ví dụ Nxb Nhà xuất bản

Trang 5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1 Lý do chọn đề tài 1

2 Lịch sử vấn đề 2

3 Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 3

4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4

5 Phương pháp nghiên cứu 4

6 Bố cục khóa luận 5

NỘI DUNG 5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Error! Bookmark not defined.6 1.1.Cơ sở lí luận 6

1.1.1 Khái quát về câu tiếng Việt 6

1.1.2 Thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt 13

1.2 Cơ sở thực tiễn 23

1.2.1 Mục đích của phân môn Luyện từ và câu 23

1.2.2 Thực trạng việc dạy về thành phần câu cho học sinh lớp 4 24

CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 PHÂN BIỆT THÀNH PHẦN TRẠNG NGỮ VÀ CHỦ NGỮ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT 25

2.1 Nguyên tắc xây dựng biện pháp 26

2.1.1 Nguyên tắc giao tiếp 26

2.1.2 Nguyên tắc trực quan 27

Trang 6

2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với nội dung chương trình 29

2.1.4 Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của học sinh 30

2.2 Những sai lầm thường gặp khi xác định thành phần trạng ngữ và chủ ngữ của học sinh tiểu học 34

2.2.1 Không xác định được thành phần 34

2.2.2 Nhầm lẫn giữa trạng ngữ và chủ ngữ 35

2.3 Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt 38

2.3.1 Cung cấp kiến thức về hai thành phần trạng ngữ và chủ ngữ 38

2.3.2 Cung cấp các tiêu chí xác định 42

2.3.3 Phân biệt sự giống và khác nhau giữa trạng ngữ và chủ ngữ 44

2.3.4 Rèn luyện kĩ năng nhận biết và đặt câu hoàn chỉnh 45

2.3.5 Tạo ra những tình huống có vấn đề 47

2.3.6 Xây dựng hệ thống bài tập 49

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 55

3.1 Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm 55

3.2 Tổ chức quá trình thực nghiệm 55

3.2.1 Chuẩn bị thực nghiệm 55

3.2.2 Mô tả các giai đoạn tiến hành thực nghiệm 62

3.3 Kết quả thực nghiệm 63

KẾT LUẬN CHUNG 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 7

MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ Môn Tiếng Việt có ý nghĩa to lớn trong việc bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN

Một trong những mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là hình thành và phát triển bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh (nghe, nói, đọc, viết) để các em có thể học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác

tư duy cho học sinh Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho các em các kiến thức sơ giản về tiếng Việt, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài

Khi học Tiếng Việt, ngữ pháp luôn là một khía cạnh được chú trọng và nó rất cần thiết trong học tập tiếng Việt nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung Ngữ pháp là một bộ phận quan trọng của môn Tiếng Việt, ngữ pháp chi phối việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói làm ngôn ngữ thực hiện được chức năng là công cụ giao tiếp Nếu như “từ” được xem là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp để tạo câu thì chương trình ngữ pháp ở tiểu học lấy câu làm trung tâm dạy học, dạy cho học sinh những kiến thức sơ giản, cơ bản về thành phần câu, về cấu tạo ngữ pháp của câu

Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5, việc học ngữ pháp, các thành phần của câu đã mang tính khái quát, trừu tượng cao, tuy nhiên vẫn còn một số những hạn chế nhất định Thực tế hiện nay vẫn cho thấy rằng thực trạng học sinh tiểu học còn nhiều lúng túng trong phân tích cấu tạo ngữ pháp, nhận

Trang 8

diện chưa đúng các thành phần câu, phân biệt thành phần câu này với thành phần câu kia và trong đó việc phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu Tiếng Việt là một trong những minh chứng điển hình Vì vậy, tìm biện pháp giúp các em giảm bớt hạn chế đó là một việc cần thiết, nhưng cũng là một việc không dễ dàng gì đối với giáo viên, bởi giáo viên dạy học có nhiều trình độ khác nhau Bởi vậy, vấn đề đặt ra để nâng cao hiệu quả dạy học phân biệt tốt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu Tiếng Việt, giáo viên cần có những biện pháp để khai thác một cách hiệu quả để giúp ích cho học sinh

Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn và triển khai đề tài “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu Tiếng Việt” làm khóa luận tốt nghiệp của mình

2 Lịch sử vấn đề

Ngữ pháp là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành cơ cấu tổ chức của một ngôn ngữ, được nhiều nhà Việt ngữ học đặc biệt quan tâm Điều này được thể hiện qua hàng loạt các công trình nghiên cứu của các tác giả

Trong ngữ pháp, những vấn đề được đề cập nhiều nhất đó là thành phần câu và các kiểu câu Chẳng hạn, hai tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã dành hẳn một chuyên luận về thành phần câu Tiếng Việt, trong đó thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện về hai thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong hệ thống ngữ pháp tiếng Việt cũng như đưa ra cụ thể các tiêu chí xác định Đây là một công trình có ý nghĩa to lớn và có tính thuyết phục cao Công trình này của hai tác giả dừng lại ở việc nghiên cứu về câu, nòng cốt câu và các thành phần chính và thành phần phụ của câu như: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, khởi ngữ, trạng ngữ,

Hay công trình “Nghiên cứu về ngữ pháp Tiếng Việt” của trung tâm học liệu Thái Nguyên đã nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống về từ

và cú pháp Lần đầu tiên hệ thống từ loại tiếng Việt được khảo sát tỉ mỉ, phân chia cụ thể và miêu tả đầy đủ những đặc trưng cơ bản của từng từ loại Một số

Trang 9

hiện tượng đặc biệt của từ loại tiếng Việt như hiện tượng chuyển từ loại đã được nghiên cứu sâu và có hệ thống, có cơ sở lí luận vững chắc Câu trong tiếng Việt cũng được phân loại đầy đủ dựa trên những tiêu chuẩn phân định có sức thuyết phục Từng kiểu loại câu được miêu tả, phân tích kĩ đặc điểm cấu tạo, chức năng, vai trò của các thành phần câu cụ thể Điều đặc biệt cần ghi nhận ở công trình này là tất cả những đặc điểm của hiện tượng ngữ pháp tiếng Việt được đề cập đều được minh họa bằng nhiều ví dụ, dẫn chứng rút ra trong nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật mà tác giả đã dày công thu thập và phân loại Điều đó càng đảm bảo cho chất lượng khoa học cao của công trình này

Cũng có thể kể tới luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ học của Tiêu Thị Thanh Bình _ Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn: “Khảo sát trạng ngữ trong tiếng Việt từ góc độ kết học, nghĩa học, dụng học (trên cứ liệu một số tác phẩm văn học giai đoạn 1930 – 1945)” Luận văn đã đề cập đến vấn đề câu và thành phần câu, câu gồm nòng cốt câu và các thành phần phụ và khẳng định “trạng ngữ” là một thành phần phụ cần được bàn nhiều trong câu

Các công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã đi sâu vào nhiều khía cạnh của tiếng Việt như từ loại, câu, ngữ pháp tiếng Việt của câu Tuy nhiên, trong các công trình đó, các tác giả chưa từng đề cập đến vấn đề phân biệt giữa các thành phần câu với nhau, đặc biệt là phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Do đó, đề tài mà tôi nghiên cứu là một đề tài khá mới mẻ và có tính khả thi cao, là khoảng chống mà các nhà nghiên cứu chưa khai thác Và để giúp mình có thêm những hành trang cần thiết cho việc giảng dạy sau này tôi đã tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt”

3 Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu

Trang 10

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt Vì thế, nguồn ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát sẽ tập trung ở hai thành phần này

Ở bậc Tiểu học, những vấn đề về câu, đặc biệt là các thành phần ngữ pháp của nó chủ yếu được phân bố trong chương trình Tiếng Việt lớp 5 Vì thế, những biện pháp để phân biệt hai thành phần trạng ngữ và chủ ngữ sẽ được ứng dụng cho đối tượng học sinh lớp 5

4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Mục đích nghiên cứu

Nhằm giúp học sinh có kiến thức về câu, thành phần câu Từ đó giúp các

em phân biệt được thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Giúp học sinh nói và viết câu đúng ngữ pháp

4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về thành phần trạng ngữ và chủ ngữ

trong câu tiếng Việt

Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của một số biện pháp đã đề xuất

5 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm, đọc, phân tích các tài liệu có liên quan đến lịch sử vấn đề, nhiệm vụ dạy học các biện pháp giúp học sinh lớp

5 phân biệt thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát thực trạng để làm cơ sở thực tiễn cho đề tài

Phương pháp phân tích, miêu tả: Tiến hành phân tích các ngữ liệu để chứng minh

Trang 11

Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Soạn một số tiết dạy theo hướng thực nghiệm

6 Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn

Chương 2: Những biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt thành phần trạng ngữ

và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

Trang 12

NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1.Cơ sở lí luận

1.1.1 Khái quát về câu tiếng Việt

1.1.1.1 Khái niệm câu

Trong hoạt động giao tiếp, đơn vị thông báo nhỏ nhất có thể sử dụng là câu Trong lịch sử ngôn ngữ học, đã tồn tại nhiều quan niệm về câu Có thể nêu

một số định nghĩa tiêu biểu sau:

Theo tác giả Diệp Quang Ban: “Câu là đơn vị nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một

ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”

(Nguồn: Internet) Tác giả Cao Xuân Hạo trong cuốn “Sơ thảo ngữ pháp chức năng Tiếng Việt” cho rằng: “Câu được coi là đơn vị ngôn ngữ lớn nhất trong mối quan hệ ngữ pháp (hình thức), hoàn toàn không lệ thuộc vào tình huống và ngữ cảnh Mỗi câu nói là một hoạt động do một nhu cầu nhất định của sự giao tiếp thúc ép hay kích thích nên và bao giờ cũng mang một ý nghĩa biểu hiện và logic nhất định nhằm gây nên một tác dụng nhất định đối với người nghe, và trong thực tế của hoạt động ngôn ngữ không có câu độc lập với tình huống giao tiếp”

Trang 13

Hãy nhớ lấy lời tôi

Đề tài mà tôi nghiên cứu đã quyết định lấy khái niệm về câu của tác giả Diệp Quang Ban là cơ sở để nghiên cứu và giúp ích cho đề tài của mình

1.1.1.2 Đặc điểm của câu

Hình thức, cấu trúc ngữ pháp: Mỗi câu có một hình thức riêng, mỗi câu sẽ mang trọn vẹn một cấu trúc riêng biệt, không phụ thuộc lẫn nhau

Chức năng: Câu thực hiện hành vi ngôn ngữ (thông báo, cấm, mời, đề nghị, cho phép)

Nội dung:

+ Mỗi câu biểu đạt ít nhất một sự việc

+ Bản thể: Câu là đơn vị ngôn ngữ không có sẵn, hình thành từ sự kết hợp của các đơn vị nhỏ hơn (từ, cụm từ) theo quy tắc ngữ pháp nhất định của một ngôn ngữ

+ Câu bao giờ cũng có một ngữ điệu kèm theo nhất định: mỗi một thể loại câu sẽ thể hiện một cảm xúc, một thái độ nhất định phụ thuộc vào từng tình huống giao tiếp cụ thể

+ Câu mang nội dung thông báo: mỗi một câu đều truyền đạt tới người đọc, người nghe một thông tin nào đó nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin của người đọc, người nghe

+ Câu thể hiện một tình thái nhất định Đó là thái độ chủ quan của người nói đối với hiện thực khách quan và đối tượng giao tiếp

1.1.1.3 Thành phần câu

Trong Tiếng Việt thành phần câu đóng vai trò quan trọng Được chia làm các thành phần chính, thành phận phụ và các thành phần biệt lập

- Thành phần chính của câu: Là những thành tố bắt buộc phải có mặt

tham gia vào nòng cốt câu, không thể bị lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu Thành phần chính trong câu tiếng Việt bao gồm chủ ngữ và vị ngữ

Trang 14

Chủ ngữ

Là thành phần chính của câu nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc

điểm, trạng thái, được miêu tả ở vị ngữ Chủ ngữ thường trả lời cho câu hỏi Ai

Là thành phần chính của câu có khả năng kết hợp với các phó từ chỉ quan

hệ thời gian và trả lời cho các câu hỏi làm gì? Như thế nào?, hoặc là gì?

Vị ngữ thường là động từ hoặc cụm động từ, tính từ hoặc cụm tính từ, danh từ hoặc cụm danh từ

Ví dụ 1: Một buổi chiều, tôi ra đứng đầu làng xem hoàng hôn xuống

- Thành phần phụ trong câu: Là những thành tố không bắt buộc phải

tham gia vào cấu trúc câu, có thể bị lược bỏ nhưng không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu Thành phần phụ trong câu tiếng Việt bao gồm trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ, khởi ngữ

Trạng ngữ

Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, bổ sung cho nòng cốt câu, tức là bổ nghĩa cho cả cụm chủ vị trung tâm Trạng ngữ thường là những từ chỉ thời gian,

Trang 15

địa điểm nơi chốn, mục đích, phương tiện, cách thức, để biểu thị các ý nghĩa tình huống, thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, kết quả, phương tiện, Trạng ngữ có thể là một từ, một ngữ hoặc một cụm chủ vị

Định ngữ

Định ngữ là thành phần phụ trong câu tiếng Việt Nó giữ nhiệm vụ bổ nghĩa cho danh từ (cụm danh từ) Nó có thể là một từ, một ngữ hoặc một cụm chủ vị

VD:

- Cô ấy rất xinh đẹp.(rất là bổ ngữ, làm rõ nghĩa cho tính từ “xinh đẹp”, rất xinh

đẹp được gọi là Cụm tính từ)

- Gió đông bắc thổi mạnh (mạnh là bổ ngữ, làm rõ nghĩa cho động từ “thổi”,

thổi mạnh được gọi là Cụm động từ)

Trang 16

- Chức năng: nêu lên đề tài trong câu với với ý nhấn mạnh

- Khả năng kết hợp: đứng sau quan hệ từ: về, mà, còn, với, đối với, VD:

- Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-Xi-Păng ba nghìn một trăm

bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu

- Đối với tôi, điều này thật quá sức tưởng tượng!

- Các thành phần biệt lập trong câu: Là những bộ phận không tham gia

vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu Bao gồm:

- Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười Có lẽ vì khổ tâm

đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi

* Thành phần cảm thán:

- Bộc lộ tâm lý của người nói (vui, buồn, mừng, giận, )

- Từ nhận biết: ôi, chao ôi, than ôi, chà, trời ơi,

VD: Trời ơi, chỉ còn có năm phút!

* Thành phần gọi đáp:

- Dùng để tạo lập hoặc duy trì quan hệ giao tiếp

- Từ nhận biết: này, thưa, dạ,

Trang 17

- Anh Sơn (vốn dân Nam Bộ gốc) làm điệu bộ như sắp ca một câu vọng

cổ

1.1.1.4 Phân loại câu

Trong tiếng Việt câu có thể phân chia theo nhiều tiêu chí khác nhau:

* Theo cấu trúc ngữ pháp:

+ Câu đơn: Là câu chỉ có một vế câu (1cụm C-V)

VD: Ngày mai, em / lên đường

+ Câu đặc biệt: Những câu diễn đạt ý trọn vẹn chỉ do một từ ngữ tạo

thành mà không xác định được đó là chủ ngữ hay vị ngữ thì gọi là câu đặc biệt VD:

- A ! Mưa

Ôi Đau

+ Câu ghép: Là câu có từ 2 vế trở lên mỗi vế câu thường có cấu tạo

giống câu đơn (có đủ cụm Chủ - Vị) Chia làm hai loại:

Câu ghép đẳng lập: các vế độc lập không phụ thuộc vào nhau về mặt ý

nghĩa, giữa các vế câu có từ chỉ quan hệ hoặc dấu phẩy, dấu hai chấm,

VD:

- Anh trai là sinh viên còn em là học sinh

- Trái cây rất tươi và bánh rất ngon

Câu ghép chính phụ: chỉ có hai vế câu Vế chính và vế phụ có quan hệ

phụ thuộc lẫn nhau về ý nghĩa và gắn với nhau bằng cặp từ chỉ quan hệ

VD:

- Vì đường trơn nên xe phải đi chậm lại

- Nếu em thi đậu đại học thì bố mẹ sẽ thưởng cho em một chiếc xe máy

* Theo mục đích phát ngôn:

+ Câu trần thuật (hay còn gọi là câu kể)

- Mục đích sử dụng: Dùng để kể, tả, nhận định, giới thiệu một sự vật, sự việc

Trang 18

- Dấu hiệu nhận biết: Cuối câu kể thường ghi dấu chấm (.)

VD:

- Hôm qua, trời mưa như trút nước.(kể)

- Chiếc bánh vừa dẻo, vừa thơm trông lại rất bắt mắt.(tả)

- Đây là bác Nam Bác ấy là một họa sĩ rất tài hoa.(giới thiệu, nhận định)

+ Câu nghi vấn (hay còn gọi là câu hỏi)

- Mục đích sử dụng: Chủ yếu dùng để hỏi (hỏi người và hỏi chính mình) Đôi khi, dùng vào mục đích khác (cảm thán / cầu khiến)

- Dấu hiệu nhận biết:

+ Có các từ nghi vấn: có không (làm) sao, hay (nối các vế có quan hệ

lựa chọn)

+ Cuối câu có dấu chấm hỏi (?)

VD:

- Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tim trong nhà ?(hỏi người khác)

- Hình như gương mặt này mình đã từng gặp ở đâu đó rồi ?(tự hỏi mình)

- Sao bạn học văn giỏi thế ?(cảm thán)

+ Câu cầu khiến

- Mục đích sử dụng: Dùng để:

+ Cầu khiến

+ Khẳng định hoặc phủ định

+ Bộc lộ tình cảm, cảm xúc

- Dấu hiệu nhận biết:

+ Có những từ cầu khiến như: hãy, đừng, chớ, nhé, đi, thôi, nào, hay

ngữ điệu cầu khiến

+ Khi viết thường kết thúc bằng dấu chấm than (!), nhưng khi ý cầu khiến không được nhấn mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm (.)

VD:

Trang 19

- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm !

(khuyên)

- Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương (khuyên)

- Học bài đi, sắp thi rồi đấy ! (yêu cầu)

- Ngày mai chúng ta đi nộp hồ sơ thi đại học nhé ! (đề nghị)

+ Câu cảm thán

- Mục đích sử dụng: Dùng để bộc lộ cảm xúc trực tiếp của người nói (người viết)

- Dấu hiệu nhận biết:

+ Có những từ ngữ cảm thán như: ôi, than ôi, hỡi ơi, chao ơi,

+ Cuối câu thường kết thúc bằng dấu chấm than (!)

VD:

- Ôi chiếc cặp sách đẹp quá !

1.1.2 Thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong câu tiếng Việt

1.1.2.1 Thành phần trạng ngữ trong câu tiếng Việt

Thuật ngữ trạng ngữ rất quen thuộc trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng

Việt Tuy nhiên, vạch rõ phạm vi của trạng ngữ cũng như nêu được tiêu chí hình thức để nhận diện nó không phải là công việc dễ dàng Điều này được thể hiện qua sự khác biệt về quan niệm cũng như giải pháp cụ thể của các nhà nghiên cứu Vấn đề trạng ngữ trong câu tiếng Việt thường được các tác giả nghiên cứu

ở các mặt sau:

- Vai trò của trạng ngữ đối với tổ chức cấu trúc của câu

- Các phạm vi ý nghĩa mà trạng ngữ biểu thị

- Vị trí của trạng ngữ trong mô hình tổ chức câu

- Cấu tạo hình thức của trạng ngữ

Các tác giả chỉ tạm thống nhất ý kiến với nhau ở mặt về cấu tạo hình thức của trạng ngữ, khi cho rằng bất kì ngữ đoạn nào (có quan hệ tường thuật, chi

Trang 20

phối hay dẫn tiếp), có giới từ hay không có giới từ đi kèm đều có khả năng đóng vai trò của trạng ngữ trong câu

Về vai trò của trạng ngữ đối với tổ chức cấu trúc của câu, đa số các tác giả đều cho rằng trạng ngữ là một thành phần phụ của câu [10, 7] Tuy nhiên, tư cách thành phần phụ của trạng ngữ trong tổ chức của câu không phải không gây tranh cãi Chẳng hạn, Hồng Dân từng cho rằng nên xếp các câu như:

Vì anh nên việc ấy hỏng

Vì anh làm ẩu nên việc ấy hỏng

Vì không cẩn thận nên việc ấy hỏng

Trong lúc mọi người ngủ, anh ta lại thức dậy đọc sách

Lúc anh ta bước vào (thì) phòng họp đã đông đủ

vào một kiểu câu duy nhất, có cấu tạo là X – Y Tác giả cho rằng đây là một kiểu câu ghép, giữa hai vế X và Y có quan hệ tương liên và định nghĩa: “Quan

hệ tương liên là quan hệ giữa hai thành tố; trong đó một thành tố biểu thị sự việc hay quá trình, một thành tố biểu thị hoàn cảnh; hai thành tố ấy quan hệ qua lại lẫn nhau, hô ứng với nhau, bổ sung cho nhau, dựa vào nhau mà tồn tại; trật tự trước sau của hai thành tố đó tương đối tự do.” [6, tr 34]

Trước đó, M.B Emeneau cũng có chủ trương tương tự Tác giả này dùng

thuật ngữ cấu tạo vị ngữ đơn giản để chỉ câu đơn Cấu tạo vị ngữ đơn giản thường do một cụm chủ - vị đảm nhiệm Khi bên cạnh một cấu tạo vị ngữ đơn

giản có một thực thể từ (danh từ) hay phức cấu thực thể từ (cụm danh từ), một

động từ hay phức cấu động từ (cụm động từ) hoặc một cấu tạo vị ngữ đơn giản khác thì ta sẽ có một cấu tạo vị ngữ phức hợp – tức là câu phức hợp (câu ghép)

Chẳng hạn:

Hôm nay, trời nóng

Nếu tôi không lầm thì hôm nay chị làm nhiều thức ăn ngon [6, tr.30]

Cương vị của trạng ngữ trong câu được nhìn nhận một cách hoàn toàn khác biệt theo quan niệm của Cao Xuân Hạo Tác giả cho rằng tổ chức cú pháp

Trang 21

hình thức của tiếng Việt chỉ có một mô hình duy nhất là Đề - Thuyết với các biến thể của nó Đề có hai loại là Chủ đề và Khung đề Mặc dù “Khung đề không phải là trạng ngữ của vị từ hay của câu” nhưng xét về chức năng ngữ nghĩa, hiểu theo nghĩa hẹp thì Khung đề cũng có khi giống như chủ ngữ Và xét

về hình thức, Khung đề có thể là một chủ ngữ hay giới ngữ, tức một ngữ đoạn có một giới từ làm trung tâm kèm theo một danh ngữ hay một động ngữ làm bổ ngữ

cho nó, không khác gì trạng ngữ [4, tr.86] Thực chất Cao Xuân Hạo đã xem

một bộ phận của trạng ngữ truyền thống có cương vị là thành tố cơ bản của tổ chức câu Tác giả đã dẫn ra một số ví dụ về các Khung đề như sau:

Mai tôi đi chơi

Dạo này trời tối

Tám giờ tôi mới làm việc

Ở đây mọi người đều làm việc [4, tr 86 – 162]

Trần Ngọc Thêm không phủ nhận những tên gọi của cú pháp truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, Nhưng tác giả quan niệm rằng:

“Trong tiếng Việt, chúng tôi xác định được bốn cấu trúc nòng cốt như sau (dấu

mũi tên phân biệt phần Đề và phần Thuyết):

I Nòng cốt đặc trưng: C → V

II Nòng cốt quan hệ: C → Vq – B

III Nòng cốt tồn tại: TR → Vt – B

IV Nòng cốt qua lại: xV → yV’

Như vậy là tác giả đã thừa nhận vai trò làm thành phần nòng cốt của trạng ngữ trong kiểu câu có nòng cốt tồn tại TR → Vt – B

Mặt phạm vi ý nghĩa của trạng ngữ là lĩnh vực mà ý kiến của các nhà nghiên cứu lộ rõ nhiều khác biệt Mỗi tác giả, tùy theo quan điểm của mình, đã xếp nhiều hiện tượng khác nhau vào phạm vi trạng ngữ Chẳng hạn, các tác giả

của Giáo trình về Việt ngữ chỉ xếp vào trạng ngữ những ngữ đoạn biểu thị ý

nghĩa thời gian, không gian và cách thức kiểu như:

Trang 22

a) Hiện nay, đế quốc Mĩ không thể làm mưa làm gió được

b) Trên cái sân gạch vừa mới xây, các xã viên đang đổ lúa ra phơi

c) Bằng một sự cố gắng phi thường, con ngựa ấy đã nhảy qua cái hào

rộng

d) Một cách sỗ sàng, nó xông vào phòng tôi

[10, tr 367 – 379]

Nguyễn Kim Thản, trong Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), đã

liệt kê một danh sách các loại trạng ngữ gồm:

- Trạng ngữ thời gian

- Trạng ngữ địa điểm

- Trạng ngữ nguyên nhân (Cách mạng đã do Việt Bắc mà thành công.)

- Trạng ngữ mục đích

- Trạng ngữ phương tiện (Khách toàn đến bằng xe hơi.)

- Trạng ngữ tình thái (“Bước lên sàn điếm, lí tưởng quăng tạch cuốn xổ

xuống bàn.”, “Cốp, cốp, cốp, bộ đội chạy trên đường goong.”)

[7, tr 212 – 221] Trong một công trình xuất bản sau đó, tác giả bổ sung thêm cái gọi là trạng ngữ chuyển tiếp (làm nhiệm vụ chuyển từ câu nọ sang câu kia) và lấy ví dụ:

“Tóm lại, việc đã giải quyết xong.”

“Nói cách khác, ý nghĩa của chị ấy rất lớn.”

ra có các câu sau đây:

Trang 23

“Mỏi mệt, con trâu dừng bước.”

“Một cây súng Mát với ba viên đạn, Kơ Lơng bám gót giặc từ tờ mờ sáng

- Bổ ngữ của câu chỉ thời gian

- Bổ ngữ của câu chỉ không gian ( “Đỉnh đồi, một anh đứng giữa đường,

- Bổ ngữ của câu chỉ tình hình, gồm hai loại :

+ Bổ ngữ của câu chỉ phương tiện – cách thức (“Đánh xoảng một cái, cái

bát ở mâm lí cựu bay thẳng sang mâm lí đương và đánh “chát” một cái, cái

chậu ở chiếu lí đương cũng đập luôn vào cây cột bên cạnh lí cựu.”)

+ Bổ ngữ của câu chỉ tình huống (“Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp.”,

“Tới cổng phủ, các quần áo ướt vừa khô.”)

Những gì trình bày trên đây cho thấy bức tranh về trạng ngữ đã được vẽ ra rất phong phú, đa dạng Những khái niệm như cách thức, trạng thái, tình huống, được các tác giả hiểu rất khác nhau nên họ đã xếp vào phạm vi trạng ngữ những hiện tượng hết sức khác nhau

Vị trí của trạng ngữ trong câu còn liên quan đến một số vấn đề về liên kết

và mạch lạc của văn bản Khi bàn đến liên kết chủ đề trong một đoạn văn hay một đoạn hội thoại, các nhà nghiên cứu đã dựa trên cấu trúc thông báo Đề - Thuyết của các câu để nêu ra ba trường hợp cơ bản: a) Câu đi sau trùng chủ đề

Trang 24

với chủ đề của câu đi trước (liên kết đồng chiếu: Đề 2 = Đề 1); b) Câu đi sau dùng Thuyết của câu đi trước hoặc một phần Thuyết của câu đi trước làm chủ đề (liên kết móc xích: Đề 2 = Thuyết 1); c) Chủ đề của câu đi sau với chủ đề của câu đi trước có những mối liên hệ từ vựng nào đó, ví dụ quan hệ toàn thể/bộ phận, cùng chung phạm trù phân loại, (liên kết liên tưởng: Đề 2 ↔ Đề 1) Xét trường hợp b Chẳng hạn, ta có hai cách sắp xếp trật tự trạng ngữ trong câu như sau:

1 Nhà tôi có vườn Ba tôi trồng một cây hồng bì ở cuối vườn

2 Nhà tôi có vườn Ở cuối vườn, ba tôi trồng một cây hồng bì

Rõ ràng cách sắp xếp trạng ngữ ở (2) là hợp lí hơn, vì nó đảm bảo cho sự

liên kết và mạch lạc về chủ đề giữa hai câu

Tóm lại, trạng ngữ trong hệ thống thành phần phụ câu tiếng Việt là:

Trạng ngữ là thành phần phụ của câu thường dùng để bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu về: địa điểm, thời gian, cách thức, phương tiện, hoàn cảnh, nhằm làm

rõ thêm nội dung cần thông báo cho nòng cốt câu

Trạng ngữ thường trả lời cho câu hỏi Khi nào?, Ở đâu?, Vì sao?, Để làm gì?

Ví dụ:

Năm nay, thời tiết không bình thường

Bằng đôi tay này, chúng ta sẽ làm ra tất cả

Về cấu tạo, trạng ngữ thường có cấu tạo là từ và cụm từ (cụm danh từ,

cụm tính từ, cụm động từ, cụm đẳng lập, cụm chủ vị)

Về vị trí, trạng ngữ có vị trí khá linh hoạt, nó có thể đứng đầu, đứng cuối

hoặc đứng giữa câu, thường gặp nhất là trạng ngữ đứng đầu câu

Phân loại trạng ngữ:

- Trạng ngữ chỉ thời gian: thời gian mà hành động xảy ra

Ví dụ:

Chiều nay, tôi về Đà Nẵng

Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng.(TV4, t2, tr 126)

Trang 25

- Trạng ngữ chỉ nơi chốn chỉ địa điểm mà hành động xảy ra Trạng ngữ chỉ nơi chốn có quan hệ từ: ở, giữa, trên, dưới, tại, trong, ngoài, đứng trước danh từ hoặc cụm danh từ

Ví dụ :

Trên cành cây, chim hót líu lo

Trong vườn, muôn loài hoa đua nở.(TV4, t2, tr 126)

- Trạng ngữ chỉ nguyên nhân: nêu nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp làm nảy sinh điều muốn nói trong nòng cốt câu Thường dùng các quan hệ từ mở đầu: vì, do, bởi,

Ví dụ:

Vì mải chơi, Tuấn không làm bài tập.(TV4, t2, tr 141)

- Trạng ngữ chỉ mục đích: chỉ mục đích mà hành động hướng đến Thường dùng các quan hệ từ: để, để cho,

Ví dụ:

Để học tốt, chúng ta phải làm bài tập đầy đủ

Để tìm điều bí mật đó, Xi-ôn-côp-xki đọc không biết bao nhiêu là sách

- Trạng ngữ chỉ điều kiện: chỉ điều kiện để thực hiện hành động Thường dùng các quan hệ từ: nếu, hễ, giá, mà,

Ví dụ:

Nếu ăn nóng, món này sẽ ngon tuyệt

- Trạng ngữ chỉ nhượng bộ: Thường dùng các quan hệ từ: dù, mặc dù, dù cho,

Ví dụ:

Mặc cho mưa bão, chúng tôi vẫn lên đường theo kế hoạch

- Trạng ngữ chỉ cách thức, tình huống, phương tiện,

Ví dụ:

Bằng giọng nói dịu dàng, chị mời tôi vào nhà

Vũ khí trong tay, họ xông vào đồn địch

Trang 26

1.1.2.2 Thành phần chủ ngữ trong câu tiếng Việt

Có nhiều ý kiến cho rằng chủ ngữ là thành phần chiếm giữ vị trí đầu tiên trong câu hoặc vị trí trước vị ngữ [7, tr 176; 5, tr 113 – 114, 137, ] Tuy nhiên, các dấu hiệu “vị trí đầu tiên” hay “vị trí trước vị ngữ” không phải là tiêu

chí để xác định chủ ngữ được, vì:

Một là, các khái niệm ấy rất mơ hồ Vị trí đầu câu hay vị trí trước vị ngữ

có thể do nhiều loại thành tố khác nhau chiếm giữ, mà chính trong trường hợp này mới nảy sinh nhu cầu phân biệt các loại thành tố ấy với nhau để xác định

đâu là chủ ngữ

Hai là, có nhiều khi một từ (từ tổ) được mọi người thừa nhận là chủ ngữ

lại có thể chuyển chỗ ra sau vị ngữ: “Nhà cháy.” → “Cháy nhà.” Từ (từ tổ)

này vẫn giữ được mối quan hệ ngữ nghĩa vốn có với vị ngữ và cần được tiếp tục xem là chủ ngữ Giải quyết khác đi là không hợp lí, vì chúng ta vẫn chấp nhận

sự chuyển chỗ của các thành phần khác trong câu như trạng ngữ, bổ ngữ là hiện

tượng bình thường

Một số tác giả cũng đã thử dùng câu hỏi để xác định chủ ngữ Theo ý kiến

của họ, chủ ngữ là từ có thể trả lời các câu hỏi “Ai ?”, “Con gì ?”, “Cái gì ?”

Tuy nhiên, phương pháp này chỉ thích hợp với các ngôn ngữ ít nhiều có hiện tượng biến đổi hình thái từ Trong tiếng Việt, các câu hỏi nói trên không chỉ áp dụng cho chủ ngữ, mà còn có thể dùng để hỏi về bổ ngữ và định ngữ của thể từ

nữa Ví dụ:

- Hỏi về bổ ngữ:

Anh ấy gặp ai (con gì, cái gì) ?

Anh ấy gặp bạn (con thỏ, cây cầu)

- Hỏi về định ngữ:

Đó là đặc điểm của ai (con gì, cái gì) ?

Đó là đặc điểm của bạn (con thỏ, cây cầu)

Trang 27

Trong tiếng Việt, chủ ngữ là bộ phận của nòng cốt câu biểu thị chủ thể ngữ pháp của vị ngữ, tạo ra cùng vị ngữ một kết cấu có khả năng nguyên nhân

hóa Như vậy, xét về mặt hình thức, chủ ngữ có hai đặc điểm:

- Là thành tố bắt buộc, không thể bị lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu Nhờ đặc điểm này, ta có thể phân biệt chủ ngữ với những thành tố nằm ngoài nòng cốt câu như trạng ngữ, khởi ngữ trong trường hợp các thành tố ấy đứng đầu câu

Ví dụ: Đối với các câu kiểu “Ở nhà bình yên chứ?”, “Các nhà đã bắt đầu

đóng cửa.”, có thể xác định ngữ đoạn đứng đầu câu là chủ ngữ bởi: không thể

lược bỏ các ngữ đoạn ấy mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu

- Cùng vị ngữ tạo ra một kết cấu có khả năng nguyên nhân hóa Nhờ đặc điểm này, ta có thể phân biệt chủ ngữ với bổ ngữ, một thành tố khác của nòng cốt câu, trong trường hợp thành tố ấy là danh từ hoặc tính từ

Cũng như các ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt, chủ ngữ có thể chỉ kẻ hành động hay đối tượng của hành động, kẻ mang một phẩm chất nào đó, hay là một

sự vật (tình huống) được quy vào một phạm trù nhất định hoặc được đồng nhất với một sự vật (tình huống) khác

Trong tiếng Việt cũng hay gặp loại chủ ngữ chỉ vị trí Loại chủ ngữ này phân biệt với thành phần phụ chỉ vị trí nhờ vào tính bắt buộc (không lược bỏ được) và khả năng làm phần phụ thể từ tính khi câu được nguyên nhân hóa

Việc phân biệt chủ ngữ với các thành phần phụ có ý nghĩa vị trí trở nên đặc biệt khó khăn trong những câu có chủ ngữ đứng sau Vấn đề là ở chỗ: ở đầu các câu ấy có thể gặp nhiều đơn vị cú pháp có ý nghĩa vị trí mà trong số chúng khó lòng nhận ra ngay đâu là chủ ngữ, đâu là trạng ngữ theo tiêu chí tính bắt buộc; thậm chí nhiều khi cả tiêu chí khả năng tham gia nguyên nhân hóa cũng không đưa lại một kết quả phân loại rõ ràng Tuy nhiên khi kiểm tra các câu bằng thủ thuật cải biến thì vỡ lẽ ra là tất cả các tổ hợp của thời vị từ với danh từ

ở đầu các câu có chủ ngữ đứng sau (“Trong làng cháy nhà.”) đều cần được quy

Trang 28

về phạm trù trạng ngữ: Chúng có thể được chuyển sang các vị trí khác trong câu,

“hiện nguyên hình” là trạng ngữ chỉ vị trí

Ngoài những chủ ngữ đã kể trên, trong tiếng Việt còn gặp một loại chủ ngữ có lẽ chỉ đảm nhiệm một chức năng hình thức thuần túy chứ không biểu thị

một sự vật thực nào, ví dụ từ nó trong câu dưới đây:

→ Đừng làm thế rồi nó to chuyện ra

Có thể gặp thứ chủ ngữ hình thức này ở ngay cả những câu đã có chủ ngữ thực sự rồi:

→ Tôi nó đang tức anh ách cả người, muốn sang nói chuyện với chú cho khuây

Cần phân biệt hiện tượng trên với hiện tượng lặp kiểu “Con tôi nó đi chơi

rồi.” Khi lặp, từ được lặp và từ lặp cùng chỉ một sự vật, còn chủ ngữ thật sự và

chủ ngữ hình thức như ở ví dụ đã nêu trên thì không

Về từ loại, chủ ngữ thường được biểu thị bằng danh từ hoặc đại từ và chính những chủ ngữ này là đa dạng nhất Thời vị từ có thể làm chủ ngữ trong

ba trường hợp sau đây:

a) Khi nó được dùng với ý nghĩa sự vật như danh từ, ví dụ:

- Trên gửi thông cáo xuống dưới

b) Trong các câu có vị ngữ là tính từ, ví dụ:

- Trên thẳng, dưới cong

c) Trong các câu chỉ sự đồng nhất về vị trí trong không gian, ví dụ:

- Trước mắt là một con đường

Ngoài ra, chủ ngữ còn được biểu thị bằng vị từ hay cụm chủ - vị nữa

Vị trí thuận của chủ ngữ là ở trước vị ngữ Chủ ngữ trong các câu có hệ từ

là chuyển vị trí theo quy tắc riêng: chỉ ở những câu đồng nhất tuyệt đối, chủ ngữ

mới có thể chuyển ra sau vị ngữ (ví dụ, “Mợ là vợ tôi.” → “Vợ tôi là mợ.”)

Trong các câu không có hệ từ, bất cứ một chủ ngữ có danh từ hoặc tính từ

nào cũng có thể chuyển ra sau vị ngữ nhờ có chỉ tố phân đoạn thực tại là, ví dụ:

- Nhúc nhích là thời gian, cử động thay đổi là thời gian

Trang 29

- Sinh ra cái mặt tôi là giời

Vắng chỉ tố phân đoạn thực tại là, chỉ chủ ngữ trong những câu mà vị ngữ

do tính từ chỉ số lượng hay nội động từ biểu thị (trừ các động từ trỏ hoạt động có

kẻ cùng tham gia như đối lập, thích nghi, trung thành, đoạn tuyệt, hay một số động từ trống như ở, hành động, ) là có thể chuyển ra sau vị ngữ, với những

điều kiện nhất định

Còn về các chủ ngữ không phải do danh từ hoặc tính từ biểu thị thì có lẽ trong số chúng, chỉ có chủ ngữ ở câu vị ngữ tính từ là còn có thể chuyển ra sau

vị ngữ với sự giúp đỡ của từ là – chỉ tố phân đoạn thực tại, ví dụ: “Chơi cờ là

thú vị nhất.” → “Thú vị nhất là chơi cờ.” Những chủ ngữ không phải do danh

từ hoặc tính từ còn lại thì luôn luôn đứng trước vị ngữ, tức là ở vị trí thuận, ví

dụ: “Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự là thói quen xấu.”

Về cấu tạo, chủ ngữ thường được cấu tạo bởi một từ hoặc một cụm từ, một tiểu cú Ví dụ:

- Biển luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời

1.2.1 Mục đích của phân môn Luyện từ và câu

Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học Việc dạy luyện từ và câu

Trang 30

nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho học sinh có khả năng hiểu các câu nói của người khác Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết,

phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em

1.2.2 Thực trạng việc dạy về thành phần câu cho học sinh lớp 4

Học sinh được cung cấp kiến thức về thành phần câu trong SGK Tiếng Việt thông qua sự truyền thụ của giáo viên Cùng với việc học lí thuyết, các em cũng được thực hành luyện tập các bài tập về thành phần câu (xác định chủ ngữ,

vị ngữ, trạng ngữ) và các kiểu câu, dần dần hình thành và phát triển khả năng phân tích, nhận diện thành phần câu tiếng Việt Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều khó khăn về lí thuyết cũng như thực tiễn giảng dạy trong nhà trường Vì những kiến thức ngữ pháp, trong đó có kiến thức về việc dạy thành phần câu có tính khái quát, trừu tượng cao mà tư duy của học sinh Tiểu học phần lớn còn mang tính cụ thể Trong SGK Tiếng Việt, các bài học về thành phần câu gồm 12 bài ở lớp 4 (không kể những bài học có liên quan) chiếm một tỉ lệ không lớn trong chương trình Luyện từ và câu Trong thực tiễn, các bài học này đã cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về thành phần câu Học sinh đã biết thế nào là chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ và biết cấu tạo, ý nghĩa ngữ pháp của chúng Tuy nhiên các em cũng có những hạn chế nhất định khi học về câu: Nhận diện chưa đúng các thành phần câu; nhận diện đúng nhưng không hiểu sự tương ứng về nghĩa với cấu trúc câu; nói viết câu thiếu, thừa thành phần câu; nhầm lẫn

thành phần câu này với thành phần câu kia;

Hơn nữa, giáo viên dạy học có nhiều trình độ khác nhau, kiến thức về thành phần câu của giáo viên còn nhiều hạn chế Do đó, giáo viên cần có những

biện pháp để khai thác một cách đồng bộ và hiệu quả để giúp ích cho học sinh

*Tiểu kết

Trang 31

Chương 1 đã thể hiện rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài Nói cách khác những kiến thức cơ bản về câu, thành phần câu tiếng Việt và vị trí của thành phần trạng ngữ và chủ ngữ trong hệ thống ngữ pháp tiếng Việt, mục đích phân môn luyện từ và câu và thực trạng việc dạy thành phần câu cho học sinh lớp 4 đã được thể hiện rõ nét trong chương 1

Trang 32

CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 PHÂN BIỆT THÀNH PHẦN TRẠNG NGỮ VÀ CHỦ NGỮ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT

2.1 Nguyên tắc xây dựng biện pháp

2.1.1 Nguyên tắc giao tiếp

Chương trình ngữ pháp tiếng Việt luôn phản ánh được quan điểm giao tiếp trong dạy học Nó đòi hỏi việc dạy học từ, câu nằm trong quỹ đạo dạy tiếng như một công cụ giao tiếp, nhằm thực hiện mục tiêu của chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới: “hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.” (Nguồn: Internet) Quan điểm giao tiếp chi phối nội dung chương trình môn tiếng Việt nói chung cũng như trong việc dạy ngữ pháp, thành phần câu cho học sinh nói riêng Trật tự các khái niệm được đưa ra, “liều lượng” kiến thức và phương pháp của giờ học đều bị chi phối bởi quan điểm này

Nguyên tắc giao tiếp (hay cũng chính là sự vận dụng nguyên tắc thực hành của lí luận dạy học vào dạy học những kiến thức cho học sinh) Nó không chỉ được thể hiện trên phương diện nội dung mà cả ở phương pháp dạy học

Về phương pháp dạy học, trước hết các kĩ năng tiếng Việt phải được hình thành và phát triển thông qua hệ thống bài tập mang tính tình huống phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên Chính vì vậy, trong SGK Tiếng Việt Tiểu học, phần thực hành nhiều, dung lượng lí thuyết ít và khái niệm được hình thành

ở phần lí thuyết cũng ở dạng đơn giản nhất Như vậy, nguyên tắc giao tiếp đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động ngôn ngữ thường xuyên Đó là việc yêu cầu thực hiện những bài tập miệng, bài viết trình bày ý nghĩ, tình cảm, đọc, ứng dụng tri thức lí thuyết vào bài tập, vào việc giải quyết các nhiệm vụ của ngữ pháp

Việc dạy học phải đảm bảo sự thống nhất giữa lí thuyết ngữ pháp và thực hành ngữ pháp với mục đích phát triển các kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ: việc

Trang 33

phân tích từ, câu không có mục đích tự thân mà là phương tiện để nhận diện các phương tiện ngữ pháp, nắm chức năng của chúng, từ đó sử dụng chúng trong lời nói Chương trình hướng đến gắn lí thuyết với thực hành Trên quan điểm thực hành, các tác giả SGK đã chọn những giải pháp ngôn ngữ có nhiều lợi thế nhất trong sử dụng tiếng mẹ đẻ Đối chiếu nội dung từng khái niệm ngữ pháp được dạy ở Tiểu học với các khái niệm được trình bày trong các giáo trình Việt ngữ học, ta thấy rằng nội dung những khái niệm ở Tiểu học như từ, câu, đều được đưa ra ở dạng đơn giản nhất

Chương trình nặng về thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm được trình bày một cách đơn giản lại rất chú trọng dạy hệ thống quy tắc ngữ pháp Quy tắc ngữ pháp là những điều phải tuân theo để tạo nên những đơn vị ngữ pháp cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ giao tiếp nào đó

Ví dụ quan điểm giao tiếp trong việc dạy thành phần trạng ngữ và chủ ngữ cho học sinh: Khi dạy về thành phần trạng ngữ và chủ ngữ, ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản, các bài tập trên sách vở về hai thành phần này cho học sinh, người giáo viên cần phải liên tục tạo ra trong lớp học các cuộc trò chuyện đối thoại trực tiếp như tổ chức chia học sinh thành các nhóm nhỏ để các em tự nghĩ ra các tình huống câu, trò chơi đóng vai, kể chuyện dễ gây nhầm lẫn giữa hai thành phần này cho HS và tự tìm cách để giải đáp chúng thông qua hoạt động ngôn ngữ, đối thoại Ngoài ra, có thể cho HS làm bài tập bằng hình thức miệng và hỏi đáp lẫn nhau để tăng tính linh hoạt và chủ động

2.1.2 Nguyên tắc trực quan

Những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng của trẻ em về thế giới xung quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kì việc dạy học nào Quan điểm này là cơ

sở của nguyên tắc trực quan Nguyên tắc trực quan được xây dựng còn dựa vào

sự thống nhất giữa trừu tượng và cụ thể trong ngữ pháp Đối tượng nghiên cứu của Luyện từ và câu là từ ngữ, câu, thành phần câu, Do đó, bên cạnh biểu bảng, sơ đồ, vật thật, tranh vẽ, như người ta vẫn thường quan niệm về đồ dùng

Trang 34

trực quan trong giờ học, trực quan trong giờ dạy còn được hiểu là sử dụng những ngữ liệu (lời nói) trực quan – những bài văn, những câu, những từ

Trong các giai đoạn dạy học khác nhau, cần phải sử dụng trực quan với mục đích khác nhau: giai đoạn đầu, khi cho HS tiếp xúc với các dấu hiệu của khái niệm, trực quan phải được sử dụng với mục đích truyền đạt rõ ràng những dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu trong sự biểu hiện cụ thể của nó trong lời nói Phải chọn tài liệu trực quan sao cho chúng thể hiện rõ đặc điểm ngữ pháp của hiện tượng được nghiên cứu Có như vậy, trực quan mới giúp học sinh có khả năng trừu tượng hóa dấu hiệu của khái niệm, nhận diện ra hiện tượng nghiên cứu giữa những hiện tượng khác tương tự chúng Khi ngữ liệu không tiêu biểu, nghĩa là không truyền đạt rõ ràng dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu thì bị xem

là không đảm bảo nguyên tắc trực quan Ví dụ, khi dạy hai thành phần câu lại chọn câu có trạng ngữ, khi dạy trạng ngữ lại đưa cả ví dụ câu có thành phần biệt lập hoặc phân tích trên một trường hợp ngoại lệ, không tiêu biểu như dạy động

từ đưa ngay động từ tồn tại “có”, dạy khái niệm câu đưa ngay câu đặc biệt Sau khi HS đã nắm khái niệm, trực quan có mục đích giúp HS củng cố, hệ thống hóa lại các kiến thức ngữ pháp Đó là những bảng biểu, sơ đồ thường dùng trong các giờ ôn tập Bảng biểu, sơ đồ có tác dụng tiết kiệm thời gian giảng giải, gây ấn tượng, giúp đưa kiến thức đã biết vào một trật tự nhất định, dễ nhớ, giúp cho học sinh có một cái nhìn bao quát, hệ thống, dễ nhận ra lôgic của vấn đề Ngoài ra, bảng biểu, sơ đồ trong giờ dạy học hay ôn tập còn tăng cường rèn luyện tư duy lôgic cho HS Có thể sử dụng bảng biểu, sơ đồ có sẵn, cũng có thể để học sinh tự xây dựng bảng biểu, làm như vậy, học sinh sẽ tích cực làm việc với tài liệu, dễ dàng ghi nhớ các dấu hiệu của khái niệm, vừa nắm được quá trình tạo ra và cấu trúc của bảng biểu

Ví dụ đảm bảo nguyên tắc trực quan trong dạy học hai thành phần trạng ngữ và chủ ngữ cho học sinh: Trong các giờ ôn tập về hai thành phần này, GV

có thể đưa ra các bài tập thông qua hình thức sơ đồ thể hiện được mối liên hệ

Trang 35

giữa hai thành phần; đưa ra các ngữ liệu điển hình trong sách, báo hay các câu từ trong các bài văn trong chương trình học mà dễ gây nên nhầm lẫn giữa thành phần trạng ngữ và chủ ngữ để học sinh tự tìm tòi, giải quyết, từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo

2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với nội dung chương trình

Nguyên tắc này đòi hỏi những kiến thức mà GV cung cấp cho HS trước hết phải đảm bảo được yêu cầu cơ bản là phù hợp với nội dung chương trình giảng dạy trong SGK Những nội dung kiến thức phải phù hợp cả về nội dung lẫn phương pháp giảng dạy Những kiến thức trong chương trình phải đảm bảo tính chính xác và hệ thống được lấy chuẩn từ chính SGK mà các em được học

Chương trình là cốt lõi của nền giáo dục còn SGK là tài liệu pháp lí hiện thực hóa chương trình Có thể nói SGK và SGV tham gia trực tiếp vào quá trình

tổ chức dạy học, hình thành kiến thức cho HS Qua SGK và SGV, ta có thể thấy được nội dung chương trình, đồng thời ta có thể hình dung được logic hình thức

tổ chức dạy học các đơn vị kiến thức

Xét riêng về khía cạnh ngữ pháp, theo chương trình và SGK Tiếng Việt bậc tiểu học, HS được học về danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ; câu, chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ; câu đơn, câu ghép; câu kể, câu hỏi, câu khiến, câu cảm, Có thể thấy đấy là những kiến thức ngữ pháp cơ bản, tinh giản, cần yếu nhất

Đọc chương trình và SGK ta dễ nhận thấy chương trình và SGK đã cung cấp những kiến thức cơ bản nhất với cách biểu đạt đơn giản nhất các đơn vị ngữ pháp cho học sinh đảm bảo phù hợp với logic nội dung giảng dạy để học sinh hệ thống được kiến thức mà mình có thể tiếp thu

Ví dụ: Lớp 4, các em đã được học kĩ về hai thành phần trạng ngữ và chủ ngữ Lên đến lớp 5 chỉ là sự hệ thống lại kiến thức về hai thành phần này Vì vậy, trong các giờ ôn tập GV nên đưa ra các bài tập đảm bảo tính hệ thống và đảm bảo chuẩn các kiến thức mà các em đã được học trong chương trình

Trang 36

2.1.4 Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của học sinh

Đảm bảo tính vừa sức: Đảm bảo nguyên tắc này trong dạy học là phải

vận dụng nội dung, phương pháp, hình thức dạy học nhằm thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của mọi thành viên trong lớp đồng thời phải quan tâm đến từng cá nhân người học, đảm bảo cho mọi người đều phát triển ở mức tối đa so với khả năng của mình

Khi dạy học, cần nắm vững đặc điểm chung của cả lớp, đặc điểm riêng của từng em về các mặt, nhất là về năng lực nhận thức và động cơ, thái độ học tập, đảm bảo kiến thức phải phù hợp với năng lực nhận thức của từng học sinh (khá, giỏi, yếu kém)

Khi lên lớp, giáo viên phải thường xuyên nắm tình hình lĩnh hội của học sinh để có thể kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình cũng như học sinh, nhất là học sinh yếu kém

“Vừa sức” – dấu hiệu của sự thành công: Một tiết học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội được những tri thức cần thiết, phù hợp với năng lực trình độ nhận thức của các em thì đó là một tiết học thành công Đa số giáo viên đều thừa nhận, khi nào họ gấp trang giáo án lại trước khi tiếng trống báo hiệu hết giờ học vang lên và bước ra khỏi lớp với một tâm thế nhẹ nhõm, thoải mái thì xem như

đó là tiết học thành công Tâm thế thoải mái từ người thầy trong phần lớn trường hợp lại do chính học sinh đem lại Dấu hiệu thành công đầu tiên của một tiết học

đó là số đông học sinh trong lớp đều muốn được tham gia như một chủ thể tích cực chứ không phải thụ động ngồi nghe GV giảng bài Một khi các em cảm thấy mệt mỏi, ngáp vặt, thiếu tập trung, nói chuyện riêng trong giờ học thì giáo viên phải lập tức kiểm nghiệm lại ngay xem bài dạy đã vừa sức với các em hay không

Một tiết học chỉ đảm bảo tính vừa sức khi cả giáo viên và học sinh đều cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, cùng tranh luận sôi nổi những tình huống có vấn

Ngày đăng: 06/09/2017, 14:58

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Diệp Quang Ban (1987). Câu đơn tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H Sách, tạp chí
Tiêu đề: Câu đơn tiếng Việt
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1987
2. Cao Xuân Hạo (1991). Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (tập 1). Nxb Khoa học Xã hội, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1991
3. Hồng Dân (1972). Nên xem “Câu đơn có trạng ngữ” là một kiểu câu ghép Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nên xem “Câu đơn có trạng ngữ
Tác giả: Hồng Dân
Năm: 1972
6. Nguyễn Lân (1956). Ngữ pháp tiếng Việt, Lớp 5, lớp 6, lớp 7. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt, Lớp 5, lớp 6, lớp 7
Tác giả: Nguyễn Lân
Năm: 1956
7. Nguyễn Kim Thản (1964). Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 2. Nxb Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Kim Thản
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1964
8. Nguyễn Kim Thản (1981). Cơ sở Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở Ngữ pháp tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Kim Thản
Nhà XB: Nxb Tổng hợp
Năm: 1981
9. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp. “Thành phần câu tiếng Việt”. Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Thành phần câu tiếng Việt”
Nhà XB: Nxb Giáo dục
10. Nguyễn Minh Thuyết (1981b). Chủ ngữ trong tiếng Việt. (Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chủ ngữ trong tiếng Việt
11. Nguyễn Minh Thuyết (1988). Cách xác định thành phần câu tiếng Việt. In trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á. Nxb Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách xác định thành phần câu tiếng Việt". In trong "Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á
Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1988
4. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập I, Nxb Khoa học, H., 1963; tập II, Nxb Khoa học, H.,1964) Khác
5. Ngữ pháp Tiếng Việt (Nxb Khoa học Xã hội 1983) Khác
12. SGK Tiếng Việt (tập một, tập 2) lớp 4, 5. Nxb Giáo dục Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w