Các điều 18 và 19 của Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sau đây gọi tắt là CISG đã được áp dụng để giải quyết tranh chấp.. Trường hợp này, mặc dù người mua kh
Trang 1Mục lục
Case study 1: Ký kết hợp đồng: Chào hàng bằng hành vi 2
Case study 2: Ký kết hợp đồng: Linh hoạt điều khoản giá 3
Case study 3: Bán hàng đang tranh chấp 4
Case study 4: Hợp đồng khung và Công ước Viên 6
Case study 5: Bồi thường “lãi mất hưởng” 8
Case study 6: Giải thích hợp đồng 10
Case study 7: Người mua có dấu hiệu vi phạm : Được hủy hợp đồng ? 11
Case study 8: L/C có thể sửa đổi hợp đồng ? 13
Case study 9: Hủy hợp đồng do chậm giao hàng 15
Case study 10: Tranh chấp thay đổi hàng hóa 16
Case study 11: Tính toán tiền bồi thường thiệt hại 18
Case study 12: Điều chỉnh giá trong hợp đồng 20
Case study 13: Vi phạm cơ bản hợp đồng 21
Case study 14: Sự kiện bất khả kháng 22
Case study 15: Sửa chữa chào hàng 24
Bonus: Tranh chấp về nghĩa vụ vận chuyển trong hợp đồng C&F 26
Trang 2Tổng hợp 15 bài tập tình huống của cô Nguyễn Minh Hằng khoa Luật đại học Ngoại Thương
Case study 1: Ký kết hợp đồng: Chào hàng bằng hành vi
Từ nay, DĐDN xin giới thiệu một số án lệ liên quan đến Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) với hi vọng cung cấp cho DN VN những bài học kinh nghiệm quý báu khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đồng thời giúp
DN tiếp cận và nắm bắt nội dung của CISG Bắt đầu từ số báo này, BBT trân trọng giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Minh Hằng - Giảng viên Luật - Trường ĐH Ngoại Thương
Khi nhận được đơn chào hàng của đối tác nước ngoài, DN có thể chấp nhận bằng văn bản, bằng lời nói Thậm chí, bằng việc thực hiện một số hành vi nhất định, người được chào hàng sẽ bị coi
là đã chấp nhận chào hàng Tranh chấp giữa nguyên đơn là một Cty của Argentina và bị đơn là một Cty của Italia trong quá trình giao kết hợp đồng Hai bên tranh cãi về việc liệu hành vi của bị đơn có được coi là một hành vi chấp nhận chào hàng có hiệu lực hay không Tranh chấp được giải quyết tại Tòa án Argentina Các điều 18 và 19 của Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (sau đây gọi tắt là CISG) đã được áp dụng để giải quyết tranh chấp
Diễn biến tranh chấp
Người mua Argentina đàm phán ký hợp đồng với người bán Italia để mua một số máy móc công nghiệp Người bán đã gửi cho người mua bản chào hàng căn cứ trên một mẫu đơn chào hàng chuẩn Người mua không có ý kiến gì về nội dung của chào hàng Sau đó, người mua đã ký vào đơn chào hàng và gửi đơn chào hàng đó đến một ngân hàng để xin cấp tín dụng cho
thương vụ này
Tuy nhiên, sau đó, người mua lại làm đơn kiện người bán ra toà án Argentina với lý do là hợp đồng chưa được thành lập Người mua cho rằng chào hàng và chấp nhận chào hàng chưa cấu thành một hợp đồng có hiệu lực Người mua dẫn điều 18 CISG, theo đó, im lặng hay không hành động (inaction) không được coi là chấp nhận chào hàng
Quyết định của toà án
Vì Argentina và Italia là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp Toà án bình luận rằng theo điều 18 CISG thì im lặng hay không hành động (inaction) tự nó không cấu thành chấp nhận chào hàng Trường hợp này, mặc dù người mua không chính thức trả lời người bán bằng văn bản hay bằng lời nói nhưng người mua đã ký vào đơn chào hàng và gửi nó đến ngân hàng; đây chính là hành động mà người mua thực hiện liên quan đến thanh toán tiền hàng, và hành vi này có ý nghĩa là đã chấp nhận chào hàng theo quy định tại điều 18 khoản 1- CISG
Ngoài ra, người mua có một số thay đổi về kích cỡ của một số phụ tùng kèm theo nhưng những thay đổi này không được coi là những sửa đổi, bổ sung cơ bản chào hàng ban đầu và vì thế không ảnh hưởng đến hiệu lực của chấp nhận chào hàng theo quy định tại điều 19 khoản 2 và khoản 3- CISG Chỉ các yếu tố bổ sung hay thay đổi liên quan đến các điều khoản giá cả, thanh toán, phẩm chất, số lượng, địa điểm và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm các bên, việc giải quyết các tranh chấp mới được coi là thay đổi cơ bản nội dung của chào hàng
Trang 3Với những lập luận đó, tòa án cho rằng người mua đã chấp nhận chào hàng của người bán Italia Toà án kết luận hợp đồng đã được thành lập và không thể bị bác bỏ
Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, theo quy định của điều 18-CISG, im lặng và không có hành động gì (inaction) thì không được coi là chấp nhận chào hàng Tuy vậy, việc thực hiện một số hành vi lại được coi là chấp nhận chào hàng, ví dụ như hành vi liên quan đến việc gửi hàng, mở thư tín dụng hay trả tiền chẳng hạn, dù người chấp nhận không thông báo cho người chào hàng Tuy vậy, pháp luật về hợp đồng của VN lại không có quy định gì về vấn đề này Vì thế, khi chấp nhận chào hàng, nên chấp nhận bằng văn bản, trong đó nêu rõ những nội dung chấp nhận và những đề xuất chỉnh sửa nếu có, tránh trường hợp chấp nhận bằng hành vi
Thứ hai, khi nhận được chào hàng, nếu có những ý kiến trái với chào hàng thì cần xem xét và đưa ra các đề nghị sửa đổi kịp thời, đầy đủ Sau khi gửi chấp nhận chào hàng (trong đó có một số sửa đổi, bổ sung) thì nên yêu cầu bên chào hàng khẳng định lại một lần nữa có đồng ý với những sửa đổi, bổ sung đó hay không Như vậy sẽ tránh được những tranh chấp khi hai bên đàm phán giao kết hợp đồng một cách gián tiếp thông qua việc gửi các đơn chào hàng và chấp nhận chào hàng
Case study 2: Ký kết hợp đồng: Linh hoạt điều khoản giá
Điều khoản giá là một trong những điều khoản quan trọng trong hợp đồng Vì thế, các DN khi ký kết hợp đồng cần có những lưu ý thích đáng để tránh những tranh chấp phát sinh từ việc hiểu lầm hay không thống nhất về mức giá và cách thức xác định giá
Tranh chấp giữa người mua Pháp - Cty Fauba Fidis GC Electronique và người bán Đức - Cty Fujitsu Mikroelectronik Gmbh Tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng và liên quan đến việc xác định giá của hàng hóa Tranh chấp được giải quyết tại Tòa Phúc thẩm Paris Điều 14 của Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) đã được
áp dụng để giải quyết tranh chấp
Diễn biến tranh chấp
Người mua gửi một đơn chào mua các linh kiện điện tử đến người bán Trong đơn chào mua có quy định, giá mua do người mua đưa ra có thể được xem xét theo sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng Nhận được đơn chào mua, người bán trả lời là giá cần được xem xét theo cả sự tăng lên và sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng Người mua đã đồng ý về việc này Hàng hóa được người bán gửi cho người mua theo đúng đơn chào mua, nhưng người mua lại đơn phương hủy đơn chào mua của mình và không nhận hàng Người mua cho rằng điều khoản giá quy định như vậy là chưa đủ rõ ràng để hình thành hợp đồng giữa hai bên Vì Pháp và Đức là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp Tòa Phúc thẩm Paris trích dẫn điều 14 khoản 1 CISG, theo đó “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu nó đủ chính xác
và chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách rõ ràng hoặc ngầm định hoặc quy định các yếu tố để xác định số lượng và giá cả” Trong tranh chấp này, đơn chào hàng của người mua đã ghi rõ: giá của hàng hóa được xác định theo sự suy giảm của giá thị trường Người mua đã đưa ra căn cứ để xác định giá, đó là tham
Trang 4chiếu đến giá thị trường vào một thời điểm cụ thể là thời điểm giao hàng Như vậy, theo điều 14 khoản 1 CISG, điều khoản giá với giá được xác định theo sự tăng giảm của giá thị trường là đã
đủ chính xác, rõ ràng Với những lập luận đó, tòa án cho rằng hợp đồng đã thành lập giữa hai bên, người mua không thể hủy chào hàng Người mua phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng
Bài học kinh nghiệm
Việc “thả nổi” giá hàng hóa theo sự tăng, giảm của giá thị trường là rất phổ biến trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt là những hợp đồng có thời hạn thực hiện dài, giao hàng nhiều lần hoặc những hợp đồng mà thời điểm giao hàng chưa được xác định cụ thể Đó là những hợp đồng có giá mở, đáp ứng yêu cầu về giá linh hoạt theo diễn biến thị trường Về mặt pháp lý,
sự linh hoạt này giúp đảm bảo sự cân bằng cho hợp đồng, hạn chế thiệt thòi quá mức cho một bên khi thị trường biến động, hạn chế tranh chấp phát sinh
Các DN VN cũng luôn có thói quen xác định một mức giá cố định ngay khi ký kết hợp đồng Đây là quan điểm về mặt pháp lý, chưa phù hợp với pháp luật hợp đồng hiện đại và về mặt thực tiễn, chưa phù hợp với diễn biến “nóng” của giá hàng hóa trên thị trường hiện nay Công ước Vienna và pháp luật hợp đồng của các nước đều chấp nhận hiệu lực của các hợp đồng có giá mở, trong đó, điều khoản giá được dẫn chiếu đến giá thị trường Vì thế, các DN VN cần chú ý, trong một số tình huống cụ thể phải quy định điều khoản giá hợp lý và linh hoạt Nên đưa ra mức giá chính xác ban đầu để có thể tính toán lợi nhuận, nhưng không quên có sự điều chỉnh giá theo sự biến động của thị trường
Case study 3: Bán hàng đang tranh chấp
Khi các bên đang có tranh chấp về hàng hóa thì không nên bán lô hàng đó vì như vậy sẽ không còn bằng chứng cho việc khiếu nại, kiện tụng Hơn nữa hành vi bán hàng thường bị coi là hành
vi chấp nhận hàng
Tranh chấp giữa bị đơn là người bán Singapore và nguyên đơn là người mua Trung Quốc Đối tượng hợp đồng là gỗ tròn Merbau Indonesia Hai bên tranh cãi về số lượng và chất lượng hàng được giao và các biên bản giám định liên quan Tuy vậy, quá trình giải quyết tranh chấp khó khăn do người mua đã bán một phần lô hàng Tranh chấp được giải quyết tại Ủy ban trọng tài thương mại và kinh tế Trung Quốc Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã được áp dụng
Diễn biến tranh chấp
Ngày 10/11/1998, người mua ký hợp đồng với người bán để mua gỗ tròn Merbau Indonesia Trong hợp đồng có mô tả rõ ràng và cụ thể về đặc tính của hàng hóa, đơn giá, đóng gói, điều kiện thanh toán và thời gian giao hàng; quy định về kiểm tra giám định, phương pháp đo lường
số lượng hàng Hợp đồng cũng quy định về thời gian khiếu nại và điều khoản trọng tài
Sau khi ký hợp đồng, người mua thanh toán bằng thư tín dụng cho người bán theo quy định trong hợp đồng Khi hàng đến cảng đích, người mua yêu cầu Cục giám định hàng hóa Trung Quốc tỉnh Quảng Đông giám định hàng hóa Biên bản giám định ngày 2/3/1999 kết luận thể tích của gỗ bị thiếu và nguyên nhân là do việc đo lường không phù hợp trước khi gửi hàng Biên bản cũng kết luận về các vi phạm chất lượng, kèm theo 9 bức ảnh chụp tình trạng bị lỗi của hàng hóa
Trang 5Dựa vào Biên bản giám định, người mua đòi người bán bồi thường Người bán đã trả lời yêu cầu bồi thường của người mua bằng việc gửi cho người mua một bức fax nói rõ nếu người mua cho rằng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, người bán sẵn sàng nhận lại hàng hóa và trả lại tiền cho người mua Tuy nhiên Người mua đã không trả lời bức fax này của Người bán và đã bán 270 khúc gỗ mà không thông báo Do bất đồng giữa hai bên, người mua đã kiện ra trọng tài ngày 4/6/1999 yêu cầu người bán bồi thường thiệt hại
Lập luận của bị đơn
Người bán cho rằng biên bản giám định không phản ánh đầy đủ tình trạng của hàng hóa Ngay sau khi nhận được biên bản giám định từ Người mua, Người bán đã cử hai chuyên gia đến Cty Người mua để kiểm tra số hàng còn lại trong xưởng của Người mua để xác minh xem biên bản giám định có phản ánh chính xác tình trạng của hàng hóa không Hai chuyên gia đã kiểm tra thận trọng từng khúc gỗ trong 556 khúc gỗ còn lại Người bán chỉ ra rằng khối lượng của số gỗ còn lại nhiều hơn so với bản kê nhận hàng của Người mua, và Người bán đã thực sự giao nhiều hơn 8,18% so với hợp đồng Người bán chỉ ra rằng biên bản giám định chỉ dựa trên 9 bức ảnh là không đủ chứng cứ chứng minh hơn 15% số hàng bị lỗi Người bán cũng cung cấp Giấy chứng nhận được cấp bởi Cục lâm nghiệp Indonesia chứng nhận gỗ sau khi kiểm tra có chất lượng loại
A phù hợp cho xuất khẩu
Quyết định của trọng tài
Người mua đòi tiền bồi thường đối với Người bán với lí do hàng hóa bị thiếu hụt, tuy nhiên lại không yêu cầu Cục giám định đo lường hàng hóa theo phương pháp đã quy định trong hợp đồng Người bán phải cử chuyên gia sang nước Người mua để giám định lại theo đúng phương pháp quy định trong hợp đồng thì cho thấy hàng hóa không hề bị thiếu hụt Về chất lượng, trọng tài cho rằng 9 bức ảnh không đủ chứng minh sự không phù hợp về chất lượng Vì vậy, các giám định của Người mua về số lượng và chất lượng là chưa đủ cơ sở pháp lý
Trong trường hợp này, Người bán đã thể hiện thiện chí đối với Người mua khi chấp nhận nhận lại hàng và hoàn trả tiền cho Người mua trọng tài cho rằng việc không trả lời bức fax của Người bán là hành động thiếu hợp tác, thiếu thiện chí của Người mua Hơn nữa, trong khi các bên đang tranh cãi về số lượng và chất lượng của hàng hóa, Người mua vẫn bán 270 khúc gỗ Người mua
đã không thông báo cho Người bán ý định bán hàng Theo các Điều 86(1), 88 CISG, trong
trường hợp này, Người mua bị coi là đã chấp nhận hàng và không có cơ sở để khiếu nại đòi bồi thường
Lưu ý đối với DN Việt
Về vấn đề giám định hàng hóa ở cảng đến làm cơ sở pháp lý khiếu nại, kiện tụng, Người mua cần giám định theo các quy định, tiêu chuẩn, phương pháp đã quy định trong hợp đồng Nếu có mâu thuẫn giữa biên bản giám định với Giấy chứng nhận chất lượng, số lượng mà Người bán cung cấp ở cảng đi, cần có sự đàm phán với Người bán yêu cầu Người bán cử đại diện sang làm giám định đối tịch (có mặt cả hai bên) Biên bản giám định đối tịch ràng buộc cả hai bên, là căn
cứ pháp lý cuối cùng để giải quyết tranh chấp
Trang 6Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên cần có thái độ hợp tác, thiện chí Cần thông báo cho nhau về mọi vấn đề liên quan đến tranh chấp và cũng cần trả lời không chậm trễ về những đề xuất giải quyết tranh chấp của bên kia Trong tranh chấp này, việc Người mua không trả lời đề xuất của Người bán về việc nhận lại hàng bị coi là hành động thiếu hợp tác và sẽ gây bất lợi cho Người mua khi tranh tụng trước trọng tài
Lưu ý cuối cùng là phải giữ nguyên trạng hàng hóa đang tranh chấp để làm bằng chứng giải quyết tranh chấp Người mua không được bán lại, hay đưa hàng hóa vào sử dụng nếu chưa thông báo và chưa có sự đồng ý của Người bán Trong tranh chấp này, Người mua đã bán khoảng 1/3
số hàng mà không hề thông báo cho Người bán Hành động này đồng nghĩa với việc chấp nhận hàng đã giao về số lượng và chất lượng
Case study 4: Hợp đồng khung và Công ước Viên
Công ước Viên (CISG) thường được quy định để điều chỉnh các hợp đồng cụ thể, nhưng hợp đồng khung cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của CISG
Hợp đồng khung là hợp đồng được kí kết dài hạn gồm những điều khoản cơ bản nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên; trước mỗi chuyến hàng, các bên sẽ ký các hợp đồng cụ thể với các quy định về giá cả, số lượng Bị đơn - Cty CNH (Ba Lan); Nguyên đơn: Cty DBGmbH (Đức) Tòa án Tối cao Ba Lan, bản án tuyên ngày 27/1/2006
Diễn biến tranh chấp
Người bán Ba Lan và người mua Đức kí kết hợp đồng khung dài hạn để mua bán cát tinh luyện Đây là thành phần chính được sử dụng để sản xuất tấm lợp ngói theo công nghệ mới của Đức Việc giao hàng được thực hiện một phần thì hợp đồng bị chấm dứt Bên Ba Lan đã thông báo với Đức về việc không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình Bởi vậy, Đức buộc phải quay về công nghệ sản xuất cũ sử dụng xi măng thay vì cát tinh luyện Sau đó, người mua Đức đã kiện người bán Ba Lan ra tòa án Ba Lan, yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại do chấm dứt hợp đồng với tổng số tiền là 2.996.750 DEM (đơn vị tiền tệ của Đức) tính cả lãi
Tuy nhiên bị đơn cho rằng không thể áp dụng Công ước Viên để xét xử tranh chấp này vì Công ước này không điều chỉnh hợp đồng khung Bị đơn viện dẫn điều 14 Công ước Viên, trong đó một chào hàng để cấu thành hợp đồng phải có ít nhất 3 điều khoản chủ yếu: hàng hóa, số lượng
và giá cả
Quyết định của toà án
Toà tối cao không đồng tình với bị đơn khi bị đơn cho rằng CISG không áp dụng đối với hợp các đồng khung trong buôn bán quốc tế Các qui tắc của CISG không loại trừ các hợp đồng mà việc thực hiện các hợp đồng này đòi hỏi việc đặc định hàng hoá được giao từng phần Việc bị đơn viện dẫn điều 14 Công ước Viên không cấu thành bất cứ lập luận có giá trị nào bởi vì điều luật này chỉ áp dụng cho chào hàng và không được dùng để định ra phạm vi áp dụng của Công ước trong bất cứ trường hợp nào
Vì người bán không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng nên người mua phải mua hàng thay thế Số
Trang 7nhuận bị mất do phải quay trở lại với phương pháp sản xuất cũ đắt hơn Nguyên đơn tính toán thiệt hại dựa trên điều 75 CISG, theo đó nguyên đơn được đòi chênh lệch giá đối với khối lượng
xi măng được mua để thay thế là 120.000 tấn Tòa tối cao cho rằng điều 75 CISG được áp dụng trong trường hợp này để tính toán số tiền đòi bồi thường thiệt hại là không hợp lý bởi điều 75 chỉ được áp dụng khi hợp đồng đã thực sự bị hủy Trong trường hợp này, hợp đồng không bị hủy mà
là không được hoàn thành Thực tế thì người bán đã thực hiện một phần hợp đồng và sau đó tuyên bố chấm dứt hợp đồng Từ cách nhìn này, tòa tối cao cho rằng số tiền bồi thường phải được tính toán dựa vào một tiêu chí khách quan hơn chứ không chỉ dựa vào giá hàng thay thế được đưa ra bởi bên bị thiệt hại
Bình luận và lưu ý
Theo điều 1 của Công ước Viên: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau” Điều khoản này cũng như toàn bộ Công ước không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng có thể rút
ra một mô tả khái quát từ điều 30 và điều 53: một hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước là hợp đồng giữa người bán và người mua theo đó, người bán phải giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và người mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng
Trong thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế, những đối tác làm ăn lâu dài, buôn bán hàng hóa khối lượng lớn thường kí kết hợp đồng khung để làm cơ sở cho các giao dịch cụ thể Như vậy, hợp đồng khung không bao gồm các thành tố mâu thuẫn với phạm vi điều chỉnh của Công ước Chính vì vậy, trong vụ việc này, tòa án áp dụng Công ước Viên để xét xử
Như vậy, nếu DN VN ký kết hợp đồng khung với các đối tác nước ngoài thì cũng hoàn toàn có thể quy định luật áp dụng là CISG
Mặt khác, như trên đã phân tích thì mặc dù người mua phải mua hàng thay thế cho phần nghĩa vụ hợp đồng chưa được hoàn thành nhưng giá mua hàng thay thế đó không được xác định như một tiêu chí để tính toán tiền đòi bồi thường thiệt hại Tòa án cũng chưa đưa ra một tiêu chí cụ thể để xác định số tiền đòi bồi thường thiệt hại mà chỉ dừng lại ở kết luận chung chung: “số tiền bồi thường phải được tính toán dựa vào một tiêu chí khách quan hơn chứ không chỉ dựa vào giá hàng thay thế được đưa ra bởi bên bị thiệt hại”
Mặc dù phải có tuyên bố hủy hợp đồng thì mới có thể áp dụng điều 75 để tính toán bồi thường thiệt hại nhưng theo chúng tôi, điều 75 vẫn có thể áp dụng trong trường hợp này Ở đây, người bán rõ ràng đã không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giao hàng và đã thông báo với người mua về việc đó, do đó người mua phải mua hàng thay thế Tuy người mua chưa có tuyên bố về hủy hợp đồng nhưng một cách hợp lý, có thể áp dụng điều 75 để tính toán thiệt hại của người mua: chênh lệch giá trong trường hợp này chính là tổn thất thực tế mà người mua phải gánh chịu Nếu tòa án
áp dụng linh hoạt điều 75 CISG thì sẽ làm tăng tính an toàn cho các bên trong thương mại quốc
tế Tòa án Ba Lan cho rằng không thể áp dụng điều 75 nhưng cũng đưa ra một cách thức tính toán thiệt hại cho người mua mà tòa án cho rằng là hợp lý Rõ ràng trong vụ việc này, người mua phải gánh chịu thiệt hại của mình do quyết định chưa thỏa đáng của tòa án
Trang 8Quy định về tính toàn tiền bồi thường thiệt hại trong Công ước Viên là chi tiết, cụ thể hơn pháp luật VN Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2005 không có quy định tương tự như điều 75 CISG Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo điều 75 để tính toán tiền bồi thường thiệt hại trong trường hợp hủy hợp đồng, vì đây là cách tính đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới
Case study 5: Bồi thường “lãi mất hưởng”
Khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng khiến cho hợp đồng bị hủy, bên bị vi phạm có quyền đòi bồi thường thiệt hại Trong các khoản thiệt hại đòi bồi thường, lãi mất hưởng là khoản thường gây tranh cãi Trên thực tế, việc chứng minh lãi mất hưởng một cách hợp lý là điều không dễ dàng
Tranh chấp giữa Cty Delchi Carrier, S.p.A (Italia) và Cty Rotorex Corp (Mỹ) Delchi đặt mua máy nén khí từ Rorotex để sản xuất máy điều hòa không khí Rorotex cung ứng máy nén khí không phù hợp Delchi hủy hợp đồng và đòi bồi thường lãi mất hưởng do không cung ứng đủ máy điều hòa cho thị trường vì vậy hai bên tranh cãi về số tiền bồi thường Tranh chấp được xét
xử ở Tòa án liên bang Mỹ tại New York, bản án ngày 14/7/1994
Diễn biến tranh chấp
Rotorex và Delchi ký hợp đồng mua bán máy nén khí Những máy này sẽ được Delchi sử dụng
để sản xuất máy điều hòa không khí hiệu Ariele Trước khi thực hiện hợp đồng, người bán
Rotorex đã gửi cho người mua Delchi một máy nén mẫu kèm theo một bản thông số kỹ thuật Rotorex đã giao hàng và Delchi đã thanh toán cho lô hàng này bằng thư tín dụng Tuy vậy, sau
đó, Delchi phát hiện ra rằng lô hàng không phù hợp: 93% máy nén khí có khả năng làm lạnh thấp hơn và tiêu thụ năng lượng nhiều hơn so với mẫu và so với thông số kỹ thuật Sau những nỗ lực không thành công của Rotorex để khắc phục các lỗi kỹ thuật này, Delchi yêu cầu Rotorex cung ứng máy nén khí mới phù hợp với quy cách phẩm chất quy định Rotorex từ chối Delchi tuyên
bố hủy hợp đồng và đòi Rotolex bồi thường thiệt hại, trong đó có lãi mất hưởng Rotolex không bồi thường, Delchi đã kiện Rotolex ra tòa án Mỹ dựa trên quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Delchi đòi khoản lãi mất hưởng do nguyên nhân trực tiếp từ vi phạm của bị đơn, bao gồm những khoản như sau: 421.187.095 Lia mất do không cung ứng được 2.395 sản phẩm Ariele cho các Cty chi nhánh khắp Châu Âu 31.310.200 Lia mất do không giao 100 sản phẩm Ariele cho Cty White – Westinghouse - Đức 266.057.772 Lia mất đi do không có 604 sản phẩm Ariele nhãn hiệu Delchi để giao ở Italia; và 280.319.840 Lia mất do không có được 653 sản phẩm Ariele nhãn hiệu White – Westinghouse để giao ở Italia; tổng cộng 546.377.612 Lia lợi nhuận mất hưởng ở Italia
Quyết định của tòa án
Về luật áp dụng, Tòa tuyên bố rằng Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
(CISG) sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp vì Italia và Mỹ là thành viên của công ước này
Trang 9Trước hết, tòa án xét hành động huỷ hợp đồng trong trường hợp này có hợp lý không Ở đây, máy nén khí không phù hợp với quy cách do công suất làm mát thấp và tiêu thụ nhiều năng lượng Mà công suất làm mát và khả năng tiêu thụ năng lượng là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị của một chiếc máy nén khí Vi phạm này khiến cho người mua không thực hiện được mục đích của mình là sản xuất ra những chiếc điều hoà đạt tiêu chuẩn, tiêu thụ được trên thị trường
Do đó nó được coi là một vi phạm cơ bản theo điều 25 CISG Delchi vì thế có quyền hủy hợp đồng (điều 49 CISG)
Về khoản lãi mất hưởng mà Delchi yêu cầu bồi thường, tòa án nhận định: theo điều 74 Công ước Viên 1980, Delchi được quyền đòi lãi mất hưởng do vi phạm hợp đồng của Rotorex; tuy vậy bên
bị vi phạm phải cung ứng đủ bằng chứng để chứng minh thiệt hại hợp lý Tòa xem xét từng khoản mà Delchi yêu cầu bồi thường như sau:
Khoản 1: Chi phí sản xuất 1 đơn vị Ariele với máy nén Rotorex là 478.783 Lia Giá bán đơn vị trung bình của Delchi cho các Cty chi nhánh ở các nước Châu Âu ngoài Italia là 654.644 Lia Delchi không phải trả hoa hồng Vì vậy, Delchi đã mong đợi lợi nhuận bán hàng cho một đơn vị Ariele cho các Cty chi nhánh Châu Âu là 175.861 Lia (654.644 Lia – 478.783 Lia) Do hành vi
vi phạm hợp đồng của Rotorex mà Delchi đã không đáp ứng được hết 2.395 đơn vị từ các đơn đặt hàng của các chi nhánh Cty khắp Châu Âu, có chi tiết các đơn đặt hàng là minh chứng 421.197.095 lia là lợi nhuận mất hưởng Tòa án cho rằng cách tính toán và chứng minh khoản thiệt hại này là hợp lý
Khoản 2: Giá bán đơn vị trung bình của Delchi cho chi nhánh ở Đức – White – Westinghouse là 799.876 Lia Delchi đã trả tiền bản quyền 7991 Lia cho mỗi sản phẩm cho White –
Westinghouse Vì vậy, Delchi mong đợi lợi nhuận trên mỗi sản phẩm Ariele từ White –
Westinghouse là 313.102 Lia Delchi có đưa ra bằng chứng là đơn đặt hàng 500 đơn vị của White – Westinghourse, trong số đó chỉ có 250 đơn vị được cung ứng Tuy vậy, Delchi chỉ đòi được 31.310.200 Lia là lợi nhuận mà Delchi mất hưởng do không giao 100 sản phẩm
Khoản 3: Các đại lý của Italia đã xác nhận rằng họ sẽ đặt thêm sản phẩm Ariele nếu như bên Delchi có thể cung ứng thêm Số lượng sản phẩm Ariele có thể được đặt thêm đã được ghi trong bản tổng hợp các đơn đặt hàng dự kiến của Delchi; nhưng theo tòa án, bản này không có giá trị pháp lý, mang tính chất suy đoán Vì vậy, tòa án đã bác bỏ khoản lợi mất hưởng tại Italia do Delchi đã không cung ứng được những chứng từ liên quan đến số lượng hàng bán bị bỏ lỡ ở Italia do lỗi trực tiếp vi phạm hợp đồng của bên Rotorex
Bài học kinh nghiệm
Để đòi lãi mất hưởng, bên bị vi phạm phải cung cấp đủ bằng chứng để chứng minh khoản lãi mất hưởng là hợp lý và phát sinh trực tiếp từ hành vi vi phạm của bên kia Việc chứng minh là không
dễ dàng do bên bị vi phạm phải chứng minh những khoản thu nhập mà trên thực tế mình đã không có được Thông thường, những đơn đặt hàng chính thức, hay các hợp đồng đã ký với khách hàng được coi là những bằng chứng hợp lý Những khoản lãi mang tính chất suy đoán mà không được chứng minh sẽ bị từ chối bồi thường
Trang 10Case study 6: Giải thích hợp đồng
Trong nhiều trường hợp, khi soạn thảo hợp đồng, các bên sử dụng những thuật ngữ không chính xác hoặc tối nghĩa, dẫn đến bất đồng về cách hiểu Vậy, cần giải thích những thuật ngữ đó theo nguyên tắc nào ?
Tranh chấp giữa một Cty của Mỹ và một Cty của Áo về thuật ngữ “consignment” - “ủy thác” trong hợp đồng kí kết giữa hai bên Hai bên có cách hiểu khác nhau về nghĩa của thuật ngữ này Tranh chấp đã được xét xử tại Tòa án phúc thẩm Mỹ, Bản án số 05-13995, tuyên ngày
12/09/2006
Diễn biến tranh chấp
Hai Cty đã ký hai hợp đồng theo đó, nguyên đơn - Cty Áo đồng ý bán một lượng bột kim loại công nghiệp là Tantalum Carbide (TaC) cho bị đơn - Cty Mỹ, giao hàng tháng 10 và tháng 12/2000 Nguyên đơn đã giao hàng theo đúng hai hợp đồng Bị đơn đã trả một phần tiền cho những phần hàng mà bị đơn đã sử dụng Song đến ngày 23/8/2001, bị đơn từ chối thanh toán cho phần hàng mà mình không muốn dùng của nguyên đơn
Nguyên đơn đành phải bán số TaC mà bị đơn từ chối nhận với giá rẻ hơn so với giá ghi trong hợp đồng thỏa thuận với bị đơn Sau đó, nguyên đơn gửi đơn kiện bị đơn đòi bồi thường thiệt hại theo hai hợp đồng nói trên Hai bên tranh luận với nhau về nghĩa của thuật ngữ “ủy thác” trong Điều khoản giao hàng tại hai hợp đồng đã ký kết
Bị đơn cho rằng, theo CISG (điều 9.2) về áp dụng các tập quán, một thuật ngữ trong hợp đồng được hiểu theo nghĩa thông thường trong ngành, trừ khi hai bên thỏa thuận với nhau cách hiểu khác Bị đơn đã mời các chuyên gia trong ngành công nghiệp kim loại để xác nhận rằng thuật ngữ “ủy thác” theo cách dùng thông thường trong ngành có nghĩa là: Không có mối quan hệ mua bán nào xảy ra trừ khi hoặc cho đến khi bị đơn thực sự sử dụng mặt hàng TaC Vì thế, bị đơn chỉ trả tiền cho những phần hàng đã sử dụng là hợp lý và có quyền trả lại phần hàng mình không sử dụng
Nguyên đơn lại đưa ra tài liệu và các hợp đồng đã được ký kết trước đó giữa hai bên (trong vòng
7 năm), trong đó có thuật ngữ “Ủy thác” Nguyên đơn chứng minh rằng nội hàm của thuật ngữ
mà hai bên đã công nhận trong các hợp đồng trước, đó là: “bị đơn có nghĩa vụ phải thanh toán mặt hàng TaC trong mỗi hợp đồng, nhưng nguyên đơn sẽ lùi ngày đòi tiền cho đến khi bị đơn thực sự sử dụng nguyên liệu TaC” Về bản chất, đây vẫn là hợp đồng mua bán chứ không phải là hợp đồng ủy thác Vì vậy, bị đơn có nghĩa vụ phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng, nếu không phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn
Phán quyết của Tòa án
Tòa án căn cứ vào điều 8 và điều 9 của CISG để giải thích ý nghĩa của thuật ngữ “ủy thác” trong hợp đồng Căn cứ theo Điều 9.1 CISG thì “Các bên bị ràng buộc bởi tập quán mà họ đã thỏa thuận và bởi các thực tiễn đã được họ thiết lập trong mối quan hệ tương hỗ” Điều 8 cũng khẳng định khi giải thích hợp đồng “cần phải tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong mối quan hệ tương hỗ, các tập quán và mọi hành vi sau đó của các bên”
Trang 11Tòa án nhận định rằng, trên thực tế, từ năm 1993 đến năm 2000, đã có một loạt hợp đồng trong
đó nguyên đơn bán bột kim loại nặng cho bị đơn Đối với mỗi hợp đồng như vậy, sau khi nguyên đơn giao hàng, bị đơn lưu hàng nhận được từ nguyên đơn trong “kho ủy thác”, nơi các sản phẩm được dán nhãn là của nguyên đơn và tách biệt với các mặt hàng khác Khi đưa nguyên liệu vào
sử dụng, bị đơn sẽ đưa ra “báo cáo sử dụng” trong đó có liệt kê số lượng nguyên liệu đã dùng Dựa trên báo cáo đó, nguyên đơn gửi hóa đơn cho bị đơn với giá đã được ghi trong hợp đồng Bị đơn sau đó thanh toán hóa đơn khi đến hạn Trong những hợp đồng ấy, bị đơn thực hiện thanh toán đầy đủ toàn bộ lượng hàng hóa thỏa thuận trong hợp đồng
Ngoài ra, Tòa án còn trích một bằng chứng cụ thể mà nguyên đơn đưa ra như sau: Tháng 2/2000, một nhân viên của bị đơn tên ông Atchley gửi email cho ông Hinterhofer thuộc Cty nguyên đơn, biểu lộ ý muốn trả lại số nguyên liệu bột kim loại không dùng mà nguyên đơn đã cung ứng Ông Hinterhofer đã điện thoại lại cho ông Atchey giải thích rằng bị đơn không thể gửi lại hàng vì trong hợp đồng bị đơn đã ký kết mua toàn bộ nguyên liệu Bị đơn sau đó không có ý kiến phản đối Điều này chứng tỏ, phía bị đơn hiểu rõ nghĩa thuật ngữ “ủy thác” được dùng trong hợp đồng cũng như nghĩa vụ phải thanh toán tất cả số lượng hàng hóa được ký kết trong hợp đồng
Vì vậy, Tòa án phán quyết rằng, theo CISG, cả hai bên đều hiểu thuật ngữ “ủy thác” có nghĩa là mua bán hàng hóa, nhưng hóa đơn sẽ được lùi cho đến khi nguyên liệu được thực sự đưa vào sản xuất Với cách hiểu đó, bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số lượng hàng hóa đã ký kết trong hợp đồng với Nguyên đơn Toà án quyết định bị đơn sẽ phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền
là 5.327.042,85 USD cả lãi
Bài học kinh nghiệm
Cần phải soạn thảo hợp đồng với sự cẩn trọng lớn nhất Tránh những thuật ngữ không rõ ràng, tối nghĩa hoặc có nhiều nghĩa khác nhau Điều này đặc biệt quan trọng khi DN ký các hợp đồng
“ngoại” với các đối tác nước ngoài Qua tranh chấp này, CISG thể hiện sự hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp từ trong mua bán hàng hóa quốc tế CISG cung cấp các nguyên tắc giải thích hợp đồng phù hợp với thực tiễn kinh doanh quốc tế (điều 7, 8, 9 CISG), theo đó, thói quen được hình thành giữa các bên là một yếu tố rất quan trọng
Case study 7: Người mua có dấu hiệu vi phạm : Được hủy hợp đồng ?
Khi người mua có dấu hiệu vi phạm nghĩa vụ, người bán có quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ tương ứng của mình Tương tự, khi một bên lý do xác đáng rằng bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng (mặc dù chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ) thì bên đó có quyền hủy hợp đồng
Tranh chấp giữa bị đơn là Cty Doll của Mỹ và nguyên đơn là Cty Doolim, Hàn Quốc Cty Hàn Quốc đã xuất một số chuyến hàng theo đúng quy định trong hợp đồng, nhưng Cty Mỹ lại chậm trễ trong việc thanh toán Vì vậy, Cty Hàn Quốc đã ngừng giao các lô hàng còn lại và hủy hợp đồng với những lô hàng đó Tranh chấp đã được giải quyết tại Toà án quận Nam New York, theo Công ước Vienna (CISG)
Diễn biến tranh chấp
Trang 12Tháng 4/2007 Cty Hàn Quốc Doolim ký chuỗi hợp đồng với Cty Mỹ Doll cung ứng khoảng 500.000 quần áo phụ nữ, bao gồm quần len, váy và các phụ kiện được sản xuất theo thông số kỹ thuật của Doll Trong đó, khoảng 460.000 sản phẩm may mặc đã được gắn thương hiệu Doll Theo hợp đồng, Doolim sẽ giao hàng cho Doll trong 5 lần và Doll phải thanh toán tiền hàng theo mỗi lần giao, trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được hàng
Vào tháng 7 và tháng 8 năm 2007, Doolim vận chuyển 77.528 sản phẩm may mặc mà Doll đã đặt mua với giá mua tổng cộng là 381,026.10 USD Tuy nhiên cho đến tận cuối tháng 9 Doll vẫn chưa thanh toán cho Doolim Vào tháng 10, Doolim nhận được Cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng tháng 7 và 8 của Doll do Cty tài chính Rosenthal (có trụ sở tại New York) bảo lãnh Vì vậy Doolim tiếp tục giao thêm 2 lô hàng nữa cho Doll vào tháng 10 và tháng 11 gồm 157.092 sản phẩm với tổng giá mua là 659,059.74 USD; nâng tổng giá trị hàng đã giao cho Doll là 977,085.84 USD
Vào ngày 21/ 11/ 2007, Doll trả USD 200,000.00 cho Doolim
Nhưng đến giữa tháng 1/ 2008, Doll đã không thực hiện bất kỳ trả góp nào theo lịch trình bởi vậy, Doolim đình chỉ không giao chuyến hàng cuối cùng cho Doll
Quyết định của trọng tài
Theo thỏa thuận giữa hai bên về thời hạn thanh toán trong hợp đồng, Doll phải thanh toán cho Doolim trong vòng 15 ngày kể từ ngày giao hàng và phải thanh toán tiền hàng theo mỗi lần giao Nhưng kể từ lần giao hàng đầu tiên vào tháng 7 - 8/2007, Doll đã có hành vi vi phạm đầu tiên: tận cuối tháng 9 vẫn chưa thanh toán tiền hàng cho phía Doolim Việc vi phạm hợp đồng của Doll chưa dừng lại ở đây khi Doolim tiếp tục giao lô hàng tiếp theo cho Doll vào tháng 10 và tháng 11 nhưng chỉ nhận được 20% tổng giá trị thanh toán cho 4 đợt giao hàng trước đó Chính
vì vậy, Doolim đã không giao lô hàng cuối cùng cho Doll vào 25/11/2007 Theo điều 71 CISG,
“một bên có thể ngừng việc thực hiện nghĩa vụ của mình nếu có dấu hiệu cho thấy rằng sau khi hợp đồng được ký kết, bên kia sẽ không thực hiện một phần chủ yếu những nghĩa vụ của họ bởi
lẽ có một sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong khả năng thực hiện hay trong khi thực hiện hợp đồng”
Hơn nữa, vào tháng 11/2007, Doll thanh toán cho Doolim 200.000 USD, chưa đến 20% giá trị của các lô hàng trước đó Bên cạnh đó, vào trước cuối tháng 1 năm 2008, Doll vẫn không thanh toán số tiền còn lại là 530.000 USD có hạn thanh toán là ngày 14 và 18 tháng 12/2007 và ngày
11 và 25/1/2008, và cũng không đưa ra một sự đảm bảo nào cho phía Doolim rằng sẽ hoàn thành nghĩa vụ thanh toán Hành vi vi phạm của Doll gây thiệt hại đáng kể cho Doolim Do đó, tòa tuyên rằng vi phạm mà Doll gây ra là vi phạm cơ bản (theo điều 25) Việc Cty Doll không thanh toán tiền hàng cho Cty Doolim là một hành vi vi phạm cam kết trong hợp đồng đã kí giữa hai bên Vì vậy người bán là Cty Doolim được quyền nhận số tiền bồi thường là 840,085.94 USD
Bình luận và lưu ý
Về bản chất, hợp đồng mua bán là một loại hợp đồng song vụ Theo truyền thống, việc giao hàng
và thanh toán phải được thực hiện cùng lúc Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế, trong nhiều
Trang 13ứng xảy ra Điều 71 CISG đã đưa ra một hướng khắc phục cho những rủi ro khi có sự chênh lệch thực hiện nghĩa vụ giữa hai bên Đặc điểm chính của điều 71 là không yêu cầu phải có vi phạm thực tế xảy ra, mà chỉ cần một bên có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, thì bên còn lại có quyền tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ của mình Trong vụ tranh chấp này, chậm thanh toán của Doll được xem là vi phạm chủ yếu nên Doolim ngừng thực hiện nghĩa vụ giao hàng là hoàn toàn hợp lý Quy định này của CISG sẽ tránh cho việc Doolim sẽ phải tiếp tục giao các lô hàng còn lại theo hợp đồng mà lại không được đảm bảo thanh toán từ phía Doll
Khác với Luật Thương mại VN, CISG cho phép bên bị vi phạm có thể hủy hợp đồng khi có dấu hiệu vi phạm xảy ra và vi phạm đó phải là vi phạm cơ bản Qua đó cho thấy, so với luật quốc gia, CISG điều chỉnh các vấn đề pháp lý cặn kẽ hơn và bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hợp đồng nhiều hơn
Trong hoạt động thương mại quốc tế, rủi ro lớn nhất đối với người xuất khẩu chính là rủi ro thanh toán Với đặc tính các chủ thể hợp đồng nằm ở các quốc gia khác nhau, vì thế việc thanh toán tiền hàng thường được diễn ra khó khăn hơn Sai lầm của Cty Doolim mà chúng ta có thể rút ra đó chính là đã quá tin tưởng vào đảm bảo thanh toán của Doll, thậm chí đến lần giao hàng cuối cùng mới tạm hoãn Doolim đã không lưu ý đến giá trị pháp lý của đảm bảo thanh toán do Cty Rosenthal bảo lãnh cho Doll Đây là một lưu ý quan trọng mà các doanh nghiệp khi tham gia thương mại quốc tế cần coi trọng : về tư cách pháp lý và mức độ uy tín của bên thứ ba đứng ra bảo đảm Để hạn chế rủi ro, DN xuất khẩu nên yêu cầu một bên thứ ba có uy tín cao trong lĩnh vực tài chính đứng ra bảo lãnh thanh toán cho bên nhập khẩu
Case study 8: L/C có thể sửa đổi hợp đồng ?
Đôi khi, khi mở L/C, người mua sửa đổi một số điều khoản trong hợp đồng Là một công cụ thanh toán, L/C có chức năng sửa đổi hợp đồng hay không?
Hợp đồng được ký giữa bị đơn - người mua là Cty thương mại Tây Ninh (VN) và nguyên đơn - người bán là DN Ng Nam Bee (Singapore) Đối tượng hợp đồng là bột ngọt Sau khi hết hạn L/C, người mua sửa đổi L/C ban đầu, theo đó kéo dài thời hạn giao hàng Khi hết thời hạn giao hàng ban đầu, người bán đòi hủy hợp đồng, trong khi đó, người mua điều tàu đến nhận hàng Tranh chấp được xét xử tại Toà phúc thẩm - tòa án tối cao TP HCM, tòa án đã áp dụng các điều
29, điều 53, điều 64.1 Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG) để giải quyết tranh chấp
Diễn biến tranh chấp
Do hạn chế về hạn ngạch, HTX tư nhân Tân Lộc đã kí hợp đồng uỷ thác với Cty Thương mại Tây Ninh (DN nhà nước - Tanico) để XK 300 tấn bột ngọt, trị giá 312.000 USD theo điều kiện FOB Quy Nhơn cho đối tác Singapore là Ng Nam Bee
Ngày 25/1/1995, Tanico đã kí hợp đồng mua bán với Ng Nam Bee Theo đó thanh toán được thực hiện bằng thư tín dụng không hủy ngang, với điều kiện đỏ (bên mua ứng trước 50%); thời gian giao hàng là bất kì lúc nào cho đến 28/2/1995 Ngày 5/1/1995, Ng Nam Bee phát hành một L/C không huỷ ngang, điều kiện đỏ, có hiệu lực đến ngày 15/3/1995 Ngày 21/1/1995: điều kiện
đỏ được thực hiện - bên mua ứng 156.000 USD cho bên bán Ngày 28/2/1995, ngày cuối cùng
Trang 14của thời hạn thực hiện hợp đồng, Ng Nam Bee đã gửi bản sửa đổi L/C, theo đó giá trị của L/C được kéo dài đến 4/4/1995 Trong L/C phía Singapore cũng hoãn ngày giao hàng đến 20/3 Ngày 1/3/1995, ngân hàng tại VN nhận được bản L/C sửa đổi và gửi tới cho Tanico ngày 2/3/1995 Ngày 8/3/1995, Tanico gửi cho Tân Lộc
Tân Lộc sau khi chờ đợi đến ngày 4/3 mà không thấy bên người mua nước ngoài nhận hàng thì
đã coi hợp đồng bị huỷ bỏ và đã gửi trả lại khoản tiền ứng trước cho Tanico để Tanico gửi trả người mua Ngày 9/3/1995, khi nhận được bản bổ sung L/C, Tân Lộc tuyên bố chấm dứt hợp đồng với lý do là phía người mua đã vi phạm thời gian nhận hàng
Ngày 10/3/1995, Ng Nam Bee gửi 2 bản sao xác nhận về việc tàu Hei Hu Quan sẽ đến cảng Quy Nhơn vào đêm 11/3 Ngày 13/3/1995, tàu đến cảng Quy Nhơn mà không được giao hàng
Ng Nam Bee phát đơn kiện Tanico đòi bồi thường, và cho rằng trong L/C đầu tiên có điều khoản cho phép người phát hành có quyền thay đổi thời hạn giao hàng
Quyết định của toà án
Hợp đồng quy định cụ thể không cho phép các bên được sử dụng những chứng cứ ngoài hợp đồng Trong khi đó, bên mua lại căn cứ theo quy định của L/C để thay đổi thời hạn giao hàng của hợp đồng; mà L/C chỉ đơn thuần công cụ thanh toán Có thể thấy, rõ ràng bên mua vi phạm điều khoản về việc sử dụng các chứng cứ ngoài hợp đồng của hợp đồng mua bán
Mặt khác, theo UCP 500 thì thấy rằng, theo quy tắc 9 khoản D điểm I đối với một L/C không huỷ ngang, người phát hành không được phép thay đổi nội dung trừ khi có sự đồng ý của ngân hàng phát hành, ngân hàng chấp nhận, người bán Trong trường hợp này, không có một hành động nào của người bán thể hiện rằng anh ta chấp nhận sự sửa đổi này của người mua
Theo điều 29 của CISG, một hợp đồng có thể được sửa đổi hay chấm dứt bằng thoả thuận đơn thuần giữa các bên Phân tích các tình tiết thì rõ ràng chưa hề có sự thoả thuận nào giữa hai bên Tham chiếu đến điều 53 CISG ta thấy rằng, người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định của hợp đồng nhưng ở đây sau 4 ngày của thời hạn cuối cùng vẫn chưa thấy người mua đến nhận hàng Theo điều 64 khoản 1 CISG khi người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó trong thời gian đã gia hạn thêm, người bán mới có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng Về mặt
lý thuyết, 4 ngày không được coi là đã gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ, nhưng đối tượng của hợp đồng mua bán này - bột ngọt- lại là mặt hàng rất dễ hư hỏng, thì huỷ hợp đồng là hợp lý Tòa
án đã tuyên bố người bán có quyền hủy hợp đồng và người mua phải chịu trách nhiệm về việc đã không điều tàu đến cảng nhận hàng đúng thời hạn
Bình luận và lưu ý
Hợp đồng là văn bản có giá trị hiệu lực cao nhất ràng buộc hai bên mua bán, nếu muốn sửa đổi hợp đồng thì cần có sự thống nhất, thỏa thuận của cả hai bên Cần chú ý là các chứng cứ ngoài hợp đồng như L/C không thể có giá trị ràng buộc bằng hợp đồng
Huỷ hợp đồng là chế tài nặng nhất khi xử lý vi phạm liên quan đến hợp đồngg Theo CISG, người bán chỉ có thể hủy hợp đồng khi người mua không nhận hàng trong thời hạn đã được gia