1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giai cấp nông dân với sự nghiệp CNH hđh nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh bình định (tóm tắt)

24 185 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 24
Dung lượng 582,86 KB

Nội dung

Trên cơ sở đường lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, tỉnh Bình Định đã triển khai thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đưa máy móc, thiết bị, ứng dụ

Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Giai cấp nông dân là giai cấp ra đời sớm và tồn tại cùng với sự phát triển của nhiều chế độ

xã hội khác nhau Trong từng thời kỳ lịch sử, GCND đều có những đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của xã hội Tuy nhiên, lý luận về GCND chỉ thực sự hoàn thiện và mang tính cách mạng khi Chủ nghĩa Mác ra đời và được bổ sung, phát triển bởi V.I.Lênin Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề ND luôn có vị trí đặc biệt quan trọng và luôn được xác định là vấn đề chiến lược của cách mạng V.I.Lênin đã khẳng định hầu hết các nước thuộc địa, ND là lực lượng dân cư đông đảo nhất; lực lượng lao động dồi dào nhất; lực lượng cách mạng hùng hậu nhất Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất chủ yếu của xã hội, nông thôn là địa bàn cư trú rộng lớn nhất của ND Vì vậy, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và ND là vấn đề cơ bản và mấu chốt nhất trong quá trình xây dựng CNXH

Ở Việt Nam, nông nghiệp, ND, nông thôn hay còn gọi là "tam nông" là vấn đề được Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước Bởi

lẽ, điểm xuất phát của Việt Nam đi lên CNXH là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, ND luôn chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động GCND Việt Nam là giai cấp gắn bó đầu tiên và lâu đời với nền sản xuất và cội nguồn của dân tộc, là lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt Nam Lịch sử 85 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

đã khẳng định những đóng góp to lớn của GCND đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Bình Định là một tỉnh nông nghiệp với gần 70% dân số sống ở nông thôn [23, tr 32] Trong những năm qua, bên cạnh việc chú trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, phát triển nông nghiệp vẫn là ưu tiên số một trong quá trình phát kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định Trên cơ sở đường lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, tỉnh Bình Định đã triển khai thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đưa máy móc, thiết bị, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ và các phương pháp sản xuất, các hình thức tổ chức kiểu công nghiệp… vào sản xuất nông nghiệp; khắc phục và hạn chế những khó khăn, bất lợi; khai thác các tiềm năng, lợi thế; phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương… và bước đầu đã đạt được những kết quả rất quan trọng, bộ mặt NTM từng bước được hình thành, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận ND ngày càng được cải thiện; hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy, nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH Tuy nhiên, việc xây dựng GCND ở tỉnh Bình Định còn nhiều mặt yếu kém, tồn tại kéo dài, chậm khắc phục Nền sản xuất nông nghiệp Bình Định có mặt phát triển chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm; ND còn thiếu các điều kiện có bản như vốn, kỹ thuật, vật tư nông nghiệp, chế biến, thị trường… để phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Đời sống một bộ phận ND còn khó khăn, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng giữa các vùng, địa phương trong tỉnh có xu hướng gia tăng… Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tâm trạng, quá trình sản xuất của ND Bình Định trên con đường phát triển

Từ cách đặt vấn đề như trên, việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về GCND, về mối quan hệ giữa nông nghiệp, ND, nông thôn; chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn… làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng phát huy vai trò của GCND Việt Nam nói chung, ND tỉnh Bình Định nói riêng, tìm ra những luận cứ khoa học góp phần phục vụ quá trình hoàn thiện các chính sách nông nghiệp, nông thôn và ND trên địa bàn tỉnh Bình Định; phát huy vai trò của GCND, củng cố vững

Trang 2

chắc khối liên minh công nhân - ND - trí thức trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn… là vấn đề bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc

2 Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến các vấn đề lý luận về vai trò, đặc điểm của GCND trong sự phát triển

xã hội và trong lịch sử nhân loại cũng như vấn đề GCND Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước nói chung, đặc biệt là vấn đề GCND với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định nói riêng, có nhiều tác phẩm, công trình của nhiều tác giả nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau:

Hướng thứ nhất, các tác phẩm, công trình trong và ngoài nước nghiên cứu những vấn đề

lý luận về GCND và về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung bao gồm:

Một là, các tác phẩm kinh điển của C Mác và Ph Ăngghen, V.I Lênin về GCND

như Ph.Ăngghen với tác phẩm Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức [63]; tác phẩm Chiến tranh nông

dân ở Đức [61]; hay V.I.Lênin với tác phẩm Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách

mạng dân chủ [52]; tác phẩm Bàn về thuế lương thực [55]… và nhiều tác phẩm khác Trong các

tác phẩm này, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích tính hai mặt của GCND; vừa là người lao động, vừa là người tư hữu; phân tích tính tất yếu của liên minh công - nông, về vai trò của GCND trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chiến

lược phát triển nông nghiệp, nông thôn…

Hai là, các tác phẩm, công trình (trong và ngoài nước) nghiên cứu các vấn đề lý luận

về GCND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung như Amsden, Alice, Asia’s Next

Giant với công trình South Korea and the Late Industrialization (Hàn Quốc với thời kỳ hậu công

nghiệp hoá) [106]; hay Lin, Yustin Yifu and Yang Yao với công trình Chinese Rural Industrialization in the Context of East Asian Miracle (Công nghiệp hoá nông thôn Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập của khu vực Đông Á [108]; Công trình A Study of the China’s Technology Industrialization Model and Strategy, Regional Study Series (Nghiên cứu về mô hình

và chiến lược công nghiệp hoá của Trung Quốc) của tác giả Seung Chan Park [112]; Công trình Education for rural people (Giáo dục cho dân cư nông thôn) [109]; Farmers’ Association

Training Materials với tác phẩm China Canada Agriculture Development Program Farmers’

Association Development Strategy and Training Program (Chương trình đào tạo và phát triển

ND, nông thôn ở Trung Quốc - Canada ) [110]… Các tác giả này đã đề cập đến việc giải quyết

mối tương quan giữa giáo dục ND, trao quyền cho ND và đảm bảo an ninh lương thực; nghiên cứu mô hình CNH, HĐH ở Trung Quốc, Hàn Quốc là lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, lấy thành thị lôi kéo nông thôn, tăng cường địa vị cơ sở của nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm tăng nhanh sản lượng nông nghiệp, nâng cao đời sống người dân nông thôn…

Bên cạnh các công trình của các tác giả nước ngoài, tại Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu như Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn

– Đặng Kim Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, ND trong quá trình công

nghiệp hoá [83]; PGS TS Mai Thị Thanh Xuân với công trình Một số mô hình công nghiệp hoá trên thế giới và Việt Nam [105]; tác giả Đỗ Đức Định với công trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh – Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á [40];

Công trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực của tác giả Phan Khiêm Ích – Nguyễn Đình Phan [47]; TS Đặng Kim Sơn với công trình Nông nghiệp,

ND, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau [84]; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn - Từ

lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay của TS Phạm Ngọc Dũng [27]; GS.TS Đỗ Hoài Nam

với tác phẩm Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn [76]; Tác giả Xứng Cao

Trang 3

Quang với công trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn: tình hình phát triển 5 năm qua và một

số giải pháp [77] … Các công trình này đã bàn đến những vấn đề lý luận chung về mô hình công

nghiệp hoá như quan niệm và bản chất công nghiệp hoá, diễn biến của tiến trình công nghiệp hoá trên thế giới, phân tích tính tất yếu, tác động và nội dung của công nghiệp hoá; một số vấn đề lý luận về nông nghiệp, ND, nông thôn; vai trò của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phân tích thực trạng các vấn đề về nông nghiệp, ND, nông thôn ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu và khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, từ đó đề xuất những định hướng và kiến nghị một số chính sách phát triển nông nghiệp, ND, nông thôn Việt Nam

Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của GCND Việt Nam trong xã hội và đặc biệt là trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh, thành phố và ở Việt Nam, bao gồm:

Một là, các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh, Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước Việt Nam về GCND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Trong các tác phẩm và bài viết

của mình, Hồ Chí Minh đã giành nhiều trang viết về GCND, tiểu biểu như tác phẩm Đường cách

mệnh [72]; Về liên minh công nông [70]; Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ; Nước An Nam dưới con mắt người Pháp [71]; Về Hợp tác xã [74] và nhiều bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh

qua các thời kỳ Các tác phẩm này đã phân tích quá trình hình thành, đặc điểm và vai trò của GCND Việt Nam, tính tất yếu của liên minh công - nông trong cách mạng Việt Nam

Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề ND, nông nghiệp, nông thôn luôn

là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam và luôn được thể hiện trong các Văn kiện của

Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt từ giai đoạn đổi mới đất nước đến nay tiêu biểu như Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII (1/1994) đã xác định “chuyển dần

sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới từng bước CNH, HĐH” và rất quan tâm tới CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) mở

đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã quyết định và chỉ đạo phải coi trọng

và đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng (2001) nêu rõ “tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh

CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn” [34, tr 91- 92] Đặc biệt Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ra quyết định về Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006)

khẳng định “Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề

nông nghiệp, nông thôn và ND” [35, tr 88] Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành

trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, ND, nông thôn (8/2008) đã chỉ rõ các vấn đề nông nghiệp, ND, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Trên cơ sỏ các quan điểm của Đảng, nhiều văn bản luật và văn bản dưới Luật của Nhà nước đã được ban hành như Luật đất đai (2003), Luật Hợp tác xã (2003), Luật Bảo vệ môi trường (2005), Luật Đầu tư (2005)… Chỉ thị số 24/2005/CT-TTg ngày 28/6/2005 của Thủ

tướng Chính Phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết trung ương 5 khóa IX về đẩy mạnh

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 24/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2008 của Thủ

tướng Chính phủ ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với

các tỉnh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010; Thông tư liên tịch số

06/2006/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 19/1/2006 Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh

và Xã hội hướng dẫn chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục

tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020…

Trang 4

Hai là, các công trình nghiên cứu về GCND trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh, thành phố và ở Việt Nam Đề tài cấp Bộ của GS.TS Nguyễn

Đình Hương, Sản xuất và đời sống của các hộ ND không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng

sông Cửu Long Thực trạng và giải pháp [44]; hay Đề tài cấp Bộ của TS Bùi Thị Ngọc Lan Việc làm của ND vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH, HĐH [49] Các công trình

này bước đầu làm rõ thực chất, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tình trạng các hộ ND không

có đất hoặc thiếu đất sản xuất; nghiên cứu về vấn đề giải quyết việc làm cho ND, xu hướng biến đổi của ND khi chuyển sang kinh tế thị trường ở một số địa phương trên cả nước

Luận án tiến sĩ triết học Sự chuyển hướng của GCND trong thời kỳ quá độ lên

CNXH ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Đức Hướng [45]; Luận án tiến sĩ triết học Đặc điểm

và xu hướng biến đổi của GCND nước ta trong giai đoạn hiện nay của tác giả Bùi Thị

Thanh Hương [46];Tác giả Đinh Thế Định với công trình nghiên cứu Mối quan hệ giữa

sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc trung bộ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay [39] đã đề cập đến xóa đói giảm

nghèo, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, khuyến khích phát triển và giảm bất bình đẳng giới để phát triển nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trên phạm vi toàn quốc, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới Các tác giả cũng đề cập đến sự cần thiết phải nhanh chóng phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa, nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong xu thế hội nhập và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước

Luận án tiến sĩ kinh tế của Dương Trí Thảo, Phương hướng và biện pháp đổi mới

công nghệ trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hoà [90] hay

luận án tiến sĩ kinh tế chính trị của Nguyễn Thị Thu Hương, Phát triển ngành công nghiệp

chế biến thuỷ sản theo định hướng xuất khẩu tại Đà Nẵng [43] đã phân tích cơ sở lý luận

chung về phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản theo hướng xuất khẩu; phân tích thực trạng phát triển của ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở Khánh Hòa, Đà Nẵn g trên các mặt như tốc độ tăng trưởng, sự phát triển về quy mô chế biến, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, trình độ phát triển công nghệ, hiệu quả kinh tế - xã hội Đánh giá khả năng phát triển của ngành thuỷ sản Khánh Hòa, Đà Nẵng theo hướng tiếp cận cạnh tranh, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản theo hướng xuất khẩu

Hướng thứ ba, văn kiện của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định và các công trình nghiên cứu về GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định

Một là, các văn kiện của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định về GCND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định như Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình

Định lần thứ XVIII, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh

đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiền đề đến năm 2020, Bình Định cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp [01] Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [02]; Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, ND, nông thôn của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [03]; Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh về Xây dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn 2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [04]; Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua xây dựng NTM của UBND tỉnh Bình Định và Tài liệu tuyên truyền về xây dựng NTM của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến 2020 của

Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Bình Định [06] Báo cáo của Cục Thống kê Bình Định về thực trạng nông

Trang 5

thôn, nông nghiệp và xây dựng NTM tỉnh Bình Định [17]; Nghị quyết số 6/2007/NQ-HĐND ngày 19/7/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Định về việc thông qua một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững; Sở thuỷ sản Bình Định, Tóm tắt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Bình Định đến năm 2015, tầm nhìn đến 2020 [80]; Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bình Định, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản Bình Định trong thực hiện chính sách nông nghiệp, ND, nông thôn [81]; Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 26 – NQ /TW về nông nghiệp, ND, nông thôn của Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn Bình Định [82]; Báo cáo Công tác Hội và Phong trào ND năm 2012, phương

hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2013 của Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bình Định [41] đã đánh

giá tình hình sản xuất nông nghiệp và đời sống ND Bình Định trong những năm qua, phân tích những thành tựu và hạn chế trong nông nghiệp, ND, nông thôn và đề ra các phương hướng, giải pháp, chương trình hành động cho giai đoạn tới

Hai là, các công trình nghiên cứu về ND Bình Định và về quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định như công trình Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn Bình Định [38]; Lịch sử Hội Nông dân và phong trào ND Việt Nam tỉnh Bình Định (1930 - 2000) [05]; Công trình Bình Định thế và lực mới trong thế kỷ XXI của tác giả Chu Viết Luân [59]; Cục Thống kê Bình Định trong

công trình Bình Định 10 năm phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) [16]; Nguyễn Tấn Tuấn với đề tài Kinh tế trang trại - hướng đi mang tính tự phát của ND Bình Định [92]; Phan Trọng Hổ với công trình Nông nghiệp, ND, nông thôn tỉnh Bình Định trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá [42]

Các công trình này đã đề cập đến các nội dung như tổng quan tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định trong 10 năm 2001 – 2010; phân tích vai trò của ND và Hội ND Việt Nam tỉnh Bình Định giai đoạn 1930 - 2000; đánh giá tác động của các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, ND, nông thôn ở tỉnh Bình Định trong những năm qua, từ đó đề xuất lộ trình và giải pháp phát triển nông nghiệp, ND, nông thôn của tỉnh Bình Định đến năm 2015 và 2020

Như vậy, với hình thức, mức độ và ở các phạm vi nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều nội dung (lý luận và thực tiễn) của vấn đề GCND và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên thế giới, ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Bình Định Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vai trò của GCND và thực trạng phát huy vai trò của GCND trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn ở tỉnh Bình Định.Vì vậy tác giả chọn đề tài Giai cấp nông dân với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định làm đề tài nghiên cứu cho luận án

tiến sĩ triết học của mình

3 Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án là nhằm làm rõ vai trò của GCND trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định; phân tích thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với tỉnh Bình Định trong việc phát huy vai trò của ND Bình Định trong quá trình CNH, HĐH; khuyến nghị Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định thực hiện một số phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của ND Bình Định trong giai đoạn hiện nay

Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, phân tích một cách hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan

điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về GCND, về quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, về vai trò của GCND Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Thứ hai, phân tích vai trò của ND Bình Định và thực trạng phát huy vai trò của ND

Bình Định; nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của ND Bình Định

Trang 6

trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Thứ ba, khuyến nghị Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định thực hiện một số phương

hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của GCND ở tỉnh Bình Định giai đoạn hiện nay

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là GCND, vai trò của GCND trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn dưới góc độ triết học

Vấn đề GCND có phạm vi rất rộng và ở tỉnh Bình Định được thực hiện trong thời gian dài (từ khi tỉnh được tái lập năm 1989 đến nay) Vì vậy, trong khuôn khổ luận án, nhiệm vụ nghiên cứu về GCND với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bình Định được giới hạn

ở giai đoạn từ 2001 đến 2012 Luận án không đi sâu tìm hiểu về GCND thời kỳ trước và sau đổi mới cho đến năm 2000 Phần đề xuất các phương hướng, giải pháp được xác định từ nay đến năm

2020 và triển vọng đến năm 2030 Về không gian, phạm vi cả nước được xác định để nghiên cứu

cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn; địa bàn tỉnh Bình Định được xác định là phạm vi nghiên cứu thực trạng để đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển

5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm Hồ Chí Minh về GCND, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề ND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Trong quá trình thực hiện, tác giả luận án đã sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử, lôgich, hệ thống

hóa, khái quát hóa, sơ đồ hoá

6 Đóng góp mới của luận án

Một là, luận án góp phần hệ thống hoá và có luận giải mới về vấn đề GCND, về CNH,

HĐH, nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định;

Hai là, phân tích vai trò “chủ thể” của GCND trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định; đánh giá thành tựu mà tỉnh Bình Định đã đạt được, làm rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra hiện nay;

Ba là, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò chủ thể của ND Bình

Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Về mặt lý luận, luận án góp phần nâng cao nhận thức của Đảng bộ, Chính quyền

và nhân dân tỉnh Bình Định về vấn đề ”tam nông”; góp phần gợi mở cho Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định trong việc hoàn thiện các chủ trương, chính sách về vấn đề ND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Bình Định

Về mặt thực tiễn, các giải pháp nêu trong luận án có thể giúp ND tỉnh Bình Định

thực hiện vai trò chủ thể của mình trong quá trình phát triển mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Luận án cũng

có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề về

ND, nông nghiệp, nông thôn

8 Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu làm 3 chương, 8 tiết

Trang 7

PHẦN NỘI DUNG Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM

1.1 KHÁI LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP NÔNG DÂN

1.1.1 Quan điểm của các nhà tư tưởng ngoài mác-xít về GCND

Trong lịch sử nhân loại, GCND là giai cấp hình thành từ rất sớm và tồn tại cùng với sự phát triển của nhiều chế độ xã hội Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, bản chất xã hội và địa vị của GCND là do phương thức sản xuất thống trị của xã hội quy định Và ở những hoàn cảnh kinh

tế - xã hội khác nhau, quan điểm về GCND cũng khác nhau Trong thời kỳ cổ đại, các nhà triết học ở cả phương Đông và phương Tây đều xem những người nông dân là tầng lớp bên dưới của

xã hội, phải lao động và phục tùng tầng lớp trên của xã hội Các đại biểu tiêu biểu như Mạnh Tử (372 - 289 tr CN), Tuân Tử (298 – 238 tr CN) hay Héraclite (554 - 541 tr CN), Démocrite (460 -

370 tr CN) hay Socrate (469 - 399 tr CN) và Platon (427 - 347 tr CN)… Sang thời kỳ trung đại,

do hoàn cảnh kinh tế - xã hội của chế độ phong kiến đã làm cho triết học và khoa học đã trở thành

nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai người ca tụng, biện minh cho các tín niệm của tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tư tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thần tiến bộ Do đó, thời kỳ này cũng không có nhà tư tưởng nào bàn đến vấn đề giải phóng GCND thoát khỏi sự bóc lột, nô dịch của xã hội phong kiến Đến thời kỳ cận đại đã xuất hiện nhiều tư tưởng tiến bộ, phê phán

xã hội đương thời, lên án thời kỳ tích lũy ban đầu của CNTB và bên vực những người nông dân Tiêu biểu là các nhà XHCN không tưởng như Tomát Morơ (1478 - 1535), Giăng Mêliê (1664 – 1729)… Hay tư tưởng của chủ nghĩa trọng nông mà đại biểu tiêu biểu là Francois Quesnay (1694 - 1771)

đề cao vai trò của sản xuất nông nghiệp, của GCND…

Như vậy, ở những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã có những quan điểm khác nhau về GCND, về vai trò của sản xuất nông nghiệp Những tư tưởng đó góp phần làm phong phú thêm kho tàng tư tưởng nhân loại, tạo tiền đề cho sự nghiên cứu của C Mác và Ph.Ăngghen sau này Lý luận về GCND mang tính cách mạng chỉ thực sự hình thành từ những năm 40 của thế kỷ XIX trong học thuyết Mác và được bổ sung phát triển bằng sự đóng góp của Lênin

1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp ND

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử và quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng thế giới, C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã xây dựng một hệ thống các quan điểm khoa học về GCND

Về định nghĩa GCND, trên cơ sở phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

GCND nói chung, các quan niệm khác nhau về GCND, chúng tôi kết luận GCND là giai cấp của

những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia lao động sản xuất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp… trực tiếp sử dụng các tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên

là đất, rừng, biển… để sản xuất ra nông sản, bản chất xã hội và địa vị của GCND là do phương thức sản xuất thống trị quy định và được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội

Về nguồn gốc, GCND là một giai cấp xã hội đặc biệt, hình thành trong quá trình

tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá trình phát triển của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, tồn tại cho tới khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản1 Trong các hình thái tiền tư

Trang 8

bản chủ nghĩa, ND bao gồm những người sản xuất nông nghiệp phân tán và chủ yếu là những người sản xuất nhỏ Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, ND với tính cách là một tầng lớp tiểu tư hữu - sản xuất hàng hóa, một bộ phận của tiểu tư sản, tất yếu ngày càng bị phân hóa ND phân hóa thành ba nhóm khác nhau xét theo địa vị giai cấp của họ: tiểu nông (bần nông, cố nông), trung nông và tư sản nông nghiệp Việc tích tụ sản xuất tư bản chủ nghĩa và việc tăng cường tước đoạt đẫn tới chỗ làm xói mòn tầng lớp trung nông, do địa vị kinh tế - xã hội của mình, ND phải đi theo hoặc là công nhân, hoặc là tư sản Ở xã hội tư bản chủ nghĩa, do lợi ích của GCND và giai cấp công nhân cơ bản giống nhau nên tạo điều kiện để thực hiện liên minh giữa hai giai cấp này Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi ND bị khổ cực vì sự bóc lột ngày càng tăng của các tổ chức độc quyền, vì sưu thuế ngày càng cao, vì món nợ nô dịch đối với các ngân hàng, ND trở thành đồng minh của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản độc quyền Ở những nước mà phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển thì ND là động lực có tính quần chúng nhất của phong trào đó2

Về đặc điểm của GCND, thứ nhất, ND vừa là những người lao động, vừa là những

người tư hữu nhỏ Mặc dù khác nhau về trình độ, địa vị kinh tế và lợi ích, nhưng giữa họ có một

điểm chung là đều sinh sống bằng cách làm thuê cho các giai cấp bóc lột ở nông thôn hoặc là tồn tại bằng chính lao động của bản thân mình với những điều kiện sẵn có về tư liệu sản xuất chứ không sống bằng việc bóc lột lao động của người khác Lao động đó có thể đủ đáp ứng nuôi sống gia đình và nhu cầu sản xuất của họ; thậm chí, với trung nông thì lao động đó có thể tạo ra sản phẩm dư thừa để tích luỹ “Giai cấp đó, một mặt là người tư hữu, mặt khác lại là người lao động

Nó không bóc lột những người lao động khác” [54, tr 237]

Thứ hai, ND không có hệ tư tưởng độc lập Tư tưởng của họ luôn dao động, đầy tính

thực tế và phụ thuộc rất lớn vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị ND chỉ sẵn sàng tin và đi theo giai cấp nào mang lại lợi ích cho họ Đây có thể được xem là một đặc điểm quan trọng của ND trong bất kỳ giai đoạn nào Với bản chất tư hữu và thái độ dao động, ngả nghiêng, người ND không dễ dàng và ngay tức khắc tin theo và ủng hộ giai cấp vô sản được Người viết: “ND sẽ không tin bất cứ một lời nói nào, bất cứ một cương lĩnh nào… ND chỉ tin vào hành động, vào kinh nghiệm thực tiễn”3 Chính vì đặc điểm đó của ND mà Lênin yêu cầu những người cộng sản, bất luận thế nào, cũng không thể dùng bạo lực để ép ND đi theo mình, mà phải cương quyết xây dựng mối quan hệ hoà thuận với họ

Thứ ba, cùng với sự phát triển của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu GCND luôn có sự biến đổi mạnh mẽ

Trước cách mạng xã hội chủ nghĩa, do sự tác động của cơ chế kinh tế hàng hoá và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ cấu GCND có sự biến đổi mạnh mẽ Một phần trong số họ gia nhập vào giai cấp bóc lột ở nông thôn, một phần lớn trở thành những người lao động làm thuê Điển hình trong đó là tầng lớp trung nông Tầng lớp này có thể do điều kiện vốn có của mình mà phát triển trở thành những người bóc lột sức lao động của người khác, nhưng cũng có không ít trung nông không chịu nổi sự cạnh tranh, bị phá sản và phải tham gia vào đội quân lao động làm thuê Cách mạng vô sản thành công đã xoá bỏ sự áp bức, bóc lột giai cấp, xoá bỏ sự thống trị của bọn địa chủ đối với GCND, nhưng cũng chính điều kiện đó lại giúp cho người ND thiết lập cơ sở để trở thành tiểu chủ Chính vì lẽ đó mà GCND còn có cơ sở tồn tại lâu dài, cho dù cách mạng vô sản đã thành công

Do vậy, Lênin cho rằng, nếu ai đó nghĩ tới việc có thể nhanh chóng xoá bỏ được GCND trong

2 A.M Ru-mi-an-txép (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Sự thật, Hà Nội, tr 228

Trang 9

một thời gian ngắn thì người đó là những người viển vông, không tưởng

Thứ tư, GCND tất yếu sẽ đi theo giai cấp vô sản, ủng hộ giai cấp vô sản tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa

Trong xã hội có áp bức, bóc lột, ND là giai cấp bị áp bức, bóc lột một cách nặng nề, bị giam hãm và phải sống trong những điều kiện thấp kém Vì vậy, để thay đổi cuộc sống của mình, GCND chỉ có thể ủng hộ và đi theo con đường cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm xoá

bỏ tầng lớp địa chủ và giai cấp tư sản Lênin khẳng định: “Do địa vị kinh tế của mình trong xã hội

tư sản, ND nhất định phải đi theo hoặc công nhân, hoặc giai cấp tư sản Không có con đường trung gian”4

Một khi ND đã hoàn toàn tin tưởng vào giai cấp vô sản thì họ sẽ hết lòng đi theo và phục vụ cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và khi đó, cách mạng nhất định thành công

Về vai trò của GCND trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, một là, GCND là lực lượng

cách mạng cơ bản trong đấu tranh giành chính quyền nhà nước Lênin đã chỉ rõ một trong những

điều kiện để giai cấp công nhân giữ vững được vai trò lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là giai cấp công nhân phải được sự ủng hộ của ND Chỉ có sức mạnh của sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân và GCND, giai cấp công nhân mới có cơ sở để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản thống trị và các thế lực phản động khác,

giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động Hai là, cùng

với giai cấp công nhân, GCND có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.Vai

trò của GCND không chỉ ở giai đoạn giành chính quyền mà còn có ý nghĩa hết sức to lớn trong quá trình gìn giữ chính quyền và xây dựng xã hội mới Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn thắng lợi, theo Lênin cần có hai điều kiện; Một là điều kiện bên ngoài, tức là sự ủng hộ kịp thời của một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một hay nhiều nước tiên tiến Hai là điều kiện bên trong, tức

là liên minh công – nông Trong đó điều kiện bên trong là bắt buộc, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Giai cấp công nhân phải liên minh với ND, kéo ND ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản; giải phóng họ khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản; làm cho họ đứng về phía mình để cùng nhau chiến thắng bọn bóc lột Có như vậy mới giữ được chính quyền Lênin

đã luận chứng tính tất yếu của liên minh công - nông mà trước hết là liên minh về kinh tế, coi đó

là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga Ba là, ND cung

cấp sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo nhu cầu của xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần khôi phục và phát triển nền đại công nghiệp, tạo cơ sở vững chắc để giai cấp công nhân từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế mới cũng như các lĩnh vực khác của đời sống

xã hội

1.1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp nông dân

Theo Hồ Chí Minh, GCND là cộng đồng những người lao động, sản xuất nhỏ trong nông nghiệp gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp, đều có đặc điểm chung là người lao động - nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất và là người tư hữu nhỏ Từ những đặc điểm chung của GCND, Hồ Chí Minh đã

đứng trên lập trường mácxít để nhấn mạnh hơn tính cách mạng, tính tích cực của GCND Việt Nam

Đồng thời với việc nhấn mạnh tính cách mạng, tính tích cực của ND Việt Nam, Hồ Chí Minh không quan niệm sức mạnh chung chung của GCND mà thấy rõ sức mạnh đó khi đặt nó trong hệ thống tổ chức của cách mạng Hồ Chí Minh đánh giá rất cao GCND với tư cách là lực lượng cách mạng khi được tổ chức lại Đây là quan điểm thống nhất với những nguyên lý mácxít về vai trò của quần chúng trong cách mạng Vấn đề giải phóng dân tộc, theo Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng ND, vì

ND chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư, ND gắn bó với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc Các truyền thống dân tộc in dấu ấn đậm nét trong ND và cũng được bộc lộ qua ND như tinh thần yêu

Trang 10

nước nồng nàn, đức tính cần cù, chăm chỉ, đoàn kết hiệp tác trong lao động sản xuất…

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định GCND là một lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Lịch sử 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng góp to lớn của GCND Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề ND, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam

1.2 QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM

1.2.1 Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về CNH, HĐH nhưng có thể xem quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam là quan niệm chính thống về CNH, HĐH trong điều kiện hiện nay, vừa thể hiện được tính chất toàn diện của công nghiệp hóa, lại vừa thể hiện được tính hiện đại, rút

ngắn của quá trình CNH, HĐH Đó là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo

ra năng suất lao động xã hội cao” 5

1.2.2 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam

Trên cơ sở phân tích các khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn,

chúng tôi thống nhất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng nông thôn có kết

cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay một mặt

là hiện đại hóa phương cách sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất thích ứng với sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ Mặt khác, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp phải được hiện đại hóa Hiện đại hóa phương thức sản xuất nông nghiệp còn là chuyển nông nghiệp từ sản xuất cá thể phân tán, tách rời sang sản xuất mang tính xã hội quy mô lớn, có sự phân công và hiệp tác chặt chẽ

Trên cơ sở phân tích quá trình hình thành, mục tiêu, nội dung của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, tác giả kết luận qua các kỳ Đại hội và các Nghị

quyết của Đảng, tư duy lãnh đạo của Đảng đã thay đổi qua các thời kỳ: từ ưu tiên phát triển

công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ

(1960) đến tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng

đầu (1982); phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng

để ổn định tình hình kinh tế - xã hội (1991); CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết

đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và ND (2006) Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề ND, nông thôn

(2011)… Việc xác định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và ND trong quá trình

5 Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr

45

Trang 11

hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ đổi mới là thực tế khách quan Với tỷ lệ lớn cư dân nông thôn Việt Nam hiện nay, không có sự giàu có của ND thì không có sự giàu có của đất nước, không có hiện đại hóa nông thôn thì không có hiện đại hóa quốc gia

1.3 GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.3.1 Mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Nông nghiệp, ND và nông thôn là bộ phận quan trọng của nền kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, đảm bảo sự phát triển của đất nước trong suốt quá trình CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nông nghiệp, ND, nông thôn luôn gắn bó mật thiết với nhau trong đó ND vừa là đối tượng, vừa là chủ thể quan trọng nhất của quá trình phát triển Nông nghiệp tạo cơ sở đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia, thu nhập cao cho nông thôn, là thị trường lớn cho kinh tế cả nước; kinh tế nông thôn phát triển tạo ra việc làm và thu nhập cho phần lớn dân cư, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng để phát triển kinh tế; ND có việc làm và thu nhập là nền tảng để xóa đói giảm nghèo, công bằng và ổn định cho toàn xã hội Nông thôn cũng là nơi duy trì và phát triển môi trường sống, bảo tồn và phát triển môi trường văn hóa lành mạnh, trong sạch cho đất nước Mục tiêu của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của ND thông qua phát triển bền vững nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn có hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, xây dựng NTM văn minh, kinh tế phát triển, chính trị dân chủ, kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái cân bằng, bản sắc dân tộc phong phú… Ba yếu tố cấu thành chỉnh thể

“tam nông” có mối liên hệ chặt chẽ, hữu cơ, biện chứng đến mức không thể bàn được một yếu tố nào nếu tách rời những yếu tố còn lại Mối quan hệ không tách rời này không phải do ý muốn chủ quan tạo

ra mà xuất phát từ bản chất khách quan vốn có của mỗi yếu tố cấu thành chỉnh thể tam nông, là kết quả của sự vận động tất yếu các yếu tố cấu thành đó Người ND mặc dù là chủ thể trong mối quan hệ này thì họ cũng không thể tạo ra nó chỉ theo ý muốn hay lợi ích chủ quan của mình Ở đây họ thực hiện vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ ấy và đương nhiên họ cúng sẽ là người đầu tiên được hưởng thụ những thành quả do phát triển nông nghiệp, nông thôn đem lại Trên ý nghĩa đó, có thể nói, trong mối quan hệ biện chứng giữa nông nghiệp, ND, nông thôn thì ND vừa là động lực trực tiếp (vì mọi sự vận động phát triển của mối quan hệ này trước hết do người ND tiến hành theo yêu cầu khách quan của phát triển), vừa là mục tiêu của sự phát triển mối quan hệ đó Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (8/2008) về vấn đề “tam nông” đã khẳng định trong mối

quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, ND và nông thôn, ND là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng NTM gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt 6

1.3.2 Vai trò của GCND Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Là một lực lượng xã hội đông đảo, GCND Việt Nam cùng với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa là những lực lượng cơ bản của cách mạng ND, GCND, như Nghị quyết Trung ương 7 khóa X của Đảng xác định, là chủ thể của quá trình phát triển Vai trò đó đã từng được thể hiện trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc trước đây, trong các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của tổ quốc, vì độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay, vai trò chủ

thể của GCND Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thể hiện:

Thứ nhất, GCND Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc biến những Chủ trương, Nghị

quyết của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống

Trang 12

Thứ hai, GCND Việt Nam có kinh nghiệm phong phú trong khai thác, sử dụng tiềm năng

đất đai, tài nguyên biển, rừng… một cách hợp lý, hữu ích, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Thứ ba, GCND Việt Nam trực tiếp tiếp thu, ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật

và công nghệ vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và xây dựng NTM

Thứ tư, GCND Việt Nam là chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng đời sống văn hóa -

xã hội ở nông thôn

Thứ năm, GCND Việt Nam là lực lượng cơ bản góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống

chính trị cơ sở vững mạnh, đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn

Kết luận Chương 1

GCND là một giai cấp hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người Trong lịch sử đã có nhiều tư tưởng, quan điểm khác nhau bàn về GCND nhưng lý luận về GCND chỉ mang tính cách mạng và khoa học từ những năm 40 của thế kỷ XIX, khi học thuyết Mác ra đời và được bổ sung, phát triển bằng

sự đóng góp của Lênin Nếu như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy vai trò quan trọng của GCND trong cách mạng vô sản, chỉ ra khả năng kết hợp giai cấp vô sản với ND là điều kiện để giành chính quyền thì cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã trực tiếp lãnh đạo việc thực hiện liên minh công- nông trong hiện thực Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chiến lược, sách lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh việc phát huy vai trò của GCND trên cơ sở phát triển nông nghiệp, nông thôn, xem đây là vấn đề trọng tâm trong suốt thời kỳ xây dựng xã hội mới

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với nhận thức sâu sắc về đặc điểm của nước ta đi lên CNXH từ một nền nông nghiệp lạc hậu, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, ND, nông thôn Sự đột phá đầu tiên về chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới cũng được khởi đầu từ lĩnh vực nông nghiệp, ND, nông thôn Tiếp sau đó, nhiều Nghị quyết của Đảng đã bàn tới vấn đề này, tiêu biểu là Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về vấn đề “tam nông”, trong đó khẳng định vai trò chủ thể của GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và xây dựng NTM ở Việt Nam Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam phải tập trung vào các nội dung cơ bản là phát triển

nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp

nhiệt đới Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng

hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát

huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu

đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm Không ngừng xây dựng, phát huy vai trò của GCND, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn

Ngày đăng: 16/06/2017, 03:34

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w