Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp với những máy móc tinh xảo về giao thông vận tải và kĩ thuật quân sự đã hỗ trợ rất nhiều cho tư bản phương Tây thực hiện các cuộc chiến tranh xâm
Trang 1Từ 1858 đến 1918
Trang 3Mã số: 01.01.409/1185 - ĐH 2010
Trang 4MỤC LỤC■ ■
Trang
Chương 1
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU c u ộ c XÁM LƯỢC
CỦA LIÊN QUÂN PHÁP - TAY BAN NHA (1858 - 1867)
I Nước Việt Nam giữa thế kỉ XIX trước cuộc
xâm lược của tư bản P háp 7
1 Bối cảnh quốc t ế 7
2 Tình hình trong nước 10
II Liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Việt N a m 11
1 Tư bản Pháp và Tây Ban Nha tìm cớ can thiệp vào Việt Nam 22
2 Mặt trận Đà Nang và những cuộc chiến đấu chống Pháp đầu tiên của quân dân Việt Nam (9/1858-2/1959) 25
3 Về một số trận đánh tiêu biểu trên chiến trường Đà Nang 1858 -1859 30
4 Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì Nhân dân Nam Kì chống xâm lược Hiệp ước 1862 37
2 Về phong trào nông dân khỏi nghĩa dưới thời N guyễn 63
3 Vai trò của các giáo sĩ trong cuộc xâm lược Việt Nam của P háp 63
IV Thực dân Pháp chiêm ba tỉnh miền Tây Nam Kì Nhân dân Việt Nam tiếp tục kháng chiến chống xâm lược 64
1 Tình hình Việt Nam từ sau Hiệp ước 1862 đến năm 1867 64
2 Phong trào phản đối Hiệp ước Nhâm Tuất Khởi nghĩa chống Pháp tiếp tục ở các tỉnh Nam K ì ễ' 69
3 Cuộc đấu tranh yêu nước trên mặt trận văn hoá tư tưởng 73
4 Ba tỉnh miền Tây Nam Kì bị giặc chiếm 76
5 Nhân dân ba tỉnh miền Tây tiếp tục kháng chiến 79
Câu h ỏ i 86
3
Trang 5Chương 2 VIỆT NAM TỪ 1867 ĐẾN 1874
1 Tình hình nước Việt Nam từ sau khi Pháp chiêm đóng Nam Kỉ
đến khi chúng đem quân ra Bắc Kì lần thứ nhât 93
1ể Tình hình nhà nước phong kiến N guyễn 93
2 Chính sách thống trị của thực dân Pháp tại Nam Kì trong những năm đầu thời kì thuộc địa 105
Ị|ễ Thực dân pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ nhât Hiẹp ước Giáp Tuất 1874 117
1 Vấn đề sông Hồng trong âm mưu của Pháp 3 Cuộc kháng chiến của nhân dân Bắc Kì Trận cầu Giấy lần 1(21/12/1873) Hiệp uớcGiáp Tuất 15/3/1874 122
Câu hỏi 129
Chương 3 VIỆT NAM TỪ 1874 ĐẾN 1884 I Tình hình Việt Nam sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874 130
1 Nội trị, ngoại g ia o 130
2 Trào lưu đòi cải cá ch 134
3 Những chuyển biến kinh tế, xã hội, văn hoá ở Trung Kì và Bắc Kì trong những năm 1874/1884 135
II Thực dân Pháp xâm lược Bắc Kì lần 2 Sự sụp đổ của nhà nưóc phong kiến N guyễn 139
1 Tư bản tài chính hình thành ả Pháp và cuộc vận động xâm lược toàn bộ Việt Nam 139
2 Quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ h a i 142
3 Cụcdiện chiến trường Bắc Kì sau khi Pháp chiếm Hà Nội lần thứ hai 145
4 Trận cầu Giấy lần thứ hai (19/5/1883) H Rivie tử trậ n 149
5 Quân Pháp tấn công thẳng vào Thuận An Hoà ước Quý Mùi 1883 151
6 Phong trào phản đối Hoà ước Quý Mùi Nội bộ triều đình Huế lục đục 156
7 Quân Pháp tiếp tục mở rộng chiếm đóng các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Kì 158
8 Quy ước Thiên Tân 11/5/1884 và Hiệp ước Patơnốt 6/6/1884 161
Câu hỏi 165
Trang 6Chương 4
VIỆT NAM TỪ 1885 ĐẾN c u ố i THẾ KỈ XIX
I Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống chính sách
bình định của thực dân P h á p 166
1 Tình hình Việt Nam sau các hiệp ước 1883 và 1884 166
2 Cuộc phản công của phe chủ chiến tại Kinh thành Huế -vua Hàm Nghi rời bỏ Kinh thành, kêu gọi cần Vương 172
3 Bước đầu chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt N a m 184
II Phong trào vũ trang chống Pháp tiếp tục phát triển và lan rộng trong những năm cuối thê kỉ X IX 198
1 Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi và tình hình ứng nghĩa trong cả nước 198 2 Cuộc đấu tranh tự vệ của nông dân và các dân tộc thiểu số ở miền núi chống P h á p 261
III Những biên đổi về kinh tê - xã hội Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ X IX 277
1 Những thay đổi về chính trị 278
2 Về việc hoạch định biên giới Việt - Trung cuối thế kỉ X IX 281
3 Những thay đổi trong cơ cấu kinh t ế 283
4 Những chuyển biến mới về văn hoá, giáo dục 288
5 Bộ mặt thành thị đổi mới 289
6 Tình hình các giai cấp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ X IX 291
Câu hỏi 295
Chương 5 VIỆT NAM TỪ 1897 ĐẾN 1914 1 Ách thống trị của thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỉ X X 296
1ễ Chính trị thâm đ ộ c 297
2 Khai thác bóc lột về kinh t ế 300
3 Tăng cường bộ máy quân sự, cảnh sát tòa án và nhà t ù 305
4 Nô dịch về văn h ó a 306
5 Những biến chuyển về xã h ộ i 308
Trang 7Ilằ Ảnh hưởng, tác động của tân thư, tân văn
và các trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài vào Việt Nam 313
1 Ảnh hưởng từ Trung Q uốc 313
2 Ảnh hưởng từ Nhật B ản 314
3 Ảnh hưởng của tân thư, tân văn, tân báo 415
III Phong trào yêu nước và cách mạng đầu thê kỉ XX 316 1 Phan Bội Châu và xu hướng bạo động 316
2 Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách 321
3 Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1 9 0 7 ) 323
4 Phong trào Duy tân và Phong trào chống thuế ở Trung Kì (1906-1908) 324 5 Phong trào nông dân Yên Thế trong những năm đầu thế kỉ XX 325
6 Vụ Đầu độc binh lính Pháp ở Hà nội (27/6/1908) 329
7 Các cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc ít người 330
8 Việt Nam Quang phục hội (1912) > 331
Câu hỏi 333
Chương 6 VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THỂ GIỚI THỨ NHẤT (1914-1918) |ẽ Chính sách cai trị thời chiến của thực dân Pháp và tình hình kinh tê - xã hội Việt Nam trong thời kì chiến tranh 334
II Phong trào dân tộc ở Việt Nam trong những năm Chiến tranh th ế giới thứ nhâ't 337
1 Các cuộc bạo động của một số hội viên Việt Nam Quang phục hội 337 2 Vụ mưu khởi nghĩa ở H uế 338
3 Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (8/1917) 339
4 Những cuộc bạo động chống Pháp của đồng bào dân tộc thiểu số 342
5 Hoạt động của các hội kín Nam K ì 345
6 Phong trào công nhân Việt Nam đầu thê' kỉ X X 350
Câu hỏi 351
Kết luận 352
Tài liệu tham khảo 356
Trang 8ChươNq 1 VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CUỘC XÂM LƯỢC CỦA LIÊN ỌUÂN PHÁP * TÂY BAN NHA (1898 -1867)
NỘI DUNG CHƯƠNG
- Âm mưu xâm lược V iệt Nam của tư bản phương Tây và Pháp.
- Tinh hình nước Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp
- Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam từ 1858 đến 1873ề
I NƯỚC VIỆT NAM GIỮA THẾ KỈ XIX TRƯỚC c u ộ c XÂM LƯỢC
CỦA TƯ BẢN PHÁP
1 Bôi cảnh quốc tê
Từ đầu thế kỉ XV, phương thức sản xuất tư bản xuất hiện ở phương Tây và ngày càng phát triển mau chóng
Đến thế kỉ XVIII-XIX, nhiều quốc gia Âu Mĩ như Hà Lan, Anh, Mĩ, Pháp, Đức, Ý.ễ đã tiến hành cách mạng tư sản thành công Cách mạng tư sản Pháp
1789 - 1794 lật đổ chế độ phong kiến và dọn đường không chỉ cho chủ nghĩa tư bản ở Pháp mà còn cho cả một số nước khác ở châu Âu Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chiếm địa vị ưu thế và thắng lợi tại nhiều quốc gia trên thế giới
Sự ra đời và xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa đã đặt ra nhu cầu cấp bách về thị trường và nguồn nguyên liệu cho sản xuất
Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp với những máy móc tinh xảo
về giao thông vận tải và kĩ thuật quân sự đã hỗ trợ rất nhiều cho tư bản phương Tây thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa
Trang 9Tại Anh, từ cuối thê kỉ XVIII đã có máy tự động Đến giữa thế ki XIX, việc sản xuất bằng máy đã hoàn toàn thay thế lao động bằng tay Năm 1800, Anh mới chỉ sản xuất 193.000 tấn gang, đến năm 1840 đã sản xuất được 1.400.000 tấn.Năm 1830 - Anh bắt đầu làm đường xe lửa đầu tiên và nhanh chóng phát triển kĩ nghệ đường sắt Từ 1839 đến 1842 - Anh đã xâm lược Trung Quốc Chạy đua với Anh, Pháp mang quân sang phương Đông.
Trong khi kĩ thuật phương Tây có bước phát triển mau lẹ như vậy thì phần lớn các nước phương Đông, tiêu biểu như Trung Quốc, Ân Độ, Nhật Bản vẫn nằm trong trạng thái lạc hậu Nền kinh tế các nước này tuy đã có tiến bộ, nhưng cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên Thành thị chưa phải là những trung tâm kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội và cũng không có mối quan hệ chặt chẽ với nông thôn như các thành thị trung đại Tây Âu Nhà nước phong kiến đã suy yếu và trở thành lực lượng bảo thủ, phản động
Sự yếu kém về kinh tế và kĩ thuật chính là một thách thức lớn đối với các quốc gia phong kiến phương Đông lúc bấy giờ
Ngay từ năm 1850, ở các nước châu Âu người ta đã chế tạo được các cỗ súng đại bác bắn nhanh, nòng có rãnh xoắn, đúc bằng thép và nạp đạn đằng sau Súng tay bắn bằng đá lửa được thay thế bằng súng có pit tông và quy lát kiểu bécđăng Những chất nổ mạnh như đi namít, nitrôgrixêrin, thuốc không khói đã được chế tạo Chiến thuyền bằng gỗ, chạy nhờ sức gió, đã được thay bằng tàu máy có chân vịt, vỏ sắt được trang bị súng đại bác và thuỷ lôi
Trong khi các quốc gia tư bản chủ nghĩa như Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Anh, Pháp đang nhòm ngó và tìm cách đứng chân ở các thương điếm hoặc căn cứ quân sự của chúng ở phương Đông thì trong nội bộ các nhà nước phong kiến phương Đông đang diễn ra một quá trình khủng hoảng trầm trọng
Quan hệ sản xuất phong kiến và sự bóc lột nặng nề của giai cấp địa chù đã làm bùng nổ hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân, làm lung lay giai cấp thống trị và dẫn chế độ phong kiến tới chỗ tan rã, sụp đổ Tại nhiều quốc gia phương Đông, do nhà nước trung ương tập quyền suy yếu nên tình trạng cát cứ trở thành phổ biến, phá vỡ sự thống nhất quốc gia, gây cản trở cho sự hình thành thị trường dân tộc
Lợi dụng tình trạng trên, các nước tư bản phương Tây lần lượt chiếm các nước phương Đông và biến thành thuộc địa
Ẩn Độ sau thời kì hùng mạnh dưới vương triều Môgôn vĩ đại (cuối thế kỉ XVI) đã bị các nước phươns Tây xâu xé Cuối cùng thực dân Anh dựa vào các
Trang 10chúa phong kiến và các thân vương đã nhanh chóng xâm chiêm toàn bộ An Độ Năm 1857, Anh xây dựng gần 7000km đường sắt ở Ân Độ nhằm tãng cường khai thác nguyên liệu và tiêu thụ hàng hoá Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Xi Pay ở quanh vùng Đê Li, Anh tiến về phía Miến Điện, Mã Lai Sau khi đã làm chủ ú c , Tác Mania, Tân Tây Lan, tiêu diệt gần như hoàn toàn dân bản xứ và đưa dân Anh đến khai khẩn Nam Dương quần đảo (Inđônêxia) - mặc dầu đã anh dũng đứng lên chống lại sự xâm lăng của tư bản phương Tây thế kỉ XVIII, cuối cùng vẫn bị thực dân Hà Lan đô hộ.
Trung Quốc - một quốc gia phong kiến tiêu biểu ở phương Đông cũng bị các nước phương Tây nhòm ngó Năm 1816, người Anh đem sang bán ở Trung Quốc 3290 thùng thuốc phiện (của Ấn Độ và Ba Tư) Năm 1830, con số
đó tăng lên 18.750 thùng và 1836 - 27000 thùng Chính phủ Mãn Thanh ra lệnh cấm nhưng không được, bèn tịch thu và tiêu huỷ số thuốc phiện nói trên Người Anh đòi bồi thường và đòi tự do buô bán thuốc phiện Chiến tranh Nha phiến Trung - Anh bùng nổ Năm 1840, Anh chiếm Thượng Hải, Nam Kinh Nhà Thanh
ở vào thế yếu đã phải mở 5 hải cảng cho nước ngoài tới buôn bán
Các nước Âu - Mĩ nhìn thấy ở Trung Quốc một thị trường béo bở, cũng bắt chước Anh và năm 1844, chúng đã dùng vũ lực buộc Trung Quốc kí kết nhũng hoà ước bất bình đẳng
Từ năm 1856 đến 1858 - Liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Quốc, bắt triều đinh Mãn Thanh kí hiệp ước nhượng bộ rồi hợp sức với triều đình tiêu diệt phong trào nông dân Thái Bình Thiên quốc, có cả quân Mĩ tham gia Cuối cùng Trung Quốc phải cam chịu thân phận của nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến
Sau chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc, đến lượt nước Nhật bị gõ cửa Lúc này mầm mống tư bản chủ nghĩa đã nảy nở ở các tỉnh miền Nam của đất nước Mặt trời Năm 1853, tàu chiến Mĩ đến đòi Nhật mở cửa thông thương, sau
đó là tàu chiến Nga Nhật không có hải quân, không có pháo binh đã phải kí hiệp ước thương mại với Mĩ, Anh, Nga và nhiều nước khác Từ 1858 trở đi, Nhật đã trở thành một thương trường của hầu hết các nước phương Tây
Như vậy là cho đến giữa thế kỉ XIX, nước Việt Nam phong kiến tuy vẫn giữ được nền độc lập của mình nhưng khó có thể tránh khỏi sự nhòm ngó và khiêu khích xâm lược, trong khi đó thì nhiều nước xung quanh đã rơi vào nanh vuốt của chủ nghĩa tư bản phương Tây
Trang 112 Tình hình trong nước
Về chính trị:
Kể từ năm 1802 đến năm 1858, triều Nguyễn đã có hơn 50 năm xây dụng
và củng cố Đó là một đất nước độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền; có một nền kinh tế và tổ chức xã hội, một thế lực khá mạnh mẽ, không thua kém bất kì quốc gia nào trong khu vực Đông Nam châu Á
Tuy vậy, chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã và đang ớ vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện ở nước ta Từ cuối thế kỉ XVIII, ngày càng mâu thuẫn với quan hệ kinh tế phong kiến bao đời thống trị xã hội, nay trở thành rào cản của sự tiến hoá
Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển nhưng bị chế độ chiếm hữu
và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng Nhiểu cuộc khởi nghĩa nông dân
nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đang lên và quan hệ sản xuất đã tỏ ra lỗi thời cần phải được thay thế
Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp và dòng họ, ngay sau khi lên ngói, các vua triều Nguyễn, từ Gia Long đến Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã tìm mọi cách phục hồi và củng cố quan hệ sản xuất cũ, bóp chết các lực lượng sản xuất mới vừa manh nha xuất hiện
Về mặt chính trị, Nhà Nguyễn cho xây dựng một bộ máy chính quyền quan liêu, độc đoán và sâu mọt
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những dòng họ lập vương triều mới sau khi lãnh đạo nhân dân đạp đổ ách thống trị của ngoại bang hoặc thay thế những vương triều đã thoái hoá Nhưng triều Nguyễn được dựng lên là nhờ kết quả của một cuộc chiến tranh do những thế lực phong kiến suy đồi tiến hành, được thế lực quân sự nước ngoài giúp sức, phản kích lại phong trào Tây Son, một phong trào đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân và dân tộcử
Sau khi tái lập, Nhà Nguyễn cho thiết lập một c h ế độ thống trị bằng một
thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế, công khai chống lại các lực lượng xã hội
và các phe cánh khồng cùng chính kiến
Nhà Nguyễn thiết lập nền cai trị bằng những hình phạt khắc nghiệt, dã man nhất thời trung cổ Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua Vua
tự xưng là Thiên tử - "Con trời", thay trời trị dân Quyền hành của nhà vua
được coi là thần khí thiêng liêng, vô biên, vô hạn Đối với bất cứ ai, vua để sống thì được sống, bắt chết thi phải chết Quan đại thần Trần Hi Tăng đã từng bị bắt uống thuốc độc chết vì phản đối hiệp ước 1862 Từ nãm 1859-
Trang 121884, hàng trăm quan văn, võ bị khép vào tử tội vì để thất trận, cho dù có lí do chính đáng.
Dưới vua có Cơ mật viện, 6 bộ và 5 phủ đô thống01 Ngoài ra còn có các danh hiệu tứ trụ, tam công, tam thiếu, một số ít cận thần được dự bàn quốc
sự lớn lao, nhưng ý kiến cuối cùng, quyết định vẫn phải là ý kiến của nhà vua.Giai cấp địa chủ và hệ thống quan lại phong kiến là rường cột của chế độ chuyên chế
Bộ luật Gia Long được soạn thảo và áp dụng nhằm duy trì trật tự phong kiến Theo luật này, chẳng những vua quan có quyền bắt giết những người
"phản nghịch" mà còn có quyền bắt giết cả những người có ý làm nghịch mà chưa làm gì, thậm chí chỉ là một bài thơ, một lời, một câu có ngụ ý phạm
thượng.
Các hàng quan đầu tỉnh, đầu phủ, huyện đều do triều đình bổ nhiệm Tất cả đều do thi cử mà ra, trong đó cố nhiên là đám "con ông cháu cha" là những người dễ đỗ đạt nhất Ở vùng thượng du, triều đình không thể cai trị trực tiếp thì thông qua các tù trưởng để nối quyền Dưới các thôn xã, quyền bính nằm trong tay bộ phận phú hào cả về kinh tế, chính trị, giáo dục Vận mạng của dân làng phụ thuộc vào các tổng lí, kì dịch, quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ
Vê kinh t ế tài chính:
Chế độ sở hữu ruộng đất công đến thời Nguyễn đần dần bị thu hẹp Sở hữu ruộng đất tư nhân, nhất là các giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng phát triển, lấn át ruộng công của thôn xã và của Nhà nước Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nông thôn diễn ra ngày càng sâu sắc Mọi nhu cầu về vật chất của nhà nước đều phải thông qua chính sách bóp nặn nhân dân, nhất là nông dân và thợ thủ công - bọn hào lí địa phương vì thế càng có cơ hội lộng hành
(l) Viện Cơ mật do Minh Mạng lập ra năm 1834, là cơ quan cấp cao nhất giúp vua giải quyết các công việc hệ trọng của đất nước.
- 6 bộ (Binh, H ộ, Hình, Lại, Lễ, Công).
- 5 phủ đô thống lãnh đạo 5 quân là Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do 5 viên quan cao cấp (đô ửiống) đứng đầu.
- Tứ trụ: Người đứng đầu điện Cần Chánh, điện Văn M inh, điện Võ Hiển và Đông Các đại học sĩ.
- Tam công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
- Tam thiếu: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo.
Trang 13Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, vào năm 1840, tại tỉnh Gia Định "không
có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy" Cũng theo sử cũ, vào năm 1852, trong 31 tỉnh thì
có hai tỉnh là Thừa Thiên và Quảng Trị có sô ruộng công nhiều hơn ruộng tư; một tỉnh là Quảng Bình ruộng công và ruộng tư bằng nhau, còn 28 tỉnh khác ruộng tư nhiều hơn ruộng công Ở Bình Định, ruộng tư càng nhiều hơn'11
Do không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như các triều đại trước nữa, cũng như cần phải có nhiều tiền để chi dùng cho các hoạt động của Nhà nước, nhất là các hoạt động về quân sự, nên ngay từ thời Gia Long đã đặt
ra các ngạch thuế mới, quy định sổ điền mỗi nãm một lần tiểu tu, 5 năm một lần đại tu, sổ đinh 5 năm một lần duyệt lại Đến thời Nguyễn, thuế khoá rất nặng nề, trong đó thúế ruộng công nặng hơn thuế ruộng tư, tức là đánh nặng hơn vào người dân nghèo không ruộng Dưới đây là bảng so sánh về số thuế thu qua một số năm
Năm Tiền (quan) Thóc (hội) Vàng (lạng) Bạc (lạng)
và Thượng, Hoài Đức, Thái Nguyên, Hưng Hoá, dân cư của 370 thôn phải xiêu tán Năm 1826, tại 13 huyện thuộc trấn Hải Dương dân xiêu tán mất 108 xã thôn, ruộng bỏ hoang hơn 12.700 mẫu Đói kém thường xuyên xảy ra Đó là chưa kể các nạn ôn dịch, vỡ đê, hạn hán Thời Tự Đức, đê Văn Giang ở Hưng Yên vỡ 18 năm liền, biến cả vùng đồng bằng phì nhiêu ở Khoái Châu t h à n h b ã i
(l) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại N am Thực lục (Chính bộ) tập 21, đệ nhị kí Q.200
NXB Khoa học xã hội 1969 Tr 158.
,2) J.Chaigneau: "Dẫn trong Contribution à l’histoire dela nation V ietnam ienne (Góp phần tìm hiểu lịch sử dân tộc Việt Nam) El Scocialas, Paris 1955 P.85.
Trang 14đất hoang Dân cư kéo hàng đoàn đi các nơi xin ăn Năm 1859, một trận đói ghê gớm cướp đi sinh mạng của 60 vạn nhân dân các tỉnh Trung Kì và Băc Kì.
Để giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, Nhà Nguyễn đã chú ý đến việc khai hoang Từ năm 1802 đến 1855, triều đình ban hành 25 quyết định
về khẩn hoang, trong đó có 10 quyết định ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành, 1 ở vùng Kinh kì và 6 đối với toàn quốc(l) Hình thức khai hoang chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán khai hoang lập ấp, xã Chế độ đồn điền phát triển mạnh ở Lục tỉnh, Nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày khai hoang hoặc Nhà nước giao cho tư nhân chiêu mộ dân lập đồn điền, dân đồn điền được tổ chức thành cơ ngũ
Năm 1828, chế độ doanh điền được ban hành, theo đó Nhà nước đứng ra quy hoạch và góp vốn ban đầu, còn nhân dân thì hợp nhau góp công, góp sức khai hoang lập làng, mở rộng diện tích canh tác Một số huyện ven biển Bắc Kì
đã ra đời theo phương thức này Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và mấy tổng ở Nam Định
Nguyễn Văn Thoại đào kênh Núi Sập Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và khẩn hoang vùng Châu Đốc (An Giang)
Trương Minh Giảng lập được 25 thôn vùng biên giới Việt Nam - Campuchia; Nguyễn Tri Phương lập được 21 cơ đồn điền và tổ chức 24 ấp ở Lục tỉnh Diện tích canh tác tăng nhanh: năm 1820 tổng cộng có 3.076.300 mẫu, đến năm
1840 có 4.063.892 mẫu, năm 1847 tăng lên 4.278.013 mẫu
Công việc khai khẩn đất hoang tuy đạt được một số thành tựu, nhưng rồi thành quả khai hoang hoặc trước, hoặc sau lại rơi vào tay giai cấp địa chủ
phong kiến Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết:
"Số nhà giàu có vùng có 40, 50 nhà, có vùng 20, 30 nhà, mỗi nhà có 50, 60 điền
tốt, trâu bò có tới 200 con".
Theo Đại Nam thực lục vào năm 1831, tại tỉnh Bình Định "Nhà hào phú
kiêm tính đến 1-2 trăm mẫu mà người nghèo không một thước đất" Còn về ruộrvg công thì "ruộng tốt màu cường hào chiếm cả, có thừa ra thì hương lí lại bao chiếm, dân chỉ được phần đất rắn, xác màu"(2)
Thực trạng trên khiến cho lực lượng sản xuất bị hao mòn, kinh tế nông nghiệp trở nên sa sút tiêu điều Người nông dân không thiết tha với sản xuất,
(1) Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chê độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu th ế k ỉ XIX NXB KHXH,
Hà Nội, 1979 Tr 126.
(2) Sử quán triều Nguyễn, Đại nam thực lục (chính biên), Tập XXI đệ nhị kí, quyển 20
NXB KHXH, Hà Nội 1969, Tr 58.
Trang 15canh tác Cơ sở kinh tê phong kiến tự cung, tự cấp lại được phục hổi và
củng cố.
Để vượt qua đói nghèo, những người nông dân Việt Nam đã dũng cảm kiên trì chống chọi với thiên nhiên Họ tổ chức đắp đê phòng lụt, đào mương chống hạn "vắt đất ra nước thay trời làm mưa" và tự tổng kết kinh nghiệm sản xuất để truyền lại cho đời sau Nhân dân các địa phương ra sức phát triển kinh tẽ gia đình, làm thêm nghề phụ, trổng thêm nhiều loại cây lương thực mới Vì vậy cho đến giữa thế kỉ XIX, nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam đã khá đa dạng Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã khá phong phú Tuy vậy, do nhiều yếu tố tác động, nông nghiệp nước ta vẫn không thể nào vượt ra khỏi phương thức canh tác cổ truyền, với những công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu, năng xuất thấp Nghèo đói vẫn luôn luôn rình rập và đe doạ cuộc sống của người nông dân Tinh trạng nông nghiệp
- một ngành sản xuất dược Nhà nước coi trọng hơn cả đã như vậy, thì công thương nghiệp lại càng bi đát hơn Sự bế tắc của công thương nghiệp trước hết biểu hiện ở sự mai một của các ngành nghề, vốn đã xuất hiện và thịnh đạt ờ các thế kỉ trước như các nghề thủ công truyền thống, nghề đóng tàu thuyền, nghề khai mỏ Nhà nước phong kiến giữ độc quyền về khai mỏ Hổi đầu thế kỉ XIX,
ở nước ta có chừng 139 mỏ đủ loại Ngoài các mỏ do triều đình trực tiếp chỉ đạo khai thác, có một số mỏ do các chủ tư nhân người Việt hoặc người Hoa chủ trì Việc sản xuất trong các mỏ này hết sức lạc hậu, với các hình thức bóc lột mang nặng tính nô dịch Các mỏ do tư nhân người Việt hoặc người Hoa đứng
ra lĩnh trưng phải chịu mức thuế sản vật rất nặng nề Hoạt động của ngành khai
mỏ lại chỉ giới hạn trong khuôn khổ cung cấp nguyên liệu cho các xưởng thủ công, cho nên không thể phát triển được Công nghiệp vì vậy cũng không có đủ điều kiện để trở thành một ngành kinh doanh độc lập mà lại có xu hướng hoà tan vào nền kinh tế tự cung tự cấp của xã hội phong kiến lạc hậu
Các nghề thủ công dân gian bị hạn chế: do thiếu nguyên liệu, do sức tiêu thụ kém, do tục giấu nghề và còn do vô sô' các quy định hà khắc, quái đản khác của triều đình như việc quy định màu vải, chất vải được dùng cho từng hạng dân, kiểu cách và kích thước nhà cửa cho các hạng dân được làm Việc cấm dân họp chợ và hạn chế việc chuyên chờ lúa gạo, sắt, thép, diêm tiê u đã làm cho giao lưu hàng hoá trong nước gặp khó khăn, thị trường thiếu tập truns và thống nhất
Nền kinh tế hàng hoá bị thu hẹp Các ngành kinh doanh lớn đều do triều đình trực tiếp quản lí Các địa điểm thương mại được mở mang trước đây bị thủ tiêu Các công xưởng quan trọng như đúc súng, đúc tiền, chế tạo đồ ngự dụng,
Trang 16các công trình xây cất cung điện, dinh thự, thành quách, lăng tẩm đều do bộ Công phụ trách Chế độ làm việc trong các công^xưởng, công trường này đêu theo chế độ công tượng cũ kĩ, mang nặng tính chất cưỡng bức lao động Thợ giỏi ở các địa phương bị bắt đưa về Kinh thành rồi phiên chế thành cơ ngũ làm việc dưới sự kiểm soát của các quan lại triều đình.
Những chính sách này đã giáng một đòn nặng nề vào nội thương Việt Nam, khiến người lao động chịu thiệt thòi về phương diện mưu sinh, đồng thời cũng kìm hãm luôn cả ngành sản xuất nông nghiệp - xương sống của nền kinh tế nước ta thời đó
Cũng bởi do các chính sách nói trên nên ở Việt Nam thời kì này, cho dù đã xuất hiện chế độ phường hội khá chặt chẽ theo kiểu phương Tây, nhưng các mối quan hệ chủ - thợ, thợ cả - thợ bạn, và nhiều lí do khác chi phối, đã khiến cho tài năng của những người thợ Việt Nam bị bóp nghẹt Nghề phụ trong các gia đình ở thôn quê cũng bị đình đốn Thủ công nghiệp hầu như bị tê liệt
Về ngoại thương:
Chính sách "bế quan toả cảng", đóng cửa khoá nước đã hạn chế quan hệ buôn bán với nước ngoài Ngoài việc cử sứ thần và tàu bè sang các nước xung quanh như Hồng Công, Thượng Hải, Philíppin, Indônêxia, M alaixia vừa để thu thập tin tức, vừa kết hợp mua bán, trao đổi một vài vật dụng thiết yếu, còn việc nghiên cứu, xúc tiến thương mại với nước ngoài hầu như bị cấm tiệt
Chủ trương "bế quan toả cảng", chối từ quan hệ buôn bán với bên ngoài, nhất là các nước phương Tây đã khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước
Cơ hội mở rộng giao lun với các quốc gia Anh, Mĩ vì thế đã không được tận dụng Ngay từ thời Gia Long, tàu buôn nước ngoài đã bị hạn chế ra vào các cửa biển Việt Nam, trừ tàu của Pháp được phép qua lại còn tàu thuyền các nước khác đã gần như vắng bóng trong các cửa bể vốn rất sầm uất trước đây như VâR Đồn, Ba Lạt, Đà Nẵng, Thanh Hà, Hội An, Ngoại thương của Nhà nước chỉ được mở hạn chế trong các nước khu vực Đông Á hoặc Đông Nam Á như Trung Quốc, Philíppin, Thái Lan, Xinhgapo, Indônêxia, Boócnêô
Hàng nhập khẩu chỉ được đưa vào những thứ Triều đình cần dùng như sắt, chì, gang, lưu hoàng để làm súng đạn Hàng xuất khẩu thì cấm người ngoại quốc mua: tơ, lụa, gạo, thóc khiến cho thương mại ngày một suy sụp Số lượng các sở thuế quan giảm đi rất nhiều, từ 60 sở đến năm 1851, chỉ còn 21 sở
Kết quả là cả công nghiệp, thương nghiệp đều bị đình đốn, hàng hoá khan hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng, sức mua bị hạn chế
Trang 17Nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến chuyên chê đã không còn khả năng mở mang kinh tế và phát huy tiềm lực của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước.
Quân sự quốc phòng
Là một quốc gia phong kiến được xếp vào hàng tương đối mạnh ở khu vực Đông Nam Á, sau khi tái lập năm 1802, Nhà Nguyễn đã chú ý ngay tới việc xây dựng và phát triển lực lượng quân đội, gồm cả bộ binh, kị binh, tượng binh, pháo binh
Binh lực toàn quốc gồm 3 hạng: thân binh (hộ vệ nhà vua); cấm binh (bảo
vệ hoàng thành) và tinh binh (phòng thủ Kinh đô và các tỉnh)
Từ thời Minh Mạng, đặt ra lệ luân lun, gọi là biền binh ban lệ, hai ban ở nhà, một ban phục dịch thay đổi nhau Đa sô' binh lính tập trung ờ Kinh đỏ và các tỉnh xung quanh, mỗi tỉnh có từ 500 đến 2 nghìn lính
Thời Thiệu Trị và Tự Đức, việc binh vẫn được chú ý Các sách võ kinh được
in ấn, Khoa thi võ được mở, binh lính được tuvển thêm Ngoài ra còn đặt các ngạch hương dũng, dân dũng, thổ dũng ờ các tỉnh, huyện, xã Song một khi lòng dân đã li tán, xa rời, chống lại triều đình thì dù quân có đỏng vẫn không phải là mạnh Vả lại, trong điều kiện tài chính khô kiệt, kĩ thuật lạc hậu, đến giữa thế kỉ XIX mà vẫn huấn luyện quân đội theo trận đồ bát quái, ngũ hành, long thao, hổ lược vũ khí chù yếu là gươm giáo, súng điểu thương; súng lớn tuy có nhiều nhưng, chỉ bố trí ở các thành quách, súng đúc bằng đồng, lòng láng (không rãnh) nạp tiền, bắn ít khi trúng đích, ít khi nổ, khó cơ động Binh lính bị ngược đãi, vũ trang kém, lương ăn, áo mặc thiếu thốn Chế độ thường phạt thiếu công minh Trong lúc binh lực suy tàn, tài chính kiệt quệ, lòng dân oán trách, thì triều đình, từ vua đến quan đều hết sức bảo thủ, không chịu duy tân, cố ôm nếp cũ, cho nên sức lực của quân đội triều đình tuy còn đủ để ra oai với các nước láng giềng và đàn áp nhân dân nhưng đã không còn đủ khả nãng
để đương đầu với tư bản phương Tây
Hậu quả là vào năm Tự Đức nguyên niên (1847) đình thần là Trương Quốc
Dụng đã tâu: "Tài lực của dân nay không bằng sáu phần mười năm trước" Còn năm 1859, khi quân Pháp vừa nổ súng đánh Đà Nẵng mà Nguyễn Tri Phương
đã kết luận: "quân và dân của đã hết, sức đã yếu"
Vé xã hội:
Chế độ chuyên chế của nhà Nguyễn dựa trên nền tảng xã hội là giai cấp địa chủ, quan lại cường hào, bị nhân dân rất cãm ghét Trong xã hội thời Nguyễn
Trang 18cũng như các triều đại trước có hai giai cấp cơ bản là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Giai cấp thống trị gồm vua quan, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ Họ có dinh thự, ruộng vườn, sông suối, được pháp luật nhà nước bảo vệ Các quan lại xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng do địa
vị của mình, đã trở nên đối lập với nhân dân, đè nén, áp bức nhân dân Tuy nhiên trong số các quan lại phong kiến, cũng có nhiều người thanh liêm, trung thực biết lo cho dân và cho xã hội Giai cấp địa chủ miền xuôi và các thổ tù miền núi có số lượng ngày càng đông đảo, vừa có thế lực chính trị, vừa có thế lực kinh tế, là người cai quản chính quyền địa phương, đồng thời là chỗ dựa của triều đình trung ương tại các thôn bản
Giai cấp bị trị bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân nghèo thành thị và tuyệt đại đa số dân cư ở các bản mường vùng dân tộc ít người Họ làm ruộng, buôn bán nhỏ, làm nghề thủ công, làm thuê làm mướn cho những nhà giàu Họ là những người phải gánh chịu mọi tai hoạ của tự nhiên
và của sự bất công trong xã hội
Các vua Nhà Nguyễn dùng pháp luật hà khắc, quân đội đông đảo, nho giáo phản động làm công cụ kìm kẹp nhân dân về mọi' mặt trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan, cho nên mâu thuẫn xã hội vốn đã có nguồn cội ngay từ đầu, ngày càng bộc lộ sâu sắc và quyết liệt
Hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra và kéo dài suốt từ thời Gia Long đến thời Tự Đức Cuộc khởi nghĩa này bị dẹp thì cuộc khởi nghĩa khác lại xuất hiện bởi vì đời sống cơ cực, tô thuế, sưu dịch nặng nề và bởi vô số những chính sách đối nội, đối ngoại thiển cận khác của triều đình phong kiến Nguyễn Có thể nói, bất cứ ai muốn tổ chức khởi nghĩa chống triều đình, dù là dân hay quan, dù sang hay hèn, dù hay chữ hay không hay chữ, người Kinh hay người Thượng, đều được đông đảo quần chủng đi theo và ủng hộ
Năm 1820, Minh Mạng vừa mới lên ngôi thì năm 1821 xảy ra cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành và Vũ Đức Cát ở vùng Sơn Nam (Nam Định), giết quan quân, chiếm thành trì, phát triển thế lực ra đến Hải Dương Mãi đến năm 1827 Phan Bá Vành mới bị bắt, cuộc khởi nghĩa mới bị thất bại
ít lâu sau đó, năm 1831, Lê Duy Lương (lấy danh nghĩa dòng dõi nhà Lê)
đã liên kết với các tù trưởng người Mường ở Hoà Bình mà nổi lên, xây dựng căn cứ, phát triển thê lực ở Ninh Bình, Hưng Hoá và Tây Bắc Đến năm 1833,
Lê Duy Lương bị bắt và bị giải về Kinh đô Nhưng sau đó đổng bào Mường ở Hoà Binh lại suy tôn Lê Duy Hiển làm minh chủ, tiếp tục nổi lên chống triều
Trang 19đình ở vùng Hoà Bình - Thanh Hoá Mãi đến nãm 1837 phong trào mới tạm thời lắng đi.
Ở trong Nam, triều đình phải vất vả đối phó với cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi nổ ra từ năm 1833 (gần như cùng lúc với khởi nghĩa Lê Duy Lương ở Bắc) Được sự ủng hộ của nông dân nghèo, nhất là của những người từ Bãc bị đẩy vào Nam, Khôi đã nổi lên chiếm thành Gia Định và dễ dàng chiêm cả 6 tỉnh Nam Kì Mãi đến tháng 3/1835, cuộc khởi nghĩa của cha con Lê Văn Khôi mới hoàn toàn bị thất bại
Cùng thời gian nói trên, ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, đổng bào Thổ đã theo Nông Văn Vân liên kết với 7000 quân của Lê Văn Bạt, Nguyễn Văn Nhàn (Tiền Bột, Ba Nhàn) ở vùng Son Tây đã nổi lên, phải đến tháng 4/1835, Nông Văn Vân mới bị bao vây và chết trong vùng rừng núi Tuyên Quang
Trong năm 1833 còn có các cuộc nổi dậy của đổng bào người Thái ở sông
Đà, đồng bào Chăm ở Bình Thuận Đồng bào Khơ me ở Trà Vinh thì nổi dậy suốt từ năm 1826 đến năm 1841 Có lúc họ đã chiếm được cả Trà Vinh, một huyện lớn thuộc tỉnh Vĩnh Long lúc đó Trong vòng 7 năm ở ngói của Thiệu Trị
đã có 56 cuộc khởi nghĩa nổ ra Năm 1854 thời Tự Đức, khắp vùng Sơn Tây, Bắc Ninh, châu chấu phá hoại mùa màng, nhân dân đói khổ, nhà nho thất chí Cao Bá Quát thừa cơ phù Lê Duy Cừ nổi lên chống triều đình, dân nghèo theo rất đông Năm 1855, Cao Bá Quát tử trận ở An Sơn nhưng dư đảng còn tiếp tục hoạt động đến vài năm sau đó
Cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm cho nền tảng của chế độ phong kiến lung lay tới tận nền móng Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1848 đến nãm
1862 (từ khi Tự Đức mới lên ngồi đến khi thực dân Pháp chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì) đã có 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra Và nếu tính đến năm
1883, khi triều đình Nguyễn kí Hiệp ước Hácmãng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên toàn cõi Việt Nam thì số cuộc nổi dậy chống triều đình lên tới
Trang 20- Riêng đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì chính sách của triều đình là đồng hoá, hoặc trực trị đối với khu vực người Mường, Thái Song trong điều kiện kinh tế công thương kém phát triển thì xu hướng phân quyền cuối cùng lại dẫn đến tình trạng cát cứ nguy hiểm Bộ máy quan lại bị tha hoá và xu hướng phân quyền đã khiến cho nạn cường hào lộng hành ở các địa phương gia tăng - đó là điều tất yếu.
Rốt cuộc thì tất cả các biện pháp chống đỡ của triều đình Nguyễn đã không thể giải quyết được tận gốc các vấn đề khủng hoảng xã hội Tinh trạng rối ren lại vẫn tiếp tục xảy ra
Lòng dân oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc bị rạn nứt, đó chính là nguyên nhân gián tiếp, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù từ bên ngoài tới xâm lăng nước ta
Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn
Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn trong những năm giữa thế kỉ XIX có một số nét đáng chú ý:
- Một là xâm lấn các nước láng giềng như Khơme, Ai Lao
- Hai là khước từ quan hệ với phương Tây và đàn áp Thiên chúa
* Trước hết là đối với Khơme:
Khơme vốn là nơi tranh chấp giữa triều đình Xiêm La (Thái Lan) và Việt Nam Các nhóm hoàng tộc Khơme, kẻ cầu Xiêm, người cầu Việt để lên ngôi
Đầu thế kỉ XIX, triều đình Huế chiếm ưu thế trên đất Chùa Tháp Bị chống đối, nhà Nguyễn đã cho quân đàn áp Năm 1833 thời Minh Mạng, Lê Văn Khôi nổi lên chống triều đình Nguyễn và cầu viện Xiêm Cả ba cánh quân của Xiêm tiến đánh Việt Nam đều bị đánh tan Nàm 1835, nhằm lúc triều đình Nôngpênh gặp khó khăn trong việc cử người kế vị, Minh Mạng biến nước Khơme thành một tỉnh, đổi Nôngpênh thành trấn Tây thành, bắt các quan đại triều của Khơme đầy ra Bắc Thành
Triều đình Huế thi hành chính sách cai trị nghiệt ngã nên bị người Campuchia phản ứngệ Xiêm thừa cơ can thiệp Quân Việt và quân Xiêm giao chiến nhiều trận Nãm 1847, Thiệu Trị phải giảng hoà với Xiêm, Khơme phải triều cống cho cả Xiêm và Việt Chiến tranh chấm dứt nhưng tình cảm quân dân hai nước
bị rạn nứt
* Đối với Ai Lao:
Cũng giống như Khơme, nước Ai Lao thế kỉ XIX chịu ảnh hưởng của cả triều đình phong kiến Xiêm và Việt
Trang 21Năm 1827, quân Xiêm tiến đánh xứ Vạn Tượng, vua Vạn tượng là A Nụ sang Nghệ An cầu viện Quan quàn Việt Nam đưa A Nụ về nước Sau nhiểu lần giằng co giữa các thế lực tranh chống, cuối cùng triều đình Huê cho quân chiếm một số vùng đất ở phía tây Nghệ An và tây Thanh Hoá Cương vực được
mở đến gần sông Cửu Long, gồm hầu hết các tỉnh Thà Khẹt, Xiêng Khoảng, Xầm Nưa, Savanakhẹt ngày nay rồi dùng các tù trưởng để cai trị Việc phân quyền rộng rãi cho các quan chức địa phương đã khiến cho tình hình vùng đất này tương đối yện ổn
Hành động của triều đình Nguyễn trong quan hệ với Ai Lao, Khơme đã không đi đến đâu mà ngược lại, khiến cho đời sống của nhân dân thêm khốn khổ "Đi đánh giặc Lạy, giặc Lào, giặc Xiêm" là ác mộng cùa nhân dân miền Trung và miền Nam trong một khoảng thời gian dài, nhất là từ 1827 đến 1847.Trong hơn 20 năm theo đuổi chính sách đối ngoại sai lầm đã khiến cho tài lực và nhân lực bị hao mòn, hiểm thù giữa các nước láng giềng ngày càng bị khoét sâu, trong khi bọn thực dân phương Tây đang nhòm ngó ngoài cửa ngõ.Lợi dụng sự khốn cùng của quần chúng nhân dân, các giáo sĩ phương Tây, nhất là Pháp và Tây Ban Nha đã ra sức thu nạp tín đồ Chúng sử dụng đủ mọi phương sách, từ tuyên truyền, mê hoặc lòng người đến kích động chia rẽ trong nhân dân Chúng trực tiếp tổ chức hoặc đứng đằng sau những vụ nổi loạn chống triều đình, làm mục ruỗng xã hội Việt Nam vốn đang khủng hoảng trầm trọng, chuẩn bị cơ sở chính trị cho cuộc xâm lăng sắp tới
Trên nhiều phần đất Việt Nam, nhất là từ lưu vực sông Gianh trở ra Bắc, thế lực đạo Gia Tô, nhất là tại các xứ do các cha cố Pháp cầm đầu đã ráo riết hoạt động, gây mầm chia rẽ sâu sắc trong nhân dân
Chủ tâm của các giáo sĩ Pháp là vừa kết hợp việc truyền đạo, xâv dựng tại Việt Nam một quốc gia công giáo, vừa hình thành các phe nhóm làm nội ứng cho hành động vũ trang xâm lược trong tương lai
Để đối phó với hành động của các giáo sĩ Pháp, các triều vua Nguyễn đã cho thi hành những chính sách thiển cận, bất lợi cả về kinh tế lẫn chính trị đối với nước ta Đó là: Đóng cửa khoá nước, khước từ mối quan hệ với các nược phương Tây và cấm đoán, bài xích đạo Thiên chúa một cách quyết liệt
Trong lịch sử, ngay từ cuối thời Lê, nhất là thời Tây Sơn, các vua chúa Việt Nam đã từng tiếp xúc với người phương Tây, mượn làm thầy thuốc, làm phiên dịch hoặc chuyên gia kĩ thuật trong các công xưởng quốc gia, chế tạo thuyền
bè, vũ khí Các cha cố nước ngoài trong các thế kỉ XVII, XVIII tuy có phần bị
Trang 22ngăn ngừa nhưng vẫn được đi lại truyền giáo do mưu đồ của họ chưa có biểu hiện rõ rệt.
Có một số cha cố được chúa Trịnh, chúa Nguyễn biệt đãi và quý trọng Ngay từ đầu thế kỉ XVIII, ở Huế đã có 5 nhà thờ Thiên chúa giáo được xây dựng Tại xứ Đàng Trong, các giáo sĩ giỏi y thuật, toán pháp được vời vào cung, trong đó có cả các giáo sĩ người Đức, người Hungari, người Pháp, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
Đó cũng chính là cơ sở để sau này vào những năm cuối thế kỉ XVIII Nguyễn Ánh đã phát triển mối quan hệ với Pignau de Behaine (Bá Đa Lộc) và được vị giáo sĩ này hết lòng giúp rập
Để trả ơn những người Pháp đã đắc lực giúp mình lấy lại ngai vàng, sau khi lên ngôi, Gia Long đã truy phong Bá Đa Lộc là thái tử thái phó bi nhu quận công; cho các giáo sĩ Pháp tự do hoạt động các võ quan Pháp đã từng giúp Nguyễn Ánh, đều được làm quan trong triều đình
Dayo (J.M Dayot) được phong tước tri lược hầu, chức khâm sai đại thần; Senho (Chaignau) được phong tước toàn thắng hầu, chức chưởng cơ, khâm sai đại thần Vaniê (P.Vannier) cũng được phong tước hầu, chức chưởng cơ
Tuy nhiên, vào những năm cuối đời, Gia Long bắt đầu hạn chế đạo Thiên chúa, không cho làm thêm hoặc tu bổ nhà thờ, hạn chế sự giao thương với Pháp
và các nước phương Tây
- Năm 1807, Dayô bí mật gửi tài liệu về Pháp, Senho và Vaniê thường liên lạc với Hầu tước Risơliơ (Richelieu) để báo cáo về tình hình Việt Nam
- Năm 1819 Senhô về Pháp để "Bày tỏ những phương sách mà ông ta có thể cống hiến cho sứ sở" rồi trở lại Việt Nam với chức vụ khâm sai của Pháp hoàng.Thời Minh Mạng và Thiệu Trị, việc bế quan toả cảng và cấm đạo ngày càng ngặt nghèo hơn Tàu chiến Pháp càng tăng cường thị uy, cha cố Pháp càng can thiệp vào nội trị của Việt Nam sâu bao nhiêu thì các chỉ dụ cấm đạo càng khắt khe, hải cảng được phòng bị cẩn mật bấy nhiêu Lúc đầu các vua Nguyễn chỉ chủ trương hạn chế sự tiếp xúc của các giáo sĩ với giáo dân, tìm cách đưa họ
về kinh, lấy cớ dịch sách để cầm chân họ Song biện pháp này tỏ ra ít hiệu quả các giáo sĩ vẫn tìm cách lén lút liên lạc với bên ngoài, họ còn trực tiếp nhúng tay vào các hoạt động chính trị, như vận động cho con trai hoàng tử Cảnh nối ngôi Gia Long; khuyến khích sự chống đối của Lê Văn Duyệt đối với Minh Mạng, đứng đằng sau cuộc khởi nghĩa chống triều đình của Lê Văn Khôi
Trang 23(1833), kích động sự bất mãn của Hồng Bảo (con trường vua Thiệu Trị) để âm mưu gây ra vụ bạo động chống Tự Đức năm 1848.
Lợi dụng mâu thuẫn giữa nhân dân với triều đình Nguyễn, các giáo sĩ còn xen vào nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, mong gây được ảnh hưởng trong quần chúng và tạo điều kiện chuẩn bị tiến cóng xâm lược nước ta
Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp tập trung hoạt động trong số gần 50 vạn giáo dân ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc Chúng gây ra các vụ xung đột Giáo - Lương Chúng lừa gạt dân chúng bằng thần quyền và ép buộc một số con chiên nhẹ dạ, cả tin làm việc cho chúng; xúi dục giáo dân vi phạm luật lệ triều đình, tạo ra những vụ lộn xộn làm mất an ninh, trật tự xã hội Chúng chủ trương gây chia rẽ trong nội bộ dân tộc ta, đi đến thủ tiêu tinh thần kháng chiến của nhân dân ta khi chúng đem quân xâm lược
Rơi vào cái bẫy khiêu khích của Pháp, triều đình Huế liên tiếp ban bố các chỉ dụ cấm đạo vào các năm 1825, 1833, 1851
Song song với hành động của các giáo sĩ, thực dân Pháp đã đưa tàu chiến đến Việt Nam, khiêu khích về quân sự
Trong các năm 1822, 1825, Pháp cho tàu chiến vào Đà Nẩng đòi triều đình
Huế thả giáo sĩ bị bắt và đòi tự do buôn bán
- Năm 1845, hai lần tàu chiến Pháp ra vào thị uy
- Năm 1847, tàu chiến của chúng lại liên tiếp tới khiêu khích Chúng bắn phá chiến thuyền của triều đình Thuyền trưởng Pháp cùng bọn giáo sĩ ngang nhiên đi thẳng vào công quán hăm doạ
Năm 1848, Cách mạng tư sản Pháp nổ ra và đế chế thứ hai ở Pháp được thành lập năm 1852 Mặc dù kế hoạch xâm lăng của Pháp chưa thực hiện được, nhưng việc chuẩn bị cho kế hoạch này đã được chuẩn bị gấp rút hơn
Trở lên trên là một số nét cơ bản về tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX, nổi bật lên là sự khủng hoảng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Nhà nước Việt Nam phong kiến lúc đó đang xâm lược đứng trước một thử thách hết sức to lớn, đối diện với cuộc chiến tranh xã hội của tư bản phương Tây
II LIÊN QUÂN PHÁP - TÂY BAN NHA XÂM LƯỢC VIỆT NAM
1 Tư bản Pháp và Tày Ban Nha tìm cớ can thiệp vào Việt Nam
Cho đến giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản ở Pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ Nhu cầu về thị trường đặt ra ngày càng bức xúc
Trang 24Việc người Anh đi trước người Pháp một bước trong việc xâm lược các nước Viễn Đông và những thua thiệt của Pháp trên vùng đất Ân Độ trong chiến tranh 7 năm (1756 - 1763) đã thôi thúc đế chế 2 của Napôlêông III nóng lòng muốn mở rộng thế lực của mình tại miền Nam Trung Quốc Sau khi đã phái quân sang hội chiến với người Anh, với cái cớ bênh vực đạo Thiên chúa và giành được một số quyền lợi kinh tế ở Trung Quốc, năm 1856, Chính phủ Pháp lệnh cho Môngtinhô ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ sang Huế để đòi
"được tự do buôn bán và truyền đạo"
Trong khi Môngtinhô còn đang công cán ở Xiêm thì Napôlêông III đã phái tàu chiến đến Việt Nam gây sự
Ngày 16/9/1856, Lơliơdơ - Vin Xuyaác đưa chiến hạm Catina tới Đà Nẩng
và ngày 26/9/1856, Lơliơdơ đã bắn phá các pháo đài trên bờ, phá tan 66 khẩu thần công của quân đội triều đình
Ngày 24/ 0/1856, một tuần dương hạm khác của Pháp do Côliê chỉ huy lại đến Đà Nẵng trực tiếp gửi thư hăm doạ viên quan đầu tỉnh Quảng Nam
Theo tài liệu của Pháp, lúc này xuất hiện ba nhóm người tích cực vận động Chính phủ Pháp đem quân đánh chiếm Việt Nam^Một là các sĩ quan hải quân Pháp trên biển Trung Hoa; hai là các nhân viên ngoại giao Pháp ở Trung Quốc;
ba là những giáo sĩ, những kẻ nhiệt tình và hãng hái nhất Đại biểu cho họ là Giám mục Rờto (Retord), linh mục Evarít Húc, linh mục Liboa và giám mục Penlơranh Ảnh hưởng trực tiếp nhất đến Hoàng đế Pháp trong năm 1857 là linh mục Húc và giám mục Penlơranh Tháng 1/1857, Húc trình bày với Napôlêông in bản giác thơ, khẩn thiết đề nghị Chính phủ cãn cứ vào Hiệp ước Vécxai 1787 để thiết lập.tại Việt Nam một cơ sở hải ngoại
Húc là giáo sĩ dòng Thánh Ladơ của Pháp Trong những năm từ 1853 -
1856, Húc đã đệ trình lên Napôlêông III kế hoạch thành lập một công ti thương mại ở Ấn Độ nhằm khai thác Triều Tiên, Đà Nẵng (Việt Nam) và Mađagátxca.Sau sự việc tàu chiến Pháp gây sự xâm lược Đà nẵng năm 1856, Húc tiếp tục thúc giục Chính phủ Pháp xâm lược Việt Nam
Theo đề nghị của Húc, chính quyền hoàng gia Pháp đã thiết lập ngay một
Uỷ ban Nghiên cứu Việt Nam vào tháng 4/1857
Cùng với Húc, Penlơranh, vị Tổng giám mục tại Việt Nam bổ sung vấn đề Thiên chúa giáo Vào tháng 5/1857 ông ta về Pari, cùng với cánh báo chí dấy lên phong trào ủng hộ đạo Thiên chúa ở Việt Nam
Trang 25Penlơranh còn tâu lên Napôlêông III một bản tường trình cụ thể và nhấn mạnh rằng người Anh có ý định mua cửa biển Đà Nẩng Do đó, cũng như linh mục Hue, giao SI Penlơranh đã trở thành báo cáo viên chính của Uỷ ban Nghiên cứu Việt Nam.
Mới được thành lập ngày 22/4/1857 nhưng đến ngày 18/5/1857 theo lệnh cua Napôlêông III, Uỷ ban này đã họp liền 7 phiên và chính thức đề ra kê hoạch xâm lược
Trong các cuộc họp nói trên, Uỷ bân Nghiên cứu Việt Nam đã nhất trí kêt luận rằng "Vì lợi ích củạ nước Pháp trên cả ba phương diện: đạo đức, chính trị
và thương mại mà thực hiện càng nhanh càng tốt những chuẩn bị bì mật để chiếm lấy ba vùng đất chủ yếu của Việt Nam" Cuối cùng, Ưỷ ban trinh lên một
kế hoạch hành quân, do Phuricông (Fourickon) và Dôrét (Jores) thiết lập, xuất phát từ nước Pháp, hoạt động độc lập với hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đánh chiếm Đà Nẵng, Sài Gòn và Kẻ Chợ (Hà Nội)
Kê hoạch trên đây được Napôlêông m chấp thuận vào khoảng giữa tháng 7
năm 1857(1)
Đúng vào lúc này, Tổng giám mục Bắc Kì là Điát (Diaz) - người Tây Ban Nha, bị triều đình Huế hành quyết - Thực dân Pháp liền thổi phồng vụ việc, biến vấn đề tôn giáo thành cái cớ để hành động xâm lược và cũng là cái cớ để hình thành liên minh quân sự Pháp - Tây Ban Nha
Lúc ấy, hoàng hậu nước Pháp (vợ Hoàng đế Napôlêông III) là Êgiêni đờ ’ Môngtinhiô (Engenié de Montijo) là một người nổi tiếng có ảnh hưởng đến vua Pháp, sinh tại Grơnatđơ (Tây Ban Nha), thời con gái, Egiêni đã quen biết giám mục Điát - Khi biết tin Điát bị hành hình, bà ta tuyên bố "Phải báo thù cho các
vị tử vì đạo của ta Chúng ta là những người đầu tiên đã nghĩ tới xứ Đông Dương và chúng ta có ý muốn sáp nhập xứ này" Ý tưởng liên minh với Tây Ban Nha để can thiệp vào Việt Nam biến thành hiện thực vào cuối năm 1857 Ngày 1/12/1857, chính quyền Pháp chuyển cho quốc vụ khanh Tây Ban Nha một công hàm mật, yêu cầu có sự hợp tác chiến đấu của triều đình Mađrít để
Ngày 12/12/1857, Chính phủ Tây Ban Nha chính thức có vãn bản trả lời khẳng định sự liên minh về chính trị giữa hai nước, ngày 25/12/1857, Bó trường Chiến tranh Tây Ban Nha ra lệnh cho viên tư lệnh ở Philíppin chuẩn bị mót tiểu đoàn bộ binh 1000 người, hai đội kị binh 300 lính và một trung đội pháo binh
Vũ Huv Phúc (chủ biên) Lịch siíV iệ t Nam ỉ 858-1896 Tr 30.
Trang 26100 quân sẩn sàng tham chiến Mệnh lệnh này được thực hiện và số quân trên được đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá Bécna Ruiđờ Lãngdarốt (De Lanzarot), hành quân trên hai chiếm hạm chạy bằng hơi nước: Encanô (El Cano) và Đoócđôdơ (Dordogne) Sau này có chiếc thứ ba là tàu Đuyrăngxơ (Durance).
2 Mặt trận Đà Nẵng và nhữríg cuộc chiến đấu chống Pháp đầu tiên của quân dán Việt Nam (9/1858 - 2/1959)
Sau khi cử Rigôn đờ Giơnui thay cho Đô đốc Ghêranh (Guerin) chỉ huy hải quân Pháp ở vùng biển Trung Hoa, ngày 25/11/1857 Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi thư cho Bộ trưởng bộ Hải quân chỉ đạo Giơnui thực hiện phương châm tác chiến "Co dãn", "chiếm ngay vịnh và lãnh thổ Đà Nẵng", "xem xét để thiết lập một chế độ bảo hộ trên đất Việt Nam hoặc buộc Việt Nam phải kí một hiệp ước thương mại và hàng hải" Nhưng "Dù theo hướng nào thì cũng phải duy trì việc chiếm giữ Đà Nẵng làm đảm bảo để buộc chính quyền An Nam thực hiện những điều cam kết và để hành động kịp thời"(°
Ngày 16/3/1858, Giơnui kéo quân từ Quảng Đông lên phía bắc Ngày 30/5 liên quân Pháp - Anh tiến công chiếm các đồn luỹ của quân Thanh ở Đại Cô, gần cửa sông Bạch Hà, mở đường vào Bắc Kinh
Sau khi buộc Thanh triều kí với Anh - Pháp hiệp ước Thiên Tân, hết nhiệm
vụ ở Trung Quốc, theo mệnh lệnh của Chính phủ Pháp, Giơnui lập, tức đưa quân về phía nam
Cuối tháng 7/1858, các chiến hạm Pháp bắt đầu tập hợp ở đảo Hải Nam, dưới quyền của Giơnui (được phong làm phó đô đốc từ tháng 8/1858) Ngày 30/8/1858, đội quân xâm lược xuất phát từ hải cảng Yulikan, phía nam đảo Hải Nam (Trung Quốc) tiến xuống Đà Nẵng Theo báo cáo của Giơnui tại Vịnh Đà Nẵng lúc đó đã có mật đội quân Tây Ban Nha(2)
Chiều ngày 31/8/1858, tại vịnh Đà Nẵng, liên quân Pháp - Tây Ban Nha bắt đầu dàn trận
Quân Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tác chiến đầu tiên vì nhiều lí do, trước hết là do quyết định của Napôlêông III, dựa vào ý kiến của Uỷ ban Nghiên cứu Việt Nam và các giáo sĩ Đây cũng là địa điểm đã được thực dân Pháp khảo sát
01 Taboulet - La geste Francaise en Indochine Tr 416-417 dẫn theo Lịch sử Việt Nam 1858-1896 Tr 32-33.
<2) Quân Tây Ban Nha đi trên pháo hạm Encanô; tàu Đoócđênhô và tàu Đ uyarăngxơ tham chiến muộn hơn, xuất phát từ Manila (13/9) đem theo 590 quân cùng với Đại tá Lăngdarốt (Lan zarotte) ch : huy tối cao của quân viễn chinh Tây Ban Nha.
Trang 27kĩ hơn cả Bản thân Giơnui cũng đã từng đưa tàu đến bắn phá Đà Nẵng 9 năm trước thời Thiệu Trị, nên am hiểu tường tận vùng vịnh Đà Nẵng và các địa điểm
bố phòng của quân Nguyễn trên bán đảo Sơn Trà.
Sô' quân địch có mặt ở Đà Nẵng ngày một đông Ngày đầu có 12 tàu chiến, sau tăng thêm 4 là 16; số binh lính Tây Ban Nha tham chiến là 1000, quân Pháp có trên
1500, chúng được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh châu Âu đương đại Cuộc xâm lược và phản xâm lược tại bán đảo Sơn Trà chính thức bắt đầu
Kế hoạch của Pháp là nhanh chóng chiếm lấy Đà Nẵng, từ Đà Nẩng tiến sâu vào nội địa Quảng Nam, hậu phương của triều đình Huế sau đó sẽ vượt đèo Hải Vân đánh lên Kinh đô, nhanh chóng buộc triều đình Huế đầu hàng
Sở dĩ Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tấn công đầu tiên còn bởi vì đây là cửa họng của Kinh thành Huế, nằm cách Huế 100km về phía đông nam, một hải cảng khá sâu và rộng, từ lâu đã đóng một vị trí quan trọng về quân sự và thương mại, có hậu phương trù phú là Nam Ngãi Từ Nam Ngãi có đường bộ thông sang Campuchia và Lào, tàu lớn không vào cửa Thuận An ở Huế được, nhưng
có thể vào Đà Nẵng dễ dàng Trong cuộc chiến tranh Nguyễn - Tây Sơn trước đây, Đà Nẵng đã từng là một căn cứ hải quân lợi hại
Nãm 1857, trước những yụ khiêu khích của tư bản Pháp, một vị tổng đốc đã gửi lên nhà vua bản đề nghị lưu ý tàng cường phòng thủ Đà Nẵng:
"Nguy cơ là ở tại bến Đà Nằng; bến Đà Nang rộng, tàu Tây đến dễ; lại có núi bao bọc, không sóng gió, dễ neo tẩu Người Tây thường vào đó, đậu lâu, không k ể pháp luật triều đĩnh Hơn nữa, Đà Nằng gần quốc lộ, gần làng mạc, gần Kinh thành Đà Nắng là then chốt của nước ta, cho nên người Tây muốn chiếm lâỳ"(ầ>.
Tháng 2/1857, "Vua Tự Đức cho rằng cửa biển Đà Nẵng tỉnh Quảng Nam
là nơi bờ cõi mạn biển quan trọng, hiện nay thuyền Tây Dương tuy đã đi, nhưng công việc phải làm cho tới về sau cũng phải dự tính, cốt được chu đáo mười phần Bèn dụ cho Đào Trí, Nguyễn Duy hội đồng với lãnh Tổng đốc Trần Hoàng, các viên Bô' chánh, Án sát là Thân Văn Nhiếp, Lê Vãn Phả, đích thán đến các thành, pháo đài và đồn bảo khám nghiệm kĩ càng, tính kĩ từng điều khoản làm bản tâu lên đợi chỉ thi hành"(2)
(£) Dương sự thuỳ mạt, Trích theo Trần Văn Giàu trong "Chống xâm lăng", NXB Thành
phố Hồ Chí M inh, 2001, tr 68.
<2) Đ ại Nam Thực lực chính biên, tập XXVIII, NXB Khoa học xã hội tr 314.
Trang 28Tuy vậy, sự chuẩn bị trong thực tế đã không diễn ra đúng với ý của Tự Đức Các quyết định được thực thi hết sức chậm chạp Việc các giáo sĩ tăng cường xúi giục dân chúng nổi dậy ở Thái Bình, Hải Dương (từ tháng 12/1857), nhất là
vụ tên Trần Văn Yêm ở Nam Định nổi lên do sự sắp đặt của cô đạo Sămpêrơ đô vào tháng 8/1858 với ý đổ gây rối và các hoạt động phá phách của người Thạch Bích, các vụ cướp biển của người Trung Hoa, nạn đói kém, thiên tai, dịch bệnh tràn lan ở khắp Trung, Bắc đã khiến cho việc phòng bị của quan quân triều Nguyễn đã khó khăn lại càng khó khãn hơn
Về binh lực, do phải chia sẻ lực lượng để đối phó với các vụ lộn xộn ở các nơi và để đồn trú tại các khu vực quan yếu như Kinh đô Huế, hoặc ở vùng bờ biển Bình Thuận, Khánh Hoà cho nên tại Đà Nẵng quân thường trực của triều đình chỉ có khoảng 2000 người (báo cáo của Giơnui dựa trên các bản tổng hợp của các giáo sĩ là 10.000, chắc là không chính xác) Cũng theo báo cáo của Giơnui, tất cả các đồn ở Đà Nẵng đều còn đang trong tình trạng sửa chữa Tuy vậy, điều chắc chắn là triều đình đã dành cho Đà Nẵng những hoả lực mạnh nhất, tốt nhất Đó là các khẩu đại bác bằng sắt và bằng đổng cỡ lớn, được trang
bị các thiết bị ngắm bắn mới được áp dụng Còn các súng tay và khí cụ khác thì theo Giơnui "tốt hơn những khẩu súng ở Trung Quốc, được sản xuất ở Pháp, Bỉ
và thuốc súng thì có rất nhiều, là sản phẩm của Anh có thể mua tại Xinhgapo hoặc Hổng Kông"
Nhưng cho dù có số quân khá đông (về sau được tãng thêm khoảng 2000 lính), ỉực lượng so sánh giữa ta và địch ở Đà Nẵng khi chiến sự xảy ra vẫn là khá chênh lệch Điểm yếu nhất của phía ta là công việc triển khai tác chiến chậm chạp, đối phó bị động Đó là chưa kể phương tiện chiến tranh của địch thì hiện đại hơn rất nhiều (đại bác nạp hậu, có cơ bẩm, nòng súng có rãnh xoắn, đạn đi xa, có sức công phá lớn )
Sáng ngày 1/9/1858, Pháp gửi tối hậu thư cho quan trấn thủ thành Đà Nẵng
là Trần Hoàng, hạn trong 2 giờ đồng hồ phải trả lời Vì phải đợi lệnh triều đình nên Trần Ròàng cứ án binh bất động Chưa hết 2 giờ hẹn, quán Pháp đã nổ súng
dữ dội bắn phá các mục tiêu trên bờ rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà
Quân các đồn bên ta bắn trả nhưng vì vũ khí lạc hậu nên không gây cho quân địch nhiều tổn thất Địch tập trung hoả lực bắn phá các đồn trên bán đảo Sơn Trà và trên cửa sông Đà Nẵng - Nại Hiên Đông (đồn phía đông) và Điện Hải (đon phía Tây) Ngay hôm 1/9, đồn Đông bị vỡ, hôm sau, đồn Tây bị tấn công Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ lên chiếm các đồn An Hải và Điện Hải Quan quân triều đình rút về tuyến sau, lập phòng tuyến trước huyện lị
Trang 29Hoà Vang để ngăn địch vào nội địa Lại cho dời dân vào trong để tránh khỏi bị địch bắt đưa đường, làm lính, làm phu khuân vác.
Được tin mất bán đảo Sơn Trà, Tự Đức lệnh cho Hữu quân đô thống Trần Đình Lý và Tham tri Bộ Hô Pham Khắc Thân đem 2000 quân tiêp ứng Mặt khác, cách thức Trần Hoàng Tham tri nội các Nguyễn Duy được bổ nhiệm chức chỉ huy quân thứ tỉnh Quảng Nam
Liên quân Pháp - Tây Ban Nha xông vào nội địa Quân ta chặn chúng ở xã
Mĩ Thị Hai bên giao chiến ở xã cẩm Lệ Tổng thống Lê Đinh Lý bị thương, phải lui quàn Hồ Đức Tư giữ đồn Hoá Khuê gần đó án binh bất động, bị triều đình cách chức Thống chế Chu Phúc Minh lên thay Lê Đình Lý và Nguyễn Tri Phương (đang làm kinh lược sứ lục tỉnh Nam Kì) được điểu ra làm tổng thống quân thứ Quảng Nam, gấp rút chấn chỉnh quân ngũ và thống nhất chỉ huy chống giặc Nguyễn Tri Phương cho thực hiện kế hoạch gồm hai điểm chính: Thứ nhất, tổ chức cho dân lùi sâu vào nọĩ đỊa làm vườn khồng nhà trống, triệt
để bất hợp tác với giặc Thứ hai, triệt đế phòng ngự, đào hào đắp luỹ £ân giặc, không cho giặc đánh lan ra Hưởng ứng kế hoạch của Nguyễn Tri Phương, các lực lượng dân binh cùng nhân dân địa phương ra sức đào hào đắp luỹ, phối hợp với quân của triều đình chặn đánh tàu địch Những đội dân quân bao gồm "Tất
cả những người không đau yếu và không tàn tật" được thành lập, chiến đấu vô cùng quả cảm Chiến thuật của Nguyễn Tri Phương có phần hiệu quả Một sĩ
quan Pháp than thở trong thơ gửi về cho mẹ: "Đất mà chúng con chiếm được thì
dân đều bỏ đi cở, trừ vài nhà tranh của người đánh cá Con chưa hề thấy một con gà"<n.
Ngày 17/9/1858, trong bản báo cáo của Giơnui viết "Kể từ khi tới đây, tôi
cố tìm mà chảng được tí tin tức gì từ những tù binh người Việt (khoảng 100) trong đó có 3 sĩ quan về luồng đi trên sông ở Huế Mặt khác dù có những điều hứa hẹn của Tổng giám mục Penlơranh, nhưng cũng chẳng có một con chiên nào đến chỗ chúng tôi cả"
Quân pháp tiến thoái lưỡng nan Địch mấy lần dùng thuyền theo sông Nại Hiên tiến vào đều bị quân triều đình đẩy lui
Đổ bộ không được và dùng thuyền nhỏ đánh lèn cũng không được, quán Pháp bèn tìm cách đi vòng phía ngoài bể đổ bộ lên Nam Thọ, nhưng cũng
(l> Chống xâm lăng, SĐD tr 71.
Trang 30thất bại Tại vùng ven Hải Châu, 3 chiếc thuyền nhỏ của địch bị quân cua
Hổ Uy bắn chìm Những ngày sau đó, trận chiến diễn ra ác liệt ở khu vực đồn Phúc Ninh Hai bên đều thiệt hại nặng Chu Phúc Minh bị giáng chức và
bị triệu hổi
Triều đinh còn quở trách Lê Đình Lý, luận tội Tôn Thất Phan (Thành thủ
uý thành An Hải), Tôn Thất Cháy (thành thủ uý thành Điện Hải) cùng với 8 người nữa bị giáng chức, cho gắng công chuộc tội
Để động viên tướng sĩ, Tự Đức ban thưởng những người có công, cho người đem thuốc men, sâm nhung, bồi bổ, lại cử thầy thuốc đến chữa bệnh, thưởng tiền gạo có thứ bậc cho các phu trạm liên tỉnh, tăng lương cho biền binh Nhân
lễ Vạn thọ 30 tuổi (25/8 âm lịch), Tự Đức xuống dụ giảm thuế cho các địa phương, phát chẩn cho dân nghèo, tội nhân được giảm án, hoãn xử tử Ngoài việc động viên sự giúp đỡ của quân dân, triều đình còn ra lệnh: "Chuẩn định quan quân ở quận thứ Quảng Nam, ai ra trận - chém, bắt hoặc bắn chết được giặc, cùng là người chết trận, bị thương, thì lệ thưởng mức cấp tiền tuất đều hậu đãi Nếu ai nhút nhát rút lui, không cứ là tướng hay quân lính đều lập tức chém đầu cho mọi người biết răn"ơ;
Khi nghe tin quân Pháp đánh Đà Nẵng, nhân dân cả nước sôi sục hướng
ra mặt trận Tại Nam Bộ cùng với quân đội triều đình, nhân dân" tự động tham gia cơi cao thành luỹ, củng cố thêm hệ thống phòng thủ Đội nghĩa binh của Trương Định được tập hợp, ra sức tập luyện, chuẩn bị đánh Pháp
Nhờ có sự ủng hộ tích cực của nhân dân, Nguyễn Tri Phương đã tạm thời đẩy lui được quân địch ở Đà Nẵng, dồn chúng về phía biển Thêm vào những tổn thất bước đầu do cuộc chiến tranh gây nên là sự khắc nghiệt về thời tiết, thuỷ thổ khiến quân Pháp bị ốm đau rất nhiều Binh lính bị bệnh phải gửi về Pháp, điều trị trên tàu chiến hoặc gửi sang các nhà thương ở Ma Cao
Sau 5 tháng hành binh xâm lược, quân Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng bước đầu bị phá sản Tuy nhiên đại quân của Nguyễn Tri Phương, do áp dụng chiến thuật phòng thủ bị động nên cũng không tiêu diệt được hết quân thù và cũng không đuổi được chúng ra khỏi Đà Nẵng
(l) Đ ại N am thực lục chính biên, SĐD, tr 441.
Trang 31Bị thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh, Giơnui buộc phải lựa chọn một trong hai phương án: Hoặc đárìh ra Bắc, hoặc đưa quân vào Nam?
Nếu đánh ra Bắc: Xứ Bắc lúc này còn đang loạn lạc, mặc dù một số người vẫn nhớ nhà Lê, ít có cảm tình với nhà Nguyễn nhưng không có gì đảm bảo chắc ■chắn rằng họ sẽ nổi dậy để tiếp tay cho quân Pháp Một lí do nữa là đang lúc gió mùa, thời tiết không thuận tiện ra Bắc quả là một việc quá phiêu luru
Còn đánh vào Nam: Rõ ràng là có nhiều thuận lợi vì Gia Định là nơi lấm của nhiều người, nếu đánh chiếm Gia Định sẽ đạt hai, ba mục đích: c ắ t đường lương thảo của Huế, hỗ trợ người Campuchia nổi dậy thoát khỏi vòng cương toả của người Việt, đặt nền bảo hộ của Pháp lên đất Chùa Tháp, nhanh tay chiếm Vũng Tàu, một địa điểm thương mại quan trọng mà người Anh đang nhòm ngó Hơn nữa, vào Gia Định thì thuận gió mùa, việc hành quân nhờ vậy mà dễ dàng, nhanh chóng hơn
Sau khi tính toán kĩ càng, ngày 2/2/1859, Giơnui để một đại đội trấn giữ hai đồn Nại Hiên Đông và Điện Hải, vài chiến hạm với đầy đủ vũ khí và lương thực dưới quyền chỉ huy của đại tá hải quân Phôcông còn mình thân chinh thống lãnh đại quân kéo vào Gia Định
3 Về một sô trận đánh tiêu biêu trên chiến trường Đà Nẵng 1858 - 1859(I)
a Trận M ĩ Thị - cẩ m Lệ (cuối tháng 8 hoặc trong tháng 8 năm Mậu Ngọ, tức trongkhoảng từ 1/10/1858 đến 5/11/1858)
"Quân của Tây Dương vào xã M ĩ Thị, nhổ sào sách gồ, phá đồn Thổ Sơn Tổng hống là Lê Đình Lý đánh nhau với quân của Tây Dương một trận to ở xã Cẩm Lệ (có đắp luỹ đất) bị đạn lạc trúng phải, biền binh sợ chạy tan cả Hổ Đức Tú (phòng triệt ở sở Hoá Khê) đóng quân, lại không tiến Việc ấy đến tai vua Vua giận lắm, sai tham tri là Lưu Vượng mang cờ, bàu đến ngay trước hết, đem Đức Tú cách chức, xích khoá lại xét hỏi Đình Lý cho nghỉ việc quân, về tỉnh Quảng Nam phái thầy thuốc đến điều trị Cho thống c h ế quyền chưởng Hậu quân là Chu Phúc Minh (kiêm quản doanh H ổ Oai) thay làm tổng thống
<n Theo Vũ Huy Phúc (chù biên), Lịch sử Việt N am 1858-1896, NXB Khoa học xã hội
2003
Trang 32(Hậu quăn chuẩn giao cho Trương Phúc Trường; doanh Hô Oai giao cho Nguyễn Doãn, điều khiêm quản"(n.
Thua trận cẩm Lệ, triều đình lập tức tổ chức tăng cường phòng thủ Đà
Nẵng, điều động dân phu "làm sọt tre, vật liệu gỗ, đổ đất lấp sông Vĩnh
Điện, khiến cho th ế nước dồn chảy về cửa biển Đụi Chiêm thì mạn hạ lưu 'nông cạn, thuyên tam bản của Tủy Dương không tiến vào được, quan quân
có th ể chuyển sức phòng bị một mặt trên bộ"(2) không chỉ ở Đà Nẵng, ở Kinh
đô và phủ Thừa Thiên, công cuộc phòng thủ cũng được tổ chức mạnh chưa từng có: lấy xúc xích sắt và dây sắt chắn ngang các cửa biển Thuận An, Tư Hiền, đắp luỹ đất ở Quy - Lai, Thuận Hoá và đắp thêm ở Cáp Châu, Cồn Sơn, Hoà Quân (đều thuộc cửa biển Thuận An), có đường sông thông vào kinh thành Đặt các khẩu súng đồng lớn có danh hiệu Đại tướng quân ở các bảo của Thuận An (đặt ở thành Trấn Hải 2 cỗ súng v ỏ địch Đại tướng quân
và một cỗ Trấn oai Đại tướng quân, ở luỹ đất Cáp Châu một cỗ súng Trấn Hải Đại tướng quân Ngoài ra, phủ Thừa Thiên được lệnh lập một lực lượng quân đội mới lấy tên là quân Chiến Tâm, tức là một bình thức của quyết tử quân Lương của quân Chiến Tâm được cấp cao hơn tức được thêm như sau: suất đội 4 quan, đội trưởng 2 quan, ngũ trưởng và lính 1 quan Lực lượng Chiến Tâm ở Thừa Thiên không rõ quân số bao nhiêu nhưng là một biên chế mới của quân Nguyễn từ tháng 9 Mậu Ngọ (10/1858) Thời gian này, một suất đội là Bùi Nữ, đang đắp luỹ đất ở cẩm Lệ, nghe tiếng súng nổ ở Trà Sơn hoảng sợ bỏ chạy làm quân đi theo đểu tan cả Hay tin này, vua Tự Đức sai đem chém ngay Bùi Nữ để mọi người đều biết Việc này chỉ là một sự kiện nhỏ, nhưng đáng chú ý hơn cả là tinh thần chiến đấu trong hoàng tộc cũng dâng lên, Phò mã đô uý quàn cơ là Phạm Đăng Trữ cùng 75 người nữa xin theo quân thứ đánh giặc Cũng trong cuối tháng 9 âm lịch (10/1858), Triều đình đã tìm được đúng người phụ trách công việc đánh giặc ở Đà Nẵng
(1) Đ ại N am thực lục chính biên, Sđd, tập XVIII, tr 453 Sử chép việc này sau lẻ Vạn thọ
vua Tự Đức, tức sau ngày 25 tháng 8 Mậu Ngọ và không ghi tháng 9 mà tiếp đó là tháng 10 Do
đó, không thể xác định trtận này xảy ra vào ngày nào tháng nào, chỉ biết trong khoảng cuối tháng 8; còn ngày 21 tháng 12-1X58 trùng với ngày 17 tháng 11 âm lịch Có tài liệu viết trận
Mỹ Thị vào ngày 20, 21 tháng 9 (Thái Hồng, Nguyễn Tri Phương), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí M inh, 2001, Tr 192.
'2| Đ ại N am rhực lục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.455.
Trang 33Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương được gọi về làm tổng thống quân sứ Quảng Nam, Chu Phúc Minh đổi làm đề đốc quàn vụ.
Việc Nguyễn Tri Phương"’ nhận chức tổng thống quân thứ Quảng Nam đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến ờ đây Kê từ tháng 10 Mậu Ngọ (1 1/1858) đã có những trận thắng cùa quàn ta và tách đánh giặc cũng có nhiêu biến đổi linh hoạt với những chiến thuật phong phú hữu hiệu hơn
b Trận sông Hại Hiên (tháng 10 âm lịch, tháng 11/1858)
Trận này, sử tầều Nguyễn chỉ ghi: "Thuyền quàn Túy Dươììg vào sông Hùn,
sông Nại Hiên (Quảng Nam), Đào Trí, Nguyễn Duy chia quân phục kích đánh thắng'l<2> Cách đánh phục kích đã bắt đầu được ứng dụng và có hiệu quả.
Sau trận này, triều đình tiếp tục tăng cường uý lạo tướng sĩ ờ Đà Nang (Hoà Vinh và Thị An), Hải Vàn quan, Thuận An, Tư Hiền (Trời rét, triều đình ban cho các tướng sĩ và các văn quan những chiếc áo hẹp tay chống rét) Toàn dân tỉnh Quảng Nam được giảm thuế thân vì bận cung ứng việc quân Ngoài việc xử phạt các quan chức thua trận cẩm Lệ (cách chức Hồ Đức Tú, các vệ uý Nguyễn Biểu, Nguyễn An và 12 người khác nữa; giáng Lè Đình Lý 4 cấp, Phan Khắc Thận 3 cấp; đánh trượng ngay trước quàn Trần Văn Đông cùng 10 người khác),
111 Nguyễn Tri Phương sinh ngày 21 tháng 7 nãm Canh Thân (1800) tại làng Đường Long sau đổi tên là Chi Long, huyện Phong Điền, tổne Chánh Lộc, tinh Thừa Thiên Ồng tên thực là Vãn Giương, tự Hàm Chương, hiệu là Đường Xuyên trong m ột gia đình khá giả thi thư và hay làm từ thiện khi có đói kém Được học hành từ nhỏ nhưng ông không phải học để thi Đời Minh Mệnh, ỏng làm thư kí ở Bộ Hộ Do có vãn học, ông được chiếu vào Nội các rồi làm bién tu tiẽp làm thị giảng học sĩ thị độc học sT (năm 1831), bị giáng làm viên ngoại lang (1832), thăng Thượng Bảo Khánh làm việc trone Nội các (1836) thãng thị lang đi việc công tại Giang Lưu Ba (Nam Dươns) Năm 1827 được cử đên quãn thứ Gia Định, tự neuyện xin đánh thành Phiên An,
do dư đảng Lê Vãn Khôi chiếm giữ, rồi đánh thắng lây lại thành, vua khen văn thần biết cầm quàn và thường bài ngọc Năm 1839 thăng hàm tham tri, cơ mật đại thần, nhưnc sau măc lỗi bị giáng rồi phục chức chủ sự lang truno hộ lí ấn quan phòng phủ Nội vụ Năm 1840 thãn s tà thị lang Bộ Lễ, làm việc trong Nội các ãn lương tòng nhị phẩm, gia hàm tham tri Nãm 1X41, ỏng làm thự tuần phủ Nam Ngãi, biết cách bò' phòng Đà Nẩng, thãng tả tham tri Bó Cõng Năm
1841, ông làm hộ lí tổng đốc An Hà, 1843 làm tổng đốc An Giang, 1844 làm khảm sứ Tràn Tây, hiệp biện đại học sĩ; năm 1845, an tây trí dũng tướno, Hiệp biện Đại học sĩ thượns thư Bô Công, Cơ mặt viện đại thần, phụ chính đại thần 1847 Năm 1850 ông làm kinh lược sứ Nam Kì kiêm tổng đốc Định Biên Năm 1853 ôrm làm đỏng các đại học sĩ và chịu trách nhiệm quán thứ Quảrm Nam.
121 Đại nam thực lục chính hiên, SĐD Tập XXVIII tr.456.
Trang 34triều đinh tăng cường chỉ huy ở Quảng Nam cho Tổng đốc Định Yên là Phạm Thế Hiển, sung làm tham tán đại thần cho quân thứ Quảng Nam (Tham tri Vũ Duy Ninh thay vị Tổng đốc) Đồng thời, tất cả các tỉnh thành Nam Bắc đều được lệnh đặt pháo đài, đồn canh ở các chỗ quan yếu, bố trí súng đạn khí giới
để phòng bị Tỉnh Biên Hoà cũng được lệnh đắp thành đất ở bờ cát núi Phúc Thắng để hợp lực với pháo đài đật trên núi mà chống giữ Riêng ở Thừa Thiên trong ải Hải Vân xây đắp thêm 2 đồn Phú Gia Tĩnh và Thừa Phúc Thương
c Trận sông Nại Hiên lần thứ hai (tháng 10 ám lịch, tháng 11/1858)
Sử triều Nguyễn chép: "Thuyền binh của Tây Dương (8 chiếc) tiến vào sông
Nại Hiên, Nguyễn Tri Phương phái Chu Phúc Minh, Phơn Khắc Thận (giáng làm tán lí), Nguyễn Duy đem quân chia phái đi đồn mới, bắn phá được thuyền của giặc (thuyên có cái bị gãy rách buồm, cái thì bị thủng vỡ, dỉ nước vào) Vua khen và thưởng cho"(ẩ>.
Sau trận này, vua Tự Đức sai đem các thứ sa, đoạn, trừu nam, lụa, vải đến quân thứ Quảng Nam để dự bị thưởng cho người có công đánh giặc Sang đầu
tháng 11 âm lịch, vua Tự Đức "Đặc cách cho Nguyễn Tri Phương một thanh gươm thượng phương (vua dùng), 5 chi nhân sâm, phái thầy thuốc điều trị và xuống dụ yên ủi"n\ Sau đó đội quân Chiến Tâm thiết lập ở Kinh đô được đổi
tên là Vệ Nghĩa Dũng được cấp tiền bạc và áo quần đến quân thứ Quảng Nam
và tăng cường
d Trận Nam Thọ (tháng 11 âm lịch, tháng 12/1858)
Dưới sự chỉ huy của các Hiệp quản Nguyễn Song Thanh, Phan Hữu Điển,
200 quân ta đánh lui 300 quân địch tại bờ biển Nam Thọ, bắt được một chiếc thuyền tam bản, bắn chết 7 tên giặc, được khen thưởng
e Trận Hoá Khuê - Nại Hiên (12/1858)
Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tổ chức bất ngờ tiến công hai đồn Hoá Khuê và Nại Hiên Quân ta thiệt hại nặng nề, hai Hiệp quản Nguyễn Triều, Nguyễn Ân cùng 30 biền binh tử trận, 65 người bị thương, Nguyễn Duy đến nơi thì đã muộn
Vua Tự Đức thương tiếc nói: ”bây giờ tìm đâu cho được người tướng như th ể'
Ngay sau đó, Nguyễn Tri Phương cho sửa chữa lại đồn, bố trí lại các lầu canh
10 Đ ại N am thựclục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr 456.
(2) Đ ại N am thựclục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.460.
Trang 35để ứng cứu nhanh chóng Đào Trí đem quân sang sông ở xã MI Thị, còn Chu Phúc Minh, Phan Khắc Thận, Nguyễn Duy, mỗi ngày chia nhau đi lại giữa
các, đồn.
g Trận Hoá Khuê - Nại Hiên lần thứ 2 (12/1858)u>
Quân ta bắt gặp 300 đến 400 tên địch ở quãng giữa hai đồn Nại Hiên và Hoá Khuê liền nổ súng tiến công buộc địch phải rút lui
Sau trận này, vua Tự Đức tỏ ý chưa hài lòng vì chưa thắng trận nào đáng kể
h Trận Hoá Khuê - Thạch Giản (12/1858)
700 quân địch kéo đến tiến công Phan Khắc Thận, Nguyễn Duy chống đánh kịch liệt thành một trận to ở quãng Hoá Khuê - Thạch Giản
Nguyễn Duy suýt nữa bị địch bắt Quân ta hi sinh 22 người và 2 thớt voi, bị thương 10 Quân địch chết nhiều, 45 tên Khi ấy, Nguyễn Tri Phương bận đi kiểm tra đồn Chân Sảng, còn Đào Trí, Chu Phúc Minh không kịp đến cứu viện.Sau trận này, quân địch chiếm giữ thành An Hải
Với 7 trận giao chiến, cả hai phía địch, ta đều ở thế cầm cự Không có tiến triển gì đáng kể Vua Nguyễn suy nghĩ đến những quyết định chiến lược, muốn bàn với Nguyễn Tri Phương Khi mới đến quân thứ Quảng Nam, Nguyễn Tri
Phương nghiên cứu tình hình và tâu bày chiến lược của mình Theo ông: "Giặc
lấy chiến làm lợi, ta lấy thủ làm lợi Xin lấy thủ làm chiến, đắp thêm đồn Iuỹ d ể dần dần tiến đến gần giặc",2> Hoặc là sau này ông nói rõ hơn: "Nên liệu sô' bình lực hiện có, nhản các đồn luỹ hiện tại, đặt phục binh đ ể đánh giữ cho kĩ đ ể đợi, làm k ế giằng dai, trù tính cho dân đủ ân, cấp lương cho quân, theo sự cơ
mà làm, mới là k ế hoàn toàn"(ỉ> Tóm lại, chủ trương của Nguyễn Tri Phương
là: tổ chức phòng ngự vững chắc, đánh lâu dài, dùng phục kích và áp sát chờ
cơ hội công kích Vua Tự Đức lại muốn thắng to, thắng nhanh, giải quyết nhanh Tuy không bài bác chiến lược của Nguyễn Tri Phương, nhưng Tự Đức nêu ra cho Nguyễn Tri Phương nếu giữ thế thù sẽ có 6 điều bất lợi hay "6 điều hại", đại ý là: 1 - Giặc có thể được người theo đại báo trước động tĩnh cùa quân ta; 2 - Địch ở Sơn Trà trên cao có thể biết ta, ta lại không biết được địch;
3 - Thông tin liên lạc giữa các đồn của ta chậm vì xa cách; 4 - Quân ta bị hờ mặt sau vì đường bộ chưa tốt, dễ bị tập kích; 5 - Tướng không giỏi, lại sợ chết
(1) Đ ại N am thựcìục chính biên, Sđd, Tập XXVIII tr.405 Theo tài liệu Pháp tháng
12/1858 có trận đánh 2 ngày liên tiếp 21 và 22, tức ngày 17 và 18 tháng 11 âm lịch Có thể là trận này và trận sau.
(2) Đại N am thựcìục chính biên, SĐD Tập XXVIII, tr.466.
(3) Đại N am thựcìục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.80.
Trang 36nên: "quân ta quen thói sợ giặc, gặp giặc là chạy"; 6 - "Địa bàn Đà Năng
nhiều chỗ hiểm yếu, quân ta chia ra giữ sẽ yếu, phòng bên Đông thiếu bên Tây,
do đó giặc rối mà ta nhọc, giặc mạnh mà ta yếu"(l) Vì vậy, vua Tự Đức muốn
thúc đẩy Nguyễn Tri Phương nên "chú tâm vào việc tiến sát gần quân địch mà lần lượt dẹp yên"<2)
Chính vì sự bàn bạc này mà từ sau đây đã diễn ra mấy trận liền quân ta đánh phục binh, ngăn chặn được thế chủ động của giặc
ỉệ Trận Thạch Giản - Nại Hiên (tháng chạp Mậu Ngọ, tháng 1/1859)
Nguyễn Tri Phương va Phạm Thế Hiển đắp đồn Liên Trì, "200 quân Tây
Dương chia hơi đạo tiến vào đồn đánh ở quãng giữa Thạch Giản và Nại Hiên Phục bỉnh nổi dậy bắt bọn Tây Dương phải lui Vua nói: Trước nay đánh giặc chưa có mưu k ế là biết dùng quân kì binh Từ sau có đánh nhau với giặc, nên đặt quân giỏi chia ra phục kích chặn đường vê' của giặcg>ơ).
j Trận A n Hải (tháng chạp Mậu Ngọ, tháng 1/1859)
Địch gồm 400 quân từ thành An Hải chia 3 đường tiến ra Quân phục binh của ta từ các đồn nổ súng đánh chặn giặc, địch phải rút về
k Trận Điện Hải (cuối tháng chạp Mậu Ngọ, tháng 1/1859)
Nguyễn Tri Phương đắp luỹ dài từ bãi biển đến các xã Phúc Ninh, Thạch Giản, bên ngoài luỹ đào hố chữ phẩm, cắm chông, che cỏ, đổ cát lên trên, chia
quân đặt phục binh sát đến thành Điện Hải ''Quân của Tây Dương chia 3 toán
đến, phục binh trỗi lên đánh quân Tây Dương sa xuống hố, quan binh giữ luỹ bắn ra Tây Dương phải rủi lui Vua thưởng chung cho 100 quan tiền"{4).
m Trận Phúc Ninh (tháng giêng K ỉ Mùi, tức tháng 2/1859)(S>
Sử Triều Nguyễn chép: "Thuyền quân của Tây Dương vào bãi biển, bọn thị
vệ là Hồ Oai, cai đội là Tôn Thất Thi, anh danh là Nguyễn Nghĩa bắn chìm được (3 chiến thuyền) Ngày hôm sau, quân của Tây Dương chia nhau tiến vào
(1) Đ ại N am thựcìục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.467.
(2) Đ ại N am thựclục cliính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.468.
(3) Đ ại N am thựciục chính biển, SĐD, Tập XXVIII, tr.470.
(4) Đ ại N am thựcỉục chính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr.473-474.
<5) Theo cách ghi của Đ ại N am thựclục chính biên thì trận này xảy ra sớm nhất là ngày 1
tháng giêng âm lịch, tương ứng với ngày 3/2/1859 Vậy trận đánh xảy ra hôm sau ngày Giơnui đem đại quân từ Đà Nẵng vào Gia Định (2/2/1859) để lại một bộ phận cho Đai tá hải quân Phôcông (Faucon) Lực lượng này hẳn đã đánh Phúc Ninh.
Trang 373 đồn ở bãi biển, Nguyễn Tri Phương phái Trương Phúc Minh CÍŨI 2 đón Trung, Hạ; Nguyễn Duy chia quân mai phục đ ể chặn đánh Quân của Táy Dương đánh vỡ Hạ đồn, hiệp quản là Nguyễn Tình Lương, Lê Vãn Khiêm, cô sức đánh
bị chết trận, quân của Tây Dương liền vây 3 đồn, Phúc Minh chạy vào dại đôn Phúc Ninh cô giữ Nguyễn Duy đem bọn Phan Gia Vĩnh (phó quản cơ sung phó
vệ uý) đến cứu, đánh giết quân của Tây Dương phải lui, quan quân cũng nhiêu người bị thương không dự phòng trước, đến nỗi lại hỏng việc Nluùig trận này vừa được, vừa thua, miễn tội cho Còn thì thưởng thăng (cho người có công) và tặng cấp (cho người chết trận) Phúc Minh phải giáng cấp, triệt vé"1'1
Thế là sau 5 tháng trên mặt trận Đà Nẵng, quân và dân ta đã kìm giữ được liên quân Pháp - Tây Ban Nha chỉ quanh quẩn ở hai đồn An Hải và Điện Hải Địch lại còn phải chịu những khó khăn về thời tiết, dịch bệnh (như bệnh tả lị) nên quân số thương vong đáng kể Ngày 29/1/1859, Giơnui đầy chán chường viết bản báo cáo về Pháp, gửi Bộ trưởng Hải quân Hamơlanh, đại ý<2):
- Bệnh lị đang hoành hành, làm chết và suy yếu nhiều người
- Chính phủ bị nhầm mọi điều về xứ này: tài nguyên ít, chính quyền rất mạnh, quân đông, dân vệ là toàn thể quần chúng Cứ xem vẻ tiều tuỵ của các giáo sĩ thì biết Đà Nẵng không hơn gì Hồng Kông
- Không thể hành quân đường bộ lên Huế, không đủ lực
- Cuộc viễn chinh vào Sài Gòn chắc chắn hơn và là một nơi hấp dẫn Đánh Bắc Kì thì có lợi cho nước Tây Ban Nha Giám mục Penlơranh đã xin về Hồng Kông
- "Về mặt sức khoẻ, tôi rất mệt mỏi, tôi không thể'chịu nổi cuộc lim trú kéo
dài trong thời tiết ở đây" "Khắp nơi và ỏ bất kì công việc nào chứng tôi đều phải xoay sở Những nhu yếu phẩm hứa hẹn từ Manila không được chuyển đến Những thuỷ thủ Phi Luật Tân (Tơgals) đều đã ra đi ".
Bộ trưởng Hải quân Pháp Hamơlanh đã ghi bên lề đoạn nói về việc đánh
Sài Gòn như sau: "Theo tôi, cuộc viễn chinh này đều tốt về mọi phương diện"131.
Vậy là kẻ địch đã có ý định rời bỏ Đà Nẵng để tấn công vào Gia Định Việc này không phải vua và đình thần triều Nguyễn không lường biết trước Ngay từ tháng chạp Mậu Ngọ, sau trận đánh thứ 9 ở An Hải, triều Nguyễn đã bàn bạc
(1) Đại N am thựcìục chính biên, SĐD Táp XXV III, tr.7-8.
(2) Taboulet, SĐD, tập 2, tr.439-440.
0) Taboulet, SĐD, tập 2, tr.440.
Trang 38đề phòng Tuy nhiên, vua Tự Đức đã thiên về phòng thủ Kinh đô hơn Sử triêu
Nguyễn chép tháng chạp Mậu Ngọ: "Vua nói: bờ biển Cẩn Giờ cũng là nơi
quan yếu, không nên cho là Tây Dương nó không đến mà sơ phòng Vả lại, thuyền của Tây Dương đến đỗ ở Trà úc, há có thể đ ể cho chúng đỗ lảu Trẫm ngày đêm lo nghĩ, chậm một ngày thì thêm lao phí một ngày Bọn ngươi nên nghĩ cách đ ể đuổi nó đi Các quan đều dạ.
Trần Văn Trung tâu rằng: Cần Giờ là nơi quan yếu của Nam Kì, Nguyên Tri Phương đã đi, Phạm T h ế Hiển lại đi Thuyền của Tây Dương không được thoả chí ở Trà Sơn, tất đến cửa biển ấy Vũ Duy Ninh chưa quen địa thế, sợ có việc quan ngại khác Vua nói: trước đã cho Phạm T h ế Hiển liai lại một tháng, chỉnh lí thành đất các đồn Duy Ninh cẩn thận giữ gìn, cũng có thể không ngại Cửa biển Thuận An là cửa ngõ của Kinh thành, đã sai Trần Tiễn Thành, Nguyễn N hư Thăng sửa đắp thành đất các đồn Trẫm muốn đi tuần chơi đ ể xem, nhưng lại sợ phiền cho dân Trương Đăng Q uế tuổi đã già, còn như bọn
Lê Chỉ Tín nên cắt lượt nhau đi đến nơi chỉ thị Trương Đăng Q uế xin đi, Vua cho đi"(l>.
Chưa đầy một tháng sau thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo phần lớn binh lực xuống phía nam tiến công Gia Định Cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam bước sang một giai đoạn mới rộng lớn hơn và nghiêm trọng hơn
4 Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì Nhân dân Nam Kì chống xâm Iượcể Hiệp ước 1862
a Địch đánh chiếm thành Gia Định tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (từ tháng 2 đến tháng 11/1859)
Ngày 2/2/1858, Giơnui dẫn đoàn quân viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha rời
Đà Nẵng, chỉ để lại một bộ phận quân cùng vài chiếc tàu cho Đại tá Hải quân Phôcông chỉ huy Lực lượng Giơnui gồm 9 tàu chiến Pháp, 1 tàu chiến Tây Ban Nha và 4 chiếc thương thuyền (tổng cộng 14 chiếc tàu), với quân số 2.176 người, nhằm hướng tiến vào Gia Định Trên đường đi, Giơnui có đỗ lại ở Tử Dữ (tỉnh Khánh Hoà, có tài liệu ghi đây là vịnh Cam Ranh) và quan quân Khánh Hoà có tâu báo 14 chiếc tàu Tây Dương đỗ ở đó Ngày 9/2, Giơnui tới tập trung
ở Vũng Tàu, cửa sông Đồng Nai Lúc này, địch đã được tãng viện thêm 6 chiếc tàu vận tải lương, thành 20 chiếc, đông đảo hơn hồi đầu ở Đà Nẵng Ngày 10/2
ll) Đ ại N am thực lục cliính biên, SĐD, Tập XXVIII, tr472.
Trang 39địch tấn công pháo đài Phúc Thắng ở núi Lại Sơn (Gành Rái), lúc ấy thuộc tính
Biên Hoà ''Quân của Tây Dương (20 chiếc thuyền) bắn phá pháo đài Phức
Thắng (dưới đây đều thuộc tỉnh Biên Hoà) Lãnh binh là Bùi Thoả lui quán đến đóng ở Bảo Trâm Việc ấy đến tai vua Vua sai'tỉnh thần là Nguyễn Đức Hoan phái lính đến giữ Gành Rái (chữ Hán là Thái cơ) dàn quân hão ở phận l ừng gần đây, phao lên là chuyên giữ đường bộ Bùi Thoả chuyên đi đến hai đồn Phúc Vĩnh, Danh Nghĩa (Gia Định) tuỳ tiện mà đóng quân ngăn giữ” Sau đó,
quyền Đề đốc Gia Định là Trần Tri đem 150 quân đến, chốt ờ cửa biển Cần Giờ0’ Ngày 11/2, địch tiếp tục đánh đồn Cần Giờ Từ ngày 12 đên ngày 15/2, địch tiếp tục đánh đồn Cần Giờ Từ ngày 12 đến ngày 15/2, địch vào sông
Đổng Nai và liên tiếp đánh phá hàng chục đồn phòng ngự của quân ta: "Quân
Tây Dương bắn phá các bảo (ụ chiến đấu) Lương Thiện (Biên Hoà), Phúc Vĩnh, Danh Nghĩa (Gia Định) vào cửa biển Cần Giờ, giữ Phù Giang (Biên Hoà) Bùi Thoả chạy vê giữ bảo Tam Kì (Biên Hoà) Tuần phủ Biên Hoà là Nguyễn Đức Hoan đem thêm quân đến giữ pháo đài Tả Định (Biên Hoà) Rồi thì các đồn Tả Định, Tam Kì và Bình Khánh, Phủ Mĩ, Hữu Bình (đều thuộc Gia Định) nối nhau đều bị vây đánh Quân của Tây Dương bền tiến sát đến tỉnh thành Giơ Định Hộ đốc là Vũ Duy Ninh khẩn tư các tỉnh hội quân đến cíai"ữ) Quân ta
đánh trả dữ đội nhưng vẫn không lại Vì không đủ quân đóng giữ, lại sợ quân ta giành lại, địch đốt phá sạch tất cả những đồn mà chúng chiếm Tại ngã ba sông Tàu Hủ nối Gia Định với Chợ Lớn có hai pháo đài ở hai bờ sông Bến Nghé (xóm Chiếu và Thủ Thiêm) Dưới sông đóng cọc và thả thuyền cột lại với nhau chứa đầy rơm và thuốc súng Quân địch kéo tới, súng ta nổ vang và trận đánh diễn ra dữ dội, kéo dài suốt chiều ngày 15/2 Đêm đó, địch cho xuồng máy tới nhổ cọc phá cản Sáng 17, bảy tàu chiến địch dàn trận cách pháo đài chừng 800m bắn phá dữ dội lên đồn Sau đó địch đổ bộ chiếm hai đồn cửa ngõ vào
thành Gia Định'3' Theo một số tài liệu lúc này trong thành có tới 1.000 quân, với rất nhiều lương thực, khí giới rất nhiều Sáng 17/2, địch tập trung toàn bộ
(1) Đại N am thựcìục chính biên, SĐD Tập XXIX, tr9 -l 1.
<2) Đ ại N am thựcìục chính biên, SĐD, Tập XXIX, tr.9 -1 1.
<3) Thành Gia Định (Pháp ghi là Sài Gòn) được xây bởi kĩ sư Pháp theo kiểu V auban châu
Âu từ thời Nguyễn Ánh có sô' dân trong thành tói 10 vạn người Vùng này còn có địa danh là Sài Côn Sau khởi biến Lê Văn Khôi bị Triều Nguyễn phá đi Nãm 1837, một thành mới nhỏ hơn, hình vuông gần sông Bến Nghé hơn (cách khoảng 800m ét), ở bên hữu ngạn cũng là phía nam rạch Thị Nghè Mỗi chiều hình vuông của toà thành dài 475 mét, tường cao xây đá ong và gạch, có nhiều đồn và luỹ xung quanh cùng nhiều cây cối, vườn nhà dân bao bọc Dọc sông Bến Nghé và rạch Tàu Hũ đông nghịt nhà lá gỗ hoặc gạch ngói Ven sông san sát thuyên ghe E}ông đúc nhất là Chợ SỎI (cấu Ong Lãnh).
Trang 40hoả lực công phá thành Gia Định Quân ta bắn trả mạnh mẽ, nhưng rồi yêu dần
và không gây cho địch thiệt hại gì đáng kể Trưa ngày hôm đó 17/2, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ, tập trung hoả lực đánh vào góc Đông Nam, là nơi quân ta bố trí nhiều đại bác và gần sông nhất Địch dùng thuốc nổ phá cửa thành, leo thang tre lên thành Hai bên đánh giáp lá cà Cuối cùng quân ta núng thế, được lệnh rút ra, bỏ lại trong thành 200 súng đại bác bằng đồng và thép,20.000 vũ khí các loại, 86.000kg thuốc súng và một lượng lúa gạo đủ nuôi hàng vạn quân, 9 chiếc thuyền đã đóng và đang đóng nằm dưới ụ Tính tất cả theo thời giá là 20 triệu quan
Sau khi thành Gia Định thất thủ Vũ Duy Ninh là quan trấn thủ thành, chạy vào huyện Phúc Lộc, rồi sợ trách nhiệm, ông ta đã treo cổ tự tử tại thôn Phúc
Lí, mở đầu cho một chuỗi tự sát của một bầy tôi bất lực dưới trướng
Tự Đức
Tổng đốc Định Tường và Vĩnh Long là Trương Văn Uyển đưa 1800 quân phối hợp với 800 quân của tuần phủ Định Tường là Lê Đình Đức kéo lên Gia Định ứng viện, lại cho người tức tốc báo tin chiến sự về Huế Triều đình sai hộ
bộ thượng thư là Tôn Thất Cáp trưng dụng thêm binh sĩ ở các tỉnh Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận, mỗi tỉnh 500 người kéo vào Biên Hoà Quân của Uyển và Đức vừa hạ trại ở gần chùa Mai Sơn thì bị địch đột kích, phải lui binh Trương Văn Uyển bị giáng chức, Đức bị cách chức
Trong khi quân Nguyễn liên tiếp thất bại, phải rút lui thì thực dân Pháp lại rơi vào thiên la địa võng của cuộc chiến tranh nhân dân ở Nam Bộ Chúng phải giãng lực lượng ra để đối phó với nhiều toán dân binh mọc lên ở khắp nơi, ví như toán quân củ Lê Huy (trước là quân nhân bị thải hồi), toán quân của Trần Thiện Chính (trước là tri huyện bị triều đình cách chức) Dân các vùng đất mà Pháp chiếm được đều tự tay thiêu huỷ nhà cửa bỏ đi hoặc tự động tổ chức thành đội ngũ đánh giặc "Nơi mà trước kia có 40 làng hồi năm 1859, nay chỉ còn có một làng gọi là Chợ Quán, nằm giữa thành Gia Định và Chợ Lớn" Có tài liệu chép rằng, thấy không thể giữ nổi thành, ngày 8/3/1859, Giơnui ra lệnh đặt 32 ổ thuốc súng, phá tung vách thành Gia Định, rồi đốt hết kho tàng trong thành, lúa gạo ngùn ngụt cháy trong suốt 2 năm
Sau khi phá thành Gia Định, quân giặc càng bị đột kích, bị bao vây và tập kích Khắp nơi nhân dân đứng lên ứng nghĩa Tinh hình đó đã buộc tướng giặc phải ra lệnh cho binh lính của chúng rút xuống các tàu chiến đâu ở ha lưu u Hữu Bình và lấy ụ Hữu Bình (xóm Chiếu) làm căn cứ trên bộ Lâm vào một tình thế chẳng có gì là sáng sủa, địch đã nghĩ tới việc quay trở ra, tăng viện cho toán