1. Trang chủ
  2. » Kinh Tế - Quản Lý

Phân bổ nguồn lực với công bằng

6 369 1

Đang tải... (xem toàn văn)

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Bổ Nguồn Lực Với Công Bằng
Định dạng
Số trang 6
Dung lượng 21,37 KB
File đính kèm Phân bổ nguồn lực với Công bằng.rar (19 KB)

Nội dung

Mô hình Kuznets Năm 1955, Simon Kuznets đề xuất mô hình về mối quan hệ giữa mức phát triển và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được thể hiện theo hình chữ U ngược.. Hạn

Trang 1

Xem các mô hình kinh tế bàn gì về việc phân bổ nguồn lực như thế nào sẽ đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội và công bằng thành quả

1 Mô hình Kuznets

Năm 1955, Simon Kuznets đề xuất mô hình về mối quan hệ giữa mức phát triển và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được thể hiện theo hình chữ U ngược Ông giả thuyết rằng, bất bình đẳng sẽ tăng ở giai đoạn ban đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi hơn Nguyên nhân của hiện tượng này là do các yếu tố liên quan đến cầu Cụ thể, tại thời điểm bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá, công nghệ và thể chế thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu về vốn và lao động có kỹ năng, trong khi hạ thấp vai trò của lao động không có kỹ năng Sau đó, kỹ thuật mới liên tục xuất hiện, còn thể chế thì thay đổi chậm hơn Nhờ đó, thu nhập của đại bộ phận lao động (chuyên môn kém) cũng được cải thiện bởi vai trò của yếu tố nhân lực trong cơ cấu sản phẩm lại được chú trọng

Mối quan hệ này được chia là 3 giai đoạn:

Giai đoạn I: đối với một quốc gia thì đây là giai đoạn đầu kinh tế chưa tăng trưởng, thu nhập bình quân thấp, bất công trong phân phối thu nhập thấp

Giai đoạn II: kinh tế có tăng trưởng, thu nhập bình quân tăng, bất công cũng tăng theo Giai đoạn III: kinh tế phát triển, thu nhập bình quân cao, tình trạng bất công lại giảm

Như vậy, theo Kuznets, chỉ cần đạt đến một mức độ phát triển cao nhất định thì tình trạng bất bình đẳng sẽ tự khắc giảm xuống, nhà nước không phải sử dụng các biện pháp can thiệp để đạt được mục tiêu công bằng xã hội và công bằng thành quả

Hạn chế của mô hình Kuznets là không giải thích được nguyên nhân nào tạo ra sự thay đổi bất bình đẳng trong quá trình phát triển và sự khác biệt giữa các nước về xu thế thay đổi này, nhiều khả năng do họ sử dụng các chính sách khác nhau tác động đến tăng trưởng

và bất bình đẳng

2 Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis

Cơ bản nhất trí với mô hình của Kuznet nhưng A Lewis đã tiến thêm một bước, giải thích được nguyên nhân của xu thế thay đổi bất bình đẳng trong quá trình phát triển Trước hết, bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực này ngày càng tăng lên nhưng tiền công của công nhân nói chung vẫn ở mức tối thiểu Như vậy, trong khi mức tiền công của công nhân không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản vừa tăng lên do quy mô mở rộng, vừa tăng lên do lao động công nhân đưa lại Ở giai đoạn sau bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được thu hút vào khu vực thành thị

Trang 2

(sản xuất công nghiệp và dịch vụ) thì lao động trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất Nhu cầu lao động ngày càng tăng thêm đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng Trong mô hình này, bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng Bất bình đẳng ở đây cũng có nghĩa là các nhà tư bản và nhóm người có thu nhập cao sẽ nhận được nhiều hơn

và họ cũng là những người sử dụng phần tiết kiệm của mình tạo ra tích lũy, mở rộng sản

xuất, vì thế bất bình đẳng đồng thời là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Các nhà kinh tế ủng hộ mô hình này còn cho rằng các cố gắng để phân phối lại thu nhập “một cách hấp tấp, vội vã” sẽ dẫn đến nguy cơ bóp nghẹt tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng: một mức độ phân phối lại hợp lý thực sự có thể tăng cường tiết kiệm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nếu thu nhập tăng kéo theo tỉ lệ tỷ

lệ tiết kiệm tăng, trong trường hợp này bất bình đẳng tăng sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng, bất bình đẳng giảm sẽ kìm hãm tiết kiệm Tuy nhiên, nếu thu nhập tăng kéo theo tỷ lệ tiết kiệm biên giảm dần, trong trường hợp này bất bình đẳng giảm sẽ làm tăng tiết kiệm trong nền kinh tế Điều này được rút ra từ các số liệu nghiên cứu của các nước đang phát triển,

ở những nước này có xu hướng là, khi người giàu tăng thu nhập, nhu cầu tiêu dùng của họ tăng cao (hướng vào những hàng hóa xa xỉ), vì thế, xu hướng tiết kiệm biên rất thấp và tỉ

lệ tiết kiệm trung bình của họ có thể thấp hơn những người kém giàu có hơn Như vậy, với những nước đang phát triển, việc giảm bất bình đẳng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

thông qua tiết kiệm đầu tư Hay nói cách khác có thể kết hợp giữa công bằng và tăng trưởng kinh tế bằng cách áp dụng một mức độ phân phối lại hợp lý.

3 Mô hình phân phối lại trước, tăng trưởng sau

Mô hình được đúc kết qua kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Ở những quốc gia này, sự phát triển được bắt đầu bằng cách “tước đoạt của những kẻ tước đoạt” Nhà nước tiến hành công hữu hóa các nguồn lực chủ yếu của phát triển kinh tế Các nguồn lực sản xuất được phân phối lại cho các đơn vị nhà nước và người sản xuất nhỏ trong công nghiệp cũng như nông nghiệp dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể Hệ quả của phương thức này là ngay lập tức, tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập không còn đáng kể Tuy nhiên, trong dài hạn có 2 hệ quả

có thể xảy ra: Một là, nếu những người chủ mới của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc

sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể có thể quản lí có hiệu quả các tài sản và các nguồn lực sản xuất tốt hơn các chủ cũ thì tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế được thực hiện Hai là, nếu những người chủ mới không thể quản lí có hiệu quả các tài sản và nguồn lực thì tăng trưởng và phát triển không thể đảm bảo thực hiện Thực tiễn cho thấy, hệ quả thứ hai thường xuất hiện vì những người chủ mới chưa đủ kinh nghiệm và năng lực quản lí kinh tế, đồng thời, khả năng tích lũy từ khu vực công và tập thể rất chậm Như vậy, thực hiện được công bằng trong phân phối thu nhập nhưng không thúc đẩy tăng trưởng và phát

Trang 3

triển kinh tế Do đó, chỉ khi các nhà quản lý có đủ kinh nghiệm và năng lực quản lí kinh

tế, việc áp dụng mô hình này mới giúp chúng ta đồng thời thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

4 Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H Oshima

H Oshima cho rằng có thể giảm tình trạng bất bình đẳng ngay trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển Xuất phát từ đặc điểm sản xuất nông nghiệp châu Á, đó là sản xuất

lúa nước có tính thời vụ cao và cho rằng nếu quá trình phát triển được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp thì khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay

từ giai đoạn đầu Việc tập trung phát triển khu vực nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của Nhà nước về giống, kĩ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhập ở khu vực nông thôn (vốn là khu vực

có thu nhập thấp trong xã hội) được tăng dần Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa xí nghiệp có qui mô lớn và xí nghiệp có qui mô nhở ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở nông thôn Quá trình này có thể chia làm 2 giai đoạn Trong giai đoạn đầu, khoảng cách thu nhập tăng lên do các cơ sở sản xuất lớn tận dụng được lợi thế về qui mô và có điều kiện áp dụng kĩ thuật mới Sau đó do lợi ích của

cơ sở hạ tầng và khả năng áp dụng kĩ thuật mới tăng lên ở các cơ sở nhỏ, làm cho khoảng cách về thu nhập giảm dần Theo Oshima, tiết kiệm sẽ được tăng lên ở các nhóm dân cư,

kể cả các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn được các khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu tư trước đó và tiếp tục đầu

tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục, đào tạo cho con em họ

5 Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của World Bank

Cũng giống với quan điểm của H Oshima là tăng trưởng kinh tế đi đôi với bình đẳng tuy nhiên WB tập trung vào các chính sách phân phối lại Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong khi

quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa chọn các giải pháp chính sách phân phối lại được xem là quan trọng Nó bao gồm chính sách phân phối lại tài sản (của cải) và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng Cần phải

có những chính sách phân phối lại tài sản vì nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công trong phân phối thu nhập của hầu hết các cá nhân ở các nước đang phát triển là do sự bất công trong sở hữu tài sản, gần 20% dân số nhận được hơn 50% thu nhập vì họ có thể đã

sở hữu và kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất, đất đai, thậm chí cả vốn nhân lực Chính sách đã được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát

triển để phân phối lại tài sản chính là cải cách ruộng đất và tăng cường cơ hội giáo dục cho nhiều người Tuy nhiên trong thực tế, các chính sách nói trên như cải cách ruộng đất chỉ thực sự là công cụ có tác động đối với phân phối lại thu nhập khi có sự kết hợp với

Trang 4

các chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn, chích sách tiêu thụ nông sản, chính sách công nghệ Nói cách khác, để đạt được hiệu quả chính sách, cần thiết xây dựng đồng bộ

hệ thống các chính sách có liên quan

Việt Nam đã lựa chọn mô hình tăng trưởng nhấn mạnh công bằng và tiến bộ xã hội ngay

từ khi trình độ phát triển kinh tế còn ở mức thấp Các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện nhằm đạt được mục tiêu này bao gồm chính sách về y tế, giáo dục – đào tạo, giải quyết việc làm cho người lao động, tín dụng cho hộ nghèo, chính sách xóa đói giảm nghèo, định canh định cư và di dân phát triển kinh tế mới, chính sách giao đất, giao rừng,

hỗ trợ sản xuất, trợ giá, các Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, … Thực tế tăng trưởng trong giai đoạn vừa qua đã đạt được kết quả tốt, các mục tiêu xã hội cũng đạt được thành tích đáng kể, nhất là xóa đói giảm nghèo Tuy nhiên, mục tiêu đảm bảo công bằng vẫn chưa thực sự đạt được, mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vẫn tiếp tục gia tăng

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững (ước lượng tới hơn 70 định nghĩa khác nhau trên thế giới), trong đó về cơ bản các định nghĩa đều xuất phát và dựa vào định nghĩa của Ủy Ban Môi Trường và Phát Tariển Thế Giới của Liên Hợp Quốc cũng được gọi là Ủy Ban Brundtland vào năm 1987 Đó là:

"Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai“

Phát triển bền vững được xây dựng dựa trên 3 trụ cột là bền vững về kinh tế, bền vững về

xã hội và bền vững về môi trường

Trong đó, phát triển bền vững về kinh tế là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế thể hiện

ở quá trình tăng trưởng kinh tế ổn định và sự thay đổi về chất của nền kinh tế, gắn với quá trình tăng năng suất lao động, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng tiến bộ Mục tiêu của sự PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng

ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho các thế

hệ mai sau Để đạt được sự PTBV về kinh tế, điều kiện tiên quyết phải có là:

-Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định

-Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ Đối với các nước đang phát triển, đó là xu hướng dịch chuyển các nguồn lực như vốn, lao động, đất đai, … từ nông nghiệp có năng suất thấp sang công nghiệp, dịch vụ có năng

Trang 5

suất lao động cao hơn; từ ngành già cỗi hoặc ít đổi mới sang ngành mới (thường là chế biến, chế tạo) có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, dần hình thành những ngành đóng vai trò đầu tầu Nếu chính sách biết hướng vào những ngành có tiềm năng trở thành đầu tầu ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì có thể tạo ra bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu ngành

và kèm theo đó là thúc đẩy tăng trưởng năng suất

-Tăng trưởng kinh tế phải dựa vào năng lực nội sinh là chủ yếu và phải làm tăng năng lực nội sinh

Phát triển bền vững về xã hội được hiểu là quá trình phát triển đạt được kết quả ngày càng cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ cho người dân, mọi người đều có cơ hội trong giáo dục, có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên của xã hội Để PTBV về xã hội, các vấn đề phải được chú trọng là:

- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao động

- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo

- Tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân

Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tại New York, đưa ra tầm nhìn, định hướng về phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động để hướng tới phát triển bền vững trên toàn cầu cho giai đoạn 15 năm tới Theo đó, các Mục tiêu Toàn cầu về Phát triển Bền vững (2016-2030), để thay cho Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ đã hết hạn vào cuối năm

2015 gồm 17 mục tiêu chung trong đó có đề cập tới xóa nghèo, xóa đói, sức khỏe tốt, giáo dục chất lượng cao, bình đẳng giới, nước sạch và vệ sinh, giảm bất bình đẳng Các nguyên tắc chính của phát triển bền vững có đề cập tới nguyên tắc bình đẳng giữa các thế

hệ và nguyên tắc bình đẳng trong nội bộ thế hệ (Xem thêm cụ thể 17 mục tiêu chung và một số định hướng giải pháp tại https://cvdvn.net/2015/08/31/17-muc-tieu-phat-trien-ben-vung-cua-chuong-trinh-nghi-su-phat-trien-ben-vung-2030/)

Để đạt được các mục tiêu của phát triển bền vững, 9 nhóm xã hội chính cần tham gia một cách tích cực nhất vào quá trình phát triển, đó là:

- Giới doanh nhân: Đây là đối tượng tác động tích cực vào tăng trưởng, phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng gây tác động tiêu cực góp phần dẫn tới hậu quả làm cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường

Trang 6

- Nông dân: Lực lượng đông đảo tham gia tích cực vào quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, phát triển kinh tế, nhưng cũng đồng thời gây tác hại tàn phá môi trường Chỉ vì sinh kế mà họ đã khai thác bừa bãi các tài nguyên thiên nhiên

- Chính quyền địa phương: Là các cấp trực tiếp xây dựng, quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện Chương trình PTBV trên địa bàn địa phương

- Cộng đồng các nhà khoa học: Là lực lượng có vai trò quyết định về chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện Chương trình PTBV

- Các dân tộc ít người: Đây là những người bản xứ đã được hình thành và sống lâu năm ở những khu vực nhất đinh Họ có các phong tục tập quán hàng ngàn đời về sử dụng tài nguyên một cách hài hoà ( kiến thức bản địa) Mặt khác, hiện nay do sức ép về dân số và phát triển kinh tế, ở nhiều nơi họ lại là những người khai thác tài nguyên ( nhất là rừng) một cách bừa bãi Trong PTBV, cả hai mặt trái ngược này cần phải được chú ý một cách thoả đáng

- Phụ nữ: Phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số thế giới Có hai khía cạnh quan trọng nhất trong mối quan hệ của phụ nữ và PTBV Một là, phụ nữ là người chịu ảnh hưởng trước tiên của các tác động tiêu cực của sự phát triển không bền vững Thứ hai là họ có vai trò rất lớn trong tái tạo dân cư nhân loại, giáo dục thế hệ tương lai hướng tới PTBV, tạo ra và quản lý các nhu cầu sử dụng tài nguyên Trái đất

- Các tổ chức phi chính phủ ( NGO) ở nhiều nước: Thông thường các tổ chức NGO có nhiều thuận lợi trong việc thực hiện các dự án thuộc các lĩnh vực quyền con người, giảm nghèo và quản lý tài nguyên So với các tổ chức Chính phủ, NGO ít bị những quyền lợi chính trị quốc tế, thương mại, ngoại giao chi phối Các NGO thường hiểu biết sâu sắc hơn

về các vấn đề địa phương, vì vậy họ dễ dàng thực hiện có hiệu quả các dự án phát triển cộng đồng

Đây là 9 nhóm xã hội có vai trò rất quan trọng cần được huy động tham gia vào các hoạt động của tiến trình PTBV

Ngày đăng: 19/12/2016, 17:42

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w