1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá hiện trạng phân bố và đề xuất giải pháp bảo tồn cây Ba kích tím (Morinda officinalis. How) trong điều kiện tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

89 1K 4

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 2,6 MB

Nội dung

Điều này xuất phát từ việc khai thác bừa bãi, quá mức của con người, những cây ít có giá trị hoặc chưa được nghiên cứu sử dụng lại bị tàn phá nhường chỗ cho hoạt động sản xuất nông nghiệ

Trang 1

-

HOÀNG QUỲNH ANH

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ VÀ

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN

CÂY BA KÍCH TÍM (Morinda officinalis How)

TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN BA CHẼ, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Thái Nguyên - 2016

Trang 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

-

HOÀNG QUỲNH ANH

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ VÀ

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN

CÂY BA KÍCH TÍM (Morinda officinalis How)

TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN BA CHẼ, TỈNH QUẢNG NINH Chuyên ngành : Khoa học môi trường

Mã số ngành : 66 44 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN CHÍ HIỂU

Thái Nguyên - 2016

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả của luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác

Tác giả luận văn

Hoàng Quỳnh Anh

Trang 4

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Người hướng dẫn khoa học - TS Nguyễn Chí Hiểu đã tận tính hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái nguyên và các quý Thầy, Cô giáo, cán bộ, viên chức trong Phòng đào tạo và khoa Khoa học Môi trường của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo, cán bộ Phòng NN&PTNT huyện Ba Chẽ, phòng TN&MT huyện Ba Chẽ, Hạt kiểm lâm huyện Ba Chẽ đã tạo điều kiện hỗ trợ cho tôi cả về vật chất cũng như tinh thần Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo UBND huyện Ba Chẽ, Phòng Thống kê; cán bộ và nhân dân 08 xã trên địa bàn huyện Ba Chẽ đã giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra và thu thập số liệu thực hiện đề tài

Cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do tính phức tạp của địa hình, các nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc ở Ba Chẽ còn quá ít mới chỉ mang tính thăm dò, thời gian và trình độ có hạn nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, quý vị và bạn bè để luận văn này được hoàn thiện hơn

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 19 tháng 9 năm 2016

Tác giả luận văn

Hoàng Quỳnh Anh

Trang 5

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii

MỤC LỤC iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU vii

DANH MỤC CÁC BẢNG viii

DANH MỤC CÁC HÌNH ix

MỞ ĐẦU 10

1 Tính cấp thiết của đề tài 10

2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 12

2.1 Mục tiêu tổng quát 12

2.2 Mục tiêu cụ thể 13

3 Ý nghĩa của đề tài 13

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 14

1.1 Cơ sở lý luận của đề tài 14

1.1.1 Khái niệm tài nguyên cây thuốc 14

1.1.2 Đặc điểm của tài nguyên cây thuốc 14

1.1.2.1 Các đặc điểm liên quan đến cây cỏ 14

1.1.2.2 Các đặc điểm liên quan đến tri thức sử dụng 15

1.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài 15

1.2.1 Tài nguyên cây thuốc trên Thế giới 15

1.2.2 Tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam 21

1.2.3 Tình hình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc ở Quảng Ninh 27

1.3 Công nghệ GIS và ứng dụng trong nghiên cứu bảo tồn cây thuốc 28

1.4 Một số kết quả nghiên cứu về cây Ba kích tím 29

1.4.1 Tình hình nghiên cứu Ba kích trên thế giới 29

1.4.2 Tình hình nghiên cứu Ba kích ở Việt Nam 31

Trang 6

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU 35

2.1 Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 35

2.1.1 Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 35

2.1.2 Thời gian nghiên cứu 35

2.2 Nội dung nghiên cứu 35

2.2.1 Đặc điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Ba Chẽ ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển loài Ba kích tím 35

2.2.2 Kết quả khảo sát sự phân bố cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ 35

2.2.3 Đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng và gây trồng cây Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh 36

2.2.4 Xây dựng vùng phân bố lý thuyết của cây Ba kích tím tự nhiên trong khu vực huyện Ba Chẽ 36

2.2.5 Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ 36

2.3 Phương pháp nghiên cứu 36

2.3.1 Phương pháp kế thừa và thu thập số liệu thứ cấp 36

2.3.2 Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp 36

2.3.2.1 Phỏng vấn thu thập thông tin 36

2.3.2.2 Điều tra tại thực địa 37

2.3.3 Phương pháp tổng hợp, phân tích SWOT và đề xuất giải pháp 38

2.3.4 Ứng dụng GIS xây dựng vùng phân bố lý thuyết cây Ba kích tím 39

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40

3.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ba Chẽ ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển loài Ba kích tím 40

3.1.1 Điều kiện tự nhiên của huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh 40

3.1.1.1 Vị trí địa lý 40

Trang 7

3.1.1.2 Địa hình, địa mạo 41

3.1.1.3 Khí hậu 41

3.1.1.4 Thuỷ văn 41

3.1.1.5 Thổ nhưỡng 42

3.1.1.6 Tài nguyên rừng 42

3.1.1.7 Hệ động, thực vật rừng 43

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh 43

3.1.2.1 Tăng trưởng kinh tế 43

3.1.2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 44

3.1.2.3 Dân số, dân tộc 44

3.2 Kết quả khảo sát sự phân bố cây Ba kích tím tự nhiên phân bố trên địa bàn huyện Ba Chẽ 46

3.2.1 Đặc điểm thực vật học của cây Ba kích tím 46

3.2.2 Đánh giá sự phân bố của cây Ba kích tím trong vùng nghiên cứu 47

3.2.2.1 Ý kiến của người dân bản địa về sự phân bố sinh thái của cây Ba kích tím 47

3.2.2.2 Thực trạng phân bố loài Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện

Ba Chẽ 49

3.2.3 Đặc điểm đất đai nơi Ba kích tím mọc trên địa bàn huyện Ba Chẽ 52

3.2.4 Mối quan hệ giữa cây Ba kích tím với các loài cây khác trong vùng phân bố 53

3.2.5 Thành phần loài cây bụi thảm tươi nơi Ba kích tím phân bố 55

3.3 Đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng và gây trồng cây Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba chẽ, tỉnh Quảng Ninh 56

3.3.1 Hiện trạng khai thác và gây trồng Ba Kích Tìm tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ 56

3.3.2 Phương thức thu hái và sử dụng cây Ba kích tím của người dân 57

3.3.3 Tình hình gây trồng Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ 59

Trang 8

3.4 Xây dựng vùng phân bố lý thuyết của cây Ba kích tím tự nhiên trong khu

vực huyện Ba Chẽ 62

3.5 Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ 66

3.5.1 Khó khăn và thuận lợi trong việc phát triển Ba kích tím 66

3.5.2 Đề xuất các giải pháp dựa trên kết quả nghiên cứu 67

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 70

1 Kết luận 70

2 Kiến nghị 71

TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

I Tài liệu tiếng Việt 73

II Tài liệu tiếng Anh 76

III Trang Webb 77

PHỤ LỤC

Trang 9

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

NCKH : Nghiên cứu khoa học

NCTNLS : Nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Trang 10

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Các nguồn tài nguyên đất đai huyện Ba Chẽ 42

Bảng 3.2: Hiện trạng dân số huyện Ba Chẽ 44

Bảng 3.3: Thành phần dân tộc 45

Bảng 3.4: Đặc điểm thực vật học Ba kích tím theo thời gian 46

Bảng 3.5: Kiến thức bản địa về sự phân bố sinh thái của cây Ba kích tím 48 Bảng 3.6: Mật độ Ba kích tím trong các trạng thái rừng 49

Bảng 3.7: Kết quả phân tích một số chỉ tiêu đất tại khu vực nghiên cứu 53

Bảng 3.8: Mối liên quan giữa cây Ba kích tím với các loài cây khác 54

Bảng 3.9: Thành phần thảm tươi khu vực huyện Ba Chẽ 55

Bảng 3.10: Tình hình khai thác và sử dụng cây Ba kích tím của người dân địa phương trên địa bàn huyện Ba Chẽ 57

Bảng 3.11: Tình hình gây trồng Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ 60

Bảng 3.12: Diện tích của từng mức độ phân bố Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ 65

Bảng 3.13: Thực trạng công tác quản lý, bảo tồn Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ 66

Trang 11

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Bản đồ vệ tinh huyện Ba Chẽ (Gmap) 40 Hình 3.2: Sơ đồ chuỗi thị trường của Ba kích tím 59 Hình 3.3: Chức năng xây dựng bản đồ chuyên đề để lập bản đồ phân bố loài

trong ArcGIS 63 Hình 3.4: Bảng thuộc tính phân bố Ba kích tím 63 Hình 3.5: Bản đồ thể hiện vùng phân bố lý thuyết Ba kích tím 64

Trang 12

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Từ thời thượng cổ đến nay, con người vẫn luôn xem trọng cây cỏ như một nguồn thuốc chủ yếu để chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1985, trong số 250.000 loài thực vật,

có gần 20.000 loài được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến thuốc chữa bệnh Ngày nay, có khoảng 80% dân số ở các nước đang phát triển có nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu phụ thuộc vào nền y học cổ truyền Phần lớn trong số đó phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc các chất được chiết suất từ dược liệu [6]

Việt Nam là nước có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi nên

có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú và đa dạng Theo kết quả điều tra nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 của Viện Dược liệu (2006) cho biết ở Việt Nam có 3.948 loài thực vật bậc cao, bậc thấp và nấm lớn được dùng làm thuốc để chữa bệnh Cũng theo Võ Văn Chi (2012)

đã thống kê ở Việt Nam hiện có gần 4.700 loài thực vật làm thuốc ở nước ta Trong đó có khoảng 30% số loài đặc hữu chỉ có ở Việt Nam, không tìm thấy

ở nơi khác [12]

Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy các loài cây dược liệu trong tự nhiên đang bị giảm cả về số lượng lẫn chất lượng Điều này xuất phát từ việc khai thác bừa bãi, quá mức của con người, những cây ít có giá trị hoặc chưa được nghiên cứu sử dụng lại bị tàn phá nhường chỗ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp; tri thức bản địa về khai thác, sử dụng và bảo tồn các loài cây hữu ích đang bị mai một do không được tư liệu hóa; đặc biệt là sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đang diễn ra ngày một nguy hiểm Do

đó, song song với việc nghiên cứu và sử dụng cây thuốc, một vấn đề cấp bách được đặt ra là việc bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc để ngày càng tối ưu

Trang 13

hóa giá trị sử dụng nguồn tài nguyên này, góp phần nâng cao sức khỏe cho con người

Là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Ninh, Ba Chẽ là địa phương có nhiều tiềm năng trong việc phát triển các cây dược liệu quý Với diện tích tự nhiên là 60.855,56 ha, trong đó hơn 90% là rừng và đất rừng, cộng thêm các đặc điểm địa hình, hướng phơi, độ cao, khí hậu, thủy văn, tác động của con người kết hợp với các đặc tính sinh thái của từng loài đã tạo nên sự đa dạng của hệ thực vật tại huyện Ba Chẽ, đặc biệt là tài nguyên cây thuốc Trong đó,

Ba kích tím được coi là loài có giá trị sử dụng tốt nhất, mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân

Ba kích tím (Morinda officinalis How) thuộc chi Nhàu, là cây chịu

bóng, mọc rộng rãi ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đã được sử dụng trong các loại thuốc thảo dược truyền thống và bổ sung chất dinh dưỡng cho hơn

2000 năm nay Cây không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có giá trị kinh tế cao Củ của cây ba kích được sử dụng rộng rãi như một loại dược liệu

có tác dụng bổ thận âm, bổ thận dương, tăng cường gân cốt, tăng sức đề kháng, sức dẻo dai, khử phong thấp Dịch chiết từ củ ba kích có tác dụng giảm huyết áp, tác dụng nhanh với các tuyến cơ năng, bổ trí não, giúp ăn và ngủ ngon [50] Ba kích chất lượng tốt tại tỉnh Quảng Ninh có giá 1,2 - 1,5 triệu đồng/kg khô (5 kg tươi được 1 kg khô) Suốt một thời gian dài, ba kích mọc hoang, phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp huyện Ba Chẽ, tuy nhiên phần lớn là khai thác tự nhiên, bừa bãi, thiếu khoa học nên số lượng Ba kích tím còn lại rất ít Bên cạnh đó, diện tích phân bố tự nhiên của loài cây này cũng bị thu hẹp do người dân phát nương, làm rẫy, thay thế rừng tự nhiên bằng rừng trồng dẫn đến hệ lụy là rừng bị tàn phá và nghèo nàn thảm thực vật dưới tán rừng khiến cho Ba kích tím lâm vào tình trạng gần như tuyệt chủng và được đưa vào sách đỏ Việt Nam cần được bảo vệ [27]

Trang 14

Do vậy, việc nghiên cứu gây trồng Ba kích tím đang được coi là hướng

đi chủ đạo, góp phần bảo tồn, phát triển nguồn gen dược liệu quý đồng thời giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập cho người dân Biết được thực trạng trên, một số cơ quan nghiên cứu cũng đã có những thử nghiệm bước đầu về nhân giống đối với cây Ba kích tím; Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Quảng Ninh đã ban hành quy trình kỹ thuật lâm nghiệp áp dụng cho 17 vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp tập trung của tỉnh, trong đó có kỹ thuật trồng cây ba kích Tuy nhiên các nghiên cứu mới chỉ mang tính thử nghiệm, hiện chưa có nghiên cứu cơ bản nào tập trung đi sâu vào đánh giá các đặc trưng, điều kiện phân bố, sinh thái cũng như thị trường của loài nhằm đưa ra giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn gen quý này

Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi tiến hành thực hiện luận văn nghiên cứu

“Đánh giá hiện trạng phân bố và đề xuất giải pháp bảo tồn cây Ba kích tím

(Morinda officinalis How) trong điều kiện tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh” nhằm đóng góp các thông tin cơ bản về đặc điểm

phân bố, sinh thái, sinh học của loài, từ đó góp phần bảo tồn và phát triển loài cây thuốc quý này trong hệ thống thực vật một cách khoa học và bền vững tại địa phương

2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2.1 Mục tiêu tổng quát

Đánh giá được hiện trạng phân bố, sinh trưởng của Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ, từ đó đề xuất được các giải pháp bảo tồn cây Ba kích tím trong điều kiện tự nhiên cho khu vực nghiên cứu; làm cơ

sở dữ liệu và cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững cây Ba kích tím nói riêng và các loài cây thuốc nói chung trên địa bàn huyện

Trang 15

- Cung cấp dữ liệu chi tiết về hiện trạng phân bố của cây Ba kích tím

trong điều kiện tự nhiên ở huyện Ba Chẽ

- Đề xuất giải pháp cho quản lý bảo tồn đa dạng tài nguyên thuốc tại

huyện Ba Chẽ

* Ý nghĩa trong thực tiễn:

Các nội dung nghiên cứu của đề tài đóng góp quan trọng cả về mặt lý luận khoa học và giá trị thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo tồn, phát triển bền vững nguồn tài nguyên

cây thuốc trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

Trang 16

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1 Khái niệm tài nguyên cây thuốc

Tài nguyên cây thuốc là một dạng đặc biệt của tài nguyên sinh vật, thuộc tài nguyên có thể tái tạo (hồi phục), bao gồm hai yếu tố cấu thành là cây

cỏ và tri thức sử dụng chúng để làm thuốc và chăm sóc sức khỏe [6]

Với định nghĩa này, một cây thuốc cần có hai yếu tố cấu thành, đó là bản thân Cây cỏ, là nguồn gen hay yếu tố vật thể và Tri thức sử dụng cây cỏ

để chữa bệnh, là yếu tố phi vật thể Hai yếu tố này luôn đi kèm với nhau Các sinh vật quanh ta rất nhiều, nếu không biết sử dụng chúng để làm thuốc (cũng như các ứng dụng khác trong đời sống) thì chúng chỉ là những sinh vật hoang dại trong tự nhiên Ngược lại, khi một cây đã biết dung làm thuốc nhưng sau

đó lại để mất tri thức sử dụng (hoặc đưa đến một nơi mà không có ai biết dung) thì nó cũng chỉ là cây cỏ hoang dại trong tự nhiên

1.1.2 Đặc điểm của tài nguyên cây thuốc

1.1.2.1 Các đặc điểm liên quan đến cây cỏ

- Một loài có nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo dân tộc và địa phương, nhưng chỉ có một tên khoa học hợp pháp duy nhất, được coi là từ khóa trong các hệ thống thông tin [6]

- Phần có giá trị sử dụng của cây thuốc là các chất hóa học, được gọi là hoạt chất Hàm lượng hoạt chất chứa trong cây thường chiếm một tỷ lệ rất thấp Thành phần và hàm lượng hoạt chất có thể thay đổi theo điều kiện sống,

do đó làm thay đổi, giảm hoặc mất tác dụng chữa bệnh Các bậc phân loại (taxon) giống nhau thường chứa các nhóm hoạt chất như nhau [6]

- Bộ phận sử dụng đa dạng, có thể là cả cây, toàn bộ phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất (như rễ, củ, thân rễ), lá, vỏ (thân rễ), hoa, quả, hạt Trong một loài, các bộ phận khác nhau có thể sử dụng khác nhau [6]

Trang 17

1.1.2.2 Các đặc điểm liên quan đến tri thức sử dụng

- Tri thức sử dụng cây thuốc bao gồm 2 nguồn: Tri thức bản địa và tri thức khoa học Tri thức khoa học thường được lưu giữ trong các ấn phẩm (sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu khoa học, cơ sở dữ liệu,…); còn Tri thức bản địa thường được truyền miệng, giới hạn ở mức độ hẹp, do cá nhân, gia đình, dòng họ hay công cộng nắm giữ do đó có thể bị mất Phần lớn tri thức khoa học bắt nguồn từ tri thức bản địa [6]

- Tri thức sử dụng rất đa dạng, cùng một loài có nhiều cách sử dụng khác nhau tùy theo dân tộc và địa phương

- Tri thức sử dụng có tiến hóa, thông qua kinh nghiệm thực tiễn, bài học thất bại trong quá trình sử dụng cây cỏ làm thuốc

- Tri thức sử dụng gắn liền với văn hóa và tập tục của từng địa phương

- Tri thức sử dụng gắn liền với thu nhập kinh tế của người nắm giữ nó

- Có sự khác biệt về số lượng và chất lượng tri thức sử dụng giữa các thành viên khác nhau trong cộng đồng, dân tộc, nền văn hóa Sự khác nhau này phụ thuộc vào tuổi tác, học vấn, giới tính, tình trạng kinh tế, kinh nghiệm, tác động ngoại lai và trách nhiệm trong gia đình và cộng đồng, quỹ thời gian, năng khiếu, khả năng đi lại và mức độ độc lập, kiểm soát nguồn tài nguyên [6]

1.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài

1.2.1 Tài nguyên cây thuốc trên Thế giới

Từ xa xưa đến nay, cây làm thuốc luôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong nguồn tài nguyên thực vật Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985 đã có gần 20.000 loài thực vật trong tổng số 250.000 loài đã biết được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất

để chế biến thuốc Trong đó ở Ấn Độ có khoảng 6.000 loài; Trung Quốc 5.000 loài; vùng nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1.900 loài thực vật có hoa [47]

Trong công trình “Medicinal and poisonous plants”, (3 tập) thuộc chương trình phối hợp điều tra tài nguyên thực vật Đông Nam Á (xuất bản

Trang 18

năm 1999, 2001 và 2003) đã thống kê được khoảng 2.200 loài thực vật có giá trị làm thuốc, đây là công trình có giá trị khoa học cao Tất cả các loài được

mô tả chi tiết về đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố, cách gieo trồng và giá trị sử dụng; đặc biệt trong công trình này cũng được phân tích khá đầy đủ các hàm lượng hoạt chất có trong các bộ phận của thực vật [50]

* Nghiên cứu lịch sử sử dụng cây thuốc trên Thế giới

Nghiên cứu lịch sử dùng các cây làm thuốc của các dân tộc vùng lãnh thổ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều bằng chứng xác thực Trong cuốn “Lịch sử liên đại cây cỏ” ấn hành năm 1878, Charles Pikering đã chỉ rõ: ngay từ năm 4271 trước Công nguyên (TCN) người dân khu vực Trung Cận Đông đã sử dụng nhiều loại cây (sung, vả, cau dừa, v.v.)

để làm lương thực và chữa bệnh [28]

Dựa trên các bằng chứng khảo cố, Borisova B.(1960) chỉ ra rằng, vào khoảng 5.000 năm TCN, cây thuốc đã được sử dụng rộng rãi và vì vậy là mục tiêu chiếm đoạt (cùng với phụ nữ, các cây lương thực, cây có hoa đẹp) trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc Như vậy, tầm quan trọng của các cây làm thuốc được loài người nhận thức rất sớm; việc thu thập, nhập nội các giống cây thuốc quý được thực hiện ngay từ thời cổ đại bởi các chiến binh [17]

Châu Úc được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới Người ta cho rằng, các thổ dân châu úc đã định cư ở đây từ hơn 60.000 năm về trước và hình thành nên những kiến thức thực tiễn về các loài

cây thuốc bản xứ Nhiều loài trong số này như cây Bạch đàn xanh (Eucalyptus

globulus) duy nhất chỉ có ở châu úc, vốn được sử dụng rất hữu hiệu trong việc

chữa bệnh Tuy nhiên, phần lớn kiến thức về dược thảo của thổ dân đã bị mất

đi khi người châu Âu đến định cư Ngày nay, đa phần các dược thảo ở châu

Úc bắt nguồn từ phương Tây, Ấn Độ, Trung Quốc và các nước vùng ven Thái Bình Dương [41]

Trang 19

Dược thảo ở châu Âu rất đa dạng và phần lớn dựa trên nền tảng của y học truyền thống cổ điển Người đầu tiên phải kể đến là Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc Ồng đã viết hàng trăm cuốn sách và đã được áp dụng trong ngành Y châu Âu hơn 1500 năm [1] Ở thế kỷ I SCN, một thầy thuốc Hy Lạp tên là Dioscorides đã viết một cuốn sách dược thảo có tên “De material Medica” Quyển sách này bao gồm 600 loại thảo mộc, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến y học phương Tây và là sách tham khảo chính được dùng ở châu Âu cho đến thế kỷ XVII Cuốn sách còn được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: tiếng Anh cổ, tiếng Ba Tư và tiếng Hebrew [12] Vào thời Trung cổ, học thuyết “Dấu hiệu” khẳng định có một sự kết nối giữa vẻ bề ngoài của một loài cây - “dấu hiệu của thần thánh” - và công dụng y học của chúng Chẳng hạn, những chiếc lá lốm đốm của cây cỏ

phổi (Puỉmonaria officinalis)giống như các mô của phổi, chữa rất hiệu quả

các bệnh về phối Cũng trong thời gian này, khoảng thế kỷ XI SCN, tại

Scotian các thầy tu đã sử dụng cây thuốc Phiện (Papaver omnirỉerum) và cây Cần sa (Cannabis sativa) để làm thuốc giảm đau và thuốc gây mê Sau này,

Nicholas Culpeper (1616-1654) đã kế thừa một số kiến thức từ Dioscorides, Paracelus và kinh nghiệm chữa bệnh của thầy thuốc địa phương, ông đã cho xuất bản cuốn dược thảo “The English Physitian” Đây là cuốn sách bán chạy nhất và được tái bản nhiều lần [1]

Ở châu Phi, sự đa dạng của ngành dược thảo cổ truyền lớn hơn bất kỳ châu lục nào khác Việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng cây thuốc ở châu Phi đã có từ thời xa xưa Những bản viết tay có từ thời Ai Cập cố đại (1950 TCN) đã liệt kê hàng chục loài cây thuốc và công dụng của chúng Trong bản giấy cói của dân tộc Ebers (khoảng 1500 TCN ) ghi lại hơn 870 toa thuốc và công thức, 700 loài dược thảo và các chứng bệnh, từ bệnh phổi cho đến các vết thương do cá sấu cắn Việc buôn bán dược thảo giữa các vùng

Trang 20

Trung Đông, Ấn Độ và Đông Bắc Châu Phi đã có ít nhất từ 3000 năm trước

Từ thế kỷ V đến thế kỷ XIII SCN, các thầy thuốc Ả Rập là những người có công đầu trong sự tiến bộ của ngành y Vào giữa thế kỷ XIII, nhà thực vật học Ibn E1 Beitar đã xuất bản cuốn “Các vấn đề y khoa” thống kê chủng loại cây thuốc ở Bắc Phi [1]

Các nhà thực vật người Pháp được coi là những người đầu tiên của châu

Âu nghiên cứu về thực vật Đông Nam Á, với họ sau những cánh rừng nhiệt đới còn tiềm ấn rất nhiều giá trị Vào những năm đầu thế kỷ XX, trong chương trình nghiên cứu về thực vật Đông Dương, Perry công bố 1.000 loài cây và dược liệu tại Đông Nam Á đã được kiểm chứng và gần đây (1985) tống hợp

thành cuốn sách “Medicinal Plants of Eats and Southeast Asia” [51]

Nói đến dược thảo của châu Á không thể không nhắc đến hai quốc gia

có nền y học cổ truyền lâu đời là Trung Quốc và Ân Độ Lịch sử nền Y học Trung Quốc đầu thế kỷ thứ II, người ta đã biết dùng thuốc là các loài cây cỏ

để chữa bệnh như: sử dụng nước cây Chè (Ợhea sỉnensỉs) đặc để rửa vết

thương và tắm ghẻ Từ đời nhà Hán (168 năm TCN) tại Trung Quốc trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loài cây cỏ Vào giữa thế kỷ XVI Lý Thời Trân đã thống kê được 12.000

vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục” được Nxb Y học trích dẫn 1963 Giữa những năm 1985, cuốn sách “ Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản đã liệt

kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: Rễ gấc (Momordica cochinchinensis)

chữa nọc độc, viêm tuyến hạch, hạt gấc trị sưng tấy, đau khớp, sốt rét, vết

thương tụ máu; Cải soong (Nasturtỉum offìcinale) giải nhiệt, chữa lở mồm,

chảy máu chân răng, bướu cố Từ những kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về các loài cây thuốc, về các sản phẩm chiết từ cây cỏ để chữa trị và đã đúc rút thành những cuốn sách có giá trị [51]

Văn minh của người Ấn Độ cổ đại đã phát triển cách đây 5.000 năm dọc theo bờ sông Indus ở miền Nam Ấn Độ Trong bộ sử thi Vedas được

Trang 21

viết vào năm 1500 TCN, chứa đựng những kiến thức phong phú về dược thảo thời kỳ đó Trong đó, nhiều loài cây được xem là những “cây thiêng”

dành cho những vị thần đặc biệt, chẳng hạn như cây Trái nấm (Aegle

marmeỉos) là cây dành cho thánh thần của người Hindu, thánh Lakshmi

(Thánh mang lại sự giàu có và may mắn), thánh Samhita (Vị thánh của sức khoẻ) và cây được trồng gần các đền thờ Những công dụng của cây thuốc này được ghi lại trong cuốn sách dược thảo “Charaka Samhita”, viết năm

400 TCN Sau này, vào khoảng 100 năm SCN, một học giả người Ấn Độ đã

mô tả chi tiết 341 loại dược thảo cũng như những loại thuốc có nguồn gốc từ khoáng chất và động vật [51]

Ngoài ra, Y học dân tộc Bungarì “Đất nước của hoa hồng” đã coi Hoa hồng là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta dùng cả hoa, lá,

rễ để làm thuốc tan huyết ứ và bệnh phù thũng Ngày nay, người ta đã chứng minh rằng trong cánh Hoa hồng có một lượng tanin, glycosid, tinh dầu đáng kế Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng

để chữa nhiều bệnh [33]

Việc phát hiện ra các hoá chất chữa trị bệnh ung thư hiệu nghiệm trong cây Thuỷ tùng vùng Thái Bình Dương, một loài cây bản địa của các rừng cỏ Bắc Mỹ đã mang lại lợi nhuận kinh tế cao Trong vòng hai mươi năm qua ngành công nghiệp chế biến Thuỷ tùng thành thuốc chữa ung thư đã mang lại lợi nhuận là 500 triệu USD/năm, những cây thuốc này đang được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu và Châu Á [10] Hãng dược phẩm danh tiếng Biotech của

Bỉ mỗi năm điều tra nghiên cứu sàng lọc 1.500 đến 2.000 loài cây thuốc từ

các quốc gia trên thế giới [22]

Cùng với phương thức dùng cây thuốc chữa bệnh theo lối cố truyền và dân gian, các nhà khoa học trên thế giới còn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hoá học trong cây cỏ có tác dụng chữa bệnh Vào thế kỷ XVIII, một bác sĩ người Anh tên là William Withering (1741-1799) lần đầu

Trang 22

tiên khám phá ra công dụng chữa bệnh của cây thuốc Mao địa hoàng

(Digitalis purpurea),mở ra sự phát triển trong lịch sử y dược học, Trong nhiều

loài Ba gạc (Rauwfoliasp.) chiết được chất resecpin, serpentin làm thuốc hạ

huyết áp Chất vinblastin, vincristin được chiết xuất từ cây Dừa cạn

(Catharanthus roseus) vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa làm thuốc chống ung

thư máu Vài chục năm gần đây, ứng dụng các thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất hoá học tự nhiên, bằng con đường tổng hợp hoặc bán tổng hợp hoá học, một số loài thuốc hiện đại có hiệu quả chữa bệnh cao lần lượt ra đời [1]

Nhiều loài Hoàng Liên (Coptis spp) cũng được xếp vào danh lục thực vật nguy cấp ở nhiều nước Đông Á Loài Ba gạc (Rauvolfia serpentine(L.) Benth ex Kurz) đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do bị khai thác lâu đời

ở Ấn Độ, Bănglađét, Srilanka, Thái Lan [45]

Chữa bệnh bằng cây cỏ đang dần trở thành xu hướng của thế giới Trong khoảng 30 năm gần đây, Viện Ung thư Hoa Kỳ (NCI) đã điều tra nghiên cứu sàng lọc hơn 40.000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm cây thuốc có khả năng chữa trị bệnh ung thư, 25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế

phấm có dược tính mạnh được điều chế từ một loài Hoa hồng (Cantharanthiis

roseus) Đặc biệt ở Madagasca, người ta dùng cây này đế chừa bệnh máu

trắng cho trẻ em và rất hiệu quả, đã làm tăng tỷ lệ sống của trẻ em từ 10 lên

đến 90% [27] [30]

Nhận thức rõ giá trị chữa bệnh của các cây thuốc chính là hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học chứa trong nguyên liệu, vì vậy nghiên cứu cây thuốc theo các nhóm hợp chất được tiến hành và đã thu được nhiều kết quả tốt Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này đòi hỏi kinh phí lớn, trang thiết bị hiện đại và đội ngũ chuyên gia có trình độ cao Do vậy, đây là các nghiên cứu được triển khai ở các nước phát triển và một số các nước đang phát triển Các

Trang 23

cây thuốc chứa các nhóm hoạt chất ancanoit, flavonoit, cumarin hiện đang

được quan tâm nghiên cứu [28]

Tuy nhiên, ngày nay do các hoạt động mưu cầu của cuộc sống con người đã và đang gây sức ép lên sự sinh tồn của các loài cây thuốc trên thế giới Nhiều loài cây thuốc quý hiếm bị khai thác bừa bãi nên đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc đã bị tuyệt chủng Theo p Raven (1987) và Ole Harmann (1988), trong vòng hơn 100 năm trở lại đây, có khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài gặp rủi ro hay sự tồn tại của chúng bị đe doạ vào thế kỷ tới Trong số những loài thực vật đã mất đi hoặc đang bị đe doạ gay gắt, có một tỷ lệ không nhỏ là thực vật làm thuốc Trong

đó có khoảng 120 loài ở Ấn Độ, 77 loài ở Trung Quốc, 75 loài ở Macoro, 61

loài ở Thái Lan, 35 loài ở Bangladet [6]

Do vậy, song song với các nghiên cứu về sử dụng cây thuốc, một vấn

đề cấp bách khác được đặt ra đó là việc bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc, cùng với những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc trên thế giới Hiện nay, các nước trên Thế giới đang hướng về thực hiện chương trình Quốc gia kết hợp sử dụng bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc Tại Hội nghị Quốc tế về Bảo tồn cây thuốc, tổ chức ở Chiềng Mai (Thái Lan) năm 1993, một lần nữa các nhà khoa học đã khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của cây thuốc trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Đồng thời, đưa

ra tài liệu “Hướng dẫn bảo tồn cây thuốc”- “Guidelines on the Conservation

of Medicinal Plants”, kêu gọi các quốc gia có những giải pháp và chương

trình hành động thiết thực để bảo tồn cây thuốc [52]

1.2.2 Tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam

Việt Nam có một nền y học cổ truyền hết sức đa dạng, đặc sắc với bề dày lịch sử hàng nghìn năm và từ đó hình thành nên nền y học dân tộc không ngừng phát triển qua các thời kỳ lịch sử Trong đó, nhiều cây thuốc, bài thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian có hiệu quả cao Các kinh

Trang 24

nghiệm dân gian quý báu đó đã dần đúc kết thành những cuốn sách có giá trị

và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân

Theo thống kê sơ bộ, ở Việt Nam hiện đã biết khoảng 10.350 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800 loài Rêu, 600 loài Nấm và hơn 2000 loài Tảo Trong đó có nhiều loài làm thuốc Về động vật cũng đã biết 224 loài thú; 828 loài chim; 258 loài bò sát, lưỡng cư và khoảng 5.500 loài côn trùng [40]

Kết quả điều tra của Viện Dược Liệu, tính đến 2005 đã ghi nhận được

3948 loài thực vật và nấm lớn có công dụng làm thuốc; 52 loài tảo biển, 408 loài động vật và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc ở Việt Nam Kết quả này cũng đã cho thấy nguồn dược liệu ở nước ta rất phong phú Con số này có thể sẽ còn tăng thêm, nếu đi sâu điều tra cụ thể hơn một số nhóm động

- thực vật tiềm năng, mà trong đó số loài Tảo, Rêu, Nấm và Côn trùng làm thuốc mới được thống kê còn quá ít [40]

Trong tổng số 3948 loài cây thuốc, gần 90 % là cây thuốc mọc tự nhiên, tập tung chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ có gần 10 % là cây thuốc trồng Theo số liệu thống kê của ngành Y tế, mỗi năm ở Việt Nam tiêu thụ từ

30 - 50 tấn các loại dược liệu khác nhau để sử dụng trong y học cổ truyền làm nguyên liệu cho công nghiệp Dược và xuất khẩu Trong đó, trên 2/3 khối lượng này được khai thác từ nguồn cây thuốc mọc tự nhiên và trồng trọt trong nước Riêng từ nguồn cây thuốc tự nhiên đã cung cấp tới trên 20.000 tấn mỗi năm Khối lượng dược liệu này trên thực tế mới chỉ bao gồm từ hơn 200 loài được khai thác và đưa vào thương mại có tính phổ biến hiện nay Bên cạnh

đó, còn nhiều loài dược liệu khác vẫn được thu hái, sử dụng tại chỗ trong cộng đồng và hiện chưa có những con số thống kê cụ thể [15]

* Những nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam

Tài liệu sớm nhất về cây thuốc Việt Nam là “Nam Dược Thần Hiệu” và

“Hồng nghĩa giác tư y thư” của Tuệ Tĩnh [24] Trong tài liệu này đã mô tả

Trang 25

hơn 630 vị thuốc, 13 đơn thuốc chữa các loại bệnh và 37 đơn thuốc chừa bệnh thương hàn Tới thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản

bộ sách lớn thứ hai “Y tông Tâm tĩnh” cho nước ta Bộ sách gồm 28 tập, 66 quyến đã mô tả khá chi tiết về thực vật, các đặc tính chữa bệnh [23]

Năm 1957, Đỗ Tất Lợi đã biên soạn bộ “ Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập Năm 1961 tái bản in thành 2 tập, trong đó tác giả mô tả

và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam Từ năm 1962 - 1965, Ông lại cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập Đến năm 1969 tái bản thành 2 tập, trong đó giới thiệu hơn 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 12 (2006) tác giả đã nâng số loài độn thực vật có giá trị làm thuốc lên đến

800 loài, các loài này được mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành phần hóa học và chia tất các cây thuốc đó thành các nhóm bệnh khác nhau [23]

Năm 1960, Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương cho xuất bản bộ

“Cây cỏ Việt Nam” Tuy chưa giới thiệu được hết hệ thực vật Việt Nam, nhưng phần nào cũng đưa ra được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [22]

Năm 1976, đế phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã cho ra đời cuốn “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc”, trong đó ngoài việc tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, ông còn đưa ra danh sách các cây thông thường thuộc các họ, giúp họ dễ học và dễ phân loại thực vật, thuận lợi cho việc tra cứu [10]

Năm 1976, trong công trình luận văn phó tiến sĩ khoa học, Võ Văn Chi

đã thống kê được ở Miền Bắc có 1.360 loài cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành thực vật hạt kín Đến năm 1991, trong báo cáo tham gia hội thảo quôc gia về cây thuốc lần thứ II tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã giới

Trang 26

thiệu một danh sách các loài cây thuốc Việt Nam có 2.280 loài cây thuốc bậc cao có mạch, thuộc 254 họ trong 8 ngành [11]

Năm 1980, Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”, với 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện vào nguồn cây thuốc Việt Nam [4]

Liên quan đến vấn đề cây thuốc, tập thể các nhà khoa học Viện Dược liệu đã xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã tống kết các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua [8] Viện Dược liệu, Bộ Y tế cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu, điều tra ở 2.795 xã, phường, thuộc 35 huyện, thị xã của 47 tỉnh, thành phố trong cả nước, đã có những đóng góp đáng kể trong công tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong y học cổ truyền dân gian [7]

Có rất nhiều công trình về cây thuốc ở Việt Nam với quy mô lớn nhỏ khác nhau đã được công bố như: Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương và cộng sự

đã cho ra đời cuốn “Tài nguyên cây thuốc Việt Nam” (1993) với khoảng 300 loài cây thuốc được khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc [5] Trình Đình Lý (1995) đã xuất bản cuốn “1900 loài cây có ích”, cho biết trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài cho tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 50 loài cây gỗ có giá trị cao, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây [24]

Võ Văn Chi (1997) đã biên soạn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, gồm khoảng 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa có 2.500 loài thuộc 1050 chi, được xếp vào 230 họ thực vật theo hệ thống A L Takhtajan Tác giả đã giới thiệu sơ bộ về nhận dạng, bộ phận sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hoá học, tính vị và tác dụng, công dụng của từng loài thực vật [11]

Nhóm tác giả của Viện Dược liệu (2003) đã tiến hành biên soạn bộ sách “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” với hơn 1.000 loài, trong

đó 920 cây thuốc và 80 loài động vật được sử dụng làm thuốc [40]

Trang 27

Các nhà nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã thu thập, nghiên cứu và công bố một số tài liệu liên quan tới cây thuốc: Đáng chú

ý là hai tập sách “Tài nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mới và cộng sự (2001; 2002) các tác giả đã đề cập đến giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật có tinh dầu ở Việt Nam [22]

Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” đây là bộ sách có ý nghĩa quan trọng trong tra cứu hệ thực vật nói chung và tra cứu thành phần cây thuốc nói riêng Tập sách

đã đề cập tới các tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống

- sinh thái và công dụng, rất tiện lợi cho các nhà nghiên cứu về thực vật làm thuốc [2]

Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu về cây thuốc cổ truyền của dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, đã cập nhật và bổ sung cho dữ liệu về cây thuốc dân tộc Việt Nam [19]

Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự (2005) đã điều tra đánh giá tài nguyên cây thuốc của người Mường và Dao tại khu vực nghiên cứu, đã thống

kê được 209 loài cây thuốc được người Mường và 176 loài cây thuốc được người Dao sử dụng tại Chiềng Yên - Mộc Châu - Sơn La [31]

Lưu Đàm Cư (2004), trong nghiên cứu “Cây thuốc truyền thống của người Dao, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”, đã xác định được 312 loài cây thuốc thuộc 88 họ mà người Dao ở Sa Pa sử dụng [17]

Năm 2006, trong cuốn “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” Phạm Hoàng Hộ

đã thống kê được 2.000 loài có giá trị làm thuốc, ở đây tác giả chỉ mô tả sơ lược đặc điểm nhận dạng và giá trị sử dụng của chúng [22]

Đến cuối năm 2006, nhóm các tác giả thuộc Viện Dược liệu trong công trình 2 tập “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” đã thống kê được

Trang 28

920 loài cây thuốc, đây là công trình khá đầy đủ và công phu, nhóm các tác giả đã mô tả, phân tích khá chi tiết các đặc điểm nhận dạng, phân bố, công dụng và thành phần hóa học của từng loài [40]

Năm 2007 trong công trình “Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam” Nguyễn Tập đã giới thiệu 144 loài cây thuốc nguy cấp ở Việt Nam Tác giả Tào Duy Cần, Trần Sĩ Viên đưa ra “Cây thuốc vị thuốc và bài thuốc Việt Nam” (2007) gồm trên 500 vị thuốc Nam - thuốc Bắc thường dùng (vốn là những thảo mộc dễ kiếm, sống ở nước ta) được mô tả, xác định vùng phân bố, bộ phận dùng và tác dụng của thuốc ngoài ra còn kèm theo các phương thuốc trị bệnh theo y học cổ truyền [28]

Giữa năm 2007 trong Dự án hỗ trợ chuyên ngành “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam” đã giới thiệu 82 loài thực vật có giá trị làm thuốc, với đầy đủ các thông tin về 11 đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố, kỹ thuật nhân trồng, khái thác, chế biến, bảo quản, giá trị kinh tế và đề xuất các biện pháp bảo tồn [40]

Theo TSKH Trần Công Khánh, Trung tâm Nghiên cứu & Phát triển Cây thuốc Dân tộc Cổ truyền (CREDEP), tài nguyên cây thuốc ở nước ta rất đa dạng và phong phú Đến nay, đã thống kê được khoảng 4.000 loài (chưa kể cây thuốc dân tộc), nhưng chúng phân bố rải rác và trữ lượng không lớn [42]

Tuy nhiên theo thống kê của ngành Lâm nghiệp, diện tích rừng nước

ta từ 14,3 triệu ha vào năm 1943, đến năm 1993 chỉ còn 9,3 triệu ha (Bộ lâm nghiệp, 1995) trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn lại không tới 1% tổng diện tích lãnh thố (Averyanov, L.v et al., 2004.) Rừng bị phá huỷ

sẽ làm cho toàn bộ tài nguyên rừng ở đó mất đi, trong đó có cây thuốc Trong quá trình điều tra dược liệu ở Việt Nam từ năm 1961 đến nay, Viện Dược liệu đã phát hiện nhiều vùng rừng có cây thuốc phong phú, nay đã bị phá huỷ làm nương rẫy, trồng cà phê, cao su (ở miền Nam) hoặc thay vào

đó là các công trình dân sự, Bên cạnh các hoạt động có chủ ý của con

Trang 29

người, nạn cháy rừng, lũ lụt và lở đất cũng làm mất đi nhiều vùng rừng có nhiều cây thuốc quý hiếm mọc tập trung Hơn nữa, do sức ép của thị trường tài nguyên cây thuốc bị khai thác quá mức, nên ngày càng cạn kiệt và đứng trước nguy cơ bị đe doạ Chính phủ và ngành y tế đã có những nỗ lực để bảo tồn tài nguyên sinh vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng Nhiều công trình Nhà nước về bảo tồn cây thuốc (Bảo tồn nguồn gen cây thuốc - Viện Dược liệu, Bộ Y tế) hoặc các mô hình bảo tồn nguồn gen cây thuốc ở các dự án đầu tư của Nhà nước, cũng như các dự án của tổ chức phi chính phủ (Bảo tồn cây thuốc của đồng bào Dao tại Ba Vì, Hà Tây - CREDEP; Bảo tồn nguồn gen cây thuốc- Bộ Y tế; Mô hình Bảo tồn và phát triển cây thuốc ở Sa Pa; Mô hình Bảo tồn cây thuốc ở Nà ót, Sơn La,… của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) đã được hình thành nhằm duy trì bảo tồn nguồn gen cây thuốc quý hiếm [40]

1.2.3 Tình hình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc ở Quảng Ninh

Quảng Ninh là một tỉnh có rất nhiều tiềm năng, thế mạnh về dược liệu Bởi vì, Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào với diện tích đất tự nhiên hơn 6.100km2, trong đó hơn 50% diện tích rừng che phủ, rất thuận lợi về đất đai, thổ nhưỡng Qua điều tra sơ bộ, Quảng Ninh có trên 600 loài dược liệu có thể làm thuốc, trong đó có nhiều loài dược liệu quý, có giá trị kinh tế cao, như:

Ba kích, hồi, quế, bình vôi, đẳng sâm phân bố hầu hết ở các địa phương Cũng theo kết quả điều tra mới nhất do Sở Y tế phối hợp với Trường Đại học Dược Hà Nội thực hiện thì hiện nay ở Quảng Ninh có nhiều loài dược liệu quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm Việt Nam tiêu thụ hơn 50.000 tấn dược liệu để phục vụ cho công tác khám chữa bệnh, phục vụ ngành công nghiệp sản xuất thuốc, thực phẩm chức năng,

mỹ phẩm [8]

Từ năm 2012 đến nay, vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc Yên Tử đang bảo tồn và nhân giống 650 loài cây dược liệu trên diện tích 10ha [8]

Trang 30

Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự (2001) đã điều tra, đánh giá về tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số dân tộc (Dao, Tày, Hoa) tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được

326 loài thực vật làm thuốc [31]

Theo ông Vũ Ngọc Anh, giám đốc tổ chức khoa học Vườn cây thuốc Yên Tử cho biết: Vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc Yên Tử được quy hoạch trên diện tích 270ha, chạy từ Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ,… đến

Ba Chẽ, Bình Liêu là điểm cuối Vườn cây thuốc Yên Tử phát triển mạnh mẽ

sẽ góp phần giữ gìn nguồn gen, nhân giống dược liệu, từ đó tạo điều kiện cho các địa phương lân cận trong tỉnh phát triển trồng, chế biến và tiêu thụ dược liệu, đưa Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm phát triển dược liệu và hiện đại hóa thuốc y học cổ truyền trong cả nước [8]

Nguyễn Tuấn Bằng (2014), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây làm thuốc làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển bền vững tại khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh [3]

Lê Văn Thắng (2012), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác Lâm sản ngoài gỗ làm thuốc và thực phẩm tại khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh [35]

Hiện nay công ty TNHH Nuôi trồng, chế biến và sản xuất dược liệu Đông Bắc đang ươm, trồng nhiều giống dược liệu quý như: Giảo cổ lam, ba kích, hoài sơn, cà gai leo, cỏ ngọt, đinh lăng,… trên quy mô 20 ha [8]

Bên cạnh đó, hiện nay việc phát triển nguồn nguyên liệu trên địa bàn tỉnh cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế Việc khai thác tài nguyên thuốc còn mang tính tự phát, phát triển dược liệu mới dừng ở mức phần lớn là xuất thô Hiện nay tỉnh đang nỗ lực thực hiện các giải pháp để bảo tồn, phát huy bền vững loại dược liệu quý trên địa bàn

1.3 Công nghệ GIS và ứng dụng trong nghiên cứu bảo tồn cây thuốc

GIS đã bắt đầu được ứng dụng khá nhiều trong bảo tồn đa dạng sinh

Trang 31

học, tuy nhiên để ứng dụng vào việc quản lý dữ liệu loài, bản đồ mật độ phân

bố loài,… còn rất hạn chế Trong khi đó đây là công nghệ thích hợp có hiệu quả để giám sát loài và tổ chức quản lý bảo tồn Chính vì vậy cần tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại giúp cho việc bảo tồn các loài một cách hiệu quả nhất, đặc biệt là những loài cây quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng

1.4 Một số kết quả nghiên cứu về cây Ba kích tím

Ba kích tím có tên khoa học là Morinda officinalis How, thuộc họ cà phê - Rubiaceae, chi Nhàu - Morinda Còn có nhiều tên gọi khác như: Ba kích thiên, Ba kích (Bản Thảo đồ kinh), Bất điêu thảo (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Diệp Liễu Thảo, Dây ruột gà, Liên Châu Ba kích, Chẩu phóng xì (Mông), Sáy Cáy (Thái), Thau tày cáy (Tày), Chồi hoàng kim (Mường), Chày kiàng đòi (Dao) [23]

Ba kích có dạng dây leo thường xanh, thân cỏ sống nhiều năm, cuốn lên cây khác Thân hình trụ tròn, phân nhánh nhiều Cành non màu tím có lông, cành già nhẵn không lông Sản phẩm quan trọng là rễ củ của cây, một loại dược liệu quý có nhiều công dụng như bổ thần kinh, bổ gân cốt, chữa thấp khớp, giảm xơ cưng động mạch, tăng cường khả năng sinh lý nam giới,

và có giá trị xuất khẩu cao [23]

1.4.1 Tình hình nghiên cứu Ba kích trên thế giới

Ba kích có nguồn gốc ở Đông Nam Á Trên Thế giới, cây được trồng trong bụi cây rừng, thung lũng và những ngọn đồi thấp ở Ấn Độ, Trung Quốc, Malaisia, Australia và Polynisia Ở Trung Quốc, Ba kích đã được sử dụng từ thời cổ đại Loài cây này thường phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến Trong y học Trung Quốc, rễ cây Ba kích được sử dụng như một loại thuốc bổ thảo dược để điều trị tis và bất lực (Ban dược điển Trung Quốc 2010) Người Trung Quốc thường nấu củ Ba kích với chân giò để ăn bồi bổ cơ thể, dùng cho phụ nữ mới sinh con Quả của cây Ba kích

là noni berry được sử dụng phổ biến tại Hoa Kỳ và các nước phương Tây

Trang 32

khác Các công trình nghiên cứu về loài cây này còn rất ít, chỉ có một số công trình nghiên cứu điển hình ở Australia, New Guinea và Trung Quốc [41]

Ở Trung Quốc, Ba kích cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý, theo nghiên cứu Ba kích có tác dụng tăng cường năng lực nam giới, chữa bệnh liệt dương, vô sinh và chữa trị thấp khớp, điều hòa kinh nguyệt ở nữ giới Tác dụng hạ đường huyết của cây Ba kích cũng được Soon và cộng sự nghiên cứu trên mô hình chuột gây đái tháo đường typel bằng steptozotocin và tác giả kết luận rằng rễ Ba kích có tác dụng hạ đường huyết đối với chuột cống gây đái tháo đường typel bằng steptozotocin [41]

Trong suốt những năm thập cuối thập niên 1980 và đầu những năm

1990, Tiến sĩ RM Heinicke làm việc để xác định các thành phần hoạt động trong morianda, đó là thương mại đổi tên thành “Noni” Ông đã tìm thấy một loại alkaloid trong Ba kích mà ông đặt tên xeronin Mặc dù xeronin trong ba kích thấp nhưng nó có chứa một lượng phong phú của các proxeronine tiền chất Ông cũng thấy rằng ba kích chứa các ezyme kích hoạt pro-xeronin để giúp sản xuất xeronin Xeronin hoạt động để điểu chỉnh độ cứng và hình dạng của các protein cụ thể, tất cả đều làm việc với các tế bào trong các chức năng khác nhau

Cùng với đó, đặc điểm hình thái và di truyền của loài cây này cũng được các nhà khoa học Trung Quốc nghiên cứu Đa dạng di truyền Ba kích được Ding và cs nghiên cứu, để phân tích sự đa dạng di truyền Ba kích tác giả

đã sử dụng chỉ thị RAPD, trong cả quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng 40 mồi RAPD thì 14 mồi cho sản phẩm đa hình, qua phân tích kết quả tác giả đưa ra kết luận có sự đa dạng mức loài ở cây Ba kích ở mức độ phân tử [41]

Ngoài ra còn những công trình nghiên cứu nuôi cấy mô và nhân nhanh cây Ba kích như công trình nghiên cứu của Wei và cs (2006) và công trình nghiên cứu của Ning-Zen Huang và cs (2007) [49] [53]

Trang 33

1.4.2 Tình hình nghiên cứu Ba kích ở Việt Nam

Ở Việt Nam, Ba kích chủ yếu phân bố vùng núi thấp, trung du phía Bắc Bao gồm các tỉnh Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Phú Thọ (Đoan Hùng, Thanh Sơn, Tân Sơn), Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa Gần đây nó còn xuất hiện ở tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Nam Là cây chịu bóng, sinh trưởng dưới tán rừng nơi đất ẩm, đất cát [23]

Là cây dược liệu có nhiều công dụng quý, sử dụng lại đơn giản nên nhu cầu về củ ba kích trên thị trường khá lớn Ba kích trong các rừng tự nhiên bị khai thác một cách lạm dụng, tùy tiện (mỗi năm thường khai thác từ vài chục đến trên một trăm tấn, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu sang Trung Quốc và Hồng Kông) mà không chú ý đến khâu nuôi dưỡng tái sinh

Số lượng cây ba kích hiện còn sót lại rất ít, thưa thớt, thậm chí có vùng hầu như không còn và được đưa vào sách đỏ Việt Nam cần phải đươc bảo vệ [27] Tuy nhiên, Ba kích bước đầu đã được đưa vào nghiên cứu và gây trồng trong các mô hình vườn rừng và mang lại kết quả cao

Năm 1972, để bảo tồn, khôi phục và phát triển, cây Ba kích bắt đầu được gây trồng trên địa bàn Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm lâm sinh Cầu Hai (nay

là Trung tâm Khoa học Lâm nghiệp vùng Trung tâm Bắc Bộ) và một số địa phương khác [23]

Viện khoa học lâm nghiệp Việt nam đã có những đề tài nghiên cứu thăm dò

về gây trồng, bảo quản hạt và dược tính của cây Ba kích như: Nghiên cứu gây trồng Ba kích bằng hom thân dưới tán rừng và ngoài đất trống có dàn che của kỹ

sư Nguyễn Đình Cầm (1972 - 1977) tại Trung tâm NCTNLS Cầu Hai Nghiên cứu thăm dò về bảo quản hạt Ba kích và phương thức gieo ươm của GS.TS Lê Đình Khả (1977) Tìm hiểu về tác dụng của dịch chiết củ Ba kích của Thái Nguyễn Minh Tâm (1975 - 1977) [42]

Ngoài ra, có các nghiên cứu của Viện dược liệu như: Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống và trồng vườn giống Ba kích (Morinda officinalis How) trong mô hình

Trang 34

vườn gia đình, vườn trang trại (Công trình NCKH tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc (1998 - 2008) [42]

Nghiên cứu nhân giống Ba kích (Morinda officinalis How) in vitro giai đoạn vườn ươm (Công trình NCKH tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc (1998 - 2008) Nghiên cứu các biện pháp tăng năng suất hạt giống, tạo giống từ hom thân

Ba kích (2006) [19]

Trước đây, cây Ba kích chủ yếu được nhân giống bằng phương pháp giâm cành, giâm hom Với các phương pháp này, hệ số nhân giống rất thấp chỉ đạt 0,6 lần/năm, chất lượng cây giống không cao, tỷ lệ sống kém Để nâng cao hiệu quả của việc sản xuất giống cây Ba Kích, chị Trần Thị Doanh và Ngô Thị Nguyệt - cán bộ Trung tâm Khoa học và sản xuất lâm - nông nghiệp Quảng Ninh đã nghiên cứu và hoàn thiện phương pháp nuôi cấy mô trong sản xuất giống cây Ba kích tím Theo phương pháp này những cây ba kích mẹ được chọn lọc để lấy mẫu mô Mô được chọn để nuôi cấy thường là các chồi đỉnh, chồi bên… có khả năng tái sinh cao trong ống nghiệm, sạch bệnh, giữ được các đặc tính quý của cây mẹ Sau đó, mẫu mô này được đưa vào nuôi cấy trong môi trường dinh dưỡng nhân tạo thích hợp để tái sinh mô cấy Các mẫu mô nuôi cấy không bị nhiễm khuẩn, nấm hoặc virus sẽ được lưu giữ trong phòng nuôi cấy với điều kiện nhiệt độ, ánh sáng phù hợp Sau một thời gian nhất định, từ mẫu nuôi cấy ban đầu sẽ xuất hiện các chồi, cụm chồi, rễ Các mẫu này sẽ tiếp tục được nuôi trong ống nghiệm để phát triển cân đối về thân, lá, rễ đạt tiêu chuẩn của một cây giống Sau đó, cây từ ống nghiệm sẽ được đưa ra vườn ươm, ở giai đoạn này cây con được chăm sóc với trình chiếu sáng, dinh dưỡng và giữ nước, điều kiện cách ly bệnh đặc biệt để cây con thích nghi với điều kiện sống ở môi trường vườn ươm, sao cho cây giống đạt tỷ lệ sống cao nhất Theo phương pháp này vừa bảo tồn được nguồn gen, vừa nhân nhanh với số lượng cây giống với độ đồng đều cao, mà vẫn giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ Rút ngắn được thời gian cấy chuyển từ 60

Trang 35

ngày xuống còn 45 ngày/vòng, đồng thời cải thiện giai đoạn nhân chồi vừa có

hệ số nhân chồi cao vừa nâng cao chất lượng chồi Tăng tỷ lệ chồi ra rễ đạt 100%, nâng cao chất lượng bộ rễ hình thành cả về số rễ/chồi và chiều dài rễ, giảm thấp nhất tỷ lệ hao hụt trong quá trình sản xuất, cây giống xuất vườn tỷ

lệ sống đạt trên 90% [42]

Võ Tuấn Châu và cộng sự đã nghiên cứu nhân giống in vitro cây Ba kích Theo nghiên cứu này, tác giả đã tái sinh chồi in vitro trên môi trường cơ bản MS bổ sung 0,25 mg/l kinetin Đoạn thân (khoảng 1cm) của cây Ba kích in vitro được nuôi cấy trên môi trường cơ bản MS bổ sung các chất kích sinh trưởng khác nhau cho cảm ứng nhân nhanh chồi Số chồi in vitro đạt lớn nhất trên môi trường cơ bản MS bổ sung 3,5 mg/l BA + 0,2 mg/l IBA (với 15,00 chồi/mẫu cây) Chồi được tạo rễ trên môi trường MS bổ sung IBA hoặc NAA, hình thành rễ tốt nhất trên môi trường MS bổ sung 0,2 - 0,25 mg/l IBA Cây in vitro đưa ra nhà lưới, 97,9% cây sống và thích nghi với điều kiện tự nhiên [42]

So sánh việc trồng Ba kích dưới tán rừng thứ sinh với trồng ngoài đất được cải tạo trắng ở Hoành Bồ (Quảng Ninh) có độ che phủ khác nhau cho thấy: không thấy chênh lệch về năng suất củ, nhưng kém xa so với trồng Ba kích ngoài đất trống không có tán che Và sau 7 năm trồng Ba kích, khối lượng củ mỗi bụi chỉ đạt 47 - 55 gam (tươi) tương ứng với khối lượng thân Nếu trồng Ba kích có bón phân vô cơ và bón phân hữu cơ thì sau 6 năm khối lượng củ cho mỗi bụi chỉ đạt dưới 100 gam Như vậy, trồng Ba kích dưới tán rừng thứ sinh tuy có củ nhưng năng suất củ kém hơn nhiều so với trồng ngoài đất được cải tạo trắng [36]

Hiện nay, Viện Nghiên cứu và Phát triển Lâm nghiệp - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã ứng dụng thành công công nghệ nuôi cấy mô

tế bào thực vật trong nhân giống Ba kích tím tạo ra số lượng cây giống sạch bệnh, chất lượng tốt, độ đồng đều cao, giữ được đặc tính ưu việt của cây mẹ

và đặc biệt hệ số nhân lớn đáp ứng được nhu cầu sản xuất đại trà trên địa bàn

Trang 36

các tỉnh miền núi phía Bắc như: Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Cao Bằng,…[42]

Tuy nhiên, các tài liệu, thông tin về cây Ba kích vẫn còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa có hệ thống phân loại đầy đủ và chi tiết Loài cây này mới chỉ dừng lại ở mức phát hiện, phân loại, khai thác và sử dụng, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến công dụng, nhân giống, bảo quản mà chưa

đi sâu vào đánh giá các đặc trưng, điều kiện phân bố, sinh thái cũng như thị trường của loài nhằm đưa ra giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn gen quý này Vì thế chưa có công cụ pháp lý nào để bảo vệ cây trước tình trạng khai thác hiện nay

Dựa vào các kết quả nghiên cứu đã tổng quát trên, tôi tiến hành nghiên cứu luận văn này nhằm bổ sung một số vấn đề về kiến thức bản địa, một số đặc trưng về điều kiện phân bố cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện

Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh - vùng đất nổi tiếng với cây dược liệu này

Trang 37

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.1 Đối tượng và địa điểm nghiên cứu

- Đối tượng: Cây Ba kích tím phân bố trong các trạng thái rừng tự nhiên ở khu vực huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

- Địa điểm: Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

2.1.2 Thời gian nghiên cứu

- Thời gian thực hiện luận văn từ tháng 7/2015 đến tháng 9/2016

2.2 Nội dung nghiên cứu

2.2.1 Đặc điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Ba Chẽ ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển loài Ba kích tím

- Điều kiện tự nhiên của huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

- Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

- Đánh giá chung các yếu tố có ảnh hưởng đến sự phát triển của cây Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

2.2.2 Kết quả khảo sát sự phân bố cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ

- Đặc điểm thực vật học của cây Ba kích tím

- Đánh giá sự phân bố của cây Ba kích tím trong vùng nghiên cứu

- Đặc điểm đất đai nơi ba kích mọc trên địa bàn huyện Ba Chẽ

- Mối quan hệ giữa cây Ba kích tím với các loài cây khác trong vùng phân bố

- Thành phần loài cây bụi thảm tươi nơi Ba kích tím phân bố

Trang 38

2.2.3 Đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng và gây trồng cây Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

- Hiện trạng khai thác và gây trồng Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện ba Chẽ

- Phương thức khai thác và sử dụng cây Ba kích tím của người dân bản địa

- Tình hình gây trồng Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ

2.2.4 Xây dựng vùng phân bố lý thuyết của cây Ba kích tím tự nhiên trong khu vực huyện Ba Chẽ

2.2.5 Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển cây Ba kích tím tự nhiên trên địa bàn huyện Ba Chẽ

- Khó khăn và thuận lợi trong việc phát triển Ba kích tím trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh

- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển cây Ba kích tím tự nhiên

2.3 Phương pháp nghiên cứu

2.3.1 Phương pháp kế thừa và thu thập số liệu thứ cấp

Kế thừa số liệu thứ cấp tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chọn lọc các số liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và phát triển sản xuất cây Ba kích tím: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, của khu vực nghiên cứu

Kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của các nghiên cứu khoa học, khóa luận đã thực hiện với nội dung tương tự Tìm hiểu tài liệu trên sách báo, tham khảo các tài liệu chuyên khảo về thực vật, các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan Ngoài ra, các tài liệu trên mạng Internet cũng được khai thác

2.3.2 Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp

2.3.2.1 Phỏng vấn thu thập thông tin

Tiến hành phỏng vấn thu thập thông tin trong cộng đồng và các bên có liên quan về khu vực phân bố, đặc điểm nhận biết và thị trường tiêu thụ cây

Ba kích tím tự nhiên trong địa bàn nghiên cứu

Trang 39

Chọn hộ điều tra theo phương pháp ngẫu nhiên Các hộ gia đình được chọn bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên 5 xã trên địa bàn huyện để tiến hành phỏng vấn Tiến hành điều tra 100 phiếu Mỗi xã tiến hành điều tra 15 phiếu thông qua phiếu điều tra in sẵn Sau đó tiến hành phân tích, tổng hợp các chỉ tiêu

Trong quá trình thực hiện phỏng vấn, tiến hành kiểm tra chéo thông tin, xác định độ tin cậy Một số nội dung có thể được hỏi và nhắc lại với nhiều hoàn cảnh khác nhau

2.3.2.2 Điều tra tại thực địa

* Điều tra sự phân bố cây Ba kích tím tự nhiên ngoài thực địa

Sau khi nghiên cứu kỹ trên bản đồ, tài liệu và các thông tin thu được qua phỏng vấn về vị trí phân bố của Ba kích tím, tiến hành lập các tuyến điều tra ngoài thực địa Tuyến điều tra phải đại diện, đi qua hầu hết các dạng sinh cảnh chính và các trạng thái khác nhau trong sinh cảnh rừng của khu vực Cụ thể đã tiến hành 04 tuyến điều tra trên địa bàn của 03 xã

Trên các tuyến, thực hiện lập các ô tiêu chuẩn điển hình Do Ba kích tím phân bố không đều trong khu vực với số lượng cá thể còn lại rất ít, ô tiêu chuẩn được lập đại diện cho các địa hình, các trạng thái rừng, các độ cao và hướng phơi khác nhau ở đó có xuất hiện Ba kích tím Diện tích ô tiêu chuẩn là 1000m2 (40x25) được xác định bằng cách đặt một thước dây dọc tâm ô, theo hướng đỉnh núi Chiều dài ô được đặt theo đường đồng mức, được xác định dựa trên kết quả tính toán sau khi xác định độ dốc Ranh giới của ô được xác định bằng dây nilon màu, được đặt song song ở 02 phía của thước dây với khoảng cách 5m mõi phía và 2 đầu mút vuông góc với dây thước có chiều dài 10m Tổng số ô tiêu chuẩn được lập là 14 ô Phân bố đều trên các trạng thái rừng và các khu vực khác nhau

Trên các ô tiêu chuẩn tiến hành thống kê số lượng Ba kích tím có trong

ô tiêu chuẩn điều tra, ghi chú xem nó ở tầng nào trong cấu trúc rừng Kết quả ghi biểu phụ lục 02

Trang 40

- Điều tra cây bụi thảm tươi theo 5 ô dạng bản 5x5 m2, lập 4 ô dạng bản

ở 4 góc của ô tiêu chuẩn và 1 ô dạng bản ở chính giữa ô tiêu chuẩn Ở mỗi ô bảo gồm loài cây, sinh trưởng Số liệu ghi vào biểu điều tra thảm tươi (phụ lục 03)

Tiến hành điều tra nhiều đợt và vào các thời điểm khác nhau nhằm quan sát, nghiên cứu các đặc điểm hình thái của cây

Chụp ảnh minh họa cây Ba kích tím cùng với các loại thực vật, động vật trong quá trình khảo sát, tìm hiểu quan sát loại thực vật nào chiếm ưu thế

và nơi phân bố

* Điều tra đất tại thực địa

- Để xác định được điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu, tại các trạng thái rừng có phân bố cây Ba kích tím, tiến hành đào phẫu diện xung quanh, gần gốc và rễ cây Ba kích tím với kích thước 80x100cm

- Mô tả phẫu diện và lý tính của đất, kết quả ghi vào biểu mô tả phẫu diện (Phụ lục 05)

- Lấy 04 mẫu đất tại 04 vị trí khác nhau, mỗi mẫu lấy 1kg đất Tiến hành phân tích các chỉ tiêu để thu thập các thông tin về thành phần dinh dưỡng đất và độ chua: Phản ứng chua sinh lý pHKCl; hàm lượng mùn 0M%; Đạm tổng số N%; Lân tổng số( P2O5 TS) %; Kali tổng số (K2O TS) %; Ca % Toàn bộ mẫu đất được kiểm tra, xử lý và phân tích trong phòng phân tích moi trường - VILAS 371 của công ty cổ phần kỹ thuật và phân tích môi trường

2.3.3 Phương pháp tổng hợp, phân tích SWOT và đề xuất giải pháp

Từ các số liệu có được thông qua thu thập, phỏng vấn, điều tra hộ dân Tiến hành tổng hợp, xử lý dữ liệu bằng phương pháp thống kê trong quá trình nghiên cứu

Phân tích những thuận lợi, khó khăn đã và đang có, những cơ hội thách thức trong tương lai của công tác quản lý tại địa phương dựa trên những tài liệu đã thu thập được và kết quả phỏng vấn hộ dân

Ngày đăng: 14/12/2016, 08:43

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Andrew Chevallier Fnimh (2006), Dược thảo toàn thư (sách dịch), Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dược thảo toàn thư
Tác giả: Andrew Chevallier Fnimh
Nhà XB: Nxb Tổng hợp
Năm: 2006
2. Nguyễn Tiến Bân (2003), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập II, III, Nxb Nông nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh lục các loài thực vật Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tiến Bân
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2003
3. Nguyễn Tuấn Bằng (2014), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây làm thuốc làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển bền vững tại khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây làm thuốc làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển bền vững tại khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
Tác giả: Nguyễn Tuấn Bằng
Năm: 2014
4. Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương (1980), Sổ tay cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương
Nhà XB: Nxb Y học
Năm: 1980
5. Đỗ Huy Bích và cộng sự (1993), Tài nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Đỗ Huy Bích và cộng sự
Nhà XB: Nxb Khoa học & Kỹ thuật
Năm: 1993
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Viện Dược liệu (2005), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược - Giáo trình Sau Đại học, Nxb khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thuốc từ thảo dược - Giáo trình Sau Đại học
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Viện Dược liệu
Nhà XB: Nxb khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2005
7. Bộ Y Tế (1983), Dược liệu Việt Nam (Thuốc dân tộc), tập 2 in lần thứ nhất, Nxb Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dược liệu Việt Nam
Tác giả: Bộ Y Tế
Nhà XB: Nxb Y học
Năm: 1983
8. Bộ y tế (2002), Dược điển Việt Nam, Nxb Y học lần xuất bản thứ 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dược điển Việt Nam
Tác giả: Bộ y tế
Nhà XB: Nxb Y học lần xuất bản thứ 3
Năm: 2002
9. Bộ Y tế (2007), Thực vật học, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 306-309 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực vật học, Nxb
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nxb "Y học
Năm: 2007
10. Vũ Văn Chuyên (1976), Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, Nxb Y học và TDTT, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, Nxb
Tác giả: Vũ Văn Chuyên
Nhà XB: Nxb "Y học và TDTT
Năm: 1976
12. Võ Văn Chi, Trần Hợp (1999 - 2000), Cây có ích ở Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây có ích ở Việt Nam
Nhà XB: Nxb Giáo dục
13. Võ Văn Chi (2003 - 2004), Từ điển thực vật thông dụng, (Tập I,II), Nxb khoa học và kỹ thuật, tr. 996 - 1000, tr. 1785 - 1786 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thực vật thông dụng
Nhà XB: Nxb khoa học và kỹ thuật
14. Võ Văn Chi (2007), Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam
Tác giả: Võ Văn Chi
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
15. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), (Tập I,II), Nxb Y học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Võ Văn Chi
Nhà XB: Nxb Y học
Năm: 2012
16. Lưu Đàm Cư (2002), Thực vật dân tộc học - Tài liệu giảng dạy cao học, Viện Sinh thái & Tài nguyên Sinh vật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực vật dân tộc học -
Tác giả: Lưu Đàm Cư
Năm: 2002
17. Lưu Đàm Cư (2004), Cây thuốc truyền thống của người Dao, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc, nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống, định hướng y dược học. Nxb KH và KT, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc truyền thống của người Dao, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Tác giả: Lưu Đàm Cư
Nhà XB: Nxb KH và KT
Năm: 2004
18. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến trị bệnh ban đầu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 1035-1037 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến trị bệnh ban đầu
Tác giả: Lê Trần Đức
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 1997
19. Gary J. Martin (2002), Thực vật dân tộc học (sách dịch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực vật dân tộc học
Tác giả: Gary J. Martin
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2002
20. Ty Thị Hoàn (2004), Khảo sát nguồn cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc bản địa trong phòng và chữa bệnh của người Cao Lan ở xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang. Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Y Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát nguồn cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc bản địa trong phòng và chữa bệnh của người Cao Lan ở xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang
Tác giả: Ty Thị Hoàn
Năm: 2004
54. Hội Lâm Nghiệp, Cây ba kích (Morinda officinalis How) - Loài cây dược liệu nhiều công dụng, http://hoilamnghiep-pto.com Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w