1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tiểu luận: Phân tích chế độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

23 2,1K 12

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 23
Dung lượng 45,19 KB

Nội dung

Biển đã gắn bó với nền văn minh nhân loại từ thuở sơ khai, như Việt Nam chúng ta biển đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử và minh chứng ở đây là sự xuất hiện của truyền thuyết con rồng cháu tiên. Mẹ Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm con, năm mươi theo cha xuống biển, năm mươi theo mẹ lên rừng. Như vậy chúng ta thấy biển đã gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Và theo như các nghiên cứu khoa học thì biển bao bọc tới hơn 70% diện tích bề mặt trái đất.Người La Mã, Hy Lạp cổ đại hay người châu Âu cổ đại đã vươn ra biển từ rất sớm và họ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội. Từ xưa đến nay biển luôn mang lại các nguồn lợi to lớn cho con người từ khía cạnh giao thông hàng hải đến tài nguyên thiên nhiên. Phần lớn lượng hàng hóa trên thế giới được vận chuyển trên đường biển. Nếu không có bienr thì việc lưu thông hàng hóa trở nên khó khăn và chi phí vận chuyển sẽ tăng cao ảnh hưởng lớn đến giá thành cũng như thời gian đưa hàng hóa vào tiêu thụ và điều đó dẫn đến sự ứ trệ và chậm phát triển của nền kinh tế thế giới. Biển cung cấp cho chúng ta một nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn từ nguồn lợi thủy sản đến khoáng sản. Biển cung cấp cho chúng ta một nguồn lợi thủy sản có trữ lượng lớn, phong phú đa dạng chủng loại và là nguồn thực phẩm quý giá của nhân loại. Bên cạnh đó biển còn chứa một lượng lớn dầu mỏ, băng cháy và các loại khoáng sản khác. Những loại khoáng sản này đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế của quốc gia. Chính vì những nguồn lợi mà biển mang lại rất lớn nên các quốc gia đã hướng ra biển từ rất sớm. Quốc gia nào cũng có ý muốn độc chiếm biển, biến biển thành của riêng mình chính vì thế mà dẫn đến những xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia về chủ quyềncũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình trên biển. Chính vì ý định muốn độc chiếm cho mình diện tích biển lớn nhất có thể mà gần đây chúng ta thấy vấn đề biển Đông luôn là điểm nóng của dư luận thế giới. Sớm đã nhận thấy việc tranh chấp và xung đột của các quốc gia về biển là vấn đề khó tránh khỏi nên Liên Hợp Quốc đã cho ra đời Công ước luật biển (UNCLOS) năm 1982 sau nhiều lần hội nghị. Theo đó công ước quy định rõ ràng về các nguyên tắc của luật biển, cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển của quốc gia cũng như biển cả (biển quốc tế). Xuất phát từ mong muốn giúp mọi người có những hiểu biết cơ bản và có cái nhìn đúng đắn hơn về quyền chủ quyền và quyền tài phán của của Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới có biển mà tôi đã lựa chộn đề tài “Phân tích chế độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Liên hệ thực tiễn Việt Nam” để làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học của mình. Trong quá trình nghiên cứu khó tránh mắc phải sai sót, kính mong thầy cô và các bạn góp ý để tôi có thể sửa chữa và hoàn chỉnh đề tài. Xin chân thành cảm ơn

Trang 1

MỤC LỤCA.

Trang 2

đã vươn ra biển từ rất sớm và họ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội.

Từ xưa đến nay biển luôn mang lại các nguồn lợi to lớn cho con người từ khía cạnh giao thông hàng hải đến tài nguyên thiên nhiên Phần lớn lượng hàng hóa trên thế giới được vận chuyển trên đường biển Nếu không có bienr thì việc lưu thông hàng hóa trở nên khó khăn và chi phí vận chuyển sẽ tăng cao ảnh hưởng lớn đến giá thành cũng như thời gian đưa hàng hóa vào tiêu thụ và điều đó dẫn đến sự ứ trệ và chậm phát triển của nền kinh tế thế giới Biển cung cấp cho chúng ta một nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn từ nguồn lợi thủy sản đến khoáng sản Biển cung cấp cho chúng ta một nguồn lợi thủy sản có trữ lượng lớn, phong phú đa dạng chủng loại và là nguồn thực phẩm quý giá của nhân loại Bên cạnh đó biển còn chứa một lượng lớn dầu mỏ, băng cháy và các loại khoáng sản khác Những loại khoáng sản này đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế của quốc gia Chính vì những nguồn lợi mà biển mang lại rất lớn nên các quốc gia đã hướng ra biển từ rất sớm Quốc gia nào cũng có ý muốn độc chiếm biển, biến biển thành của riêng mình chính vì thế mà dẫn đến những xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia về chủ quyền cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình trên biển Chính vì ý định muốn độc chiếm cho mình diện tích biển lớn nhất có thể mà gần đây chúng ta thấy vấn đề biển Đông luôn

là điểm nóng của dư luận thế giới Sớm đã nhận thấy việc tranh chấp và xung đột của các quốc gia về biển là vấn đề khó tránh khỏi nên Liên Hợp Quốc đã cho

Trang 3

ra đời Công ước luật biển (UNCLOS) năm 1982 sau nhiều lần hội nghị Theo đó công ước quy định rõ ràng về các nguyên tắc của luật biển, cách xác định và chế

độ pháp lý của các vùng biển của quốc gia cũng như biển cả (biển quốc tế) Xuất phát từ mong muốn giúp mọi người có những hiểu biết cơ bản và có cái nhìn đúng đắn hơn về quyền chủ quyền và quyền tài phán của của Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới có biển mà tôi đã lựa chộn đề tài “Phân tích chế

độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển UNCLOS 1982 Liên hệ thực tiễn Việt Nam” để làm

đề tài tiểu luận kết thúc môn học của mình

Trong quá trình nghiên cứu khó tránh mắc phải sai sót, kính mong thầy cô

và các bạn góp ý để tôi có thể sửa chữa và hoàn chỉnh đề tài Xin chân thành

cảm ơn!

Trang 4

B. NỘI DUNG

Theo như quy định của Công ước luật biển năm 1982 thì thì các vùng biển bao gồm các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia, các vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán Trong đó các vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán bao gồm vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

Để tìm hiểu chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia theo quy định của UNCLOS năm 1982 thì trước tiên phải xác định được các vùng này Việc xác định các vùng này thường lấy đường cơ sở làm gốc để xác định

Đường cơ sở là cách nói ngắn của từ “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải” Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các vùng biển; đường cơ sở dùng để xác định nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở), lãnh hải (12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp (24 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng đặc quyền kinh tế (200 hảo lý tính từ đường cơ sở),…

Theo quy định của UNCLOS năm 1982 có hai loại đường cơ sở là: Đường

cơ sở thông thường và Đường cơ sở thẳng

1. Đường cơ sở thông thường

Theo quy định tại Điều 5 UNCLOS năm 1982: “Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải

đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận”

Phương pháp ngấn nước thủy triều thấp nhất lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Và phương pháp này đã được tiếp tục được ghi nhận trong UNCLOS 1982

Phương pháp này cũng được áp dụng đối với các đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh Trong trường hợp này, ngấn nước

Trang 5

thủy triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá, như đã được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia chính thức công nhận sẽ được coi là đường cơ sở của các đảo này1.

Tuy vậy, việc xác định đường cơ sở theo phương pháp thông thường có một

số hạn chế sau đây:

 Các điểm, toạ độ thể hiện ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc theo bời biển để xác định đường cơ sở do chính quốc gia đó tuyên bố nên sẽ không tránh khỏi tình trạng các quốc gia đưa ra tuyên bố không đúng thực tế nhằm mục đích

mở rộng càng nhiều càng tốt nội thủy của quốc gia mình ra bên ngoài Chính vì vậy, mức độ chính xác của các tọa độ, các điểm xác định dựa vào ngấn nước thủy triều sẽ không cao

- Cộng đồng quốc tế sẽ rất khó khăn trong việc chứng minh tính xác thực

của các điểm, các toạ độ mà quốc gia ven biển đã tuyên bố

- Các quốc gia ven biển nếu áp dụng phương pháp đường cơ sở thông

thường để xác định đường cơ sớ thì sẽ có một vùng nội thủy rất hẹp và đây chính là lý do mà các quốc gia trên thế giới thường không muốn áp dụng hoàn toàn đường cơ sở theo phương pháp này mặc dù căn cứ vào các quy định của UNCLOS 1982 là hoàn toàn phù hợp

2. Đường cơ sở thẳng

Bên cạnh cách xác định đường cơ sở thông thường thì các quốc gia có biển cũng có thể xác định đường cơ sở thẳng khi có đủ các điều kiện theo như quy định của UNCLOS 1982 Theo như quy định tại Điều 7 Công ước luật biển năm 1982 thì đường cơ sở thẳng là đường nối các điểm thích hợp và được áp dụng “ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những điều kiện tự nhiên khác”

Phương pháp này có nguồn gốc từ phán quyết của Tòa án công lý quốc tế (ICJ) trong vụ kiện giữ Nauy và Anh Khi đó, ICJ đã đưa ra phán quyết để Nauy thắng trong đó Nauy đã dùng phương pháp đường cơ sở thẳng để xác định lãnh

Trang 6

hải của mình Phương pháp này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 4 Công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải và tiếp đó là UNCLOS 1982.

Trong trường hợp này, đường cơ sở là đường thẳng gãy khúc được xác định bằng cách nối các điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ, của các mũi, các đỉnh chạy dọc theo chiều hướng chung của bờ biển lại với nhau thành đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải

Để tránh tình trạng xác định đường cơ sở chạy ra quá xa bờ biển, tùy ý nối tắt nhiều điểm không thực chất thành các đoạn thẳng để có nội thủy rộng lớn thì Điều 7 UNCLOS 1982 cũng đã có quy định như quy định về điều kiện vạch đường cơ sở theo phương pháp xác định đường cơ cơ sở thẳng Theo đó khi một quốc gia ven biển vạch đường cơ sở thẳng phải đảm bảo các điều kiện sau:

- Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển (khoản 3, Điều 7) Tuyến đường cơ sở phải phù hợp địa hình tự nhiên của

bờ biển của quốc gia đó)

- Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương

tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế (khoản 4, Điều 7)

- Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng (khoản 5, Điều 7)

- Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế (khoản 6, Điều 7)

UNCLOS năm 1982 không có quy định cụ thể tiêu chí để xác định bờ biển

bị khoét sâu, lồi lõm mà chỉ đưa ra định nghĩa về vịnh do bờ biển của một quốc gia bao bọc tại Điều 10 Chính vì vậy, các quốc gia ven biển thường bằng mọi cách để xác định đường cơ sở theo phương pháp đường thẳng gãy khúc (toàn bộ

Trang 7

tuyến đường cơ sở hoặc một số đoạn đường cơ sở) Để tránh tình trạng này, Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã đưa ra khuyến cáo khái niệm thế

nào là “bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm”; “Chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ

biển”; cũng như các khuyến cáo về chiều dài các đoạn đường cơ sở và góc lệch

mà đường cơ sở tạo với bờ biển2

Đối với các quốc gia quần đảo (État archipel), việc xác định cũng như các điều kiện trong cách xác định đường cơ sở của các quốc gia này được quy định

cụ thể tại Điều 47 UNCLOS 1982

Và theo như tinh thần quy định của điều 14 cũng UNCLOS 1982 thì tùy theo đặc điểm địa hình bờ biển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ mà đường cơ sở của các quốc gia, các vùng lãnh thổ xác định theo phương pháp đường cơ sở thông thường hay đường cơ sở thẳng hoặc kết hợp cả hai phương pháp trên

 Việt Nam đã tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam ngày 12-11-1982 Theo tuyên bố này, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là hệ thống đường cơ sở thẳng gãy khúc nối liền các đảo, mũi nhô ra xa nhất dọc theo bờ biển qua 11 điểm thành 10 đoạn thẳng xuất phát từ đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai (Cămpuchia)3 Tuyên bố về đường cơ sở Việt Nam chủ yếu được xác định theo phương pháp đường thẳng gãy khúc, trong 11 điểm xác định, chỉ có 1 điểm duy nhất được xác định theo phương pháp đường cơ sở thông thường ( điểm A8 tại Mũi Đại Lãnh) Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở của nước ta vẫn chưa bao quát hết chiều dài bờ biển vì còn có hai vị trí chưa xác định, đó là điểm số 0 nằm trên vùng nước lịch sử của Cộng hòa nhân dân Cămpuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phần còn lại từ đảo Cồn Cỏ cho tới hết vùng biển phía Bắc của Việt Nam Tuyên bố về đường cơ cơ sở của Việt Nam đưa ra trong bối cảnh tranh chấp rất phức tạp trên biển Đông, tất cả các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực chưa được giải quyết hoặc đang trong giai đoạn đàm phán nên chúng ta chưa thể xác định hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh, khép kín vào thời điểm đó Tuyên bố đã nêu rõ, đoạn đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa

Trang 8

vịnh Bắc Bộ sẽ được công bố sau khi vấn đề của vịnh được giải quyết4.

II. VÙNG TIẾP GIÁP LÃNH HẢI

1. Cách xác định

Theo quy định tại khoản 2, Điều 33 UNCLOS 1982: “Vùng tiếp giáp

không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”.

Như vậy, muốn xác định được vùng tiếp giáp lãnh hải thì quốc gia ven biển trước hết phải xác định đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải Như vậy nếu một quốc gia đã quy định lãnh hải rộng 12 hải lý thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc vùng tiếp giáp lãnh hải của họ có chiều rộng thực tế tối đa là 12 hải lý và hợp với lãnh hải thành vùng biển có chiều rộng 24 hải lý Chúng ta có thể thấy được một điều rằng chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải sẽ phụ thuộc vào việc xác định đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải

 Đối với Việt Nam chúng ta vùng tiếp giáp lãnh hải đã được công bố từ rất lâu theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-5-1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam quy định: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam” Và tuyên bố này

đã được luật hóa thành quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 tại điều 13 như sau: “Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải”

2. Chế độ pháp lý

Chúng ta có thể thấy được rằng vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng không phải là một bộ phận của biển quốc tế Chính vì lý do đó mà vùng tiếp giáp lãnh hải khác về bản chất so với lãnh hải Nếu như lãnh hải là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia thì vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển

Trang 9

Theo như quy định tại điểm a, b khoản 1 điều 33 UNCLOS 1982 thì các quốc gia ven biển sẽ có thể tiến hành các hoạt động kiểm soát nhằm mục đích:

 Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y

tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình

 Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình

Với những quy định trên thì thẩm quyền của quốc gia ven biển trên vùng

tiếp giáp lãnh hải được coi là quyền mang tính “cảnh sát” nhằm bảo vệ lãnh hải

và nội thủy quốc gia ven biển Bên cạnh đó, tại Điều 303 của Công ước luật biển năm 1982 có quy định rằng quốc gia ven biển sẽ có quyền đối với các hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát hiện ở vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, theo đó

“quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói tại điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu tại Điều 33”.

 Đối với nước Việt Nam chế độ pháp lý của vùng biển này được xác định trong Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12-5-

1977, tiếp đó là trong Nghị định 30-CP ngày 29-1-1980 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chế độ hoạt động của tàu thuyền nước ngoài tại các vùng biển của Việt Nam và mới đây nhất được quy định trong Luật biển Việt Nam năm 2012 Theo quy định tại điều 14 của Luật biển Việt Nam năm 2012 thì:

“1 Nhànước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải

2 Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa

và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam”

Chính vì vị trí của mình mà vùng tiếp giáp lãnh hải đã bị bao trùm bởi vùng đặc quyền kinh tế Vì lý do này mà ngoài các quyền được quy định tại khoản 1

Trang 10

điều 33 UNCLOS năm 1982 thì vùng này cũng sẽ mang quyền chủ quyền kinh

tế và điều này được pháp luật nước ta thể hiện rõ thông qua quy định tại khoản 1 điều 14 của Luật biển Việt Nam năm 2012 Xin phép sẽ đề cập sau các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển về kinh tế trong phần trình bày bên dưới về vùng đặc quyền kinh tế mà không trình bày ở phần này

III. VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ

1. Cách xác định

Theo như quy định tại điều 55 UNCLOS 1982 quy định: “Vùng đặc quyền

về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh” Và cũng tại điều 57 UNCLOS năm 1982 cũng đã quy định về giới hạn của vùng đặc quyền kinh tế theo đó thì: “Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể

từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải” Từ những quy định trên thì chiều rộng thực tế của vùng đặc quyền kinh tế mỗi quốc gia lớn nhất là 188 hải

lý sau khi đã trừ đi chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý

 Đối với nước ta, vùng đặc quyền kinh tế đã được công bố từ năm 1977, theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-5-

1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của

Việt Nam quy định: “Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam” Và tinh thần của tuyên bố này vẫn được giữ nguyên trong quy

định tại điều 15 của Luật biển Việt Nam năm 2012 theo đó: “Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở” Cũng như đã phân tích ở trên, chiều rộng thực tế của vùng đặc quyền kinh tế của nước ta sau khi đã trừ đi chiều rộng của lãnh hải đó là 188 hải lý

Trang 11

2. Chế độ pháp lý

Như chúng ta thấy vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc gia chiếm hầu hết diện tích biển của mỗi quốc gia Vậy trên vùng biển này quốc gia sẽ có những quyền gì?

Quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại điều 56 của Công ước luật biển năm

1982 Theo đó trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:

“Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió”

Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với tài nguyên sinh vật bao gồm các quyền như ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận đối với tài nguyên sinh vật (khoản 1 điều 61 Công ước luật biển năm 1982); thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật (khoản 2 điều 61 UNCLOS 1982); xác định khả năng đánh bắt của mình để ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh bắt (khoản 2 điều 62 UNCLOS 1982),… Bên cạnh đó thì các quy định khác trong điều 61 và 62 UNCLOS năm 1982 còn có những quy định nhằm phục vụ mục đích khai thác và bảo tồn sự phát triển bình vững của nguồn tài nguyên sinh vật biển Như vậy các quyền của quốc gia ven biển trong vùng này sẽ đồng thời giải quyết được giới hạn cần thiết đối với xu thế mở rộng chủ quyền nước ven biển để không gây ảnh hưởng đến các quyền tự do truyền thống trong biển cả và đảm bảo ngăn chặn được các nguy cơ tiềm tang từ việc lạm dụng đặc quyền khai thác tài nguyên sinh vật của nước hữu quan: đảm bảo sự khai thác vùng đặc quyền kinh tế một cách hiệu quả theo hướng tôn trọng đặc quyền của nước ven biển nhưng vẫn có cơ chế hợp tác quốc tế để chia sẻ quyền lợi giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế Từ các quy định này UNCLOS 1982 sẽ thiết lập được một trật tự pháp lý quốc tế công bằng thích hơn

Ngày đăng: 04/12/2016, 13:26

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
6. Bài viết của Thạc sỹ Ngô Hữu Phước về cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển theo công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 trên website www.hcmulaw.edu.vn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài viết của Thạc sỹ Ngô Hữu Phước về cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển theo công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982
Tác giả: Ngô Hữu Phước
Nhà XB: www.hcmulaw.edu.vn
1. Công ước luật biển (UNCLOS) năm 1982 Khác
2. Giáo trình Luật quốc tế của Trường đại học kiểm sát Hà Nội Khác
3. Tuyên bố ngày 12/05/1977 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khác
4. Tuyên bố ngày 12/11/1982 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.5. Luật biển Việt Nam năm 2012 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w