Các chiến lược dựa trên thị trường đã bắt đầu được tăng cường thực hiện ở nhiều nước đang Nhu vay, có thể nói vai trò của nhà nước trong kinh tế ở các nước đang phát triển đã chuyển từ
Trang 1MUC LUC
Trang
, Phan thir nhat:
| Co sé khoa hoc cua vai trd nha nudc va phuong phap luan ” 2
kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường
1 Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường 2:
ao 1.1 Các học thuyết của kinh tế thị trường nhìn nhận vai trò của
tr 1.2 Nhà nước và thị trường, không thay thế mà bổ sung cho
1.3 Nhìn nhận lại vai trò nhà nước sau khủng hoảng tài chính-
R 2 Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô với tư cách là công cụ quản
- ý 2.2 Xác định vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế đang
2.3 Ké€hoach hoá trong qua trinh thay đổi và phát triển 33
| Phần thứ hai:
ị Kinh nghiệm quốc tế về kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô 40
L I Kinh nghiệm của các nước công nghiepe phát triển 40
1.2 Kế hoạch hoá tại CHLB Đức 47
2 Kinh nghiệm kế hoạch hoá ở các nước đang phát triển _—_ SỐ
2 2.1 Những thay đổi về nội dung kế hoạch hoá ở các nước
_ 2.2 Quy trình và công nghệ kế hoạch hoá ở các nước đang
Trang 2
i i 2.3 Các loại hình kế hoạch hoá và cơ cấu tổ chức kế hoạch hoá 67
PR |
Tả HH i 3 Ké hoach hod trong nén kinh té chuyén doi qua kinh
Co DA 1 Nhận thức về vai trò của nhà nước và kế hoạch hoá trong
_ 1 t† ` { 3 _ nên kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam ˆ - 86
de 1.1 Xác định vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường 87
2.1 Kế hoạch hoá trong co chế thị trường có sự quản lý của
; 2.2 Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá,
oe 2.3 Kế hoạch hoá đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa phát
triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 99
{ 2.4 Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo |
_ 2.5 Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô 101
3 Một số giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong thời gian
! 3.5 Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách 109
if 3.6 Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế 110
| q Ỳ 3.7 Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin - 111
3.7 Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch 112
Trang 3Sau hon 10 nam đổi mới, đời sống kinh tế-xã hội Việt Nam đã có ' ˆ' ~
những chuyển biến hết sức cơ bản và rõ nét Xét về mặt thể chế quản lý thì nền kinh tế nhiễu thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước Nhà nước sử dụng ng gày càng tốt hơn hệ thống chính sách kinh tế và kế hoạch hoá để quản lý và điều hành nền kinh tế Bản thân công tác kế hoạch hoá cũng đã và đang trải qua thời kỳ đổi mới
thực tiễn của kế hoạch hoá chính là nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm
vụ nêu trên
Để giải quyết vấn đề đổi mới kế hoạch hoá, cần triển khai nghiên cứu ba mảng đề tài chủ yếu Một là nghiên cứu cơ sở khoa học và kinh nghiệm quốc tế Hai là tổng kết thực tiễn đổi mới và rút ra những vấn đề cần xử lý Ba là đề xuất phương hướng và các giải pháp tiếp tục đổi mới 'kế hoạch hoá đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới đây mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước
Với quy mô một đề tài khoa học cấp Bộ, Dé tai nay được giao
nhiệm vụ nghiên cứu mảng vấn đề thứ nhất, tức là nghiên cứu cơ SỞ khoa
học và kinh nghiệm quốc tế về kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô của Nhà nước,
để phục vụ cho việc để xuất chủ trương và giải pháp tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam Cồn hai mảng vấn đề sau về tổng kết thực tiễn, phân tích thực trạng, phát hiện vấn dé, và nhất là đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam thì sẽ được nghiên cứu trong khuôn khổ một đề tài khoa học cấp Nhà nước
Trang 4CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
vA PHUONG PHAP LUAN KE HOACH HOA KINH TE Vi MO
TRONG KINH TE THI TRUONG
1 VAI TRO CUA NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
_ Kế hoạch hoá là một công cụ mà nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế Để có thể phân tích sâu vào việc sử dụng công cụ này, rất cần xác, định rõ vai trò và chức năng quản lý kinh tế của nhà nước Điều này lại càng cần thiết khi mà ở Việt “Nam còn nhiều ý kiến khác nhau xung quanh
câu hỏi nhà nước nên can thiệp như thế nào vào nền kinh tế
Nhằm làm rõ hơn một bước vấn đề nêu trên, trong mục này sẽ thảo luận về một số chủ đề chính sau đây Một là, vai trò nhà nước được xem xét như thế nào trong các học thuyết chủ yếu của kinh tế thị trường Hai
là, sự lựa chọn giữa “nha nước và thị trường trong thực tế điều hành nền kinh tế ở các nước Ba là, nhìn nhận lại vai trò nhà nước sau khủng khoảng tài chính-tiền tệ khu vực
1.1 Các học thuyết của kinh tế thị trường nhìn nhận vai trò nhà
nước
Nhà nước nào cũng có chức năng quản lý đất nước, đảm bảo sự an toàn quốc g gia, chống thù trong, giặc ngoài và quản lý kinh tế ví mô Tuy nhiên, vai trò kinh tế của nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử không giống nhau Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhà nước có vai trò chủ yếu nhằm bảo vệ sở hữu nô lệ và phong kiến về tư liệu sản xuất, thực hiện quyền sở hữu về mọi mặt kinh tế do giai cấp thống trị Dưới chủ nghĩa tư bản, với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, tính chất xã hội hoá sản xuất và tính năng động của nền kinh tế ngày càng cao, làm cho vai trò kinh tế của nhà nước tăng lên
Vào khoảng giữa thế kỷ L5, quá trình tích luy nguyên thuỷ tư bản được thực hiện Nền kinh tế thị trường phát tr ién nhanh, giai cấp tư sản cần có “bà đỡ”, cần sự hỗ trợ của nhà nước; chính vì vậy vai trò kinh tế
của nhà nước tư sản rất được coi trọng Vào thời gian này, nhà nước đã
thực hiện chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt và tìm mọi cách tích luy
tiền tệ Nhiều nước đã đặt ra luật cấm các thương nhân nước ngoài không
được mang tiền ra khỏi nước họ Nhà nước còn quy định những nơi được
Trang 5hỗ trợ các thương nhân trong nước tham gia buôn bán quốc tế bằng phương tiện vật chất va tai chính Đồng thời nhà nước cũng quy định
nghiêm ngặt về tỷ giá hối đoái, cấm trả cho người nước ngoài cao hơn
mức quy định của nhà nước Nhờ các chính sách đó giai cấp tư sản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể, phát triển mạnh các lĩnh
vực sản xuất '
_ Với việc áp dụng các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước phát triển rất nhanh Các nhà tư sản đua nhau phát triển các' ngành nghề mới và mở rộng quy mô sản xuất Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hòi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nước này Các nhà kinh tế học cổ điển ủng hộ mạnh mẽ tự do cạnh tranh Tư tưởng tự do kinh tế của William Petty là : Trong chính sách kinh tế, phải chú ý tới quá trình tự nhiên mà không được dùng bạo lực để chèn ép nó
Tư tưởng nhấn mạnh tự đo kinh tế được tiếp tục phát triển trong thuyết trật tự tự nhiên của phái trọng nông ở Pháp, song nổi bật nhất là bởi Adam Smith (1723-1790), mét nha | kinh tế học nổi tiếng người Anh Ông
đã đưa ra thuyết “Bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can
thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá Theo ông, phát triển kinh tế cần
tuân theo nguyên tắc tự do Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự điều tiết; sự vận động của thị trường là do quan hệ cung-cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định; quan hệ giữa người với người chủ yếu là quan hệ lợi ích kinh tế A
Smith cho rằng mỗi người hoạt động trước hết chỉ nhằm lợi ích của bản
thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội, và điều này nằm ngoài ý định của từng nhà kinh doanh Như vậy để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp
Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình”, 'song Adam Smith cũng cho rằng đôi khi nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định; đó là
trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh
nghiệp, như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn v.v Thực tế ' cũng cho thấy, nền kinh tế muốn phát triển nhanh, đòi hỏi đất nước phải
L) Xem Nguyễn Duy Hùng: “Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Trang 6
” có một cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại, lĩnh vực mà
ngoài nhà nước ra, không ai đảm nhiệm được Cho nên người ta ngày càng
ý thực rõ kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất càng mở rộng,
thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý nhà nước đối với nền
kinh tế Tuy nhiên, nhìn chung | các nhà kinh tế lúc đó vẫn coi tự do kinh
tế là sức mạnh của nền kinh tế thị trường, quy luật kinh tế là vô địch, mặc
dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy ở mức độ nhất định sự hoạt động của nó
Vào đầu những năm 30 của thế kỷ này, nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra thường : xuyên, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929- 1933, cho thấy ' “Bàn tay vô hình” không thể bảo đảm, những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển “Them vao dé, trình độ xã hội hoá san xuất phát triển ngày càng cao đã làm cho các nhà kinh tế thấy rõ yêu cầu cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can
thiệp vào quá trình hoạt động của thị trường, góp phần điều tiết kinh tế
Từ đó nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý thuyết nhà nước điều tiết kinh tế thị trường
Theo J.M Keynes, sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn”, nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập Vì vậy, cầu tiêu dùng giảm tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá, từ đó làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất tín dụng thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ không đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nữa Điều này sẽ dẫn nền kinh tế đi đến chỗ trì trệ, khủng hoảng, và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng tăng Để khắc phục tình trạng đó, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, vào thị trường, phải huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập dân.cư,làm cho cầu tiêu dùng tăng lên, làm tăng giá cả hàng hoá, tăng thu nhập của nhà kinh doanh, tăng hiệu quả của vốn đầu tư Điều đó khuyến khích mở rộng đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh, nhờ vậy mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và hạn chế thất nghiệp
J M Keynes và trường phái của ông cho rằng, nhà nước cần can thiệp vào kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô Ở tầm vĩ mô, nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, v:v Ở tầm vi mô, nhà nước tr ực tiếp phát triển các
doanh nghiệp sẵn xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng
Trường phái Keynes cho rằng, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế sẽ giúp khắc phục được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn
Trang 7này, các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng, các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của nhà nước
Trong số các nhà kinh tế học ủng hộ tư tưởng điều hành nền kinh tế thông qua cơ chế phối hợp, quan điểm của Paul Samuelson (Mỹ) là rất
đáng chú ý Trong cuốn “Kinh tế học” ông viết : “Điều hành một nền kinh
tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay” Hiện nay quan điểm về “nền kinh tế hỗn hợp” đang là cơ sở lý luận cho mô hình quản lý kinh tế ở nhiều nước với mức độ khác nhau
— Nhìn chung tư tưởng về sự can thiệp của nhà nước rất đa dạng Các nhà tư tưởng của “chi nghĩa tự đo muốn phát triển kinh tế tự do, nhà nước chỉ can thiệp ở mức độ nhất định Khẩu hiệu của họ là: “tự do thị trường nhiều như có thể, nhà nước can thiệp ít như có thể” Trong khi đó các nhà
tư tưởng kinh tế Châu Âu lục địa lại chủ trương tăng cường vai trò nhà nước, đặc biệt là trong [lĩnh vực xã hội
Tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước được vận dụng ở các nước cũng rất khác nhau và thay đổi qua các thời kỳ 6 Mỹ, nơi được mệnh danh là thế giới tự do, từ đầu thế kỷ này cũng đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp và kiểm soát của nhà nước liên bang đối với nền kinh tế Vai trò của
Chính phủ Liên bang thể hiện trên các lĩnh VỰC Sau:
- Chịu trách nhiệm xây dựng và kiểm soát sự hoạt động kết cấu hạ tầng cuả nền kinh tế, như đường giao thông, phương tiện vận tải, thông tin liên lạc và năng lượng
- Tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật về kiểm soát độc quyền
- Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó ngân hàng trung ương
vừa làm chức năng dự trữ vừa làm chức năng điều tiết và kiểm soát lượng tiền tệ cung ứng để kiểm chế lạm phát
Ở Cộng hoà liên bang Đức, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhà nước liên bang xây dựng nền kinh tế của mình theo mô hình “Kinh tế thị trường xã hội” So sánh mô hình kinh tế này với một trận bóng đá thì doanh nghiệp là cầu thủ còn nhà nước đóng vai trò trọng tài, là người thiết
Trang 8Các nước Bắc Âu lại thiên về mô hình “Nhà nước phúc lợi” Ở đây
nền kinh tế được hình dung như một quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng thông qua khâu trung gian là phân phối của cải dưới hình thức thu nhập Bằng « quyền lực hành chính, nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các khâu hoặc vào một khâu nào đó mà nhà nước thấy cần thiết Các nhà nước ở Bắc Âu đã chọn phương thức can thiệp vào khâu phân phối lại thu nhập chủ yếu bằng công cụ thuế Thông qua việc điều chỉnh cơ cấu thuế
va chi tiêu, chính phủ của các nước Bắc Âu hướng nền kinh tế của họ đến mục tiêu thu hẹp khoảng cách giữa người giầu và người nghèo, bằng cách đem lại cho mọi thành viên trong xã hội những phúc lợi như nhau được, tạo ra từ nguồn thu chủ yếu là thuế, Chính vì vậy, trong khi tổng thống Ronald Reagan ở Mỹ chủ trương áp dụng thuế luỹ thoái, thì ở Bắc Âu lại
áp dụng thuế luỹ tiến đối với người giàu (ở Thuy Điển mức thuế suất cao nhất về thu nhập có thời kỳ lên tới 60%)
Ở các nước đang phát triển, trong nhiều thập kỷ qua cùng với quá trình tìm tòi con đường đi lên là quá trình hợp lý hoá vai trò của nhà nước Hầu hết các nước giành được độc lập từ chủ nghĩa thực dân đã tin tưởng mạnh mẽ vào phát triển kinh tế với nhà nước có vai trò chủ đạo Theo đó, nhà nước có thể huy động của cải, sức người và hướng các nguồn lực này
vào tăng trưởng nhanh và xoá bỏ sự bất công xã hội Quan điểm đó đã
chịu ảnh hưởng bởi các sự kiện bên ngoài vào thời kỳ đó Thứ nhất, mô ình kế hoạch “hoá tập trung của Liên Xô cũ đã được nhiều nước coi là
- hình mẫu phát triển kinh tế “Thứ hai, ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa thì
cuộc đại suy thoái đã được coi là thể hiện của sự thất bại của chủ nghĩa thị
trường tu do, trong khi sự can thiệp của nhà nước, như kế hoạch Marshall, quan lý tổng cầu của Keynes, và nhà nước phúc lợi, dường như đã thu được thắng lợi Quan điểm này cũng có nguồn gốc từ bản thân điều kiện kinh tế của các nước đang phát triển, ở đó các thị trường không phát triển
và nhà nước cần đóng vai trò tích cực để sửa chữa khuyết tật của chúng
Trang 9Đầu thập kỷ 70, dưới tác động của các cuộc khủng "hoảng tăng giá
dầu lửa và tăng giá hàng xuất khẩu: nông sản, chỉ tiêu của khu vực nhà
nước ở cả các nước xuất khẩu và nhập khẩu dầu lửa đều tăng mạnh Cuộc
khủng khoảng nợ của những năm 80 đã đầy chỉ tiêu của khu vực nhà nước
tăng vọt do phải thực hiện các nghĩa vụ trả nợ Sau đó đã có nhiều yếu tố
tác động đến việc xác định vai trò của nhà nước Thứ nhất, sự sup đổ của Liên Xô, và mô hình kinh tế của các nước Đông Âu không còn hấp dẫn nữa Thứ hai, sự thất bại của nhà nước, kể cả các doanh nghiệp nhà nước,
đã hiển hiện ở khắp nơi Chính phủ đã bắt đầu thực hiện các chính sách
giảm thiểu phạm vi can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế: chấm dứt sự
can thiệp vào sản xuất, vào định giá và thương mại Các chiến lược dựa
trên thị trường đã bắt đầu được tăng cường thực hiện ở nhiều nước đang
Nhu vay, có thể nói vai trò của nhà nước trong kinh tế ở các nước
đang phát triển đã chuyển từ mô hình phát triển do nhà nước làm chủ đạo của những năm 60 và 70 sang mô hình nhà nước can thiệp có mức độ vào những năm 80 và 90 Trên thực tế việc giảm thiểu quy mô của khu vực nhà nước không chỉ thực hiện qua việc xoá bỏ các chương trình không
quan trọng, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mà còn cắt giảm chi tiêu cho các chương trình giáo dục và y tế cực kỳ quan trọng kể cả chỉ đầu tư
Việc đó đã ảnh hưởng đến những chức năng cực kỳ quan trọng của nhà nước, đe doa việc đảm bảo phúc lợi xã hội và xói mòn nền tẳng cho sự
phát triển của thị trường Bài học rút ra từ thực tế phát triển kinh tế của
các nước đang phát triển là phát triển dựa vào vai trò chủ đạo của nhà
nước đã thất bại, nhưng cũng không thể phát triển được nếu không có một
nhà nước hoạt động có hiệu quả Vay vai trò của nhà nước ở mức nào là hợp lý? Những phân tích sau đây về thất bại của thị trường và nhà nước sẽ
cố gắng lý giải về câu hỏi này
1.2 Nhà nước và thị trường, không thay thế mà bổ sung nhau
Kể cả trong lý thuyết và trên thực tế, không có nền kinh tế thị trường nào có thể hoạt động mà không chịu sự điều tiết của cả thị trường
và nhà nước Vì thế, cái gọi là vấn đề nhà nước và thị trường thực ra
không phải là vấn đề lựa chọn giữa nhà nước hay thị trường, càng không
phải đã chọn thị trường thì thôi nhà nước và ngược lại, mà là vấn đề xác định phạm vi hợp lý cho cả thị trường và nhà nước
7
Í si
Trang 10
1.2.1 Thất bại của thị trường - lý do chủ yếu để nhấn mạnh vai trò nhà
nước
, Người ta không thể chỉ lựa chọn một trong hai tác nhân thị trường
hoặc nhà nước, vì cả hai cơ chế điều tiết đó đều có những mặt mạnh cơ
bản đồng thời với những khuyết tật rất rõ
Người ta đã tổng kết thành 5 mặt hạn chế, khuyết tật của cơ chế thị
trường được nêu tóm tắt là: Ð
- Cơ chế thị trường, nếu không có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước,
dẫn đến sản xuất “mù quang”, gay nên các cuộc khủng hoảng “thừa, thiếu”
_; Cơ chế thị trường cạnh tranh dẫn đến phá sản các doanh nghiệp, 8ây ra những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, nhất là thất nghiệp
- Trong cơ chế thị trường, do chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp
thường không đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực, các ngành ít lợi nhuận, không lợi nhuận, thậm chí dễ thua lỗ, song xã hội lại rất cần, đặc biệt là các sản phẩm và dịch vụ công cộng
- Cơ chế thị trường không có khả năng tự điều tiết sự phát triển ở
các vùng kém lợi thế so sánh, vùng khó khăn so với những vùng thuận lợi;
đồng thời có xu hướng làm sâu sắc thêm sự phân hoá thu nhập
- Cơ chế thị trường là môi trường dễ nảy sinh tình trạng kinh doanh
lừa đảo, làm hàng giả, lối sống chạy theo đồng tiền, các tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sinh thái
Câu hỏi liệu các nước đang phát triển như Việt Nam có thể dựa vào
cơ chế thị trường tới mức nào để thúc đẩy phát triển, chỉ có thể tìm thấy
câu trả lời cụ thể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh riêng của từng nước Tuy nhiên
có điều có thể đã nhận biết được là đối với các nước chậm phát triển, trong giai đoạn đầu của quá trình đi lên không thể dựa vào cơ chế thị
trường nhiều như các nước công nghiệp Có nhiều lý do để đưa ra kết luận
Trang 11
_ Tõ nhất là tình trạng thiếu thông tin và không ổn định mà người sản xuất và người tiêu dùng đều phải đương đầu Trong hoàn cảnh như vậy, ý đồ
tối đa hoá lợi nhuận có thể dựa trên thông tin sai lạc, và do đó không dẫn
tới sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực Để giải quyết tình trạng đó,
chính phủ có thể cố gắng cung cấp thêm thông tin; nhưng việc này rõ ràng rất tốn kém xét trên quy mô rộng lớn; hoặc chính phủ có thể quyết định can thiệp vào thị trường bằng cách hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng
Nhược điểm thứ hai là thiếu sự cạnh tranh thực sự và bình đẳng ở hầu hết các nước đang phát triển, tình trạng độc quyền còn rất phổ biến
Do đó chính phủ cần phải can thiệp để giới hạn quyền lực độc quyền, bằng cách quy định quy mô các hãng, kiểm soát giá cả độc quyền, hoặc
trực tiếp nắm lấy quyền sở hữu của các công ty độc quyền
Nhược điểm thứ ba của thị trường là ở những mặt hàng mang tính
xã hội thì giá cả và giá trị của hàng hoá không thống nhất với nhau Ví dụ
như giáo dục phổ thông và dịch vụ y tế phải được cung cấp với giá thấp hơn giá thành, thậm chí không mất tiền Đối với những mặt hàng đó, các
công ty tư nhân không có lợi ích và quan tâm phát triển Do đó chính phủ thường phải gánh vác trách nhiệm cung cấp những hàng hoá này để bảo
đảm mức phúc lợi tối thiểu Đặc trưng của các nước đang phát triển là dân
số tăng nhanh và tình trạng nghèo đói còn phổ biến nên hoạt động của chính phủ trên lĩnh vực dịch vụ công cộng không những chỉ là cần thiết °
mà chắc chắn cần được tiếp tục mở rộng
Vạch rõ những thất bại của cơ chế thị trường không có nghĩa là không nên dựa vào thị trường để phân bổ nguồn lực Bởi vì không có một
cơ quan kế hoạch hoá tập trung nào có thể thay thế thị trường điều khiển
sự bày bính bố trận nột cách có hiệu quả cho tất cả các hành hoá, dịch vụ
khác nhau Kết luận đúng hơn có lẽ là nên có sự hợp tác rộng rãi và có
hiệu quả hơn giữa khu vực công và khu vực tư nhân Chính phủ phải tìm
cách xác định rõ những lĩnh vực nào thị trường có thể điều tiết có hiệu quả nhất, và ở những lĩnh vực nào bản thân chính phủ phải đảm nhận căn
cứ vào nguồn lực hạn hẹp của mình Chính điều này chứ không phải là
thắng lợi của thị trường tự do và chính sách kinh tế để mặc cho tư nhân
kinh doanh là bài học thực sự rút ra từ những thắng lợi thần kỳ của các nước công nghiệp mới Châu Á
Trong khi thị trường có thể điều tiết tương đối có hiệu quả việc
phân bổ các nguồn lực, thì chính phủ phải quan tâm nhiều hơn đến việc
huy động các nguồn vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế Tiết kiệm của tư nhân trong giai đoạn đầu phát triển thường rất thấp; và vì vậy thông qua chính sách tài chính-tiền tệ của mình, chính phủ phải giữ vai trò to lớn trong việc tích tụ vốn Đầu tư vào sản xuất, lưu thông là thế mạnh của
$4
Trang 12— kinh tế tư nhân; nhưng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng
quyết định, nhất là trong các giai đoạn đầu phát triển, vì nó tạo ra nền tảng cho việc đầu tư sau đó của khu vực tư nhân và công cộng, thì không
thể thiếu vai trò của nhà nước Kinh nghiệm cho thấy, ngay trong các giai đoạn sau của công cuộc phát triển, tư nhân cũng khó có được các khoản
"tiền vốn lớn tới mức cần thiết để xây dựng những ngành công nghiệp then
chốt; mặc dù về lâu dài chúng sẽ mang lại lợi nhuận Chính vì vậy nhà nước cần phải tạo ra những hình thức liên doanh giữa nhà nước và tư nhân
để tạo điểu kiện cho khu vực tư nhân phát triển trong tương lai Cuối
cùng, chính phủ phải luôn luôn giúp đỡ tạo ra và phát triển nguồn lực con người thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo, góp phần nâng cao trình độ
lực lượng lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội
Một vấn đề khác nữa trong cuộc tranh luận về nhà nước và thị
trường là vấn đề phân phối thu nhập Trong khi cơ chế thị trường có thể phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn thì nó lại làm nay sinh tinh trang
bat binh dang trong phan bé thu nhập Ở hầu hết các nước đang phát triển
tình trạng phân phối có rất nhiều bất hợp lý Quá dựa vào cơ chế thị trường không những không cải thiện được tình trạng đó, mà thậm chí còn làm trầm trọng thêm vấn đề; bởi vì những kẻ có tiền có thể vươn tới sự
độc quyền và không phải chỉ gây ra bất công trong phân phối thu nhập mà
còn có thể quyết định cả việc phân bổ các nguồn lực Điều này tạo ra lý
do mạnh mẽ về mặt phúc lợi xã hội để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế Trong báo cáo năm 1997 của Ngân hàng thế giới về “Nhà nước
trong thế giới đang biến đổi”, các tác giả đã hệ thống hoá các chức năng
của nhà nước được thể hiện trong Bảng 1 dưới đây
1.2.2 Nhà nước không được làm thay thị trường
Nếu thập kỷ 70 có thể được mô tả là thời kỳ hoạt động tăng cường của khu vực quốc doanh để mưu cầu sự phát triển hợp lý hơn, thì thập kỷ
80 đã chứng kiến sự trỗi dậy của các nền kinh tế thị trường tự do Có những lý do gì đằng sau toàn bộ sự “cuồng sỉ” thị trường đột ngột này?
Một phần nó được cổ vũ bởi sự phát triển thần kỳ ở Đông Á, nhất là những nước công nghiệp hoá mới Nhưng phần quan trọng hơn có lẽ là vì
sự bất mãn ngày càng tăng đối với sự can thiệp vô lối của chính phủ nói _ chung và kế hoạch hoá không hiệu quả nói riêng
Theo tác giả Trần Việt Phương, người ta đã vạch ra 7 khuyết tật của nhà nước như sau ':
1) Trần Việt Phương: “Các học thuyết của nền kinh tế thị trường” Tài liệu tham khảo nội bộ, Hà Nội 1998, trang 11
10
Trang 13Nguồn: World Development Report 1997: The state in an changing world
ị ‘ - Bộ máy nhà nước ngày càng phình to ra;
Ñ
ty - Căn bệnh quan liêu ngày càng phát tr ién; su quan liéu của nhà
nước là lớn hon va mang lại tổn thất nặng nề hơn sự quan liêu của các tổ
II
Trang 14- Độc quyền nhà nước trong nhiều trường hợp loại trừ hoàn toàn
_cạnh tranh, loại trừ động cơ kích thích sự phát triển của thị trường;
- Độc quyền nhà nước cộng với các tệ nạn của kinh tế thị trường đẻ _ra căn bệnh ôn dịch hoành hành khắp nơi trên thế giới là nạn mafia: quyén lực nhà nước cộng với tham nhũng, buôn lậu cộng với băng nhóm tội ác;
- Hoat động của nhà nước thường đem lại những “quả đắng”, tức là những kết quả ngược hẳn với mục đích ban đầu, không phải do sai sót trong thiết kế và quyết định chính sách, mà đo trong quá trình thực hiện
nó bị bóp méo - xoay xở - đục khoét;
- Sự hiện diện của nhà nước và những chính sách của nhà nước đã , nhiều lần đưa chiến tranh kinh tế đến chiến tranh tổng lực
- Do hoạt động đặc trưng của nhà nước là lập pháp - hành chính,
cho nên nhà nước dễ mở cửa cho các bệnh mệnh lệnh, duy ý chí, chủ
quan, vi phạm các quy luật khách quan, thoát ly thực tế và xa rời quần chúng
Nhiều nhà phân tích kinh tế cho rằng tốc độ tăng trưởng thấp, lạm phát quá cao và những mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế mà nhiều nước đang phát triển phải gánh chịu trong các thập ky 70 va 80 la
do gánh nặng chi phí công cộng ngày một tăng, giá cả bị bóp méo quá đáng và chính sách thương mại hướng ndéi gây ra
Ở phần lớn các nước đang phát triển, khu vực kinh tế quốc doanh
đã phát triển mạnh trong hai thập ký 70 và 80, chiếm tới 15-20% GDP và khoảng 50-60% tổng đầu tư Tuy nhiên, vấn đề đáng chú ý là doanh lợi trong dau tư công cộng tính theo tăng trưởng GDP đã giảm gần 25% trong khoảng thời gian 1960-1980 Nguyên nhân chủ yếu là vì cơ cấu đầu tư không Ì hợp lý, đầu tư chậm trễ kéo dài, mức độ khai thác công suất thấp và
bảo dưỡng tồi đối với các công trình công cộng
Về những sai lệch và méo mó trong giá cả, Ngân hàng thế giới đã đánh giá rằng tình trạng giá cả bị bóp méo đã làm cho GDP tăng trưởng chậm lại ở nhiều nước đang phát triển Theo tính toán của ngân hàng này, hhững nước có giá cả bị bóp méo nhiều đã có tốc độ tăng trưởng thấp hơn
khoảng 2% so với tốc độ trung bình của các nước đang phát triển vào thập
kỷ 70 Ngoài ra, việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi đã khuyến khích các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, việc quy định mức lương tối thiểu
đã làm giảm cầu về lao động, việc trợ giá cho hàng tiêu dùng, nhất là cho
lương thực, thực phẩm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến người sản xuất, và do
đó đã tạo ra sự khan hiếm lương thực, thực phẩm Trước tình hình đó,
12 ~
bad
Trang 15
nhiều người nêu ý kiến cần khắc phục những lệch lạch do chính phử gây
ra trong lãi suất, trong tiền lương, trong giá cả với hy vọng để cơ chế thị trừong vận hành trôi chảy hơn, phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn
Trên bình diện quốc tế, cán cân thanh toán của các nước đang phát
triển có rất nhiều khó khăn Nhiều người cho rằng lý do chủ yếu là tỷ giá hối đoái không hợp lý, đánh giá quá cao đồng nội tệ và bảo hộ quá đáng
các ngành công nghiệp trong nước đã dẫn tới kết quả là khả năng cạnh
tranh thấp trên thị trường quốc tế Do đó, kiến nghị hướng xử lý là để cho
tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, hạn chế bớt các hàng rào thương mại, thì các
nước đang phát triển có thể được lợi nhiều hơn từ việc khai thác các lợi
thuẫn giữa mục tiêu tư nhân và mục tiêu xã hội D,
a Về giá cả các yếu tố đầu vào, sự lựa chọn phương án sản xuất và tạo công ăn việc làm
Một vấn đề mâu thuẫn thường nảy sinh giữa hai mục tiêu của kế hoạch phát triển là sự lựa chọn giữa tăng trưởng nhanh và tạo nhiều công
ăn việc làm; trong nhiều trường hợp mục tiêu tăng trưởng nhanh thường được chú ý nhiều hơn là mục tiêu tạo công ăn việc làm Chính phủ có thể
giúp giải quyết mâu thuẫn này bằng cách điều chỉnh giá cả của những yếu
tố đầu vào của sản xuất làm cho nó tương ứng với sự khan hiếm thực sự của nguồn lực trong xã hội Song trên thực tế thì không phải như vậy, mà chính phủ thường gây tác động làm cho giá cả các yếu tố đầu vào chênh lệch lớn so với giá cả thực của nó, chẳng hạn như tăng lương lên quá cao bằng nhiều chính sách khác nhau, như quy định chế độ lương tối thiểu, quy định tiền lương gắn với trình độ học vấn, quy định tiền lương trên cơ
sở những chuẩn mực lương quốc tế, v.v Tương tự như vậy có thể nhận thấy ở những chính sách khác, chẳng hạn như những khoản trợ cấp đầu tư, quy định tỷ giá quá cao, quy định thuế nhập khẩu thấp và tín dụng với lãi suất ưu đãi đã làm cho chỉ phí về tư liệu sản xuất của tư nhân thấp hơn
1) Xem Micheal P.Todaro “Kinh tế học cho thế giới thứ ba”, NXB Giáo dục, Hà Nội 1998, tr 190-194
13
Trang 16
.` nhiều so với mức độ khan hiếm nguồn lực, tức là chỉ phí xã hội cho tư liệu sản xuất, Hậu qủa của sự méo mó về giá cả của yếu tố đầu vào là khuyến khích những doanh nghiệp tư nhân và nhà nước sử dụng những phương pháp công nghệ dùng nhiều vốn hơn Như vậy, sự can thiệp của nhà nước vào giá cả của các yếu tố đầu vào đã làm cho sản xuất ngày càng thiên về
sử dụng nhiều vốn, trong khi lẽ ra cần phải hướng tới những công nghệ cần nhiều sức lao động để tạo thêm công ăn việc làm phù hợp vơí yêu cầu của xã hội Tình trạng này là một trong những lý do giải thích vì sao việc tạo công ăn việc làm tiến triển một cách chậm chạp như vậy
b Về vấn đề mất cân đối giữa nông thôn và thành thị, tình trạng di dan tut do
| Một vấn đề cũng được nhắc đến nhiều trong chính sách kinh tế của các nước đang phát triển là những bất công xã hội và tình trạng di dân tự
do từ nông thôn ra thành thị Nguyên nhân của tình trạng này là chính
sách của chính phủ thiên vị đối với thành thị thể hiện qua mức chênh lệch lớn về thu nhập giữa thành thị và nông thôn cũng như điều kiện, cơ hội kinh doanh bất công giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy người lao động
ở nông thôn ra thành thị tìm việc làm và những khoản thu nhập cao hơn, kéo theo một loạt những vấn đề kinh tế-xã hội hết sức nghiêm trọng Xét
từ quan điểm xã hội thì tình trạng di dân như vậy là hết sức tại hại và
không hiệu quả Hơn nữa, việc thiên vị đối với đô thị dẫn tới tình trạng ở hầu hết các nước chậm phát triển nông nghiệp và nông thôn không được quan tâm đúng mức làm ảnh hưởng tới cơ sở thiết yếu nhất để đảm bảo đời sống nhân dân và cho phát triển kinh tế của đất nước Thực tế cho thấy, kế hoạch hoá và chính sách của nhà nước đã không giúp thu hẹp được khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, thậm chí nhiều khi còn làm trầm trọng thêm, càng làm cho khoảng cách ngày càng rộng ra
c :Về chính sách cơ cẩu Trong giai đoạn phát triển của những thập kỷ 50-70, chính phủ nhiều nước đã theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu;
theo đó một loạt các chính sách đã được áp dụng, chẳng hạn như ưu đãi về thuế cho đầu tư nước ngoài, đánh giá cao giá trị đồng tiền để giảm giá nhập khẩu thiết bị, trợ cấp lãi suất, nhằm kích thích phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu Nhưng thực tế đã chứng tỏ, đặc biệt là ở Châu
Mỹ la tỉnh, là chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã không thành công Hơn nữa, việc nhấn mạnh quá mức vào công nghiệp thành thị
đã làm méo mó cơ cấu kinh tế nói chung, đặc biệt là tạo ra sự trì trệ và kém phát triển của nông nghiệp và nông thôn, như đã đề cập đến ở phần
trên
14
ova
Trang 17các nước đang phát triển, phần lớn nông đân dựa vào thu nhập từ xuất
khẩu sản phẩm sơ chế, thì chính sách tỷ giá nhằm kích thích công nghiệp hoá như vậy làm cho hàng nông sản xuất khẩu càng khó có khả năng cạnh
tranh hơn trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và thu nhập của nông dân Tương tự như vậy, phần lớn các chính sách khác do chính phủ đưa ra để kích thích công nghiệp hoá lại có xu hướng ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế nông nghiệp và nông thôn Bài học
về sự không chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn trong quá trình công nghiệp hoá là rất đắt giá đối với các chính phủ ở nhiều nước đang phát triển, mà Việt Nam rất cần rút kinh nghiệm
1.3 Nhìn nhận lại vai trò nhà nước sau khủng khoảng tài chính-tiền
{tệ khu vực
Cuộc khủng khoảng tài chính-tiền tệ khu vực từ giữa năm 1997 đã buộc các nhà khoa học phải nhìn nhận lại vai trò của nhà nước trong kinh
tế, đặc biệt là về những thất bại của sự can thiệp không hiệu quả của nhà
nước, về hậu quả tai hại của sự móc ngoặc trong “tam giác quỷ” giữa:
chính quyền, doanh nghiệp và ngân hàng
1.3.1 Về nguyên nhân và bài học của cuộc khủng hoảng Sau khi khủng khoảng tài chính - tiền tệ khu vực nổ ra tháng
7/1997, các phương tiện thông tin đại chúng đã rất chú ý đến tác động của việc thực hiện nhanh chóng chính sách tự do hoá thị trường tài chính và thất bại của thị trường, coi đây là những nguyên nhân chính dẫn đến
khủng khoảng Điều này đã khiến nhiều người e ngại về tác dụng của chính sách mở cửa, đặc biệt đối với các dòng lưu chuyển vốn Nhưng theo
các chuyên gia của UNDP thì nhận định như vậy là quá giản đơn, không thấy nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng khoảng và che lấp những vấn đề quan trọng và căn bản hơn liên quan đến vai trò của quản lý nhà nước `)
Các tác giả cho rằng mỗi khi có thất bại của thị trường, thì thất bại đó
thường bắt nguồn từ thất bại của chính phủ, do việc nhà nước chỉ đạo trực
L) Xem UNDP: “Đông Á: Từ thần kỳ tới khủng khoảng”, Hà Nội, tháng
6/1998, trang 22-24
15
Trang 18
tiếp hay gây ảnh hưởng gián tiếp tới quá trình đầu tư, thông qua bao lãnh
hay quan hệ cá nhân; do thiêu tính công khai và do nhà nước không cung cấp những thông tin cần thiết cho thị trường; do tham nhũng; do những cản trở của nhà nước đối với việc điều chỉnh thường xuyên các biến số thị trường tài chính, dẫn đến mất cân đối lớn và kém bền vững Trong một số
trường hợp, chính sách tự do hoá các luồng vốn đầu tư quốc tế đơn giản
chỉ làm tăng phạm vi và phương tiện ảnh hưởng của nhà nước đối với việc phân bổ các nguồn vốn
Như vậy, nguồn gốc của cuộc khủng khoảng tài chính-tiền tệ khu vực có lẽ phần nhiều là do khâu quản lý nhà nước yếu kém và những yếu
tố làm trở ngại tới hiệu quả thị trường hơn là do mức độ mở cửa đối với thị trường tài chính Việc mở cửa đối với hệ thống tài chính toàn cầu làm tăng khả năng tiếp cận các nguồn tích luỹ và các cơ hội đầu tư của nước
ngoài, đồng thời cũng làm tăng khả năng các nhà đầu tư chuyển vốn đi
nơi khác Tuy nhiên, hiện tượng chuyển vốn ra nước ngoài chỉ là triệu chứng của những nguyên nhân căn bản hơn nhiều xuất phát từ việc phân
bổ sai lầm các nguồn vốn trước đó thường được thực hiện dưới sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước, ví dụ chính sách tỷ giá hối đoái cố định của Thái Lan bất chấp tình trạng thâm hụt: cán cân vãng lai ngày càng tăng, việc cố tình cho các tập đoàn Chaebol đang gặp khó khăn
ở Hàn Quốc tiếp tục vay vốn, ảnh hưởng của gia đình trị ở Indonesia đối với các khoản đầu tư cho thương mại, v.v Trong một số trường hợp khác, hiện tượng chuyển vốn ra nước ngoài là kết quả của mức độ phản ứng gia tăng đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài trước tình hình thiếu thông tin và tính công khai, cũng như nỗi lo sợ về những điều còn bị giữ bí mật Nếu thị trường có thêm thông tin chính xác và đây đủ hơn về tình trạng tài
chính thực sự của các doanh nghiệp và ngân hàng ở Đông Á, thì sự biến
động về tài chính trong quý 3 năm 1997 có thể đã không chuyển thành
một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng tới mức như vay
Mặt khác, mặc dù đã thực hiện chính sách tự do hoá đối với thị
trường tài chính ở các nước Đông Á trong những năm gần đây, song trên
thực tế nhiều thị trường vẫn trong trạng thái đóng cửa tương đối và sự
tham gia của các đối tác nước ngoài vẫn bị hạn chế hơn so với các tổ chức trong nước Điều đáng lưu ý là những nước công nghiệp mới có chính sách mở cửa về tài chính rộng rãi nhất, đặc biệt là Hồng Kông, Singapore
và Đài Loan, vừa qua đã chống chọi được với cuộc khủng hoảng tốt hơn
so với những nước công nghiệp mới có mức độ mở cửa ít hơn
Đồng thời, nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng khoảng chắc chắn
có cả các yếu tố của thất bại thị trường, đặc biệt là đầu tư và cho vay quá mức, cũng như bấp chấp rủi ro trong một số ngành ở các nước bị khủng khoảng Lý do quan trọng nhất vân là do thiếu các biện pháp giám sát về
16
Trang 19chính ở tất cả các nước, dù là phát triển hay kém phát triển, đều cần có sự
giám sát và quy định an toàn tối thiểu để hạn chế tới mức thấp nhất nguy
cơ thất bại của thị trường này Bài học rút ra từ tất cả các nước khủng khoảng là nhà nước cần áp dụng cơ chế giám sát cũng như đưa ra các quy
định an toàn có hiệu lực đối với các tổ chức tài chính, đồng thời nhà nước cũng cần phải tự hạn chế nhiều vai trò chỉ đạo trực tiếp hay tác động gián tiếp của mình đối với việc phân bổ nguồn lực tài chính theo kiểu ưu đãi Cuộc khủng khoảng khu vực cũng nhấn mạnh nhu cầu cần quản lý
- thận trọng hơn việc mở cửa đối với một số loại hình luân chuyển vốn toàn cầu, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn và đầu tư gián tiếp, đi kèm với sự phát triển của các thị trường chứng khoán còn non trẻ Điều này cần đặc biệt lưu ý đối với các nước kém phát triển, nơi mà mức thu nhập còn thấp, thị trường tài chính sơ khai và khả năng ứng phó kém đối với những biến
dong tiém ẩn thường đi kèm với các khoản đầu tư tài chính nước ngoài
Các nước đang phát triển còn phải đối phó với khó khăn là thị trường tài
chính chưa hoàn chỉnh để dim bảo phân bổ vốn có hiệu quả và năng lực
quản lý còn hạn chế, không đủ sức phòng ngừa những hiện tượng liều linh, bất chấp rủi ro hay lạm dụng trong đầu tư
Như vậy, dựa trên cơ sở nhận định nguyên nhân cơ bản của cuộc
khủng khoảng tài chính-tiển tệ khu vực liên quan chủ yếu đến khâu quản
ý nhà nước yếu kém, nên có nhiều ý kiến cho rằng cần hết sức hạn chế sự
tham gia của nhà nước vào việc đầu tư và phân bổ nguồn lực trong các ngành thương mại, mà nên tăng cường nhiều hơn nữa vai trò của nhà nước trong việc tạo lập môi trường thuận lợi khuyến khích mạnh mẽ phát triển
nguồn lực con người, tích luỹ trong nước, phát triển khu vực tư nhân, xuất
khẩu và các điều kiện cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả
1.3.2 Nguyên nhân sâu xa của khủng khoảng nằm trong mô hình phát
triển và chất lượng quản lý nhà nước
Nhà kinh tế người Mỹ Paul Krugman đã đưa ra những phân tích có tính cảnh báo về sự thiếu bền vững của mô hình phát triển Đông Á, trong
đó không ít vấn đề liên quan đến vai trò của nhà nước Theo ông rất đáng chú ý là các nước Đông Á tăng trưởng nhanh do sử dụng nhiều các yếu tố đầu vào, như tiền vốn và nhân công, hơn là tăng năng suất Trong những trường hợp tăng được năng suất thì chủ yếu cũng do lợi thế của quy mô kinh tế chứ không phải do tiến bộ khoa học-kỹ thuật Hiệu năng kinh tế của vốn đầu tư thấp: hệ số ICOR khá cao, khoảng 5-6 so với mức trung bình là 3-4, và tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có thấp, chỉ khoảng 5% Mâu
17
Trang 20sản xuất thừa ở nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến của mình, vì nước nào cũng đầu tư vào những ngành tương tự Hơn nữa, Trung Quốc đã trở thành
đối thủ cạnh tranh lợi hại với giả rẻ hơn, tranh chiếm thị phần của các
nước Đông Á Các mặt hàng computer và linh kiện điện tử thì gặp khủng khoảng lạc hậu nhanh và giá bán xuống thấp do tiến bộ khoa học, kỹ thuật Mặt khác, chi phí kinh doanh tăng nhanh, trong khi năng suất lao động vẫn thấp, làm cho giá đơn vị quá cao, mất hẳn sức cạnh tranh Vì thế
các nhà kinh doanh trong khu vực tập trung đầu tư vào lĩnh vực cao ốc, văn phòng, thương xá, khách sạn, v.v., trong khi nhà nước huy động vốn
xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng có thời gian thu hồi vốn lâu và lợi nhuận trước mắt thấp Các công trình này sử dụng nhiều lao động va tạo
ra sự phồn vinh tạm bợ, hâm nóng nền kinh tế, đẩy gía bất động sản và cổ phiếu lên cao; các tài sản này được sử dụng làm thế chấp để vay vốn ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài để bất đầu một dot xây dựng mới Nền kinh tế "bong bóng” đã hình thành, chủ yếu do sự tăng giá nhanh của tài sản địa ốc và cổ phiếu Trong năm 1996 đã xuất hiện các dấu hiệu đầu tiên báo trước khủng khoảng: tăng trưởng xuất khẩu chậm hẳn lại trong khi nhập khẩu tăng cao ở nhiều nước, cán cân vãng lai bị thiếu hụt nghiêm trọng, nợ nước ngoài ngày càng lớn, giá bất động sản giảm đi
Theo tác giả Trần Quốc Hùng thì những nguyên nhân chính của các nhược điểm nói trên là tình trạng yếu ớt và kém phát triển của các thể chế chính trị, kinh tế, tài chính và xã hội ở các nước Đông Á, không đủ sức cạnh tranh trong một nền kinh tế hiện đại và toàn cầu hoá; nổi lên là mấy điểm sau đây
- Nét đặc trưng của các nước Đông Á trong giai đoạn phát triển vừa qua là các dạng khác nhau của mô hình “chủ nghĩa tư bản móc ngoặc”: dang chính trị hay gia đình lãnh tụ nắm độc quyền quản lý nhà nước; câu kết chặt chẽ với giới doanh nhân và ngân hàng; thường có sự mập mờ và
I) Xem Trần Quốc Hùng: “Châu Á sau khủng hoảng”, tháng 4/1998
18
Trang 21
và lao động để công nghiệp hoá nhanh chóng một số ngành hướng theo
- xuất khẩu Mặt trái của nó là các tập đoàn kinh doanh tuy lớn, nhưng thuật và thị hiếu khách hàng Biểu hiện kém lành mạnh hơn nữa là nạn cứng, vay nợ nhiều, tỷ suất lợi nhuận thấp, không đủ linh hoạt để ứng phó với khủng hoảng thừa, cũng như thay đổi nhanh chóng của khoa học, kỹ xơ
hối
nhân, chiếm dụng của công thành của riêng
- Hệ thống tài chính yếu kém, các ngân hàng, Công ty tài chính không đủ khả năng thẩm định các dự án kính doanh với mức rủi rO tương ứng của nó để điều tiết tín dụng một cách hữu hiệu, và thường bị quan chức nhà nước hoặc chủ sở hữu can thiệp vào quá trình thẩm định, dẫn
đến phân bổ sai tín dụng Hệ thống luật lệ cũng như các cơ quan quản lý nhà nước cũng yếu kém, không đảm bảo tính lành mạnh và hiệu năng của
hệ thống tài chính Ngay cả các ngân hàng trung ương cũng bị lũng đoạn của các thế lực chính trị Nhiều nước trong khu vực lại mở cửa và tự do hoá thị trường vốn quá sớm; khuyến khích ngân hàng và doanh nghiệp trong nước vay nợ nhiều ngoại tệ, vì lãi suất thấp hơn lãi suất trong nước
và lầm tưởng rằng không có rủi ro hối đoái Đầu tư tài chính cũng chảy vào rất nhiều, nhất là từ năm 1293, tạo ra hiện tượng “vốn rẻ”, đẩy giá cổ phiếu và địa ốc lên cao, góp phần quan trọng gây ra nền kinh tế “bong bóng”
- Khả năng quản lý doanh nghiệp cũng bị giới hạn vì đại đa số các
chuyên nghiệp đảm nhiệm Các loại doanh nghiệp gia đình này có lợi thế
mất quyền kiểm soát doanh nghiệp của gia đình mình
- Thông tin, số liệu thống kê về kinh tế, kinh doanh, doanh nghiệp nói chung ít về số lượng và kém về chất lượng, làm cho công chúng không
đủ điều kiện theo dõi và đánh g1á thực trạng nền kinh tế cũng như doanh
nghiệp Chính phủ nhiều nước Đông Á không khuyến khích và cởi mở chấp nhận sự thảo luận công khai về các lựa chọn chiến lược, chính sách
19
Trang 221.3.3 Nhà nưóc với việc khác phục hậu quả khủng hoảng
Mức độ nguy hại của khủng hoảng cũng như khả năng thoát khỏi khủng hoảng phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh của chính phủ và sự ủng
hộ của người lao động khi áp dụng các biện pháp khắc khổ để khắc phục hậu quả khủng hoàng
Để vượt qua khủng khoảng, ông Lý Quang Diệu khuyến nghị chính phủ các nước nên giảm tác động trực tiếp đến các quan hệ thị trường,
phục hồi sự tin tưởng thị trường, tạo môi trường phát triển lành mạnh cho khu vực tài chính và khu vực doanh nghiệp với những thay đổi về cung tiền tệ và lãi suất `)
Thứ nhất, chính phủ phải đủ sức trụ vững trong cơn bão táp và từ đó tiếp tục quá trình cải cách, đây chính là điều mà giới đầu tư nước ngoài mong doi
Thứ hai, chính phủ không nên quá nôn nóng, và phải cố gắng hạn
chế tối thiểu dòng vốn chảy ra bằng cách làm chậm lại tiến trình tự do hoá
hệ thống tài chính Tuy các biện pháp hạn chế di chuyển vốn có thể bị chỉ
trích và thậm chí làm giảm tăng trưởng, nhưng bù vào đó Châu Á sẽ đủ thời gian tập trung chấn chỉnh lại hệ thống luật lệ và pháp quy đang rệu
rã Đồng thời hệ thống luật pháp phải rất rõ ràng và dễ tiếp cận để tạo môi
trường kinh doanh ổn định cho các doanh nghiệp Chính phủ cần đỡ bỏ các hàng rào bảo hộ, đặt các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh quốc tế
_— Thứ ba, phải nâng cao năng lực của các cơ quan chính phủ Nhất thiết phải xoá bỏ những mối liên hệ móc ngoặc theo kiêu “có đi có lại” giữa khu vực doanh nghiệp, hệ thống tài chính và cơ quan chính phủ
Thứ tư, chính phủ các nước châu Á cần có cơ chế hợp tác và đối
thoại với nhau Các nhà đầu tư quốc tế có thiên hướng coi ASEAN là khu
vực thống nhất và tác động về mặt tâm lý qua hiệu ứng dây chuyền từ
khủng khoảng của một nước thành viên Điều này đòi hỏi giữa các chính phủ phải đồng tâm và thống nhất trong các chính sách có độ nhạy cảm
1) Xem Tuần báo Quốc tế, số 7 ngày 12/2/1998
20
Trang 23
_ cao, déng thời cần có sự thường xuyên trao đổi về thông tin và thảo luận
về các chính sách kinh tế
2 KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ VĨ MÔ VỚI TƯ CÁCH LÀ CÔNG CỤ -:
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC 2.1 Bản chất kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô
2.1.1 Định nghĩa kế hoạch hoá
— Về kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô hiện có nhiều định nghĩa khác nhau'
đo tiếp cận từ những góc độ không giống nhau
a Ở các tác giả nước ngoài đáng chú ý là các định nghĩa sau đây:
- Michael P.Todaro: “Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động của chính phủ nhằm phối hợp việc ra những quyết định tương đối dài hạn về kinh tế và nhằm tác động trực tiếp (thậm chí trong một số trường hợp còn kiểm soát) đối với mức tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng của những biến số kinh tế chủ yếu (như thu nhập, tiêu dùng, việc làm, đầu tư,
tiết kiệm, xuất khẩu, nhập khẩu, .), để đạt được các mục tiêu phát triển
đã xác định Kế hoạch hoá là cơ chế mà nhà nước sử dụng để kiểm soát toàn bộ nền kinh tế.” '
- Diana Conyers va Peter Hills: “K€ hoach hod la qua trinh quyết định, lựa chọn liên tục các phương án khác nhau về sử dụng nguồn lực có hạn để đạt được các mục tiêu để ra cho một thời kỳ nhất định trong tương lat + 2)
b : Trong các định nghĩa của các tác giả trong nước, hai định nghĩa sau đây có thể bổ sung cho nhau:
Trang 24- Cao Viét Sinh: “Ké hoach hoa là sự thiết lập mối quan hệ giữa khả
- năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu bằng việc sử dụng có hiệu quả nhất tiềm năng hiện có Kế hoạch hoá phát triển có đặc thù thể hiện sự cố
gắng lựa chọn và sắp xếp, huy động những nguồn khả năng, đưa ra định hướng sử dụng thông qua cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước.” ')
tua
- Du Lô Giang: “Công cụ quản lý kinh tế, xã hội của nhà nước Ở - -
tầm vĩ mô được thực hiện bằng hai đặc trưng cơ bản là định hướng, có
lượng hoá ở mức độ cho phép và giữ được trạng thái cân đối giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế trong từng thời kỳ.” ?
c Tiếp thu và kế thừa những định nghĩa trên, xin kiến nghị một định -
nghĩa về kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô như sau:
Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động của chính phủ: nhằm lựa chọn phương án sử dụng hợp lý các nguồn lực và quyết định các giải pháp tác động đến những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu theo ch Đ D tp 7 oO , Đ y ướng các mục tiêu đã được xác định
hướng uc tiêu da duo dinh Đồng thời cũng cần nói rõ thêm: Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô là một
thể thống nhất bao gồm từ việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội, công tác quy hoạch phát triển, kế hoạch hoá định hướng 5 năm, kế
hoạch hoá hàng năm, đến công tác điều hành thực hiện, theo dõi và điều
chỉnh kế hoạch
d Một định nghĩa như vậy cũng phù hợp với những nội dung cơ bản
có tính chất đặc trưng của kế hoạch hoá phát triển ở các nước thế giới thứ
ba ma Tony Killick đã tổng hợp như sau:
L) Cao Viết Sinh: '“Một số suy nghĩ về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trong cơ chế thị trường”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về kế hoạch hoá, Hà
Nội, 1995
'2) Xem Nguyễn Thương Minh: “Một số vấn đề đổi mới công nghệ kế hoạch hoá trong giai đoạn hiện nay ở nước ta” Tóm tắt luận án PTS khoa học kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, trang 3
3) Xem Tony Killick: “Cac kha năng kế hoạch hoá phát triển”, Oxford, tháng 7/1976
Trang 25phát triển trong tương lai của nền kinh tế
- Kế hoạch hoá phát triển không chỉ bao gồm những mục tiêu mà
còn thể hiện những mục tiêu đó thành những chỉ tiêu cụ thê
- Kế hoạch hoá là quá trình xây dựng những quy tắc và chính sách
nhất quán về mặt nội dung để thực hiện những mục tiêu đề ra cũng như hướng dẫn việc thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch và những quyết định chính sách thường nhật
- Kế hoạch hoá là quá trình toàn diện tầm kinh tế quốc dân, đồng thời có thể kế hoạch hoá cho từng lĩnh vực
- Để đảm bảo tính tối ưu và tính nhất quán, kế hoạch hoá kinh tế
quốc dân thường sử dụng một số mô hình kinh tế lượng ít nhiều đã được công nhận chính thức để dự báo những hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai
- Kế hoạch phát triển kinh tế thường là kế hoạch trung hạn 5 năm,
có thể kết hợp với một kế hoạch triển vọng dài hạn và được cụ thể hoá
bằng những kế hoạch hàng năm
2.1.2 Những yếu tố cơ bản của kế hoạch hoá
Căn cứ vào định nghĩa kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô như trình bày
trén day, Diana Conyers va Peter Hills di sau thêm phân tích 4 yếu tố cơ bản của kế hoạch hoá `
a Kế hoạch hoá là chọn lựa
Kế hoạch hoá là việc ra quyết định về lựa chọn một trong số nhiều phương thức hành động Có hai loại lựa chọn chính liên quan đên kế hoạch hoá Thứ nhất là lựa chọn các mục tiêu ưu tiên; bởi vì nguồn lực có hạn nên không thể đáp ứng được cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển Thứ hai, kế hoạch hoá cũng liên quan đến sự lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau, giữa các cách thức khác nhau để đạt
1) Xem Diana Conyers va Peter Hills: “An Introduction to Development
Planning in the Third World”, Nottingham, 1984, trang 3-8
23
Trang 26- được cùng một mục tiêu Kế hoạch hoá kinh tế cũng giống như kế hoạch
hoá cho một cuộc hành trình Trong đa số trường hợp, sẽ có nhiều cách
khác nhau mà người du hành có thể chọn để đến đích, và việc lập kế
hoạch cho hành trình liên quan đến việc quyết định lựa chọn một cách
thức cụ thể được coi là hợp lý nhất trong số đó
— Mặc dù hai loại lựa chọn này khác nhau, nhưng chúng đều liên
quan đến quá trình ra quyết định giống nhau Mối quản hệ giữa kế hoạch
hoá và việc ra quyết định quan trọng đến mức nhiều công trình lý thuyết
về kế hoạch hoá quan tâm đến các cách tiếp cận khác nhau đối với việc ra quyết định, cụ thể là đến các nhân tố được xem xét khi ra quyết định và
trình tự quy trình ra quyết định Hơn nữa, các nhà kế hoạch đã sử dụng: nhiều kỹ thuật hiện đại để cải thiện cách thức ra quyết định và nâng cao
b Kế hoạch hoá là phân bổ nguồn lực Một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hoá liên quan đến phân
bổ nguồn lực Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên
(đất, nước, khoáng sản ) mà còn bao gồm cả nhân lực (hay nguồn lực
con người nói chung), tài sản (như đường, nhà, và thiết bị) và tài chính
Việc phân biệt những gì không được coi là nguồn lực tuỳ thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của người sử dụng cũng như nhận thức về giá trị sử dụng
và khả năng sử dụng cụ thể trong từng trường hợp
Kế hoạch hoá liên quan đến các quyết định làm thế nào để sử dụng
tốt nhất các nguồn lực hiện có Vì thế, số lượng và chất lượng của những nguồn lực này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nhau Một mặt, sự giới hạn về số lượng
và chất lượng các nguồn lực là lý do chính giải thích tại sao kế hoạch hoá lại liên quan đến việc ra quyết lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau Mặt khác, khi phải lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nhau, thì khả năng cung ứng các nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lượng phương thức có thể lựa chọn và phương thức nào có khả năng được chấp nhận hơn cả
Do kế hoạch hoá liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực, nên
một bộ phận quan trọng của quá trình lập kế hoạch là thu thập và phân tích thông tin về khả năng cung ứng các nguồn lực hiện có Điều này đặt
ra những câu hỏi cả về khái niệm và về phương pháp liên quan đến hệ thống thông tin kế hoạch cần được giải đáp
24
Trang 27
—e Kế hoạch hoá là cách đạt tới nuục dich
— Sẽ là thiếu sót khi nói rằng kế hoạch hoá chỉ lên quan đến ra quyết định về sử dụng nguồn lực; bởi lẽ cách sử dụng tốt nhất bất kỳ một tập hợp cụ thể các nguồn lực nào phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu cần đạt tới Nói cách khác, kế hoạch hoá liên quan đến việc ra quyết định về các cách
thức khác nhau để đạt được những mục tiêu cụ thể Trong ví dụ về việc
lập kế hoạch cho một hành trình, mục tiêu của việc-lập kế hoạch là đến -
được một điểm đích cụ thể và người du hành phải quyết định con đường
tốt nhất để đến đó Thí dụ này minh hoạ tầm quan trọng của việc cần phải
có mục tiêu cụ thể cho bất kỳ loại hình kế hoạch hoá nào
Quan niệm về kế hoạch hoá như cách để đạt được mục tiêu đặt ra
những vấn đề về bản chất của các mục tiêu và quy trình xây dựng mục
tiêu Một trong những vấn đề mà nhà kế hoạch thường gặp phải là những
mục tiêu của họ không được xác định rõ ràng, mà thường rất mập mờ Ví
dụ, mục tiêu "tăng sản lượng nông nghiệp" có thể chẳng đưa ra được định hướng rõ rệt cho các nhà kế hoạch nông nghiệp Trong một số trường hợp khác, mục tiêu lại không thực tế trong điều kiện cung ứng nguồn lực có hạn Trong nhiều trường hợp, các nhà kế hoạch cũng gặp phải những vấn
để như phải cố đạt được quá nhiều mục tiêu và đôi khi các mục tiêu đó lại mâu thuẫn với nhau Chẳng hạn, sẽ là rất khó cho các nhà kế hoạch khi phải cùng một lúc thực hiện hai mục tiêu vừa tối đa hoá sản lượng trên một hếc-ta vừa giảm sự bất bình đẳng giữa các hộ nông dân, bởi vì hai
mục tiêu này thường mâu thuẫn với nhau Có trường hợp tuy ít xây ra
nhưng nếu có thì rất nghiêm trọng, đó là trường hợp những mục tiêu hoàn toàn không có ý nghĩa hoặc hoàn toàn đi ngược lại với lợi ích của đại bộ phân dân chúng
d Kế hoạch hoá cho tương lại
Có một yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hoá được thể hiện
trong hầu hết các định nghĩa, đó là yếu tố thời gian Các mục tiêu mà kế hoạch hoá muến đạt tới rõ ràng là ở tương lai, và kế hoạch hoá tất nhiên
sẽ gắn với tương lai Sự quan tâm đến tương lai tự nó được thể hiện theo hai cách chính Cách thể hiện thứ nhất là một phần quan trọng của kế
hoạch hoá liên quan đến dự báo, hoặc đưa ra các dự báo về điều gì có thể xảy ra trong tương lai, và cụ thể hơn là dự báo về kết quả của các phương
thức hoạt động khác nhau để xác định cần lựa chọn phương thức nào Tất
nhiên, không thể biết chính xác được điều gì sẽ xây ra trong tương lai và
vì thế kế hoạch hoá không tránh khỏi việc chấp nhận ở mức độ nhất định
sự bất ổn và rủi ro Tuy nhiên, có nhiều kỹ thuật khác nhau mà người lập
kế hoạch có thể sử dụng để nâng cao tính chính xác của các dự báo của họ
t2 LA
Trang 28
_" Và xử lý những vấn đề về rủi ro và bất ổn Khoảng thời gian tương lai của
kế hoạch hoá là bao lâu? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung cụ thể kế hoạch hoá Ởi một thái cực có một số hoạt động mà các cá nhân và
tổ chức có thể phải lập kế hoạch trên cơ sở thời gian là ngày, thậm chí là giờ; trong khi ở thái cực khác, một số kế hoạch liên quan đến việc đưa,ra những dự báo về bức tranh thế giới vài thập kỷ sau
Kế hoạch hoá không chỉ liên quan đến quyết định cần phải làm gì
để đạt tới mục tiêu cụ thể, mà còn đến quyết định trình tự thực hiện các hoạt động một cách lô gích, có thứ tự, từng bước tiền tới đạt được mục
tiêu
Phân tích mức độ thời gian dài ngắn khác nhau của việc chuẩn bị
kế hoạch có thể gây cảm tưởng rằng kế ' hoạch hoá là hoạt động định kỳ Người ta thường nghĩ rằng kế hoạch được lập cho khoảng thời gian ấn
định (ví dụ cho 5 năm tiếp theo), và khi kế hoạch đã được lập xong thì kế
hoạch hoá coi như kết thúc, cho đến khi kết thúc 5 năm, tức là lúc bat đầu lập kế hoạch cho thời kỳ 5 năm tiếp theo Trong các thập kỷ 50 và 60 nhiều nhà kế hoạch đã có quan điểm như vậy về kế hoạch hoá, nhưng gần đây người ta đã nhận thức rằng kế hoạch hoá nên được coi là một hoạt động liên tục Điều này có nghĩa là mặc dù có thể kế hoạch cần phải được | lập cho khoảng thời gian xác ' định, nhưng nó nên được liên tục theo đối và xem xét lại trong giai đoạn đó, và nếu cần thì có thể được kéo đài sang giai đoạn kế hoạch khác
Cuối cùng, cần chú ý rằng mặc dù kế hoạch nhất định phải liên
quan đến tương lai; nhưng điều đó không hạn chế các nhà lập kế hoạch dành nhiều sự "chú ý của họ nghiên cứu tình hình quá khứ và hiện tại Trong thực tế, các nghiên cứu hiện tại là rất quan trọng để đưa ra thông tin
về nhụ cầu và điều kiện hiện tại cũng như các nguồn lực hiện có cho phát triển, trong khi đó nghiên cứu lịch sử có thể tạo cơ sở tốt cho dự báo các
xu hướng trong tương lai
2.1.3 Kế hoạch hoá trong mốt quan hệ với hoạch định chính sách và
chỉ đạo thực hiện
Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô chỉ là một loại hình hoạt động quản lý của nhà nước; gắn với nó còn có nhiều loại hình hoạt động quản lý khác nữa, đặc biệt là công tác hoạch định chính sách và công tác tổ chức, chỉ
đạo thực hiện
bad
Trang 29chung cho sự thay đổi hoặc phát triển; trong khi đó kế hoạch hoá là quá
trình quyết định về phương thức hành động và lựa chọn phương thức hành
động nào là tốt nhất để tạo ra những thay đổi hoặc phát triển đó; đồng thời
kế hoạch hoá còn xác định xem nên tổ chức thực hiện ra sao, và triển khai
việc thực thi trên thực tế những phương thức hoạt động này
Để thấy rõ sự khác nhau này, có thể xem xét quy trình kế hoạch
hoá trong ví dụ của lĩnh vực xây dựng nhà ở của một quốc gia Trong
trường hợp này, việc hoạch định chính sách có thể đưa ra quyết định (trong số nhiều quyết định khác) đáp ứng nhu cầu nhà ở chủ yếu bằng các
chương trình cung cấp địa điểm và dịch vụ; tức là chính phủ cung cấp dia’
điểm đã có các dịch vụ cơ bản để người dân tự xây nhà ở cho mình Sau
đó kế hoạch hoá có thể bao hàm nội dung ra quyết định xem có bao nhiêu chương trình như vậy cần được xây dựng, địa điểm ở đâu, những loại dịch
vụ nào sẽ được cung ứng, các vị trí sẽ được phân cho từng cá nhân như thế nào, và những điều kiện nào (nếu có) sẽ được đưa ra đối với những người xây dựng về cách thức sử dụng địa điểm được phân Kế hoạch hoá cũng bao gồm các quyết định về chi phí của các chương trình, số tiền nhận
được, và ai có trách nhiệm tổ chức thực hiện Cuối cùng, giai đoạn thực hiện có thể bao gồm việc xây dựng trên thực tế các chương trình, kể cả chuẩn bị địa điểm, cung ứng dịch vụ và lựa chọn những người được nhận địa điểm
Ví dụ này chỉ rõ hai khía cạnh của mối quan hệ giữa hoạch định
chính sách, kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện Thứ nhất, nó cho thấy ba
hoạt động này tiếp nối nhau, bắt đầu từ hoạch định chính sách, tiếp theo là
kế hoạch hoá, và sau đó là tổ chức thực hiện Đồng thời, điều này chỉ rõ vai trò của kế hoạch như là bước trung gian giữa hoạch định chính sách và
tổ chức thực hiện, là phương cách chuyển các chính sách chung thành các
chương trình hành động tạo ra các kết quả cụ thể Thứ hai, nó chỉ ra sự phân công trách nhiệm giữa các cá nhân hoặc tổ chức có liên quan, trong
đó việc hoạch định chính sách chủ yếu là trách nhiệm của các nhà chính trị hoặc những người ở vị trí ra các quyết định chính trị; trong khi kế hoạch hoá chủ yếu là trách nhiệm của nhà kế hoạch, và việc thực hiện chủ yếu do các nhà quản ly dam nhiệm
Tuy nhiên, người ta cũng thấy rõ là khó có thể đưa ra ranh giới rõ
tàng giữa hoạch định chính sách, kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện hoặc giữa vai trò của nhà chính trị, nhà kế hoạch và nhà quản lý Trước hết,
!) Xem Diana Conyers và Peter Hills: “An Introduction to Development
Planning in the Third World”, Nottingham, 1984
27
|
Trang 30địa điểm và dịch vụ nhà ở, mặc dù quyết định chính sách cơ bản là quyết
định đáp ứng nhu cầu nhà ở bằng cách đưa ra các chương trình địa điểm
và dịch vụ, nhưng nhiều quyết định chính sách tiếp theo vẫn được đưa ra trong giai đoạn được gọi là kế hoạch hoá Có thể không xây dựng được các chương trình trong tất cả các khu vực cùng một lúc, nên phải xác định
thứ tự ưu tiên và đây là vấn để khá nhạy cảm do nó ảnh hưởng đến việc- - phân bổ dịch vụ giữa các vùng địa lý khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi sức
ép từ các nhà chính trị hoặc các nhóm chính trị nhất định Kết quả là vấn
đề này được coi là vấn đề hoạch định chính sách và các nhà kế hoạch có thể cần phải dành cho các nhà chính trị hoặc những người khác có thẩm
quyền ra các quyết định đó
Một vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa hoạch định chính sách
và kế hoạch hoá là vai trò của hoạch định chính sách trong việc xây dựng các mục tiêu kế hoạch Xây dựng các mục tiêu nói chung liên quan nhiều đến các quyết định hoạch định chính sách, mặc dù đôi khi các mục tiêu
đó chẳng hề có tầm quan trọng về mặt chính trị Điều đó một lần nữa cho
thấy rằng mặc dù kế hoạch hoá và hoạch định chính sách không thể tách
rời một cách rõ ràng; nhưng các quyết định chính sách có xu hướng đi trước các quyết định kế hoạch hoá; tương tự như vậy các mục tiêu cần được xác định trước khi lập kế hoạch thực hiện chúng
| Mối quan hệ giữa kế hoạch hoá và hoạch định chính sách cũng còn được thể hiện ở chỗ các bản kế hoạch thường bao gồm tổng hợp các chính sách và các kế hoạch cụ thể, và hai nội dung này không dễ tách bạch với nhau Hơn nữa, hầu hết các bản kế hoạch cũng như các tài liệu kế hoạch
phải được các tổ chức chính trị thông qua và chấp thuận, và vì thế cũng đồng thời là tài liệu chính sách
._ Tương tự, sự phân biệt giữa kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện cũng
không thật rõ ràng Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới nguy cơ
các bản kế hoạch không thực hiện được là khoảng cách quá xa giữa kế
hoạch hoá và tổ chức thực hiện Để khắc phục tình trạng này, người ta thường phải tiến hành các biện pháp để làm cho kế hoạch có tính khả thi
Mặt khác, các nhà kế hoạch cũng có vai trò quan trọng trong và sau giai
đoạn tổ chức thực hiện, như theo dõi tiến độ thực hiện và đưa ra những
điều chỉnh kế hoạch, và thậm chí cả đối với các chính sách, nếu xét thấy cần thiết
Cuối cùng, sự phân công trách nhiệm giữa các nhà chính trị, nhà kế hoạch và nhà quản lý là sự đơn giản hoá thực tế Các nhà kế hoạch đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách qua việc cung cấp
nhiều thông tin được sử dụng để ra các quyết định chính sách và đưa ra
28
boo
Trang 31thiên hướng của cá nhân họ; trong khi đó các nhà quản lý cung cấp kiến
nghị cụ thể về cả năng thực hiện các đề nghị khác nhau Sự tham gia của
các nhà quản lý là rất quan trọng, vì họ là những người sẽ phải thực hiện
kế hoạch, và họ có thể không nhiệt tình với việc thực hiện, nếu họ nghĩ
rằng các kế hoạch là không khả thi hoặc không khả dụng
2.2, Xac định vai trò của kế hoạch hoá trong nền kính tế đang phát triển
2.2.1 Sự cần thiết của kế hoạch hoá
Vì sao kế hoạch hoá được chấp nhận và áp dụng tương đối rộng rãi
không chỉ ở các nước theo mô hình quản lý tập trung mà cả những nước
kinh tế thị trường phát triển và đặc biệt là ở các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba? Người ta thường đưa ra 4 lý do sau đây để lý giải cho sự cần thiết của kế hoạch hoá trong quản lý kinh tế vĩ mô ở các nước
a Lý do về sự thất bại của thị trường:
Thị trường ở các nước đang phát triển thường là thị trường chưa phát triển một cách đầy đủ những thành tố chủ yếu của nó; giá cả trên những thị trường như vậy thường bị xuyên tạc vì người sản xuất và người tiêu dùng thiếu những thông tin cần thiết; sự điều tiết của thị trường trong điều kiện như vậy có nhiều khả năng dẫn đến những quyết định sản xuất
và lưu thông sai lầm, không có hiệu quả Đặc biệt là thị trường vốn hoặc
là còn thiếu hoặc là còn rất sơ khai, chưa đảm đương được vai trò trung gian cần thiết cho quá trình phát triển Trong điều kiện đó, nếu không có
sự can thiệp của chính phủ thông qua kế hoạch hóa thì những nguồn lực Kham hiếm của nền kinh tế dễ bị phân bổ một cách sai lạc, không đạt hiệu quả kinh tế-xã hội mong muốn, nhất là cho những lợi ích tương đối dài hạn Trong báo cáo năm 1965 tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về kế hoạch hoá cũng đã khẳng định: ''Một nhiệm vụ không thể thiếu của kế hoạch hoá là phải sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực khan hiếm cho
sự phát triển kinh tế Nhu cầu sử dụng những tiêu chuẩn thích hợp cho
những dự án chọn lọc nảy sinh từ sự thất bại của cơ chế thị trường vì không đưa ra được những chỉ dẫn thích hợp Trong những nên kinh tế kém phát triển, giá cả thị trường của những yếu tố đầu vào như lao động, tiền vốn, và ngoại hối đã xa rời những chỉ phí cơ hội xã hội, do đó không phải
booed
Trang 32“Chính phủ không thể và không nên chỉ đóng một vai trò thụ động trong quá trình mở rộng công nghiệp Kế hoạch hoá-đã- trở thành một bộ phận - chủ yếu và cần thiết của các chương trình phát triển công nghiệp; vì bản
thân các tác nhân thị trường không thể khắc phục được sự cứng nhắc về cơ
cấu đã ăn sâu trong những nền kinh tế của các nước đang phát triển
Ngày nay nhu cầu về kế hoạch hoá ở một mức độ nào đó đã được thừa,
nhận rộng rãi Tại các nước đang phát triển, kế hoạch hoá có tính khả thi
và được sử dụng nhiều hơn ở các nước công nghiệp phát triển Kế hoạch hoá ở các nước đang phát triển là cần thiết, vì cơ chế thị trường ở đó không đảm bảo rằng các quyết định cá nhân sẽ tối ưu hoá các hoạt động kinh tế theo những mục đích ưu tiên của xã hội Khiếm khuyết của cơ chế thị trường như một phương tiện phân bổ nguồn lực cho phát triển công
nghiệp đôi lúc bắt nguồn từ bản thân chính sách của chính phủ hoặc từ
những giả định không phù hợp, đặc biệt là về tính cơ động của những yếu
tố sản xuất Quan trọng hơn là cơ chế thị trường không tính đến những ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài một cách hợp lý” 2
b Lý do về khả năng phân bổ nguồn lực:
Các nền kinh tế của thế giới thứ ba rất cần tập trung những nguồn lực hạn chế của mình, đặc biệt là lao động lành nghề và vốn đầu tư, vào
những lĩnh vực sản xuất vật chất Do đó những dự án đầu tư phải được lựa chọn không những trên cơ sở phân tích năng suất đạt được căn cứ vào suất
đầu tư và thời gian hoàn vốn, mà còn phải tính đến những yếu tố của chương trình phát triển tổng thể, những tác động trước mắt cũng như lâu
đài trên bình diện kinh tế-xã hội Nguồn nhân lực lành nghề hiếm hoi cũng phải được sử dụng vào lĩnh vực nào có đóng góp rõ rệt nhất cho xã hội Kế hoạch hoá kinh tế còn phải góp phần giảm nhẹ những ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển nguồn lực bằng cách phối hợp những dự án đầu tư
để có thể tập trung những yếu tố khan hiếm vào những lĩnh vực sản xuất
có hiệu quả nhất Mặt khác người ta còn thấy rằng thị trường cạnh tranh tự
1) Liên hợp quốc: “Kế hoạch hoá khu vực đối ngoại: Các phương pháp, vấn đề và chính sách”, tháng 9/1965, trang 12
2) R.Heflgoth và S.Schivano-Campo: "Phần mở đầu cho kế hoạch hoá
phát triển”, 1970, trang 11
Trang 33giàu), đồng thời không tính đến những lợi nhuận phụ thêm có được từ
những chương trình đầu tư được phối hợp tương đối dài hạn Đó cũng là một khiếm khuyết của thị trường mà người ta muốn sử dụng kế hoạch hoá _ để khác phục
C Lý do về tâm lý và cách ứng xử:
Thực tế cho thấy khi những mục tiêu kinh tế và xã hội của một quốc gia được công bố một cách công khai trong kế hoạch phát triển đất nước sẽ ảnh hưởng | tích cực và quan trọng đến cách ứng xử và tâm lý của nhân dân, nhất là ở những nước tính cộng đồng không cao hoặc dân cư bị chia rẽ Trong những trường hợp này, kế hoạch hoá có thể thành công trong việc tập hợp nhân dân đằng sau chính phủ để tiến hành những chương trình quốc gia lớn, chẳng hạn như xoá đói giảm nghèo, xoá nạn
mù chữ, phòng chống bệnh tật Một khi chính phủ có được những bản kế hoạch kha thi va hợp lý thì điều đó có thể giúp tạo những động lực cần thiết vượt qua những trở lực gây chia rẽ trong nội bộ quần chúng, động viên tốt hơn sự quan tâm và tham gia của các bộ phận khác nhau trong xã hội vào việc thực hiện những mục tiêu chung của toàn nền kinh tế
d Ly do về viện trợ nước ngoài:
Muốn huy động được vốn viện trợ nước ngoài, kể cả song phương
và đa phương một cách có kết quả, chính phủ các nước thường phải có những kế hoạch phát triển rõ ràng với những mục tiêu cụ thể và những dự
án đầu tư được xây dựng theo những tiêu thức quy định Cũng có một số người hoài nghi thường lập luận rang lý do thực sự mà các nước kém phát
tr lên đưa ra những kế hoạch phát triển kinh tế của mình là cốt sao để có
được viện trợ nước ngoài Với những kế hoạch của mình, các nước nhận
vién trợ có cơ sở tốt hơn để thuyết phục những nhà tài trợ rằng số tiền vốn
họ vay là một bộ phận thiết yếu không thể thiếu và sẽ được sử dụng một
cách có mục đích trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân
2.2.2 Những mặt hạn chế của kế hoạch hoá
Sau nhiều thập ký kiểm nghiệm kế hoạch hoá kinh tế quốc dân ở những nước đang phát triển, kết quả được đánh giá chung là không mấy
thành công Trong một công trình nghiên cứu toàn diện về kế hoạch hoá
phát triển tại 55 nước, Albert Waterson đã đi đến két luan: “Mét kiém
3l
Trang 34
” nghiệm lịch sử về kế hoạch hoá sau chiến tranh cho thấy đã có nhiều thất
bại hơn là thành công trong việc thực hiện những kế hoạch phát triển Cho đến nay phần lớn các nước đã không thực hiện được các chỉ tiêu về thu nhập và sản lượng dù là khiêm tốn "nhất trong các kế hoạch của mình, ngoại trừ những giai đoạn ngắn ngủi Đáng lo ngại là tình hình có vẻ ngày
,
càng tồi tệ hơn ở các nước tiếp tục tiến hành kế hoạch hoá.” Tương tự như vậy, Derek Healey trong khi nhìn lại quá trình phát triển kinh tế của những thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã-nhận xét rằng: “Những kết quả của kế hoạch hoá phát triển là sự vỡ mộng một cách đau buồn cho những ai tín rằng kế hoạch hoá là cách quân lý duy nhất đúng.” „3
Vậy lý đo là ở đâu? Người ta đã đưa ra 2 nhóm nguyên nhân chính
để lý giải cho câu hỏi nêu trên Thứ nhất là khoảng cách giữa lợi ích kinh
tế trên lý thuyết và kết quả đạt được trong thực tế kế hoạch hoá phát triển,
và hai là những nhược điểm cơ bản trong quá trình kế hoạch hoá, đặc biệt
là những khiếm khuyết liên quan đến năng lực quản trị, chất lượng bộ máy và thực thi kế hoạch
Có thể nêu ra những điểm sau đây về nguyên nhân yếu kém của bản thân công tác kế hoạch hoá:
a Khoảng cách giữa kế hoạch và thực hiện kế hoạch:
Các bản kế hoạch thường quá tham vọng, ôm đồm quá nhiều mục tiều cùng một lúc mà không xét đến những mục đích ưu tiên mâu thuẫn và
cạnh tranh nhau Nhiều bản kế hoạch được thiết kế rất đồ sộ, nhưng không rõ về chính sách cụ thể cần thiết để đạt những mục tiêu đề ra Chính vì vậy, khoảng cách giữa kế hoạch và thực hiện kế hoạch thường rất lớn; nhiều kế hoạch vì thế không thực hiện được
b Số Hiệu và thông tin không đầy đủ, kém tin cậy:
Chất lượng của một bản kế hoạch phát triển phụ thuộc rất nhiều vào
số lượng và độ tin cậy của số liệu thống kê cũng như thông tin kế hoạch Tình trạng chung ở các nước đang phát triển là cơ sở dữ liệu vừa thiếu, vừa yếu, cộng thêm với đội ngũ cán bộ kế hoạch, thống kê không đủ năng lực và trình độ, dẫn đến hệ quả là những ý đồ, tham vọng trong "kế hoạch hoá không được thể hiện một cách khách quan và cuối cùng không trở
1) Albert Waterson: “Ké hoach hoá phát trién: ph bài học kinh nghiệm”, Baltimo, 1965, trang 293
2) Derek Healey: “Chinh sách phát triển: Tư duy mới về sự thể hiện”,
tháng 9 năm 1973, trang 761.
Trang 35
thành hiện thực Trong những trường hợp như vậy, việc mở rộng phạm vi
và quy mô kế hoạch hoá có thể còn gây lãnh phí vô ích
c Những biến động kinh tế bất thường, kể cả trong và ngoài nước:
Đối với những nước có nền kinh tế mở cửa thì những thay đổi về
giá cả và thị trường quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường trong nước, làm cho việc dự báo xu hướng phát triển hết sức khó khăn, thậm chí cả
cho những thời hạn tương đối ngắn Việc tăng giá dầu lửa trong những
năm 70 đã phá hoại nhiều kế hoạch phát triển của các nước thế giới thứ
ba Cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998 làm cho :
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước đang từ mức 7-8% trở thành số
âm Đối với những nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động
bên ngoài như vậy, chính phủ các nước cần phải đảm bảo tính mềm dẻo
và linh hoạt trong chính sách kinh tế của mỉnh, sẵn sàng điều chỉnh khi cần thiết, chứ không tự ràng buộc vào những kế hoạch cứng nhắc xác định
từ trước
d Những yếu kém về thể chế:
Những yếu kém về thể chế là một vấn đề nổi bật ở các nước đang
phát triển Trong những yếu kém đó, người ta thường kể đến việc tách cơ
quản kế hoạch hoá ra khỏi bộ máy điều hành thường nhật của chính phủ,
việc các nhà hoạch định kế hoạch, hoạch định chính sách không thường xuyên đối thoại và thông tin nội bộ với nhau về các mục tiêu chiến lược,
và việc áp dụng những cách thức kế hoạch hoá và tổ chức quá trình kế hoạch hoá rập khuôn, không phù hợp với điều kiện của từng nước hoặc từng địa phương Một loại yếu kém khác cũng được đề cập một cách rất
rõ nét là những thủ tục hành chính rườm rà, sự vô trách nhiệm của cán bộ thừa hành, sự phản ứng đối với đổi mới, sự mâu thuẫn, thiếu hợp tác giữa các bộ phận trong cơ quan, tình trạng tham nhũng và quan liêu đều là
những lý do ảnh hưởng đến chất lượng công tác kế hoạch hoá
2.3 Kế hoạch hoá trong quá trình thay đổi và phát triển
Ở hầu hết các nước đang phát triển, kế hoạch hoá phát triển kinh tế
hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai Trong thời gian đó, tầm
quan trọng của kế hoạch hoá tăng lên nhanh chóng, và cho đến đầu những
năm 60 hầu như tất cả các nước đang phát triển đều triển khai công tác kế hoạch hoá phát triển kinh tế Và rồi đến giữa những năm 60 có thể nói công tác kế hoạch hoá phát triển đạt tới đỉnh điểm của nó
Trang 36
Theo D Conyers va P.Hills, nguồn gốc phát sinh và phát triển
nhanh chóng của kế hoạch hoá kinh tế ở các nước đang phát triển xuất phát từ một số nhân tố sau: `
Nhân tố quan trọng nhất là mong muốn đạt được tốc độ phát triển nhanh Kế hoạch hoá được xem là phương pháp tăng tốc quá trình phát triển kinh tế và chuẩn bị cơ sở vững chắc cho quốc gia phát triển với tư cách là quốc gia độc lập Các nước Nam và Đông Nam Á sau khi giành được độc lập vào những năm 40 và 50 là những nước tiên phong trong kế hoạch hoá phát triển Các nước châu Phi giành được độc lập muộn hơn và
vì thế kế hoạch hoá cũng phát triển chậm hơn Trong những thập niên 40
và 50 các nước này cũng đã lập kế hoạch kinh tế để nhận được sự trợ gitip’ tín dụng của nước ngoài, nhưng kế hoạch hoá còn sơ khai Tuy nhiên, vào đầu những năm 60, khi các nước này giành được độc lập, kế hoạch hoá đã thực sự trở thành nhu cầu của họ Các nước châu Mỹ La tính có nền độc lập lâu hơn, nhưng kế hoạch hoá không được coi trọng lắm, và cũng chỉ đến đầu những năm 60 thì các nước này mới thực hiện kế hoạch hoá với mục đích là để nhận được viện trợ nước ngoài, đặc biệt là từ Mỹ
Nhân tố thứ hai góp phần quan trọng vào phát triển kế hoạch hoá là
kế hoạch hoá ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây Mô hình kế hoạch hoá của Liên Xô trước đây đã trở thành hình mẫu không chỉ đối với các nước XHCN Đông Âu, Trung Quốc và Việt Nam khi đó, mà còn đối với tất cả các nước đang phát triển Mô hình Liên Xô có nhiều hấp dẫn đặc
biệt đối với các nước đang phát triển mới giành độc lập Thứ nhất, nó
được coi là cách để tạo ra sự thay đổi văn bản về kinh tế và xã hội, cho dù
có sự khác nhau về nội dung và cách thức thay đổi Thứ hai, nó có thể sử
dụng được ở những nước mà nhà nước quản lý tập trung đối với toàn bộ nền kinh tế Các nước đang phát triển khi đó coi sự quản lý của nhà nước
là tối cần thiết để có được sự phát triển nhanh -
- Một nhân tố quan trọng khác là kinh nghiệm kế hoạch hoá ở Châu
Âu và Mỹ trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai Kinh nghiệm ngày đó chứng minh cho các nhà kinh tế và những ai quan tâm đến nền kinh tế quốc dân ở các nước này rằng nhà nước có thể tác động mạnh đến tốc độ và phương hướng tăng trưởng của nền kinh tế hỗn hợp, hơn là chỉ dựa vào các lực lượng thị trường Kinh nghiệm này có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển kế hoạch hoá ở các nước đang phát triển Nó khuyến khích các chính phủ thực dân áp dụng kế hoạch hoá ở thuộc địa
của họ cả
1) Xem Diana Conyers và Peter HiIIs: “An Introduction to Development
Planning in the Third World”, Nottingham, 1984, trang 42-44
34
Trang 37tế
Là một nước phát triển theo mô hình kinh tế thị trường tự do, ở
Vương quốc Anh hầu hết hoạt động kế hoạch hoá là kế hoạch hoá "chống biến động theo chủ kỳ” hơn là kế hoạch hoá phát triển kinh tế Albert Waterson da giải thích kế hoạch này như sau: “Mục đích cơ bản của kế Hoạch hoá chống biến động theo chu kỳ là trong điều kiện khung khổ
kinh tế và xã hội hiện tại và những điều kiện duy trì ổn định kinh tế và xã
hội, cần phải tạo ra tổng cầu ở mức cho phép khai thác hết khả năng về vốn, lao động và các nguồn lực khác Các chính sách và biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu "kế hoạch thông qua thị trường và tổng cầu được quản lý chủ yếu bằng các chính sách tài khoá và tiền tệ.” '
Giữa kế hoạch hoá chống biến động theo chu kỳ và kế hoạch hoá phát triển kinh tế không có sự phân định rạch ròi Mặc dù ở Anh, hầu như trong toàn bộ thời kỳ sau chiến tranh, người ta không xây dựng chiến lược -ˆ phát triển kính tế và xã hội toàn diện, kế hoạch hoá chủ yếu là kế hoạch
hoá chống biến động theo chu kỳ; nhưng điều đó không có nghĩa là không
có yếu tố của kế hoạch hoá phát triển trong kế hoạch hoá ở nước Anh Ở một số nước Tây Âu khác, đáng chú ý là Pháp, kế hoạch hoá kinh tế có vai trò quan trọng hơn và cũng thực hiện chức năng phát triển (có thể xem thêm Phần thứ hai của Báo cáo này) Tuy nhiên, vai trò của nó rất hạn chế
khi so sánh với kế hoạch hoá ở các nước XHCN và hầu hết các nước đang
phát triển
Kể từ giữa những năm 60 đã có những thay đổi lớn trong kế hoạch hoá phát triển, kể cả trong cách tiếp cận Kế hoạch hoá phát triển trước và đâu những năm 6O liên quan chủ yếu đến phát triển kinh tế, cụ thể là kế hoạch hoá sự tăng trưởng và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân Với những mục tiêu như vậy, kế hoạch hoá trong thời kỳ này chủ yếu là kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô, tức là lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế nhằm mục đích đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và năng lực sản xuất cũng như thay đổi cân đối giữa các lĩnh vực, và ở mức độ khiêm tốn hơn là các dự án lớn phục vụ:
I) Albert Waterson: ““Development Planning: Lessions and Experience”
Washington D.C.,1965
35
Trang 38Sở đi nội dung kinh tế được nhấn mạnh trong kế hoạch hoá thời kỳ này chủ yếu là vì khái niệm phát triển khi đó được hiểu cụ thể là tốc độ tăng trưởng và cơ cấu nền kinh tế quốc dân; đồng thời kế hoạch hoá chịu ảnh hưởng ' mạnh mẽ của quan điểm kế hoạch hoá thời chiến của các nước
phương Tây và kế hoạch hoá theo mô hình Liên Xô của các nước XHCN
trước đây
Một nội dung quan trọng khác của cách tiếp cận kế hoạch hoá là phương pháp luận kế hoạch hoá Thứ nhất, người ta có xu hướng quá nhấn mạnh đến việc soạn thảo ra các bản kế hoạch, và ở nhiều nước kế hoạch hoá được coi đơn giản chỉ là soạn thảo các kế hoạch 5 năm hoặc hàng năm Những bản kế hoạch đó thường gồm những mục tiêu không thực tế,
và chỉ là tập hợp các mục tiêu chứ không phải là tập hợp các giải pháp để
đạt được sự phát triển
Thứ hai, những bản kế hoạch đó có ít tính khả thi, và người ta coi nhẹ việc xác định xem làm thế nào để kế hoạch có thể được thực hiện Vì - thế, khoảng cách giữa kế hoạch và hiện thực là một trong những điểm yếu
nhất của kế hoạch hoá ở các nước đang phát triển
Thứ ba, nhiều bản kế hoạch phát triển quá cứng nhắc Kế hoạch
cứng nhắc làm suy yếu khả năng của chính phủ trong điều hành và phản ứng trước những thay đổi về môi trường kinh tế, đồng thời ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thậm chí làm hại đến lợi ích quốc gia Các chính phủ
trong thời kỳ này chịu sự chi phối chủ yếu của kế hoạch hoá phát triển
trung hạn, còn tầm quan trọng của quản lý kinh tế ngắn hạn chưa được
nhận thức đầy đủ
Thứ tư, đó là những vấn đề bắt nguồn từ bản chất của mối quan hệ
và sự tác động qua lại giữa các nhà chính trị, nhà kế hoạch và nhà quản lý
Do sự khác nhau về kiến thức và kinh nghiệm, về cách tiếp cận đối với nhiệm vụ chung, nên kết quả phối hợp giữa các nhóm cán bộ này rất hạn chế
Trong những năm 60, người ta ngày càng thất vọng với cách tiếp cận kế hoạch hoá như trên, vì nhận thấy kế hoạch hoá không đạt được các mục tiêu đề ra Khi mà người ta ý thức được rằng khái niệm phát triển không chỉ là tăng trưởng, và thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế đôi khi làm phương hại đến các mục tiêu khác, như công bằng xã hội, thì yêu cầu
thực tế đặt ra là kế hoạch hoá cần phải có cách tiếp cận rộng hơn
36
Trang 39
— Người ta cũng phải thừa nhận rằng trên thực tế kế hoạch hoá có rất
ít tác dụng Quá nhiều tiển bạc và nhân lực được sử dụng vào việc soạn
thảo các bản kế hoạch ch: tiết; nhưng đến cuối kỳ kế hoạch, khi đánh giá
lại, thì thấy rằng một số ít mục tiêu ghi trong kế hoạch đạt được là do sự ngẫu nhiên nhiều hơn là nhờ các biện pháp thực hiện được xác định trong ' kế hoạch
Tại hội nghị của các nhà lập kế hoạch phát triển kinh tế tổ chức tại Sussex năm 1969, người ta đã phải nhìn nhận về một cuộc “khủng hoảng
kế hoạch hoá" Cuộc khủng hoảng này không có nghĩa là vai trò của kế
hoạch hoá phát triển bị xoá bỏ Hầu hết các nước đang phát triển vẫn phải
đấu tranh với tình trạng kém phát triển, trong khi chênh lệch giữa các nước giàu và nước nghèo không giảm mà ngày càng tăng lên; do vậy yêu
cầu đối với kế hoạch hoá phát triển vẫn là cấp thiết Tuy nhiên, quan điểm
cho rằng kế hoạch hoá sẽ giải quyết được hầu hết các vấn đề phát triển của đất nước đã được thay thế bởi quan điểm thực tế hơn về sức mạnh
cũng như hạn chế của kế hoạch hoá; điều này đã dẫn đến sự thay đổi lớn
trong cách tiếp cận kế hoạch hoá Oscar Mehmet, một nhà kinh tế phản đối kịch liệt cách tiếp cận truyền thống của kế hoạch hoá đã viết: “Khủng hoảng kế hoạch hoá không phải là khủng hoảng về sự cần thiết của nó Kế hoạch hoá kinh tế vẫn cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết Đó thực ra là khủng khoảng về cách tiếp cận Nó liên quan đến các mục tiêu và chiến lược của kế hoạch hoá.” `)
Những thay đổi của kế hoạch hoá vào thập kỷ 60 có những nội
dung và mức độ khác nhau giữa các nước Tuy vậy, có thể thấy rõ hai xu
hướng thay đổi chủ yếu là: thay đổi về phạm vị hay nội dung của kế
hoạch hoá và thay đổi trong cách tiếp cận kế hoạch hoá
a Những thay đổi trong phạm vì, nội dung kế hoạch hoá
Thập kỷ 60 chứng kiến những thay đổi quan trọng trong phạm vi và nội dung kế hoạch hoá phát triển, gẵn với sự thay đổi của bản thân khái niệm phát triển, trong đó có hai điều thay đổi đặc biệt quan trọng
Một là, phạm vi của kế hoạch hoá phát triển được dần dần mở rộng
để bao gồm không chỉ nội dung kinh tế đơn thuần Ở tầm kinh tế quốc dân, các mục tiêu của kế hoạch phát triển bao gồm cả các mục tiêu chính trị, xã hội, bảo vệ môi trường, cũng như tăng trưởng và chuyển dịch cơ -
1) Oscar Mehmet: “Economic Planning an Social Justice in Developing
Countries”, London, 1978
$m
Trang 40Việc mở rộng phạm vi kế hoạch hoá này đã dẫn đến những thay đổi
'về công nghệ và kỹ thuật lập kế hoạch, quan niệm về nhà kế hoạch và ngành kế hoạch Nói chung hầu hết những thay đổi về kỹ thuật đều liên
hoá xã hội, kế hoạch hoá môi trường, với những kỹ thuật mới Kế hoạch
hoá phát triển với sự kết hợp thêm các yếu tố phi kinh tế giờ đây không
đồng nghĩa với kế hoạch hoá phát triển kinh tế nữa mà là kế hoạch hoá
phát triển tổng thể, bao quát tất cả các khía cạnh của sự phát triển
Hai là, yếu tố phân phối thu nhập và bình đẳng được coi trọng hơn
trong kế hoạch hoá Kinh nghiệm kế hoạch hoá trong những năm đầu sau
chiến tranh thế giới lần thứ 2 cho thấy tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến
sự bất bình đẳng tăng lên, và điều này đã thúc đẩy việc tìm kiếm những
mô hình phát triển có thể giúp giảm bớt sự bất bình đẳng đó, với mong
muốn sự phát triển đem lại lợi ích cho quảng đại quần chúng, chứ không
phải cho một nhóm người Sự thay đổi này đối với khái niệm phát triển đòi hỏi phải có sự thay đổi.tương ứng trong cách tiếp cận đối với kế hoạch
hoá phát triển Kế hoạch hoá không chỉ thúc đẩy tăng thu nhập, mà còn
cải thiện công bằng xã hội, đáp ứng nhu cầu của quảng đại nhân dân
Theo đó cần có ba nội dung thay đổi Một là, những thay đổi trong các
chính sách phát triển tạo khung khổ cho kế hoạch hoá Hai là, những thay
đổi về công nghệ và kỹ thuật kế hoạch hoá: việc lựa chọn các chương trìah phát triển không chỉ dựa trên sự tác động đối với tăng trưởng các ngành kinh tế quốc dân, mà còn phải tính đến tác động của chúng đối với các nhóm thu nhập thấp và các vùng kém phát triển Ba là, những thay đổi
về tổ chức kế hoạch hoá; đó là sự tham gia rộng rãi hơn của các tầng lớp nhân dân vào quá trình lập kế hoạch để đảm bảo sự lựa chọn của kế hoạch hoá phản ánh được như cầu của tất ea các nhóm người khác nhau trong xã hội
b Những thay đổi trong cách tiếp cận kế hoạch hoá
Những thay đổi trong cách tiếp cận của kế hoạch hoá chủ yếu nhằm thu hẹp khoảng cách giữa kế hoạch và thực hiện kế hoạch, trong đó có thể
phân biệt hai nội dung cơ bản
38