Việc nghiên cứu về hành vi chi tiêu của khách du lịch đóng vai trò cốt lõi trong việc đo lường tác động kinh tế của ngành du lịch đối với một điểm đến vì du lịch là một hoạt động kinh tế
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Khái niệm du lịch
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành với mục đích tham quan, khám phá, trải nghiệm, nghỉ ngơi, giải trí và thư giãn Hoạt động này diễn ra liên tục nhưng không quá một năm, bên ngoài môi trường sống định cư, và không nhằm mục đích kiếm tiền Du lịch cũng được xem như một hình thức nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác biệt.
Theo Luật Du lịch (2005), du lịch được định nghĩa là các hoạt động liên quan đến việc di chuyển của con người ra ngoài nơi cư trú thường xuyên Mục đích của du lịch là để đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch bao gồm các dịch vụ và hàng hóa dành cho khách du lịch, được hình thành từ sự kết hợp giữa khai thác các yếu tố tự nhiên và xã hội, cùng với việc sử dụng nguồn lực như cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một địa phương, vùng hoặc quốc gia cụ thể.
Như vậy, sản phẩm du lịch bao gồm sản phẩm hữu hình và vô hình, đó là dịch vụ du lịch và giá trị tài nguyên thiên nhiên
Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố hữu hình và vô hình, trong đó yếu tố hữu hình đại diện cho hàng hóa, còn yếu tố vô hình thể hiện dịch vụ.
Nếu xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì các thành phần của sản phẩm bao gồm các nhóm sau:
- Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, đồ ăn, thức uống,…
- Dịch vụ tham quan, giải trí,
- Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm
- Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch
Những nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch
Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (chiếm 80% -90% giá trị)
Sản phẩm du lịch ở xa khách hàng và không thể di chuyển được
Sản phẩm du lịch như chỗ ngồi ở máy bay, phòng ngủ, khách sạn,…không thể tồn kho và cất đi
Sản phẩm du lịch như nhà hàng, du lịch về nghỉ mát, về nghỉ dưỡng,… mang tính mùa vụ
Khách hàng mua sản phẩm du lịch thường không trung thành với các công ty cung cấp dịch vụ do nhu cầu dễ thay đổi Những yếu tố như biến động tiền tệ, tình hình an ninh và chính trị có thể ảnh hưởng mạnh đến quyết định của họ.
Theo Luật Du lịch (2005), sản phẩm du lịch được định nghĩa là tập hợp các dịch vụ thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong suốt chuyến đi.
Các khái niệm khác
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO, 1968), khách du lịch được định nghĩa là người di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác vì mục đích như kinh doanh, thăm viếng hoặc các hoạt động khác, ngoại trừ việc hành nghề hoặc nhận lương Định nghĩa này cũng áp dụng cho khách du lịch trong nước.
Khách du lịch chia làm hai loại là du khách và khách tham quan
Du khách là những người lưu trú tại một quốc gia trong hơn 24 giờ và qua đêm tại đó, với mục đích kinh doanh, thăm thân hoặc thực hiện các hoạt động khác.
Khách tham quan là những người du lịch đến một địa điểm nào đó trong thời gian dưới 24 giờ mà không qua đêm Họ có thể đến vì lý do công việc, thăm bạn bè hoặc thực hiện các hoạt động khác.
Theo Luật Du lịch (2005), khách du lịch là những người rời khỏi môi trường sống thường xuyên để đến một địa điểm khác trong thời gian dưới 12 tháng, với mục đích tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hoặc các mục đích khác không liên quan đến việc kiếm sống Khái niệm này áp dụng cho cả khách du lịch quốc tế và nội địa, bao gồm những người đi du lịch dài ngày và lưu trú qua đêm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú.
Khách du lịch trong nước, theo Luật Du lịch 2005, là công dân Việt Nam rời khỏi môi trường sống thường xuyên để đến một địa điểm khác trong lãnh thổ Việt Nam trong thời gian dưới 12 tháng, với mục đích chính là tham quan, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí Tuy nhiên, những người có hoạt động kiếm sống hoặc tạo thu nhập tại nơi đến không được tính là khách du lịch trong nước.
- Những người định cư ở nơi này đến một một nơi khác với mục đích thường trú ở đó;
- Những người đi đến một nơi khác ở trong nước với mục đích để tiến hành các hoạt động để mang lại thu nhập và kiếm sống ở nơi đến;
- Những người đến và làm việc tạm thời ở nơi đến;
- Những người đi lại theo lịch thường xuyên giữa các vùng lân cận để làm việc, giảng dạy, học tập, nghiên cứu;
- Những người du mục và những người không có nơi cư trú cố định;
- Những người tham gia chuyến đi diễn tập của các lực lượng vũ trang
Khách du lịch quốc tế, theo Luật Du lịch 2005, được định nghĩa là những cá nhân mang quốc tịch nước ngoài, rời khỏi môi trường sống thường xuyên của quốc gia cư trú và đến Việt Nam trong thời gian không quá 12 tháng Mục đích chuyến đi của họ không phải để thực hiện các hoạt động kiếm tiền hoặc sinh sống tại Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam không bao gồm các trường hợp sau:
- Những người đến và sống như một người cư trú ở Việt Nam kể cả những người đi theo sống dựa vào họ;
- Những người dân lao động cư trú ở vùng biên giới hàng ngày đi lại làm việc qua biên giới Việt Nam;
- Những nhân viên đại sứ quán, lãnh sự quán, tuỳ viên quân sự đến làm nhiệm vụ tại Việt Nam và những người đi theo sống nhờ vào họ;
- Những người quá cảnh (transit) Việt Nam, nghỉ tại cơ sở lưu trú chỉ với mục đích chờ chuyển chuyến bay để đến một nước khác
Chi tiêu của khách du lịch:
Theo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2012), chi tiêu du lịch được định nghĩa là tổng số tiền mà khách du lịch chi cho hàng hóa, dịch vụ và các tài sản giá trị khác trong chuyến đi Điều này bao gồm cả chi tiêu trực tiếp của khách du lịch và các khoản chi phí do người khác thanh toán, như bạn bè, người thân, cơ quan, doanh nghiệp, bảo hiểm hoặc chính phủ Tuy nhiên, chi tiêu du lịch không bao gồm các khoản thanh toán liên quan đến thuế, lợi nhuận, hoặc mua sắm tài sản tài chính và phi tài chính.
Theo Tổng Cục Thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), chi tiêu của khách du lịch bao gồm tổng số tiền mà họ đã và sẽ chi trong suốt chuyến đi, bao gồm cả các khoản chi cho việc chuẩn bị trước chuyến đi và chi phí mua sắm đồ dùng, quà tặng, quà lưu niệm trong chuyến đi Tuy nhiên, các khoản chi sau đây sẽ không được tính vào tổng chi tiêu này.
Tiền mua hàng hóa cho mục đích kinh doanh được hiểu là việc mua sản phẩm để bán lại cho khách du lịch hoặc để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong chuyến đi.
Tiền đầu tư và giao dịch hợp đồng của người đi du lịch, bao gồm việc mua nhà đất, bất động sản và tài sản quý giá như xe cộ, thuyền hay nhà nghỉ thứ hai, không được tính vào chi tiêu du lịch Điều này áp dụng ngay cả khi những tài sản này được mua để phục vụ cho các chuyến đi du lịch trong tương lai.
Tiền mặt biếu họ hàng và bạn bè trong chuyến đi
Hành vi tiêu dùng: Có nhiều định nghĩa về hành vi tiêu dùng, cụ thể như sau:
Hành vi tiêu dùng là quá trình mà cá nhân hoặc nhóm người thực hiện việc lựa chọn, mua sắm, sử dụng hoặc loại bỏ sản phẩm và dịch vụ, dựa trên những suy nghĩ, kinh nghiệm và kiến thức tích lũy của họ Mục tiêu của hành vi này là để thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của người tiêu dùng (Solomon & ctg., 2006).
Hành vi tiêu dùng là phản ứng của cá nhân trong quyết định mua hàng hóa và dịch vụ Nó chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố marketing như sản phẩm, giá cả, kênh phân phối và chiến lược quảng bá, cùng với các yếu tố liên quan đến đặc điểm người tiêu dùng như văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý Những yếu tố này tác động đến quá trình ra quyết định và hành vi mua sắm của người tiêu dùng (Kotler, 2003).
Người tiêu dùng du lịch:
Người tiêu dùng du lịch là những cá nhân, hộ gia đình hoặc nhóm người mua sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của bản thân Họ là những người cuối cùng sử dụng sản phẩm du lịch, được tạo ra từ quá trình sản xuất.
Cơ sở lý thuyết
2.4.1 Lý thuy ế t hành vi ng ườ i tiêu dùng
Lý thuyết cung – cầu giúp hiểu quá trình mua bán và hình thành giá cả trên thị trường, nhưng không giải thích lý do tại sao người tiêu dùng chọn hàng hóa hay dịch vụ cụ thể Để hiểu rõ hơn về sự lựa chọn của người tiêu dùng, lý thuyết hành vi tiêu dùng trong kinh tế học vi mô sẽ cung cấp những câu trả lời cần thiết.
Để hiểu rõ hành vi của người tiêu dùng, cần thực hiện nghiên cứu theo ba bước Đầu tiên, chúng ta cần phân tích thị hiếu của người tiêu dùng để xác định lý do họ ưa chuộng một sản phẩm hơn sản phẩm khác Thứ hai, cần xem xét thực tế rằng người tiêu dùng phải đối mặt với giới hạn ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu của họ Cuối cùng, việc kết hợp giữa thị hiếu và giới hạn ngân sách sẽ giúp xác định các lựa chọn mua sắm của người tiêu dùng Tóm lại, người tiêu dùng sẽ lựa chọn các sản phẩm nào để đạt được sự thỏa mãn tối đa trong bối cảnh thu nhập có hạn.
Theo Robert và Daniel (1999), lý thuyết hành vi của người tiêu dùng dựa trên ba giả thuyết chính liên quan đến sở thích của con người khi so sánh các giỏ hàng hóa khác nhau.
Giả thuyết thứ nhất cho rằng thị hiếu của người tiêu dùng là hoàn chỉnh, nghĩa là họ có khả năng so sánh và xếp hạng tất cả các giỏ hàng hóa Cụ thể, trong bất kỳ hai giỏ hàng hóa A và B nào, người tiêu dùng sẽ luôn có xu hướng thích giỏ hàng hóa A hơn hoặc B hơn.
B, hoặc thích B hơn A, hoặc bàng quan giữa 2 giỏ (thỏa mãn như nhau khi nhận bất cứ giỏ hàng hóa nào trong hai giỏ)
Giả thuyết thứ hai đề cập đến tính bắt cầu trong thị hiếu của người tiêu dùng Cụ thể, nếu một người tiêu dùng ưu tiên giỏ hàng hóa A hơn giỏ hàng hóa B, và giỏ hàng hóa B hơn giỏ hàng hóa C, thì họ cũng sẽ thích giỏ hàng hóa A hơn giỏ hàng hóa C Tính chất này cho thấy sự liên kết trong sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Giả thuyết thứ ba cho rằng tất cả hàng hóa đều được ưa chuộng, tức là người tiêu dùng luôn mong muốn nhiều hàng hóa hơn là ít Do đó, nếu không tính đến các chi phí, người tiêu dùng sẽ có xu hướng lựa chọn số lượng hàng hóa lớn hơn.
Nghiên cứu mức chi tiêu của du khách có thể được thực hiện ở hai cấp độ vi mô và vĩ mô, nhưng bài viết này tập trung vào cấp độ vi mô để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của du khách trong chuyến đi Lý thuyết hành vi người tiêu dùng sẽ được áp dụng để phân tích các nhân tố tác động đến hành vi chi tiêu của du khách nội địa đến Bình Thuận Cụ thể, nghiên cứu sẽ xem xét các yếu tố cá nhân như thị hiếu du khách (mục đích chuyến đi), chi phí (số ngày lưu trú, số người đi kèm, phương tiện du lịch, loại khách sạn), và thu nhập của khách du lịch (tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính) để hiểu rõ hơn về mức chi tiêu của họ khi du lịch.
2.4.2 Lý thuy ế t v ề độ th ỏ a d ụ ng
2.4.2.1 Khái niệm về độ thỏa dụng:
Động cơ chính thúc đẩy người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa hoặc dịch vụ là sở thích cá nhân, mang lại cảm giác thỏa mãn khi tiêu dùng Khái niệm độ thỏa dụng được các nhà kinh tế sử dụng để đo lường mức độ hài lòng mà người tiêu dùng cảm nhận khi sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ Yếu tố tâm lý đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra độ thỏa dụng, khi con người tìm kiếm những thứ mang lại niềm vui và tránh xa những điều gây tổn thương Trong phân tích kinh tế, độ thỏa dụng giúp xếp hạng các giỏ hàng hóa dựa trên thị hiếu, ví dụ, nếu việc mua ba cuốn sách mang lại sự mãn nguyện hơn so với việc mua một chiếc áo sơ mi, thì có thể nói rằng sách đem lại độ thỏa dụng cao hơn áo sơ mi.
Theo Trần Thị Hòa (2006), sự bằng lòng hay thỏa mãn của người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ là một yếu tố thường xuyên thay đổi Điều này cho thấy độ thỏa dụng không phải là một đại lượng cố định mà là một khái niệm liên tục biến động Đặc biệt, độ thỏa dụng chịu ảnh hưởng lớn từ đánh giá chủ quan của từng người tiêu dùng.
Mỗi người tiêu dùng có cảm giác hài lòng khác nhau khi sử dụng cùng một loại hàng hóa hay dịch vụ, điều này phụ thuộc vào sở thích cá nhân Độ thỏa dụng tăng lên khi người tiêu dùng tiêu thụ nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn, nghĩa là mức độ hài lòng sẽ cao hơn khi tiêu dùng nhiều so với ít Hơn nữa, độ thỏa dụng cũng thay đổi theo từng điều kiện tiêu dùng cụ thể; trong những hoàn cảnh khác nhau, mức độ hài lòng từ cùng một loại hàng hóa sẽ không giống nhau.
Tổng hữu dụng (U) đề cập đến tổng lợi ích mà người tiêu dùng cảm nhận được khi sử dụng các hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định (Đặng Văn Thanh, 2013).
Tổng hữu dụng có thể được diễn đạt dưới dạng hàm số, phản ánh mối quan hệ giữa một tập hợp hàng hóa và dịch vụ.
Khi tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng lên, tổng hữu dụng mà người tiêu dùng nhận được cũng gia tăng Tuy nhiên, có một ngưỡng nhất định mà tại đó tổng hữu dụng sẽ đạt mức tối đa, bất chấp việc tiêu dùng tiếp tục gia tăng Đây chính là điểm bão hòa của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó Khi vượt qua ngưỡng này, tổng hữu dụng sẽ bắt đầu giảm xuống.
Trong thực tế, người tiêu dùng hiếm khi tiêu dùng quá mức một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó Khi không còn cảm giác hài lòng, họ sẽ mất đi sở thích và ngừng tiêu dùng Hơn nữa, do hạn chế về tài chính, người tiêu dùng thường chuyển hướng chi tiêu sang các hàng hóa hay dịch vụ khác mà họ còn ưa thích.
Khi nghiên cứu về tổng hữu dụng, chúng ta chỉ tập trung vào những hàng hóa mang lại cảm giác thích thú cho người tiêu dùng Điều này có nghĩa là tổng độ thỏa dụng sẽ luôn tăng lên khi số lượng hàng hóa tiêu dùng gia tăng.
Các yếu tố quyết định đến mức chi tiêu của khách du lịch
Nhiều nghiên cứu trước đây đã sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian để phân tích hành vi chi tiêu của du khách từ một thị trường cụ thể Tuy nhiên, những nghiên cứu này thường bỏ qua ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân đến quyết định chi tiêu Thực tế cho thấy, quyết định chi tiêu của du khách có thể bị chi phối bởi nhiều yếu tố, bao gồm đặc điểm nhân khẩu học như thu nhập, tuổi tác, giới tính, học vấn và nghề nghiệp, cũng như các yếu tố liên quan đến chuyến đi như hình thức tổ chức, số lượng người trong đoàn và số lần tham quan.
Từ các lý thuyết đã trình bày và các nghiên cứu trước cho thấy các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu của khách du lịch đó là:
Mục đích chuyến đi của khách du lịch có ảnh hưởng lớn đến mức chi tiêu của họ, đặc biệt giữa các nhóm như doanh nhân và công nhân Khách công vụ thường có địa vị cao hơn, dẫn đến hành vi tiêu dùng khác biệt, với xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho các sản phẩm và thương hiệu phù hợp với đẳng cấp của họ (theo lý thuyết độ thỏa dụng và lý thuyết hành vi người tiêu dùng; Juan & cộng sự, 2012) Tuy nhiên, nghiên cứu của Marcussen (2011) lại cho rằng mục đích chuyến đi không ảnh hưởng đến mức chi tiêu.
Phương tiện di chuyển và loại hình khách sạn mà du khách lựa chọn có tác động lớn đến chi tiêu của họ, phản ánh giá cả và sở thích cá nhân Những người đi máy bay thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn so với những người chọn phương tiện khác, trong khi khách lưu trú tại khách sạn cao cấp cũng thường có mức chi tiêu cao hơn so với những người ở khách sạn bình dân.
Thời gian lưu trú của du khách có ảnh hưởng trực tiếp đến mức chi tiêu của họ Cụ thể, khi du khách lưu trú lâu hơn, chi tiêu của họ sẽ tăng lên do phải sử dụng nhiều dịch vụ như phòng khách sạn, bữa ăn và vận chuyển hơn Nghiên cứu cho thấy rằng số ngày lưu trú và tổng chi tiêu có mối quan hệ cùng chiều, tức là kéo dài thời gian lưu trú dẫn đến việc gia tăng chi phí (Jang & cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014; Marcussen, 2011; Juan & cộng sự).
Thu nhập của du khách ảnh hưởng trực tiếp đến mức chi tiêu trong chuyến du lịch, với khả năng tài chính và giá cả sản phẩm du lịch là những yếu tố quyết định Nghiên cứu cho thấy rằng thu nhập của du khách có tác động tích cực và quan trọng đến quyết định chi tiêu của họ (Jang & cộng sự, 2004; Nguyễn Quốc Nghi, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014; Marcussen, 2011).
Nhóm tuổi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi tiêu dùng du lịch, ảnh hưởng đến loại hình du lịch, điểm đến, chi phí và dịch vụ mà du khách lựa chọn Nghiên cứu cho thấy du khách lớn tuổi thường chi tiêu nhiều hơn so với du khách trẻ tuổi (Jang & cộng sự, 2004; Nguyễn Quốc Nghi, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014) Tuy nhiên, một nghiên cứu khác của Marcussen (2011) lại chỉ ra rằng độ tuổi không có tác động đáng kể đến mức chi tiêu của du khách.
Giới tính không ảnh hưởng nhiều đến sự khác biệt trong mức chi tiêu của khách du lịch, vì không có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng và tiêu dùng sản phẩm du lịch (Jang & cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014; Juan & cộng sự, 2012).
Tình trạng hôn nhân ảnh hưởng đến mức chi tiêu của du khách, với khách du lịch đã kết hôn có mức chi tiêu bình quân thấp hơn so với những người còn độc thân (Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014).
Số lượng trẻ em đi cùng có ảnh hưởng tích cực đến mức chi tiêu du lịch, theo nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012) Tuy nhiên, Jang và cộng sự (2004) lại cho rằng không có sự tác động đáng kể nào từ số trẻ em đến chi tiêu du lịch.
Số lần du khách đến một địa điểm ảnh hưởng đến chi tiêu của họ, với du khách lần đầu thường chi tiêu nhiều hơn so với những người đã đến lần thứ hai Nguyên nhân là do họ cần làm quen với các địa điểm và thường phải mua quà cho bạn bè và người thân khi về nhà Tuy nhiên, nghiên cứu của Marcussen (2011) và Nguyễn Thị Hồng Đào (2014) cho thấy số lần đến không có mối liên hệ thống kê đáng kể với mức chi tiêu của du khách.
Nghề nghiệp ảnh hưởng đáng kể đến chi tiêu của du khách và quyết định lựa chọn sản phẩm du lịch Cụ thể, sự lựa chọn về khách sạn, nhà hàng, món ăn và hình thức giải trí của công nhân, nông dân sẽ khác biệt so với những người làm trong lĩnh vực doanh nghiệp, cán bộ công chức, viên chức (Jang & cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014; Juan & cộng sự, 2012).
Sự hài lòng của du khách có tác động lớn đến mức chi tiêu của họ Cảm nhận về chất lượng dịch vụ và đặc điểm sản phẩm du lịch tại điểm đến không chỉ ảnh hưởng đến sự hài lòng mà còn quyết định hành vi chi tiêu của khách hàng Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào (2014), khách hàng sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu của họ.
Các nghiên cứu đã kiểm tra ảnh hưởng của ba nhóm yếu tố: nhân khẩu học, đặc điểm chuyến đi và cảm nhận của du khách Kết quả cho thấy sự khác biệt trong ảnh hưởng của các yếu tố này, tùy thuộc vào từng đối tượng khách và địa điểm cụ thể.
Mô hình đề xuất
Mô hình nghiên cứu này, tương tự như các nghiên cứu trước đây (Nguyễn Thị Hồng Đào, 2014; Marcussen, 2011; Nguyễn Quốc Nghi, 2011; Jang & cộng sự, 2004), sử dụng các biến nhân khẩu học, đặc điểm chuyến đi và cảm nhận của du khách để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chi tiêu của du khách, đặc biệt là trong bối cảnh du lịch Bình Thuận.
Hành vi người tiêu dùng là phản ứng của cá nhân trong quá trình quyết định mua sản phẩm hoặc dịch vụ, được kích thích bởi các yếu tố marketing và nhu cầu du lịch Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là khám phá "hộp đen" ý thức của người tiêu dùng, bao gồm các đặc tính nhân khẩu học ảnh hưởng đến quyết định mua sắm.
- Giới tính ĐẶC ĐIỂM CHUYẾN ĐI:
- Số ngày lưu trú; số trẻ em
- Phương tiện đi du lịch
- Số lần đến du lịch
- Loại khách sạn lưu trú
MỨC CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH
CẢM NHẬN DU KHÁCH (Hài lòng, không hài lòng) MỤC ĐÍCH CHUYẾN ĐI
Hộp đen ý thức của người tiêu dùng du lịch bao gồm hai yếu tố chính: Thứ nhất, các đặc tính cá nhân như độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, sở thích và thu nhập sẽ ảnh hưởng đến hành vi mua sắm sản phẩm du lịch Thứ hai, quyết định chi tiêu của người tiêu dùng phụ thuộc vào giá cả hàng hóa dịch vụ và mong muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ sự chuyển biến trong hành vi tiêu dùng du lịch.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này đánh giá hành vi chi tiêu và trải nghiệm du lịch của khách du lịch nội địa tại tỉnh Bình Thuận Bảng câu hỏi được chia thành bốn phần: thông tin nhân khẩu học, thông tin về chuyến đi, hành vi tiêu dùng của du khách và đánh giá về chuyến đi tại Bình Thuận Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mức chi tiêu của du khách trong khu vực.
3.1.2 Phương pháp phân tích số liệu nghiên cứu Đố i v ớ i m ụ c tiêu (1) : Mô tả thực trạng du lịch của tỉnh Bình Thuận, phân tích cơ cấu chi tiêu của khách du lịch nội địa khi đến Bình Thuận và xác định mức chi tiêu của khách du lịch nội địa đến Bình Thuận Nghiên cứu sử dụng theo phương pháp thống kê mô tả để phân tích nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ Cục thống kê và báo cáo tổng kết năm của địa phương nhằm phản ánh thực trạng về phát triển du lịch tại Bình Thuận và phân tích cơ cấu đặc điểm chi tiêu của du khách, đồng thời tiến hành phân tích sự khác biệt theo cơ cấu chi tiêu và phân tích cơ cấu chi tiêu theo các đặc tính khác nhau của khách du lịch Đố i v ớ i m ụ c tiêu (2) và (3): Đánh giá các yếu tố tác động đến mức chi tiêu của khách du lịch nội địa đến Bình Thuận, từ đó đề xuất các giải pháp cần thực hiện để tăng mức chi tiêu của du khách nhằm làm tăng doanh thu góp phát triển ngành du lịch của tỉnh Nhà Đề tài sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính, cụ thể là sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy chéo để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu đặt ra và xây dựng mô hình hồi quy để xem xét mức độ tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc Ước lượng hàm hồi quy với biến phụ thuộc là mức chi tiêu và các biến độc lập là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức chi tiêu của du khách đến Bình Thuận
Phần mềm SPSS là công cụ hữu ích trong việc thống kê mô tả, giúp xác định cơ cấu và tỷ lệ chi tiêu của du khách Đối với các biến định tính, chúng ta chuyển đổi thành biến định lượng bằng cách xây dựng các biến giả và áp dụng chuyển sang biến nhị phân Qua phân tích mô hình hồi quy, chúng ta có thể xác định và đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến mức chi tiêu của du khách đến Bình Thuận.
Bài viết này phân tích cơ cấu chi tiêu của khách du lịch tại tỉnh Bình Thuận, đánh giá mức chi tiêu và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chi tiêu của họ Dựa trên những phân tích này, chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mức chi tiêu của du khách, từ đó nâng cao doanh thu và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành du lịch địa phương.
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên lý thuyết hành vi người tiêu dùng và các khái niệm liên quan đến độ thỏa dụng, bài viết xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm đo lường các yếu tố tác động đến mức chi tiêu của du khách Các giả thuyết nghiên cứu được phát triển để phân tích hành vi mua sắm trong ngành du lịch, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chi tiêu của người tiêu dùng.
Y: là biến phụ thuộc: Mức chi tiêu một lượt khách
Xi bao gồm các biến độc lập như nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp, mục đích chuyến đi, phương tiện chính sử dụng để du lịch, số ngày lưu trú, mức độ hài lòng, loại khách sạn lưu trú, số lần đến du lịch và số trẻ em dưới 3 tuổi đi cùng.
Mức chi tiêu của một khách du lịch tại tỉnh Bình Thuận bao gồm các khoản như tiền ở, ăn uống, di chuyển, tham quan, mua sắm, dịch vụ và các chi phí khác Nghiên cứu về biến này đã được thực hiện bởi Nguyễn Thị Hồng Đào (2014) và Marcussen (2011).
Công thức tính chỉ tiêu Chi tiêu 1 lượt khách như sau:
Tổng số tiền chi tiêu của khách
Tổng số người chi tiêu
Các biến độc lập (X i ) trong nghiên cứu bao gồm nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp, mục đích chuyến đi, phương tiện chính đi du lịch, số ngày lưu trú, mức độ hài lòng và loại khách sạn lưu trú Đặc biệt, số trẻ em dưới 3 tuổi theo cùng cũng là một yếu tố cần xem xét Biến độ tuổi được phân chia thành 3 nhóm khác nhau, do đó, chúng ta sử dụng 3 biến giả để mô tả độ tuổi của khách du lịch.
Biến giả "Tuoi15-34" có giá trị 1 khi khách du lịch thuộc độ tuổi từ 15 đến 34, và giá trị 0 khi khách du lịch không nằm trong khoảng tuổi này.
Biến giả "Tuoi35-54" có giá trị 1 khi khách du lịch nằm trong độ tuổi từ 35 đến 54 tuổi, và giá trị 0 đối với những người không thuộc độ tuổi này.
Biến giả thứ ba “Tuoi55trolen” được xác định với giá trị 1 cho khách du lịch từ 55 tuổi trở lên và 0 cho những người trẻ hơn Biến này sẽ được sử dụng làm tham chiếu cho hai biến khác, vì nhu cầu và mức chi tiêu của khách du lịch thường khác nhau theo độ tuổi Nghiên cứu kỳ vọng rằng biến này có mối quan hệ đồng biến với mức chi tiêu, với dự đoán rằng độ tuổi từ 35-54 sẽ có mức chi tiêu cao hơn so với các nhóm tuổi khác.
Giới tính của khách du lịch được phân loại thành Nam và Nữ, với giá trị 1 cho Nam và 0 cho Nữ Mặc dù giới tính có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm lý tiêu dùng hàng hóa dịch vụ trong chuyến đi, nhưng sự khác biệt trong cách đi du lịch giữa hai giới không đáng kể, do đó không tác động nhiều đến mức chi tiêu của họ.
Nghề nghiệp của khách du lịch được mô tả thông qua một biến mô tả, đóng vai trò là biến dummy Biến này có bốn tính chất khác nhau, vì vậy chúng ta cần sử dụng bốn biến giả để thể hiện đầy đủ thông tin.
Biến giả "coquannhanuoc" có giá trị 1 cho khách du lịch làm việc trong cơ quan nhà nước, và giá trị 0 cho những người làm việc trong các lĩnh vực khác.
Biến giả thứ hai "doanhnhan" sẽ có giá trị 1 khi khách du lịch là thương gia, và giá trị 0 khi khách du lịch không phải là thương gia.
Biến giả thứ ba "congnhan,nongdan" có giá trị 1 khi khách du lịch là công nhân hoặc nông dân, và giá trị 0 khi khách du lịch không thuộc hai nhóm này.
Biến giả thứ tư "nghenghiepkhac" được sử dụng để xác định giá trị 1 cho những khách du lịch có nghề nghiệp khác, trong khi giá trị 0 được áp dụng cho những người không thuộc nhóm này Biến này sẽ đóng vai trò tham chiếu cho ba biến còn lại trong phân tích.
Mỗi nghề nghiệp mang lại mức thu nhập khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong chi tiêu của các nhóm khách du lịch Mức chi tiêu của họ có sự tương quan tích cực với thu nhập, trong đó nhóm doanh nhân với kỳ vọng thu nhập cao có xu hướng chi tiêu nhiều hơn so với các nhóm khác.
Mục đích chuyến đi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tính chất và quyết định liệu chuyến đi có được thực hiện hay không Du khách thường có nhiều lý do khác nhau cho việc tham quan và du lịch, và điều này được thể hiện qua biến mô tả mục đích chuyến đi Biến này có ba tính chất chính, giúp phân loại và hiểu rõ hơn về động lực của du khách khi họ quyết định đi du lịch.
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu luận văn được sử dụng là nguồn dữ liệu thứ cấp do
Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận điều tra khảo sát năm 2014 Mẫu phiếu điều tra kèm theo phụ lục 1
Bài luận văn này dựa trên 1.222 phiếu khảo sát được thực hiện bởi Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận vào năm 2014, nhằm thu thập thông tin về khách du lịch trong nước khi tham quan và nghỉ dưỡng tại các khu du lịch trong tỉnh Bình Thuận.
Phương pháp chọn mẫu dữ liệu thứ cấp được thực hiện thông qua việc phân bổ 1.222 phiếu khảo sát từ Cục Thống kê Bình Thuận cho các cộng tác viên tại các cơ sở lưu trú trong các khu du lịch trên toàn tỉnh.
Tuy Phong, khu du lịch Hàm Tiến - Mũi Né, khu du lịch Tiến Thành, khu du lịch Hàm Thuận Nam và khu du lịch Lagi là những điểm đến nổi bật Số lượng phiếu phân bổ cho mỗi khu du lịch và cơ sở lưu trú được xác định dựa trên tỷ lệ các cơ sở lưu trú đang hoạt động tại từng khu so với tổng số cơ sở lưu trú trong toàn tỉnh, cũng như dựa vào số lượng khách du lịch nội địa phục vụ trong năm 2013.
3.3.3 Phương pháp xử lý dữ liệu Đề tài sử dụng phần mềm kinh tế lượng SPSS để thống kê mô tả xác định cơ cấu, tỷ lệ chi tiêu, mức chi tiêu Đối với các biến định tính ta chuyển sang biến định lượng (xây dựng các biến giả và áp dụng chuyển sang biến nhị phân cho từng loại), sau đó chạy phân tích mô hình hồi quy để xác định, đo lường những yếu tố ảnh hưởng đến mức chi tiêu của du khách đến Bình Thuận.
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
4.1.1 Thông tin về đặc tính nhân khẩu học của khách du lịch khảo sát
Bảng 4.1: Thông tin về đối tượng khảo sát của khách du lịch
1 Độ tuổi Số lượng Tỷ trọng(%)
Công chức, viên chức Nhà nước
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu bằng SPSS
Kết quả khảo sát trong bảng 4.1 cho thấy đối tượng khách du lịch chủ yếu thuộc nhóm tuổi từ 18 đến 35.
Nhóm tuổi từ 35 – 54 chiếm tỷ lệ cao nhất với 649 khách, tương đương 53,11%, tiếp theo là nhóm tuổi 15 – 34 với 457 khách, chiếm 37,4% Về giới tính, khách nam có 646 người, chiếm 52,86%, trong khi khách nữ là 576 người, chiếm 47,14% Đối với nghề nghiệp, có 293 khách là công chức, viên chức nhà nước, chiếm 23,98%.
227 khách là nhà doanh nghiệp chiếm 18,58%, còn công nhân, nông dân là
148 khách, chiếm 12,11% và nghề nghiệp khác chiếm đến 45,34%, với 554 khách
4.1.2 Thông tin về mục đích chuyến đi
Bảng 4.2: Thông tin về mục đích chuyến đi của khách du lịch
Mục đích chuyến đi Số lượng Tỷ trọng(%)
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu bằng SPSS
Chuyến đi du lịch Bình Thuận của khách khảo sát chủ yếu nhằm mục đích nghỉ ngơi, với 935 khách, chiếm 76,51% tổng số đối tượng khảo sát Trong khi đó, mục đích tham gia hội nghị, hội thảo chỉ có 105 khách, chiếm 8,59%, và 182 khách còn lại, chiếm 14,89%, có mục đích khác.
4.1.3 Đặc điểm chuyến đi của khách du lịch
Bảng 4.3 Thông tin về đặc điểm chuyến đi của khách du lịch
1 Phương tiện đi du lịch Số lượng Tỷ trọng(%) Ô tô 985 80,61
2 Loại khách sạn lưu trú
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu bằng SPSS
Khách du lịch đến Bình Thuận chủ yếu sử dụng ô tô, chiếm 80,61% với 985 khách, tiếp theo là tàu hỏa với 12,6% (154 khách) và các phương tiện khác chỉ chiếm 6,79% (83 khách) Về nơi lưu trú, khách chọn khách sạn 1 đến 3 sao chiếm 64,48% (788 khách), trong khi khách lưu trú tại khách sạn 4 đến 5 sao chiếm 35,52% (434 khách).
4.1.4 Đặc điểm đánh giá mức độ hài lòng
Bảng 4.4 Thông tin về đánh giá mức độ hài lòng của khách du lịch Cảm nhận của khách Số lượng Tỷ trọng(%)
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu bằng SPSS
Theo khảo sát, có đến 1.194 khách du lịch, tương đương 97,7%, bày tỏ sự hài lòng khi đến Bình Thuận Chỉ có 28 khách, chiếm 2,29%, không hài lòng với trải nghiệm du lịch tại đây.
4.1.5 Kết quả thống kê mô tả của các biến độc lập
Bảng 4.5 Thống kê các biến phân tích
Trung bình Độ lệch chuẩn
4 Mục đích chuyến đi: nghingoi 1222 0 1 77 424
5 Phương tiện đi du lịch: oto 1222 0 1 81 396 tauhoa 1222 0 1 13 332 khac 1222 0 1 07 252
7 Loại khách sạn lưu trú:
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Qua bảng số liệu thống kê mô tả các biến độc lập tại bảng 4.5 ta thấy:
Khách du lịch đến Bình Thuận chủ yếu thuộc nhóm tuổi từ 35 đến 54, chiếm 53,11% tổng số khách Nhóm tuổi từ 15 đến 34 đứng thứ hai với 37,4%, trong khi nhóm tuổi trên 54 tuổi có tỷ lệ thấp nhất.
Trong một cuộc khảo sát về khách du lịch, nam giới chiếm 52,86% trong tổng số khách, trong khi nữ giới chiếm 47,14% với 576 khách Về nghề nghiệp, công chức và viên chức nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất với 23,98%, tiếp theo là doanh nhân với 18,58% Ngoài ra, công nhân và nông dân chiếm 12,11%, trong khi các nghề nghiệp khác chiếm đến 45,34%.
Trong chuyến du lịch đến Bình Thuận, phương tiện ô tô là lựa chọn chủ yếu của du khách, chiếm tới 80,61%, tiếp theo là tàu hỏa với 12,6% và các phương tiện khác chỉ chiếm 6,79% Về nơi lưu trú, 64,48% du khách chọn khách sạn từ 1 đến 3 sao, trong khi 35,52% lựa chọn khách sạn 4 đến 5 sao.
Khách du lịch khảo sát có số lần đến cao nhất là 3 lần, trong khi số lần thấp nhất là 1 lần, với trung bình đạt 1,96 lần Về số ngày lưu trú, khách có thời gian lưu trú ngắn nhất là 1 ngày và dài nhất là 10 ngày, với trung bình là 2,84 ngày.
Theo khảo sát, 76,51% khách du lịch cho biết mục đích chính của chuyến đi là nghỉ ngơi, trong khi chỉ có 8,59% tham gia vì lý do hội nghị, hội thảo, và 14,89% có mục đích khác.
Theo khảo sát, 97,7% du khách bày tỏ sự hài lòng về trải nghiệm du lịch tại Bình Thuận.
Số khách không hài lòng chỉ chiếm 2,29%
Chi tiêu của du khách dao động từ 520 nghìn đồng đến 24.740 nghìn đồng, với mức trung bình là 3.562 nghìn đồng Cụ thể, chi phí cho tiền phòng thấp nhất là 70 nghìn đồng, cao nhất là 10.658 nghìn đồng và trung bình là 1.089 nghìn đồng Về chi tiêu cho ăn uống, mức thấp nhất là 67 nghìn đồng, cao nhất là 5.000 nghìn đồng và trung bình đạt 960 nghìn đồng.
Mô tả hiện trạng du lịch bình thuận và phân tích cơ cấu chi tiêu
4.2.1 Mô tả tình hình phát triển du lịch Bình Thuận
Bình Thuận là tỉnh có tiềm năng du lịch lớn với nhiều thắng cảnh thiên nhiên độc đáo và di tích văn hóa - lịch sử đặc sắc Du khách có thể khám phá Mũi Kê Gà với ngọn hải đăng cổ nhất Đông - Nam Á, chiêm ngưỡng tượng Phật khổng lồ tại núi Tà Cú, và tham quan bộ xương cá voi lớn nhất Việt Nam tại đình Vạn Thủy Tú Ngoài ra, các di tích kiến trúc cổ như Đền Pô-Klong Mơ Nai và tháp Chăm Pô Sa Nư cũng thu hút nhiều du khách Khu di tích Trường Dục Thanh, nơi thầy giáo Nguyễn Tất Thành (Bác Hồ) từng dạy học, càng làm phong phú thêm giá trị văn hóa của tỉnh Với bờ biển dài 192km, Bình Thuận được biết đến là “biển xanh – cát trắng – nắng vàng”, tạo điều kiện lý tưởng cho việc phát triển các resort và khu nghỉ dưỡng Du lịch được xác định là ngành có vai trò quan trọng nhất trong phát triển kinh tế của tỉnh.
Trong 5 năm qua, Bình Thuận đã nỗ lực duy trì mức tăng trưởng du lịch bình quân từ 16 đến 18% mỗi năm Du lịch tại đây ngày càng đa dạng hóa với các sản phẩm chủ yếu như du lịch văn hóa, sinh thái, nghỉ dưỡng và thể thao biển Hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch được phát triển mạnh mẽ với các khu du lịch nổi bật như Hàm Tiến – Mũi Né, Hòn Rơm, Tiến Thành, Kê Gà, Bình Thạnh và Lagi Nhiều điểm đến tại Bình Thuận đã đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ sức cạnh tranh với các trung tâm du lịch biển lớn trong khu vực.
Tỉnh Bình Thuận đã phát triển và kết nối các tuyến du lịch trong tỉnh với hệ thống du lịch quốc gia, nhằm nâng cao tiêu chuẩn ngành du lịch đạt chuẩn quốc tế Những thành tựu nổi bật trong phát triển du lịch của tỉnh trong những năm qua được thể hiện qua các số liệu thống kê ấn tượng.
Bảng 4.6 Một số chỉ tiêu tình hình phát triển du lịch của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2010 - 2014
Số cơ sở lưu trú Cơ sở
1.731 2.215 2.973 3.500 154,92Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Bình Thuận
Từ năm 2010 đến 2014, số lượng phòng tại các cơ sở lưu trú ở Bình Thuận tăng 56,9%, lượng khách du lịch tăng 50,4%, và doanh thu tăng khoảng 1,5 lần Ngành du lịch đã khẳng định vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao động.
Kết quả cho thấy du lịch tỉnh Bình Thuận đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước Doanh thu du lịch hàng năm không ngừng tăng, cơ sở vật chất được cải thiện, và các tuyến, điểm du lịch đã được đầu tư nâng cấp.
Theo Viện Phát triển kinh tế Miền Đông (2015), du lịch Bình Thuận chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có Tài nguyên du lịch chưa được khai thác đầy đủ, chủ yếu tập trung vào khu vực ven biển Thiếu các dự án vui chơi giải trí và thương mại lớn để kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, ý thức cộng đồng về du lịch không đồng đều Chất lượng lao động trong ngành du lịch còn thấp, thiếu đào tạo chuyên nghiệp Công tác quảng bá và quản lý nhà nước về du lịch cũng còn nhiều hạn chế.
4.2.2 Mức chi tiêu bình quân và phân tích cơ cấu chi tiêu
Bảng 4.7 Mức chi tiêu bình quân và cơ cấu chi tiêu của mỗi khách du lịch
STT Mục chi ĐVT(Tr.đồng) Tỷ lệ(%)
6 Tiền dịch vụ giải trí 0,080 2,25
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Bảng 4.8 Biểu đồ cơ cấu chi tiêu của 1 khách du lịch
Theo khảo sát, chi tiêu trung bình của du khách tại tỉnh Bình Thuận đạt 3,562 triệu đồng, cao hơn so với Nha Trang (1-2 triệu đồng) và Vũng Tàu (khoảng 0,6 triệu đồng).
Khách du lịch đến Bình Thuận chủ yếu chi tiêu cho tiền thuê phòng, chiếm 30,56%, và ăn uống, chiếm 26,95% Tổng cộng, hai khoản này chiếm hơn 57% tổng mức chi tiêu của họ.
Chi tiêu cho việc đi lại trong du lịch chiếm 14,23% tổng mức chi tiêu, trong khi chi phí cho hàng hóa và quà lưu niệm cao hơn, đạt 15,61% Chi phí cho dịch vụ giải trí lại thấp nhất, chỉ chiếm 2,25% tổng chi tiêu.
Cơ cấu chi tiêu của khách du lịch
Tiền phòngTiền ănTiền đi lạiTiền tham quanTiền mua hàng hóaTiền dịch vụ giải tríTiền khác
Tóm lại, chi tiêu của một khách du lịch khi đến du lịch tại tỉnh Bình
Chi tiêu của du khách đến Bình Thuận đạt 3,562 triệu đồng, cao hơn so với Nha Trang (1-2 triệu đồng) và Vũng Tàu (0,6 triệu đồng) Cấu trúc chi tiêu chủ yếu tập trung vào tiền thuê phòng (30,56%) và ẩm thực, đặc biệt là hải sản (26,95%) Các khoản chi cho tham quan (6,24%) và giải trí (2,25%) ở mức thấp Điều này cho thấy du lịch Bình Thuận thiếu điểm vui chơi giải trí và sự đa dạng trong các loại hình tham quan Kết quả này gợi ý rằng cần phát triển các sản phẩm du lịch ngoài ăn uống, nâng cao chất lượng hàng hóa, quà lưu niệm và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.
Phân tích mức chi tiêu theo đặc tính
Bảng 4.9 Mức chi tiêu theo đặc tính khách du lịch
Tiền dịch vụ giải trí
(Tỷ trọng) % 37,63 25,26 12,22 5,02 12,99 2,17 4,71 Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Theo nghiên cứu, khách du lịch là nhà doanh nhân có mức chi tiêu cao nhất, đạt 3,931 triệu đồng, tiếp theo là công chức, viên chức nhà nước với 3,580 triệu đồng, trong khi công nhân và nông dân có mức chi thấp nhất là 2,955 triệu đồng Sự khác biệt trong cơ cấu chi tiêu cho thấy nhà doanh nhân chi nhiều cho ăn uống (29,19%), trong khi viên chức nhà nước, công nhân và nông dân chủ yếu chi cho tiền phòng (trên 30%) và mua hàng hóa (19,25% đối với nhà doanh nhân, 15-17% cho các nhóm còn lại) Các mục chi khác có xu hướng tương tự nhau.
Khách du lịch trên 55 tuổi có mức chi tiêu cao nhất, đạt 3,774 triệu đồng, tiếp theo là nhóm 35 - 54 tuổi với 3,646 triệu đồng, trong khi nhóm 15 - 34 tuổi chi tiêu thấp nhất với 3,389 triệu đồng Nhóm tuổi trên 55 chủ yếu chi cho việc thuê phòng nghỉ, với 1,235 triệu đồng, cho thấy nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng của họ rất lớn Các nhóm tuổi khác không có sự khác biệt đáng kể trong cơ cấu chi tiêu.
Theo kết quả khảo sát, mức chi tiêu của khách du lịch nam và nữ tương đối giống nhau, lần lượt đạt khoảng 3,556 triệu đồng và 3,569 triệu đồng, cho thấy không có sự khác biệt lớn giữa hai giới.
Mức chi tiêu của khách du lịch thay đổi rõ rệt tùy theo mục đích chuyến đi Cụ thể, khách du lịch nghỉ ngơi có mức chi tiêu bình quân cao nhất là 3,799 triệu đồng, trong khi đó, khách tham gia hội thảo chỉ chi khoảng 3,104 triệu đồng, và mức chi cho các mục đích khác thì thấp hơn.
Tổng chi tiêu cho mục đích nghỉ ngơi là 2,608 triệu đồng, trong đó chi phí thuê phòng đạt 1,203 triệu đồng (31,65%) và chi phí ăn uống là 1,034 triệu đồng (27,21%) Đối với mục đích hội thảo, chi phí thuê phòng là 0,883 triệu đồng (28,46%) và chi phí ăn uống là 0,76 triệu đồng (24,29%) Đối với mục đích khác, chi phí thuê phòng thấp hơn, chỉ đạt 0,621 triệu đồng (23,81%), trong khi chi phí ăn uống là 0,697 triệu đồng (24,29%).
Khách du lịch có mức chi tiêu khác nhau tùy thuộc vào phương tiện di chuyển, với ô tô đạt 3,659 triệu đồng, tàu hỏa 3,622 triệu đồng, và các phương tiện khác chỉ 2,303 triệu đồng Sự khác biệt này cũng thể hiện rõ trong chi phí thuê phòng nghỉ và ăn uống.
Khách du lịch lưu trú tại khách sạn từ 1 đến 3 sao có mức chi tiêu trung bình chỉ khoảng 2,869 triệu đồng, trong khi khách ở khách sạn cao cấp hơn với mức giá khoảng 4,82 triệu đồng, tạo ra sự chênh lệch gần 2 triệu đồng Sự khác biệt này chủ yếu đến từ chi phí tiền phòng và ăn uống.
Tóm lại, phân tích mức chi tiêu của khách du lịch đến Bình Thuận cho thấy sự khác biệt chủ yếu tập trung vào chi phí tiền phòng và tiền ăn uống Điều này cho thấy rằng khách du lịch tại Bình Thuận chủ yếu chi tiêu cho nghỉ dưỡng và ẩm thực, trong khi các chi phí cho tham quan, di chuyển, vui chơi giải trí và mua sắm không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm đối tượng.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Bảng 4.10 Bảng phân tích ANOVA b
The analysis of quantitative research data using SPSS identified several predictors, including Luutru_nhom2, Nhomtuoitu3554, tauhoa, Nam, nghingoi, sotreem, Hailong, congnhannongan, Solanden, vienchucnhanuoc, Songayluutru, Doanhnhan, Hoithao, oto, and Nhomtuoi1534, with the dependent variable being chibq1khach.
Theo bảng phân tích 4.10, giá trị thống kê Ftt = 62.374 lớn hơn Fc = 1.675 (tính theo công thức FINV(α, p, n - p - 1)) và giá trị P-Value (Sig.) = 0.000 rất nhỏ Do đó, có thể kết luận rằng mô hình hồi quy có ý nghĩa thống kê, cho thấy mô hình tổng thể là phù hợp.
Phân tích tương quan
4.5.1 Ma trận tương quan giữa các biến độc lập
Theo ma trận tương quan (xem phụ lục 6), ta thấy giữa các cặp biến nhóm “tuổi từ 15 – 34” với biến nhóm “tuổi 35 -54”; biến “ô tô” với biến
Hệ số tương quan giữa “tàu hỏa” và “hội thảo” là 0,823, giữa “tàu hỏa” và “nghỉ ngơi” là 0,774, cùng với hệ số 0,553 giữa “hội thảo” và “nghỉ ngơi” cho thấy có khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, vì tất cả đều lớn hơn 0,5 Do đó, việc xử lý hiện tượng đa cộng tuyến là cần thiết trước khi chạy mô hình để đảm bảo độ chính xác của kết quả hồi quy.
4.5.2 Kiểm tra đa cộng tuyến
Bảng 4.11 Phân tích đa cộng tuyến
15 Cơ sở lưu trú từ 4 đến 5 sao 000 893 1.120 a Biến phụ thuộc: Mức chi tiêu một lượt khách
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Qua bảng phân tích 4.11 ta thấy giá trị VIF ở các biến nghi ngờ có thể có hiện tượng đa cộng tuyến, cụ thể: “Nhomtuoi 15 -34” là 3,316, “Nhomtuoi
35 -54” là 3,375, “oto” là 2,679, “tauhoa” là 2,629, “nghingoi” là 1,589,
Kết quả phân tích cho thấy tất cả các biến độc lập trong mô hình đều có giá trị VIF nhỏ hơn 10, điều này chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra Cụ thể, hệ số VIF của biến "hoithao" là 1,593, cùng với các biến độc lập khác, đều nằm trong giới hạn cho phép Do đó, mô hình có thể chấp nhận các biến này trong quá trình giải thích mà không gặp phải vấn đề đa cộng tuyến.
4.6 Kiểm định phương sai sai số (phần dư) thay đổi:
Qua phân tích tương quan không tham số và kiểm tra tương quan hạng Spearman giữa trị tuyệt đối phần dư với các biến độc lập, chúng tôi nhận thấy rằng có 4 biến độc lập (nghingoi, solanden, songayluutru, luutrunhom2) có giá trị P-Value lần lượt là 0,002; 0,001; 0,000; 0,000, đều nhỏ hơn mức ý nghĩa α = 0,05 Điều này cho thấy phương sai của phần dư có sự thay đổi.
Còn 11 biến độc lập còn lại (nhomtuoi 15-34, nhomtuoi 35-54, nam, vienchucnhanuoc, doanhnhan, congnhannongdan, hoithao, oto, tauhoa, sotreem, hailong) có giá trị lần lượt là 0,686; 0,963; 0,650; 0,714; 0,941; 0,713; 0,718; 0,449; 0,056; 0,185; 0, 258 > 0,05 nên có phương sai của phần dư không thay đổi
Như vậy, mô hình có 4 biến độc lập có phương sai của phần dư thay đổi nên mô hình không hoàn toàn tốt
4.7 Phân tích kết quả hồi quy
4.7.1 Chỉ số R 2 hiệu chỉnh và phân tích hồi quy
Bảng 4.12 Phân tích chỉ số R 2 hiệu chỉnh
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Chỉ số R 2 hiệu chỉnh khi chạy mô hình hồi quy bội cho kết quả là
Mức độ giải thích mô hình của các biến độc lập đạt 43%, cho thấy rằng 47% còn lại của độ biến thiên chưa được giải thích do các yếu tố khác ngoài mô hình tác động.
Bảng 4.13 Phân tích kết quả hồi quy
STT Biến Hệ số hồi quy (B)
Hệ số hồi quy được chuẩn hóa (Beta)
15 Cơ sở lưu trú từ 4 đến 5 sao 1.045*** 185 000
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Ghi chú: *** là ý nghĩa ở mức 1%; ** là ý nghĩa ở mức 5% và * là ý nghĩa ở mức 10%
Biến tham chiếu: Nhóm tuổi trên 55 tuổi; nghề nghiệp khác; mục đích khác; phương tiện khác
4.7.2 Các biến trong mô hình
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy trong tổng số 15 biến, có 9 biến tham gia vào việc giải thích mô hình hồi quy về mức chi tiêu của du khách đến Bình Thuận Bài viết trình bày các nhóm biến theo thứ tự tham gia giải thích mô hình, sau đó đưa ra kết luận về các biến có ý nghĩa cũng như nhóm các biến không tham gia giải thích mô hình.
4.7.2.1 Các biến có ý nghĩa thống kê trong mô hình
Nhóm các biến liên quan đến mục đích chuyến đi, có 2 biến cụ thể:
Mục đích nghỉ ngơi: kết quả hồi quy cho thấy biến mục đích chuyến đi là nghỉ ngơi có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (Sig = 0.000) Hệ số
Mô hình nghiên cứu cho thấy rằng khi khách du lịch đến Bình Thuận với mục đích nghỉ ngơi, mức chi tiêu của họ sẽ tăng thêm 712 nghìn đồng so với những khách có mục đích khác Điều này khẳng định rằng mục đích chuyến đi ảnh hưởng trực tiếp đến mức chi tiêu của du khách tại Bình Thuận Kết quả này phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng và lý thuyết về độ thỏa dụng, cũng như nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012).
Mô hình du lịch Bình Thuận đã chứng minh sự hấp dẫn và phổ biến, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng tại Hàm Tiến - Mũi Né, nơi được mệnh danh là thủ đô của resort Với lợi thế từ thiên nhiên ưu đãi như biển xanh, cát trắng và nắng vàng, Bình Thuận thu hút du khách có nhu cầu nghỉ dưỡng, đồng thời mức chi phí cho loại hình này cũng cao hơn so với các loại hình khác.
Mục đích hội nghị: kết quả hồi quy cho thấy biến mục đích chuyến đi là hội nghị có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 10% (Sig = 0.069) Hệ số B
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận tăng thêm 479 nghìn đồng khi mục đích chuyến đi là hội nghị, thể hiện mối quan hệ đồng biến với biến phụ thuộc Điều này cho thấy rằng mục đích chuyến đi ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của khách Kết quả này không hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Marcussen (2011), nhưng lại khẳng định lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng và độ thỏa dụng, cũng như nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012).
Ngành du lịch Bình Thuận đã chú trọng phát triển du lịch MICE nhằm thu hút khách du lịch, với việc xây dựng Trung tâm hội nghị Tỉnh và các khu nhà trung tâm tại các resort như Sài Gòn – Mũi Né, Sea link, Pananus Những địa điểm này đã tổ chức nhiều hội nghị và hội thảo quốc tế, phản ánh sự phát triển thực tế của du lịch Bình Thuận Đặc biệt, mức chi tiêu của khách du lịch cho loại hình này cũng cao hơn so với các mục đích khác.
Nghiên cứu chỉ ra rằng phương tiện đi du lịch là ô tô có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận, với mức ý nghĩa thống kê 5% (Sig = 0.021) Hệ số B = 0,559 cho thấy mối quan hệ đồng biến, nghĩa là nếu khách sử dụng ô tô làm phương tiện chính, mức chi tiêu sẽ tăng thêm 559 nghìn đồng so với những khách sử dụng phương tiện khác Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012) về tác động của phương thức vận tải ô tô đến mức chi tiêu, nhưng khác với nghiên cứu của Marcussen.
Vận tải bằng máy bay, theo nghiên cứu năm 2011, ảnh hưởng đến mức chi tiêu của du khách, phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Khách du lịch đến Bình Thuận chủ yếu sử dụng ô tô làm phương tiện di chuyển, với 80,61% người được khảo sát cho biết họ đã đến đây bằng ô tô.
Kết quả hồi quy cho thấy việc sử dụng tàu hỏa làm phương tiện du lịch có ý nghĩa thống kê cao (Sig = 0.002) với hệ số B = 0,893, cho thấy mối quan hệ tích cực với mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận Cụ thể, nếu khách sử dụng tàu hỏa, mức chi tiêu sẽ tăng thêm 893 nghìn đồng so với các phương tiện khác Điều này chứng tỏ rằng tàu hỏa là yếu tố quyết định đến mức chi tiêu của du khách tại Bình Thuận, phù hợp với lý thuyết lựa chọn của người tiêu dùng, nhưng khác với nghiên cứu của Marcussen (2011) cho thấy máy bay ảnh hưởng đến chi tiêu của du khách.
Trên thực tế, khách du lịch khi đến Bình Thuận từ trước tháng 10 năm
Vào năm 2005, du khách chỉ có thể di chuyển đến Bình Thuận bằng ô tô, nhưng từ ngày 24/10/2005, ngành du lịch Bình Thuận đã hợp tác với ngành đường sắt để khai trương tàu lửa du lịch “Hội tụ xanh” Phương tiện này không chỉ giúp rút ngắn thời gian di chuyển từ Tp.HCM đến Bình Thuận mà còn mang lại sự thoải mái cho du khách Tuy nhiên, khi sử dụng tàu lửa du lịch, du khách cần lưu ý rằng sẽ phát sinh thêm các chi phí cho việc di chuyển từ ga đến các điểm lưu trú, tham quan, ăn uống và mua sắm trong suốt quá trình lưu trú.
Phân tích kết quả hồi quy
4.7.1 Chỉ số R 2 hiệu chỉnh và phân tích hồi quy
Bảng 4.12 Phân tích chỉ số R 2 hiệu chỉnh
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Chỉ số R 2 hiệu chỉnh khi chạy mô hình hồi quy bội cho kết quả là
Mức độ giải thích mô hình của các biến độc lập đạt 43%, cho thấy rằng 47% sự biến thiên vẫn chưa được giải thích do các yếu tố khác ngoài mô hình tác động.
Bảng 4.13 Phân tích kết quả hồi quy
STT Biến Hệ số hồi quy (B)
Hệ số hồi quy được chuẩn hóa (Beta)
15 Cơ sở lưu trú từ 4 đến 5 sao 1.045*** 185 000
Nguồn: Số liệu phân tích dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng SPSS
Ghi chú: *** là ý nghĩa ở mức 1%; ** là ý nghĩa ở mức 5% và * là ý nghĩa ở mức 10%
Biến tham chiếu: Nhóm tuổi trên 55 tuổi; nghề nghiệp khác; mục đích khác; phương tiện khác
4.7.2 Các biến trong mô hình
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy trong 15 biến được đưa vào mô hình, có 9 biến có vai trò quan trọng trong việc giải thích mức chi tiêu của du khách đến Bình Thuận Bài viết trình bày theo thứ tự nhóm các biến tham gia vào mô hình, sau đó rút ra kết luận về những biến có ý nghĩa cũng như nhóm các biến không tham gia giải thích mô hình.
4.7.2.1 Các biến có ý nghĩa thống kê trong mô hình
Nhóm các biến liên quan đến mục đích chuyến đi, có 2 biến cụ thể:
Mục đích nghỉ ngơi: kết quả hồi quy cho thấy biến mục đích chuyến đi là nghỉ ngơi có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (Sig = 0.000) Hệ số
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng biến mục đích chuyến đi có mối quan hệ đồng biến với mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận, với giá trị B = 0,712 Cụ thể, khi khách du lịch đến Bình Thuận với mục đích nghỉ ngơi, mức chi tiêu của họ sẽ tăng thêm 712 nghìn đồng so với những khách có mục đích khác Điều này chứng tỏ rằng mục đích chuyến đi đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định mức chi tiêu của khách Kết quả này cũng phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng và lý thuyết về độ thỏa dụng, cũng như nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012).
Mô hình du lịch Bình Thuận thể hiện rõ nét sự hấp dẫn của điểm đến này, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng tại Hàm Tiến - Mũi Né, được mệnh danh là thủ đô của resort Với lợi thế từ thiên nhiên ưu đãi như biển xanh, cát trắng và nắng vàng, Bình Thuận thu hút du khách tìm kiếm trải nghiệm nghỉ dưỡng, đồng thời mức chi phí cho loại hình này thường cao hơn so với các loại hình du lịch khác.
Mục đích hội nghị: kết quả hồi quy cho thấy biến mục đích chuyến đi là hội nghị có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 10% (Sig = 0.069) Hệ số B
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khách du lịch đến Bình Thuận với mục đích hội nghị sẽ chi tiêu nhiều hơn 479 nghìn đồng so với những khách có mục đích khác Điều này chứng tỏ rằng mục đích chuyến đi ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của du khách tại Bình Thuận Mặc dù phát hiện này không phù hợp với nghiên cứu của Marcussen (2011) cho rằng mục đích công việc không ảnh hưởng đến chi tiêu, nhưng lại nhất quán với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng và nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012).
Ngành du lịch Bình Thuận đã chú trọng phát triển du lịch MICE nhằm thu hút khách du lịch, với việc xây dựng Trung tâm hội nghị Tỉnh và các khu nhà trung tâm tại các resort như Sài Gòn – Mũi Né, Sea Link, Pananus Nơi đây đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, góp phần giải thích sự phát triển của du lịch Bình Thuận Đặc biệt, mức chi tiêu của khách du lịch MICE cao hơn so với các mục đích khác, cho thấy tiềm năng lớn của loại hình du lịch này tại địa phương.
Nghiên cứu về phương tiện đi du lịch cho thấy ô tô có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận, với kết quả hồi quy cho thấy ý nghĩa thống kê ở mức 5% (Sig = 0.021) Hệ số B = 0,559 chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa phương tiện đi du lịch là ô tô và mức chi tiêu, cho thấy nếu khách du lịch sử dụng ô tô, mức chi tiêu sẽ tăng thêm 559 nghìn đồng so với những người sử dụng phương tiện khác Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Juan và cộng sự (2012) về tác động của phương thức vận tải ô tô đến mức chi tiêu, nhưng khác với nghiên cứu của Marcussen.
Vận tải hàng không từ năm 2011 đã ảnh hưởng đến chi tiêu của du khách, phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Khách du lịch đến Bình Thuận chủ yếu sử dụng ô tô làm phương tiện di chuyển, với 80,61% trong số những người được khảo sát cho biết họ đã đến đây bằng ô tô.
Kết quả hồi quy cho thấy rằng việc sử dụng tàu hỏa làm phương tiện du lịch có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (Sig = 0.002) và hệ số B = 0,893 cho thấy mối quan hệ đồng biến với mức chi tiêu của khách du lịch Cụ thể, khi khách du lịch đến Bình Thuận bằng tàu hỏa, mức chi tiêu sẽ tăng thêm 893 nghìn đồng so với việc sử dụng các phương tiện khác Điều này chứng tỏ rằng phương tiện đi du lịch tàu hỏa có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của du khách tại Bình Thuận, phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng, nhưng khác với nghiên cứu của Marcussen (2011) về tác động của máy bay đến chi tiêu du lịch.
Trên thực tế, khách du lịch khi đến Bình Thuận từ trước tháng 10 năm
Vào năm 2005, phương tiện di chuyển chủ yếu đến Bình Thuận chỉ có ô tô Tuy nhiên, từ ngày 24/10/2005, ngành du lịch Bình Thuận đã hợp tác với ngành đường sắt để khai trương tàu lửa du lịch “Hội tụ xanh”, phục vụ khách du lịch từ Tp HCM đến Bình Thuận và ngược lại Tàu lửa du lịch mang lại sự thoải mái và rút ngắn thời gian di chuyển, vì vậy ngày càng nhiều du khách lựa chọn phương thức này Tuy nhiên, khi sử dụng tàu lửa, khách du lịch cần lưu ý chi trả thêm các chi phí phát sinh cho việc di chuyển từ ga đến các điểm lưu trú, tham quan, ăn uống và mua sắm trong thời gian lưu trú tại Bình Thuận.
Kết quả hồi quy cho thấy biến số lần đến có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (Sig = 0.000), với hệ số B = -0,284 thể hiện mối quan hệ nghịch biến với biến phụ thuộc Cụ thể, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu khách du lịch đến Bình Thuận nhiều hơn một lần, mức chi tiêu sẽ giảm 284 nghìn đồng so với lần đầu tiên Điều này cho thấy số lần đến có ảnh hưởng quyết định đến mức chi tiêu của khách du lịch tại Bình Thuận, tuy nhiên, kết quả này không phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào.
(2014) nhưng phù hợp với nghiên cứu của Jang và cộng sự (2004)
Khi khách du lịch quay lại một địa điểm nhiều lần, họ thường chọn lựa khách sạn và nơi ăn uống phù hợp hơn, dẫn đến việc giảm chi tiêu cho chuyến đi Hơn nữa, do thiếu các dịch vụ và sản phẩm du lịch mới mẻ, mức chi tiêu không tăng so với lần đầu tiên họ đến thăm.
Kết quả hồi quy cho thấy số ngày lưu trú có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1% (Sig = 0.000), với hệ số B = 1.117 mang dấu dương, cho thấy mối quan hệ đồng biến với biến phụ thuộc Cụ thể, khi khách du lịch tại Bình Thuận lưu trú thêm 1 ngày, mức chi tiêu sẽ tăng thêm 1.117 nghìn đồng Điều này chứng tỏ rằng số ngày lưu trú ảnh hưởng quyết định đến mức chi tiêu của khách Nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Hồng Đào (2014), Marcussen (2011), Jang và cộng sự (2004), cũng như Juan và cộng sự (2012), khẳng định rằng số ngày lưu trú có mối quan hệ cùng chiều với tổng chi tiêu của khách du lịch, phù hợp với lý thuyết về sự lựa chọn của người tiêu dùng và lý thuyết về độ thỏa dụng.
Khách du lịch lưu trú dài ngày thường phải đối mặt với chi phí cao hơn do các dịch vụ kèm theo như tiền phòng, tiền ăn và các dịch vụ khác Điều này dẫn đến mối quan hệ tích cực giữa số ngày lưu trú và tổng mức chi tiêu của du khách.