1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

CÂU HỎI TIỂU LUẬN

12 2,1K 32

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 12
Dung lượng 37,13 KB

Nội dung

Thành đạt trong nghề làm thầy giáo, vì thế, chỉ đến với những người muốn hòa vui giữa những học viên tươi tắn, trong sáng, trẻ trung, muốn được chúng tin cậy, coi là người bạn lớn, trông

Trang 1

CÂU HỎI TIỂU LUẬN Câu 1 Bạn hãy nêu phân tích những công việc phức tạp của người giảng viên để làm rõ: “ Giáo viên là người sáng tạo ra con người”

Có thể nói, nghề giáo là nghề có lịch sử ra đời sớm nhất trong các ngành nghề Từ xưa đến nay, bất kể trong thời kỳ nào người thầy giáo cũng được kính trọng, luôn được tôn quý,

vị nể Lúc sinh thời Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói : “ Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong các nghề cao quý Nghề dạy học là một nghề sáng tạo vào bậc nhất trong các nghề sáng tạo, vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo” Đặc biệt, trong thời đại tri thức, thời đại công nghệ thông tin, thời kỳ hội nhập, có sự giao thoa giữa các nền văn hóa, nghề giáo lại được đặc biệt coi trọng bởi nghề ấy tạo ra sản phẩm: con người Nghề giáo có những ưu thế đặc biệt mà không nghề nào có được, đó là:

Trách nhiệm tìm kiếm, phát hiện những tiềm năng của học viên Tất nhiên không phải mọi học viên trong khóa học của bạn đều sẽ thành công song thực tiễn đó không ngăn cản tiềm năng thành công của mọi học viên Việc khám phá những tiềm năng này sẽ rất thú

vị, mỗi khóa học mới sẽ đem đến cho bạn những thách thức mới và những cơ hội thành công mới

Niềm vui từ những thành công của học viên Cũng gần như lý do vừa nêu, những thành công học viên gặt hái được chính là động lực khuyến khích các giáo viên phát huy công tác Khi có học viên nào đó không hiểu một khái niệm và sự giúp đỡ của bạn đã giúp

em đó hiểu ra, chỉ riêng điều đó đã khiến bạn phấn chấn rất nhiều rồi Nhất là khi bạn có thể tiếp cận được với những học viên mà người khác cho là “không thể dạy dỗ” được thì quả thực thành công này rất đáng để bạn đổ ra bao tâm huyết cho công việc

Dạy học cũng giúp bạn tự bồi bổ thêm kiến thức Bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu về một vấn đề nào đó tốt hơn khi bạn bắt đầu giảng về nó Những câu hỏi của học viên luôn buộc tôi phải đào sâu suy nghĩ và học hỏi thêm Một câu ngạn ngữ cổ nói rằng phải mất ba năm giảng dạy để thực sự nắm vững về một vấn đề nào đó quả là rất đúng theo những gì tôi đã trải qua

Dạy học giúp bạn luôn vui vẻ mỗi ngày Nếu bạn có thái độ tích cực và khiếu hài hước, bạn sẽ luôn tìm thấy những điều có thể cười vui mỗi ngày Đôi khi nhờ những câu chuyện vui bạn kể làm các học viên phá lên cười nhưng cũng có khi chính các học viên sẽ

kể chuyện vui cho bạn nghe Cũng có lúc các em nói điều gì đó thật buồn cười mà lại không nhận ra điều đó Hãy biết tìm kiếm niềm vui và tận hưởng chúng mỗi ngày

Tác động đến tương lai của học viên Điều này nói ra có vẻ hơi “cũ rích” nhưng đúng là mỗi ngày qua các giáo viên đã góp phần hình thành nên tương lai cho học viên của mình

Dạy học giúp bạn trẻ trung hơn Thường xuyên ở bên những người trẻ tuổi sẽ giúp bạn am hiểu về suy nghĩ, ý tưởng và chiều hướng tình cảm của những người trẻ Điều đó cũng giúp xoá bỏ những rào cản về khoảng cách thế hệ

Khả năng tự trị trong lớp học Sau khi khép lại cánh cửa lớp học và bắt đầu giảng dạy thì giáo viên chính là người duy nhất có quyền quyết định mọi việc Không có nhiều công việc tạo cho người ta cơ hội có được nhiều không gian để sáng tạo và tự trị đến như vậy

Để có được những ưu thế ấy, nghề giáo cũng đòi hỏi những yêu cầu và phẩm chất nhất định đối với người giáo viên:

Nghề sư phạm sẽ rất bạc bẽo với ai chỉ biết thích bạc tiền và danh vọng, những ai sống vị kỷ và ham tỏ rõ quyền uy (cho dù đó chỉ là quyền uy trước bầy trẻ nhỏ) Bởi hơn bất cứ một công việc nào khác, với nghề sư phạm, phải giàu tình yêu thương con người thì

Trang 2

mới có thể yêu nghề Điều này càng quan trọng hơn khi đối tượng bạn hướng tới chủ yếu là lớp người trẻ tuổi, cách bạn đôi khi một vài thế hệ với một lối quan niệm khác và suy nghĩ khác

Thành đạt trong nghề làm thầy giáo, vì thế, chỉ đến với những người muốn hòa vui giữa những học viên tươi tắn, trong sáng, trẻ trung, muốn được chúng tin cậy, coi là người bạn lớn, trông thấy họ trưởng thành và đến một lúc nào đó sung sướng nhận ra họ đã vượt hơn mình

Thầy giáo chân chính phải là người thích dạy, thích giúp người khác hiểu biết, thích giáo dục lớp người trẻ tuổi hơn Niềm say mê cần thiết trong bất cứ nghề nghiệp nào, lại càng cần trong sư phạm Cổ nhân từng ca ngợi những người thầy “dạy không biết chán” (cùng với những học trò “học không biết mỏi”) Một giờ dạy thành công là, và có lẽ chỉ là, giờ dạy mà người thầy thật lòng cảm thấy tha thiết muốn trao gửi cho học trò những điều

mà mình biết là cần và bổ ích lắm cho cuộc sống trước mắt và sau này của các em

Sức chinh phục đích thực của người thầy được làm nên chủ yếu từ tấm lòng chân thành, tha thiết đó, từ tâm huyết của người thầy, chứ tuyệt nhiên chẳng phải từ các xảo thuật bề ngoài giả tạo

Trong nghề sư phạm, bạn còn phải quan tâm tới cả vấn đề “thanh sắc” nữa Vì cũng

có một đôi chút giống nhau nào đó giữa một người thầy giáo và một diễn viên: cả hai, đều phải chinh phục đám đông bằng toàn bộ con người mình, từ giọng nói, ánh mắt đến cử chỉ, điệu bộ

Trên một phương diện khác, bạn lại cần những phẩm chất của một nhà hùng biện Bạn biết cách lập tức lôi cuốn những cái đầu đang “bay bổng” ở đâu đó vào một chủ đề Thậm chí, bạn phải là một nhà hùng biện có tài, vì trước mắt bạn không phải là “công chúng” bình thường, mà là những cái đầu còn rất trẻ và phóng khoáng, đôi khi bướng bỉnh nữa Thu hút sự chú ý thật sự của họ không dễ

Lòng bao dung là điều quan trọng hơn hết ở người thầy Bạn có thể tràn đầy nhiệt huyết, say mê tri thức nhưng thiếu một trái tim nhân từ và độ lượng, biết vì mọi người, biết tha thứ cho những lỗi lầm nông nổi của học viên, bạn sẽ chẳng bao giờ là một người thầy tốt Đây chính là một phần trong “cái tâm” của người thầy, là cái gốc tạo nên tình thầy trò quấn quít Chính lòng bao dung ấy, hơn bất cứ lời lẽ hoa mĩ nào, sẽ dạy các học viên biết nhân ái hơn, tin tưởng hơn cuộc sống và tình người

Ngoài lĩnh vực chuyên sâu, nghề giáo còn đòi hỏi một kiến thức tổng hợp, vốn văn hóa sâu rộng và nhất là sự học hỏi không ngừng nghỉ, bởi bạn là người được xã hội giao trọng trách truyền đạt tri thức, đào tạo con người

Với sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của các ngành khoa học hiện nay, tri thức của nhân loại luôn được “làm mới” từng giây, từng phút Ngừng đào sâu, tìm hiểu và cập nhật tri thức mới, nghĩa là bạn đang tụt hậu trong nghề nghiệp

Với truyền thống “Tôn sư, trọng đạo”, với chiến lược “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, nhằm tôn vinh và tri ân các thế hệ nhà giáo Việt Nam, năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 167/HĐBT, ngày 26-9-1982 quyết định hằng năm sẽ lấy ngày 20-11 là Ngày Nhà giáo Việt Nam

Trang 3

Câu 2 Anh (chị) hiểu như thế nào về triết lý: “Học để biết, học để làm, học để chung sống cùng nhau, học để làm người”?

- Học hành là công việc gắn với con người từ bao đời nay Có thể nói, không một bước phát triển nào của văn minh nhân loại mà không gắn với việc học Tuy nhiên, nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc học tập ở mỗi thời đại, mỗi xã hội cũng có những chỗ khác nhau Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, quan điểm về việc học tập của con người trên thế giới càng gần gũi nhau hơn Đó là lí do để Tổ chức Giáo dục, Khoa học

và Văn hoá của Liên hợp quốc UNESCO đề xướng mục đích học tập cho công dân của mọi quốc gia trên thế giới: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình Quan điểm rõ ràng, hiện đại như vậy về việc học tập là điều rất đáng để mọi người, nhất là những người ở tuổi cắp sách đến trường, phải nghiêm túc suy nghĩ

- Học tập trước hết là để thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người Thế giới tự nhiên, xã hội xung quanh ta, kể cả chính bản thân con người ta đều ẩn chứa nhiều điều

bí ẩn Biết bao câu hỏi đặt ra mà ta đâu dễ gì tìm thấy ngay câu trả lời Tại sao trái đất quay quanh mặt trời? Tại sao bốn mùa trong năm thời tiết khác nhau? Tại sao con người

ta trưởng thành theo thòi gian và có những thay đổi về tâm sinh lí? Ấy là chưa nói đến

vô số những kiến thức phức tạp, khó hiểu ở mọi ngành khoa học nhiều khi rất xa lạ với trình độ của số đông Thế nhưng, vấn đề dù khó khăn, bí ẩn đến đâu cũng có thể tìm thấy chìa khoá để giải mã Chiếc chìa khoá vạn năng đó không có gì khác hơn ngoài hai chữ "học tập" Chính nhờ học tập mà loài người đã chiếm lĩnh được kho tri thức khổng

lồ như hiện nay Chính nhờ việc học mà khoa học đã có những bước tiến thần kì

- Những bộ óc siêu việt của nhân loại ở các lĩnh vực khác nhau đều đã từng đổ không biết bao nhiêu công sức cho công việc học tập để chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức khoa hợp Những Niu-tơn, Anh-xtanh, Đác-uyn đều thế Người ta kể lại tấm gương học để biết của văn hào Mác-xim Go-rơ-ki: từ nhỏ đã phải từ giã mái trường để kiếm sống, nhưng bằng con đường tự học, ông có vốn hiểu biết không thua kém gì những nhà văn có học thức hàng đầu ở châu Âu cùng thời Ở nước ta, những nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng thực sự là những người mẫu mực trong quá trình

tự vươn lên học tập để hiểu biết

- Học để biết, đó là chân lí không thể tranh cãi Người xưa có câu: "Nhân bất học, bất tri lí" (Người không học, không biết gì) Khi người ta nói ai đó là "vô học" cũng đồng nghĩa với việc đánh giá người đó là dốt nát, ngu muội Học tập là con đường duy nhất để khai mở trí tuệ, tích luỹ tri thức, nâng cao hiểu biết về mọi mặt Không có phép

lạ nào có thể thay thế cho hoạt động này nếu con người muốn thoát khỏi tình trạng kém hiểu biết của mình

Trang 4

- Học để biết dĩ nhiên là quan trọng, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, thì tri thức cũng chỉ là một mớ lí thuyết suông, vô ích Cuộc sống tiến lên không ngừng là nhờ ở hành động của con người Áp dụng tri thức vào mọi công việc, đó mới là con đường đúng đắn, vừa phát huy sự hữu ích của hiểu biết, vừa làm cho sự hiểu biết không ngừng được nhân lên Tiếng Việt có từ "học hành", tưởng đơn giản, nhưng ngẫm kĩ, khá sâu sắc Nó cho thấy, cha ông chúng ta chưa bao giờ coi nhẹ việc áp dụng những điều hiểu biết vào công việc thực tế Học mà không hành thì chỉ là mọt sách, vô vị Hành mà không học thì làm việc khó đạt hiệu quả Cả hai mặt có quan hệ hữu cơ, hỗ trợ cho nhau Nhiều nhà tư tưởng lớn cũng có quan điểm tương tự Khổng Tử cho rằng: học mà lại được thực hành những điều đã học, không có niềm vui nào hơn thế (“Học nhi thời tập chi, bất diệc lạc hồ”) Nguyễn Trãi cũng từng chiêm nghiệm: “Nên thợ nên thầy vì có học”

- Học để làm là một quan điểm đã được khẳng định Trước hết nó đề cao mục đích của "học" đối với "làm", sau đó, nó cho thấy sự tác động của "làm" trở lại đối với việc "học" Khi nhận thức được rằng: học không phải để tích chứa tri thức, khoe mẽ hiểu biết, mà để áp dụng vào cuộc sống, giải quyết những công việc cụ thể với hiệu quả cao nhất, thì sự học đã có một phương hướng đúng đắn, một mục đích thiết thực Ta biết rằng, biển kiến thức thì mênh mông, quỹ thời gian và khả năng của con người lại có hạn Vì vậy, việc học tập của mỗi người phải có lựa chọn, định hướng cụ thể Học cái

gì, cần trang bị những tri thức nào phù hợp với năng lực, hữu dụng trong thực tế, đó là những câu hỏi mà mỗi cá nhân phải tự trả lời

- Trong thực tế, có vô số người đã thực sự vận dụng phương châm học để làm Hồ Chí Minh là một con người như thế Những ngày hoạt động ở nước ngoài, Bác đã dành nhiều công sức cho việc học ngoại ngữ Bác đã đọc thông viết thạo một số tiếng châu

Âu Tại sao Hồ Chí Minh lại đề cao việc học đến thế? Câu trả lời hết sức rõ ràng: Bác học tiếng nước ngoài để viết báo, viết văn, vạch mặt bản chất của chủ nghĩa thực dân trước thế giới, phơi bày tình trạng tồi tệ ở các nước thuộc địa (trong đó có các nước Đông Dương) mà thực dân Pháp gây nên Hiệu quả việc học để làm của Bác là rất hiển nhiên Thực tế của khoa học chứng minh rằng, phát minh của con người, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, đều là kết quả của việc áp dụng tri thức vào thực tiễn, nghĩa là phương châm học để làm đã được vận dụng triệt để Ngày nay, khi cuộc sống có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, biết bao yêu cầu đang được đặt ra ngày càng cao đối với khoa học, thì vấn đề "học để làm" mà UNESCO nêu lên càng có ý nghĩa thiết thực

- Con người không thể sống đơn độc mà luôn luôn tồn tại trong quan hệ với cộng đồng, với xã hội Một triết gia phương Tây đã nói rất đúng: "Điểm giống nhau nhất giữa mọi người trên thế gian này là không ai giống ai cả" Mỗi con người là một cá thể, có hoàn cảnh, có trình độ văn hoá, có tính cách, sở thích riêng Cho nên, chung sống với nhau trong một cộng đồng, điều cần thiết nhất là thông cảm lẫn nhau Không thể lấy sở thích của mình áp đặt cho người khác Muốn cảm thông, chia sẻ phải có sự hiểu biết Ở

Trang 5

đây, những tri thức về tâm lí con người, tri thức về xã hội nhân văn là hết sức quan trọng Nhiều khi, do thiếu hụt những tri thức ấy, dễ nảy sinh những xích mích, những mâu thuẫn không đáng có trong các mối quan hệ

- Thời đại ngày nay, viễn cảnh con người một quốc gia trở thành công dân toàn cầu đã dần dần là một thực tế Trái đất trở thành "thế giới phẳng" Tuy nhiên, có một thực tế khác cũng cần phải quan tâm: con người ở các quốc gia sẽ có những khác biệt nhau về tôn giáo, phong tục, văn hoá Vì vậy, muốn có sự hợp tác hiệu quả, rất cần sự hiểu biết để tôn trọng lẫn nhau Một nhà đầu tư người Mĩ muốn làm ăn ở Việt Nam không thể không tìm hiểu đặc điểm tâm lí, tính cách, văn hoá của người Việt Một thanh niên Việt muốn thích nghi với môi trường làm việc ở một công ti nước ngoài, nhất thiết phải nắm vững những nguyên tắc làm việc và có những hiểu biết nhất định về đối tác Như vậy, học để chung sống đã là điều kiện tồn tại tất yếu của con người trong cuộc sống hiện đại

- Không phải ngẫu nhiên mà trong thông điệp này, UNESCO đặt yêu cầu học để

tự khẳng định mình ở vị trí cuối cùng Khi chúng ta thực thi được các phương châm học

để biết, học để làm, học để chung sống, cũng có nghĩa là chúng ta đã thực sự tự khẳng định được mình Khẳng định mình là ý thức được khả năng của bản thân, vị thế của cá nhân mình trong các mối quan hệ Khẳng định mình không phải là đặt mình cao hơn người khác, không phải vuốt ve lòng tự mãn, mà là củng cố sự tự tin để đáp ứng những đòi hỏi của thực tế, những yêu cầu ngày càng cao của công việc Trong việc tự khẳng định mình, không có gì thuyết phục hơn là tính hiệu quả Không cần nói nhiều về bản thân, chỉ bằng hiệu quả cụ thể, chúng ta sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy mình là ai Khẳng định mình theo cách ấy, không có con đường nào khác hơn là học tập và vận dụng tốt nhất những tri thức đã học vào giải quyết những vấn đề đặt ra trong phạm vi công việc mà mình đảm trách

- Quan điểm về học tập mà UNESCO nêu lên thật dễ hiểu, gần gũi Nó thiết thực không chỉ cho các nhà lãnh đạo hoạch định nền giáo dục của quốc gia mình, mà còn cho bản thân mỗi người đi học Tuy nhiên, để biến những phương châm ấy thành hành động

cụ thể, thì rất cần nỗ lực không ngừng của cá nhân Đối với học sinh chúng ta, việc khắc ghi và thực hiện những phương châm ấy là điều kiện cần thiết để chúng ta vững bước trên con đường đến với tương lai

Mục đích và mục tiêu giáo dụng ngày nay

1 Nên hiểu và quan niệm về triết lý giáo dục như thế nào?

Triết lý giáo dục Việt Nam cần như thế nào để phù hợp với nền kinh tế thị trường

và hội nhập? Có phải giáo dục Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập vì thiếu triết lý dẫn

Trang 6

đường? Tất cả các vấn đề trên đã được đưa ra phân tích, thảo luận tại Hội thảo về triết

lý giáo dục Việt Nam do Viện KHGD và Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh tổ chức tại

TP Hồ Chí Minh từ năm 2011

Hiện nay, do quan niệm chưa đúng về triết lý, nên nhiều người thấy đó là điều

còn mơ hồ, ai hiểu thế nào cũng được Ví dụ, có người bảo xưa nay ta đã có triết lý giáo

dục rồi, đó là: Tiên học lễ, Hậu học văn Nhưng nhiều người bảo đó là triết lý từ thời

Khổng Mạnh, có từ hàng nghìn năm về trước, lúc ấy chỉ có 1/10.000 người được đi học, mục đích học để ra làm quan nên không thể mang triết lý ấy áp dụng vào thời

nay Hơn nữa nếu hỏi Lễ là gì? Văn là gì? Chắc chắn mỗi thời hiểu một cách, mỗi

người hiểu một kiểu Vậy không thể coi đó là triết lý giáo dục được

Theo chúng tôi: Triết lý là cái lý sâu xa, cái lẽ huyền diệu của một học thuyết, một

sự biện minh đầy đủ cho một sự nghiệp hay một công việc lớn của xã hội được mọi người tâm phục khẩu phục và nó như kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường để đạt được mục đích

cho sự nghiệp ấy Tất nhiên triết lý ấy phải phù hợp với từng thời đại, không thể có chân lý vĩnh cửu Nếu hiểu như vậy, thì triết lý giáo dục phải là điều mà tất cả mọi người tán đồng

và trông đợi, thấy đó đúng là chân lý là mục đích thực sự, phải làm đúng như vậy thì mới

có thể đạt được mục đích, chân lý Triết lý giáo dục phải trả lời được rõ ràng câu hỏi: Học

để làm gì? hay nói rộng hơn: Mục đích giáo dục hiện nay là gì?

Ví dụ, bàn về triết lý giáo dục, ta thử xem Văn bản Bốn trụ cột của giáo dục (The Four

Pillars of Education) của UNESCO - ta thấy tính triết lý toát ra trong mọi phần của văn

bản, tập trung nhất ở Bốn trụ cột của giáo dục Chúng tôi xin phép tóm lược văn bản như sau: Một nền giáo dục có sức sống là nhờ trong xã hội có nhiều người học và đều

ham học Sự ham học sẽ mạnh mẽ và bền vững nếu người học đạt được mục đích mà trước khi học họ tự đặt ra cho mình, miễn là mục đích này phù hợp với lợi ích của xã hội Như vậy, nhu cầu và mục đích học tập là cái trụ móng để ngôi nhà giáo dục đứng vững.

* Học để biết:

Biết thu nhận thông tin, biết tiếp thu tri thức, biết tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như là các công cụ tâm lý Vì kiến thức vô cùng phong phú và có thể phát triển

vô bờ bến, nên thật vô ích khi ai đó nỗ lực học để biết hết tất cả Nhà trường cần dạy học sinh khả năng suy nghĩ (kĩ năng tư duy), kỹ năng ghi nhớ và tập trung Đó là ba loại công cụ tâm lý rất cơ bản, chúng như những chiếc chìa khóa để con người tiếp tục

mở các cánh cửa của tri thức: Tạo ra cách dạy và học tích cực, tiến tới tự học Người ta

sẽ học một - biết mười Giáo dục trong nhà trường chỉ được coi là có kết quả khi nó tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập và rèn luyện suốt đời

- Học tập vừa là phương tiện vừa là mục đích: Học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình để mà sống có nhân phẩm Học tập đem lại sự thỏa mãn về hiểu biết, tư duy và hành động nhằm làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn

Trang 7

- Học tri thức thì chỉ biết tri thức, học phương pháp thì sẽ biết cách chiếm lĩnh các tri thức Hiện nay tri thức của thế giới cứ khoảng 7 năm sẽ tăng gấp đôi Vì thế chương trình phải chọn lọc, tinh giản không thể quá tải và ôm đồm Nếu người học chỉ tiếp thu tri thức ở nhà trường thì sau khi ra trường sẽ quên đi và mau chóng lạc hậu Người ta tính rằng với khối kiến thức của một kỹ sư thì chỉ sau 3 năm khối kiến thức đó sẽ trở nên lạc hậu, cần được bổ sung Do đó việc học tập cần phải được tiếp tục thường xuyên, suốt đời

và bằng nhiều phương thức và ở mọi nơi, mọi lúc không phải chỉ ở nhà trường

*Học để làm:

Học để làm liên quan mật thiết đến câu hỏi làm thế nào để giáo dục và đào tạo có thể trang bị cho người học các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc sau này Xã hội chỉ trả tiền nếu mình “biết làm”, chứ không dừng lại ở “biết nói” Đặc điểm nền kinh tế hậu công nghiệp ở thế kỷ XXI, trong quá trình sản xuất mới không còn tuyệt đối hóa kỹ năng nghề nghiệp mà vai trò trình độ chuyên môn của từng người được đề cao

Do đó giáo dục phải chuyển từ đào tạo “kỹ năng làm” sang hình thành một năng lực chuyên môn Năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, công nghệ (biết cách làm) và kỹ năng sống theo nghĩa rộng (khả năng giao tiếp, hợp tác, điều hành, giải quyết vấn đề, sáng tạo ) Trong nền kinh tế tri thức học và làm là một, không còn tách riêng thời đi học và thời đi làm Quan niệm ngày nay không còn “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” mà

là “nhất nghệ tinh, đa nghệ tri’’ 60 - 80% dân số trong độ tuổi lao động ở các nước công nghiệp hóa đang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ .Mô hình làm việc mới, trong

cả lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, sẽ cần đến việc ứng dụng mạnh mẽ thông tin, kiến thức và óc sáng tạo Năng lực cá nhân sẽ được đặt trên nền tảng kiến thức lý thuyết và thực hành kết hợp với động lực cá nhân và các kỹ năng tốt về giải quyết vấn đề, ra quyết định, giàu sáng kiến sáng tạo và làm việc theo nhóm Ở cả hai khu vực này, thông tin và giao tiếp giữ vai trò sống còn

Tóm lại, nhân loại bước vào thế kỉ XXI với sự phát triển vượt bậc của khoa học

kỹ thuật và công nghệ Học để làmkhông phải là lao động cơ bắp hay dây chuyền công

nghiệp đơn thuần nữa mà làm bằng tư duy, bằng trí tuệ nên ở tất cả các công việc muốn

có năng suất và hiệu quả cao đều phải cần các kĩ năng tư duy - kĩ năng mềm (kĩ năng giải quyết vấn đề, tư duy tích cực - sáng tạo, kĩ năng thích ứng, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, kĩ năng ứng xử giao tiếp và ngoại ngữ, kĩ năng học và tự học ) Đó chính là các kĩ năng và đòi hỏi của nguồn nhân lực chất lượng cao

Trang 8

* Học để cùng chung sống

Giáo dục có vai trò to lớn đối với tiến bộ xã hội, giúp giải quyết các vấn đề mâu thuẫn một cách hòa bình, giúp con người biết tôn trọng các khác biệt, các giá trị tinh thần của người khác, dân tộc khác Trong thời đại mới, với nền kinh tế hội nhập, giáo dục lại càng có vai trò to lớn giúp con người có thể cùng chung sống không bị lạc hậu trong một thế giới biến đổi và phát triển không ngừng Nội dung giáo dục cần chú ý hai vấn đề:

- Học biết phát hiện ra người khác: Xã hội loài người phát triển không chỉ có cái riêng của từng người, từng dân tộc mà còn đi đôi với cái chung của loài người Do đó mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải hiểu người khác, phải biết phát hiện

ra người khác Một trong những nhiệm vụ của giáo dục là giúp người học vừa nhận thức

về sự đa dạng vừa hiểu được sự tương đồng và sự phụ thuộc lẫn nhau của con người Ngay một em bé lớp mẫu giáo đã phải học cách chung sống với bạn, với ông bà, cha mẹ, anh chị em Đứa trẻ học môn Đạo đức, hoặc Giáo dục Công dân không phải chỉ học lí thuyết suông mà phải có kỹ năng ứng xử tốt trong gia đình, nhóm bạn, xã hội

- Học cùng làm việc vì các mục đích chung: Con đường tốt nhất để sống còn, đó

là học chung sống với người khác, học nghe điều người khác nói Giáo dục cần tập trung hướng con người đến những mục đích chung

* Học để tự khẳng định mình hay Học để làm người

Nguyên tắc cơ bản của giáo dục là giáo dục phải đóng góp vào sự phát triển của mỗi cá thể Mục tiêu của phát triển là sự hoàn thiện toàn diện của một con người về tâm

lý và thể xác, trí tuệ và tình cảm, thái độ đạo đức, tinh thần trách nhiệm cá nhân và các giá trị tinh thần khác

Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là mang lại cho mọi người tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình Học để tự khẳng định mình là tạo sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong phú của nhân cách từng người và toàn bộ các hình thái thể hiện mình Ở trường học, nghệ thuật và thơ văn cần phải có chỗ đứng quan trọng hơn cái chỗ mà hiện nay nó được đặt bởi một số nền giáo dục mang tính vụ lợi hơn là văn hóa Mối quan tâm phát triển trí tưởng tượng và óc sáng tạo cũng sẽ khôi phục lại giá trị của nền văn hóa và tri thức

Chính vì học để tự khẳng định mình hay là học để làm người nên vai trò của khoa

học xã hội và nhân văn phải được đặt đúng tầm, nó phải là nền tảng của giáo dục Vì thế, giáo dục chính quy phải thiết kế chương trình học sao cho người học có đủ thời gian và cơ hội để đến với các dự án hợp tác, hoạt động xã hội ngay từ những năm đầu đời, bắt đầu từ những hoạt động thể thao và văn hóa Phương pháp này cũng cần tạo điều kiện cho người học tham gia vào các hoạt động xã hội nhân đạo như chung tay làm

Trang 9

vệ sinh các khu nhà ổ chuột, giúp đỡ những người kém may mắn, hoạt động từ thiện, lên kế hoạch giúp đỡ những người cao tuổi

Ai cũng thấy nền giáo dục truyền thống phải thay đổi do sự xuất hiện của nền kinh

tế tri thức: Kiến thức của loài người tăng lên nhanh chóng, cứ vài năm kiến thức của loài người lại tăng lên gấp đôi Điều vừa học được có nguy cơ nhanh chóng lạc hậu, phải cần bổ sung Do vậy cần phải học suốt đời (Lifelong Learning) Ai cũng phải học,

người học thuộc mọi lứa tuổi do vậy khái niệm xã hội học tập ra đời thay thế cho xã hội

công nghiệp của thế kỷ trước

Theo chúng tôi, những quan niệm dẫn ra trên đây chính là một phần quan trọng nhất của triết lý giáo dục thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri thức và hội nhập Sở dĩ

nói như vậy vì nó trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? nói rộng hơn:Mục đích của giáo

dục ngày nay là gì? Và: Cần làm như thế nào để có thể đạt được mục đích ấy? Trả lời

đúng được các câu hỏi ấy chính là quan niệm đúng về triết lý giáo dục

Tại sao chúng ta không xem các quan điểm trong Văn bản Bốn trụ cột của giáo

dục (The Four Pillars of Education) của UNESCO như là một trong các triết lý quan

trọng của giáo dục ngày nay và vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh của Việt Nam? Nếu cần

cụ thể hóa trong điều kiện Việt Nam thì cần lưu tâm đến việc hòa nhập nhưng không

hòa tan nghĩa là vẫn giữ các bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong các định hướng

chiến lược và phát triển giáo dục nước nhà Ví dụ:

- Học để chung sống: Giúp giải quyết các vấn đề mâu thuẫn một cách hòa bình,

giúp con người biết tôn trọng các khác biệt, các giá trị tinh thần của người khác, dân tộc khác Tuy nhiên cần giáo dục lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, giữ bản sắc tốt đẹp của dân tộc, không đánh mất mình, không theo đòi một cách mù quáng

- Học để tự khẳng định mình hay là Học để làm người: Hiện nay, do tốc độ phát

triển quá nhanh của khoa học, kĩ thuật và kinh tế nên nhiều khi các giá trị nhân bản bị đảo lộn, các quan niệm về đạo đức, nhân văn truyền thống bị xem thường và dễ bị buông trôi Vì vậy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn phải được đặt đúng tầm, nó phải là nền tảng của giáo dục, phải định hướng các giá trị nhân văn, đạo đức, kĩ năng sống cho xã hội và thế hệ trẻ

Chúng ta là một thành viên của UNESCO, đang từng bước hội nhập với quốc tế (ví

dụ, tham gia WTO), cùng các nước bước vào thế kỉ XXI với mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đang cần một nguồn nhân lực chất lượng cao

nghĩa là đang rất cần một nền giáo dục có chất lượng thực sự Vì vậy nếu chúng ta thấy những quan điểm trong văn bản Bốn trụ cột của giáo dục của UNESCO là đúng đắn thì

Việt Nam cần xem đây là một trong các triết lý quan trọng của giáo dục nước nhà

2 Việc đầu tiên là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục

2.1 Phân định mục đích và mục tiêu giáo dục

Mục đích giáo dục là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt được của một quá trình giáo dục nhất định Những mong muốn này có tính chất lý tưởng, là cái mà con người đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được Nó có tác dụng định hướng, điều

Trang 10

khiển hoạt động giáo dục trong một giai đoạn lịch sử nhất định Có thể phân biệt mục đích và mục tiêu qua một số dấu hiệu:

1 Có tính định hướng, tính lí tưởng

2 Thời gian thực hiện dài

3 Tính rộng lớn khái quát của vấn đề

4 Không thể đo được kết quả

5 Cấu trúc phức tạp, được tạo thành

do nhiều mục tiêu kết hợp lại

1 Có tính cụ thể với hành động và phương tiện xác định

2 Thời gian thực hiện ngắn, xác định

3 Tính xác định của vấn đề

4 Kết quả có thể đo được

5 Là một bộ phận của mục đích

Trước đây, ở Việt Nam người ta thường nói: Đào tạo ra những con người vừa

hồng vừa chuyên, hoặc: Đào tạo ra những con người có đủ tài đức, hoặc: Mục tiêu giáo dục bao gồm các mặt đức, trí, thể, mỹ, lao động Và để đạt được các mục tiêu ấy

thì: Tiên học lễ, Hậu học văn Song, nếu hỏi các nhà quản lý giáo dục và các giáo viên

hiểu và giải thích về mục tiêu trên như thế nào, đặc biệt nếu hỏi về các kĩ năng kiến

thức và tư duy trí tuệ học sinh cần phải đạt được là gì, Lễ bây giờ là gì? Văn bây giờ là

gì? thì chắc chắn sẽ có rất nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau Vì vậy việc đầu tiên là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục để tất cả các cấp quản lí giáo dục, tất cả các thầy cô giáo và toàn xã hội cùng thống nhất hiểu đúng đắn về mục tiêu giáo dục từ đó mọi cấp giáo dục và toàn xã hội đều hướng tới thực hiện được mục tiêu ấy

Để làm sáng tỏ các luận cứ trên, chúng ta cần nghiên cứu và làm sáng tỏ hai khái

niệm quan trọng: Chỉ số chất lượng giáo dục và Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực đối

với mục tiêu giáo dục:

Bảng Chỉ số chất lượng Giáo dục

Chỉ số tổng hợp (về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực)

Sự thành thạo về tiếng Anh

Sự thành thạo về Công nghệ cao

(Trích Bảng Chỉ số chất lượng Giáo dục trên trang Web Chỉ số CLGD - Báo cáo của

Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục ngày 10/11/2003).

Ngày đăng: 28/10/2016, 17:27

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w