1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

95 1,3K 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 747,1 KB

Nội dung

Tuy nhiên, hiện nay những nghiên cứu về hoạt động công tác xã hội còn khá mới mẻ, đặc biệt chưa có nhiều công trình nghiên cứu đến hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm p

Trang 1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2016

Trang 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân

tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.HÀ THỊ THƯ

Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn

này trung thực

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình

Hà Nội, ngày 27 tháng 06 năm 2016

Học viên

Đỗ Thị Lệ

Trang 3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT 13

1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và đặc điểm 13

1.2 Lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 19

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 25

1.4 Cơ sở pháp lý về Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 28

Chương 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT TẠI TỈNH QUẢNG NINH 34

2.1.Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 34

2.2 Thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 40

2.3 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 56

Chương 3 : BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT 65

3.1 Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách pháp luật phát triển nghề Công tác xã hội 65

3.2 Truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng 66

3.3 Nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn Công tác xã hội cho đội ngũ cán bộ làm việc với trẻ vi phạm pháp luật 67

3.4 Mở rộng mạng lưới trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật 69

3.5 Chủ động bố trí kinh phí địa phương hằng năm để đảm bảo thực hiện tốt các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật 70

3.6 Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ trong việc trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật 71

KẾT LUẬN 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75

PHỤ LỤC 79

Trang 4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Các hành động sai lệch mà trẻ đã từng thực hiện 38 Bảng 2.2: Các hoạt động giải trí nhóm mà trẻ nói rằng đã được tham gia 46 Bảng 2.3: Hoạt động hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm cho trẻ vi phạm pháp luật 53 Bảng 2.4: Những việc các em thường làm trong thời gian rảnh rỗi 60 Bảng 2.5: Hành động khi bị người khác gây gổ, bắt nạt (%) 61

Trang 5

DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu đồ 2.1: Khu vực sinh sống của trẻ em vi phạm pháp luật 37

Biểu đồ 2.2: Nội dung giáo dục nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 41

Biểu đồ 2.3: Hình thức truyền thông 43

Biểu đồ 2.4: Các kỹ năng xã hội trang bị cho trẻ vi phạm pháp luật 48

Biểu đồ 2.5: Các nghề mà trẻ được hỗ trợ kết nối dạy và tạo việc làm 54

Biểu đồ 2.6: Trình độ chuyên môn của Nhân viên công tác xã hội 56

Biểu đồ 2.7: Đánh giá năng lực làm việc của nhân viên công tác xã hội 57

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ kinh phí hoạt động 59

Biểu đồ 2.9: Nhận thức về hậu quả trẻ em vi phạm pháp luật 62

Trang 6

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Trẻ em là những con người chưa trưởng thành về mặt thể chất, tâm lý

và xã hội, dễ bị tổn thương do những tác động của môi trường sống, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em Để thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ

em, rất nhiều Chỉ thị đã được ban hành về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, trong đó khẳng định trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Trong phạm vi khả năng, cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ Đồng thời nhấn mạnh công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế

Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng vi phạm pháp luật ở trẻ

em có chiều hướng gia tăng, tính chất phạm tội ngày càng nguy hiểm để lại nhiều hậu quả nặng nề Quảng Ninh là một tỉnh giáp biên giới có điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển Cùng với sự biến đổi nhanh chóng về tình hình kinh tế - xã hội, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật tại đây có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ nghiêm trọng, đặc biệt ở trẻ vị thành niên Tính một cách tổng thể từ năm 2000 đến nay, theo

số liệu thống kê của Công an tỉnh Quảng Ninh, toàn tỉnh đã xảy ra 1.966 vụ với 2.834 đối tượng trong lứa tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật [52, tr.3]

Số người chưa thành niên vi phạm pháp luật và bị khởi tố hình sự chiếm tỷ lệ cao so với toàn quốc (đứng thứ 5 sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nghệ

An và Hải Phòng) [74, tr.2] Tội danh mà người chưa thành niên phạm phải

Trang 7

chủ yếu là các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội; xâm phạm sở hữu tài sản như: trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản; gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, hiếp dâm.Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh nổi lên tình trạng một bộ phận thanh thiếu niên bỏ nhà sống lang thang, tụ tập và sử dụng hung khí nguy hiểm thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng Một số loại tội phạm trước đây không có hoặc

ít thấy trong độ tuổi chưa thành niên thì nay có xu hướng gia tăng như: buôn bán, tàng trữ, sử dụng ma túy; xâm phạm sức khỏe và tính mạng con người

Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề mới ở Việt Nam mặc

dù nó có nguồn gốc và lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua trên thế giới Với bản chất là hướng đến sự trợ giúp con người trong cuộc sống, nhất là những đối tượng thuộc nhóm bất lợi hoặc dễ bị tổn thương bằng các hình thức can thiệp dựa trên góc độ tâm lý hay các mô hình can thiệp từ cá nhân, đến nhóm

và cộng đồng, công tác xã hội thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống

xã hội, nhất là trong xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp, cũng như trong xã hội lấy vấn đề phúc lợi, công bằng làm định hướng phát triển Tuy nhiên, hiện nay những nghiên cứu về hoạt động công tác xã hội còn khá mới mẻ, đặc biệt chưa có nhiều công trình nghiên cứu đến hoạt động công tác xã hội nhóm đối

với trẻ em vi phạm pháp luật Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác

xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình

2 Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1.Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Tình trạng vi phạm pháp luật là một dạng đặc biệt của các hiện tượng sai trái trong xã hội, có tính nguy hiểm cho xã hội cao nhất Nó không chỉ đơn thuần

là hiện tượng xã hội mà còn là hiện tượng pháp luật hình sự Vì vậy, các vấn đề

về tình trạng vi phạm pháp luật được coi là đối tượng nghiên cứu của ngành tội phạm học ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng

Trang 8

Hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là một thực tế tồn tại trong tất cả các quốc gia Nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và giáo dục lại đối tượng này Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhà giáo dục vĩ đại Nga A.X.Macarenco đã có những cống hiến rất lớn về vấn đề giáo dục trẻ em hư, phạm pháp trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn Trong quá trình làm việc với những trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em vô gia cư, vô thừa nhận , tác giả đã xây dựng hệ thống lý luận giáo dục và cải tạo trẻ em vi phạm pháp luật với những quan điểm nhân đạo và tiến

bộ Với nguyên tăc “vàng” là “tôn trọng và yêu cầu cao đối với trẻ” Lý luận đó của ông đã được đúc kết thành công trong việc cải tạo, giáo dục hàng nghìn trẻ

em hư hỏng, lưu manh, vi phạm pháp luật , biến chúng từ những “cặn bã” của

xã hội trở thành những công dân tích cực và có ích cho xã hội

Tác giả A.I.Cochetop trong công trình nghiên cứu “Những vấn đề lý luận giáo dục” đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề giáo dục lại Theo ông, công tác giáo dục lại bao gồm việc giáo dục những trẻ em vô kỷ luật, tăng cường chăm sóc những trẻ em lêu lổng và việc cải tạo những trẻ em phạm pháp Ông đã chỉ ra những nguyên nhân của trẻ có biểu hiện tính chất khó dạy, đó là nguyên nhân xã hội, nguyên nhân tâm lý, nguyên nhân giáo dục Đặc biệt trong đó là nguyên nhân giáo dục Từ đó, tác giả đi sâu phân tích khái niệm, nội dung và những yêu cầu của hệ thống các phương pháp

giáo giục lại [3]

Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả ở nhiều nước đề cập đến vấn đề trẻ em, đặc biệt ở lứa tuổi vị thành niên phạm tội Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như sau:

(1) Trong cuốn sách “Tư pháp vị thành niên - Chính sách, thực tiễn và Pháp luật” tác giả H.Ted Rubin đã nghiên cứu về vấn để tư pháp vị thành niên

ở Mỹ Tác giả đã đề cập đến những vấn đề chính như: tội phạm nghiêm trọng

và tái phạm đối với trẻ vị thành niên, vai trò của cơ quan cảnh sát đối với đối

Trang 9

tượng này, quá trình giáo dưỡng và phi xét xử, cơ quan công tố trong tư pháp

vị thành niên, tổ chức tòa án vị thành niên, cơ cấu lại hệ thống tư pháp vị thành niên [25]

(2) Tác giả A.I.Dongova đã nghiên cứu về khía cạnh tâm lý - xã hội về tình trạng phạm tội của người chưa thành niên ở Liên xô cũ [9]

(3) Zhang Wenbang, Chen Banglins, Zhou Zuyong đã nghiên cứu thực trạng tình hình tội phạm thanh thiếu niên Trung Quốc trong những năm 90 và đưa ra các biện pháp ngăn ngừa tệ nạn này [30]

(4) Trong cuốn “Phạm nhân vị thành niên: luật, chính sách và thực hành”, các tác giả đã đề cập đến vấn đề phạm nhân và cảnh sát, chuyển đổi từ quá trình phạm tội, tòa án vị thành niên và quá trình kết án ở Anh [21]

(5) LA.Dvojmennyj, V.A.Lelekov đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của gia đình đến tình trạng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên ở Nga [10]

(6) Tác giả Rita Reddy đã nghiên cứu về chiến lược và kinh nghiệm phòng ngừa trẻ em lang thang, phạm pháp trong khu vực Đông Nam Á Tác giả tập trung đề cập về vấn đề luật pháp, giới thiệu các kinh nghiệm can thiệp của cộng đồng một số nước khu vực Đông Nam Á như: Thái Lan, Philippine, Malaysia [24]

(7) Trong bài viết “Những nguyên nhân xã hội của tội phạm vị thành niên ở Hồng Koong” tác giả đã trình bày nghiên cứu của mình về những nguyên nhân xã hội dẫn đến tình trạng phạm tội của vị thành niên [20]

Như vậy, ở rất nhiều nước trên thế giới vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật, đặc biệt là trẻ vị thành niên được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau Hệ thống hóa các công trình nghiên cứu kể trên, tôi thấy các hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như: Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật nói riêng; Nghiên cứu nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình vi phạm pháp luật; Nghiên cứu đến các chính sách pháp luật, hệ thống thi hành pháp luật xử

Trang 10

lý vị thành niên phạm tội và nghiên cứu hệ thống các biện pháp phòng ngừa,

hạn chế tình trạng phạm tội của trẻ em, đặc biệt là trẻ vị thành niên

2.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, từ sau khi nước ta dành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “phải giáo dục lại nhân dân chúng ta ” Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục lại trẻ em hư, người chưa thành niên vi phạm luật trong toàn bộ công tác giáo dục trẻ Từ đó, các Bộ, Ngành,

Cơ quan chức năng luôn đặc biệt quan tâm và chú trọng về vấn đề này Qua

đó, một số công trình và dự án nghiên cứu tình hình, nguyên nhân và các giải pháp ngăn chặn, giáo dục lại trẻ em phạm pháp của các Viện nghiên cứu, Tổng cục Cảnh sát, Công an các tỉnh, thành thực hiện Bên cạnh đó, ở các địa phương một số đề tài nghiên cứu về vấn đề trẻ em hư và vi phạm pháp luật cũng được thực hiện Có thể điểm qua một số công trình, nghiên cứu cụ

thể như sau:

Năm 1991, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thực hiện đề tài “Tình hình, nguyên nhân và các giải pháp đấu tranh phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội” Đề tài đã nghiên cứu tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong thời gian từ năm 1987-1990, nêu lên những nguyên nhân cơ bản, trực tiếp làm phát sinh, phát triển tình hình người chưa thành niên phạm

tội ở các tầm vĩ mô, vi mô và dự báo xu hướng trong những năm tới

Năm 1991, Viện khoa học hình sự cũng nghiên cứu đề tài “Tình hình thanh thiếu niên phạm pháp ở Việt Nam và xu hướng đến năm 2000” Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và phác thảo bức tranh khái quát vê thực trạng phạm tội của thanh thiếu niên Việt Nam trong 10 năm (1978-1988); Dự báo

xu hướng phát triển của tội phạm thanh thiếu niên đến năm 2000; Nêu ra và phân tích các yếu tố tác động đến tình hình và xu hướng phạm tội trong thanh thiếu niên, từ đó kiến nghị hệ thống các biện pháp phòng chống tội phạm

trong thanh niên

Trang 11

Năm 1994, Tổng cục Cảnh sát nhân dân thực hiện đề tài “Tội phạm ở Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” Trên cơ sở đánh giá khái quát thực trạng tội phạm và nguyên nhân dẫn đến tội phạm, đề tài cũng dự bào tình hình tội phạm đến năm 2000 và đưa ra phương hướng phòng ngừa,

đấu tranh chống tội phạm trong giai đoạn mới

Năm 1996, Viện nghiên cứu thanh niên trong “Tổng luận về tình hình

vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên hiện nay” đã đưa ra một bức tranh khái quát về tình hình thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội của thanh thiếu niên và đề xuất những biện pháp

phòng ngừa hiện tượng này

Năm 1985, Phân viện Khoa học giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh

đã thực hiện “Dự án ngăn chặn và giáo dục lại trẻ chưa ngoan và trẻ phạm pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh” [19] Các tác giả đã khái quát về thực trạng trẻ phạm pháp và trẻ chưa ngoan ở Thành phố từ năm 1977-1985, nêu lên những nguyên nhân của thực trạng và các biện pháp ngăn chặn và giáo dục lại

chưa ngoan, phạm pháp

Năm 2000, Tổng cục Cảnh sát tiếp tục “Nghiên cứu các giải pháp phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật” nhằm đề ra các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi trong việc giảm tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật, góp phần

thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thời kỳ 2000-2010

Năm 2010, ông Đàm Hữu Đắc - Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng chủ trì một đề tài nghiên cứu về “Thực trạng vấn đề tệ nạn xã hội và công tác phòng chống tệ nạn xã hội trong thời kỳ đổi mới” Mặc

dù đề tài chỉ tập trung vào hai dạng tệ nạn xã hội là ma túy và mại dâm, nhưng nhóm nghiên cứu đã phác họa được những nét khái quát về nguyên nhân và thực trạng vấn đề thanh niên và trẻ vị thành niên tham gia vào các tệ nạn Bức tranh chung có phần ảm đạm về tình hình tệ nạn xã hội được đưa ra

Trang 12

trong đề tài là những lời cảnh tỉnh thiết thực với các nhà quản lý, giáo dục,

phòng chống và ngăn chặn tình hình trẻ vi phạm pháp luật

Năm 2012, tác giả Đặng Lệ Thu và một nhóm nghiên cứu thuộc Học viện cảnh sát đã tiến hành một đề tài nghiên cứu can thiệp “Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 - Yên Mô - Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp” Nhằm tìm hiểu về thực trạng công tác định hướng nghề nghiệp và đào tạo nghề cho học sinh trong các trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an hiện nay Tác giả đã tiến hành khảo sát với phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với 196 học sinh (trên 15 tuổi) đang học tập, tu dưỡng tại trường và tham gia trực tiếp vào hoạt động tham vấn nghề nghiệp cho các học sinh, giúp các em chủ động lựa chọn nghề nghiệp, căn cứ vào khả năng, sở trường, sở thích của các em Qua đó, tác giả cho rằng, vai trò định hướng của các đơn vị, cá nhân có liên quan đến hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh

giáo dưỡng còn chưa được phát huy

Ngoài ra, một số công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này được thể hiện trong các tác phẩm, bài báo khoa học: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình giáo dục lại học sinh hư, học sinh phạm pháp” [12]; “Bước đầu tìm hiểu quá trình biến đổi tâm lý của trẻ bình thường đến vị thành niên phạm pháp [22]; Tìm hiểu nguyên nhân trẻ em phạm pháp và việc nghiên cứu nhân cách” [15]; Vấn đề gia đình và trẻ em phạm pháp [16]; Một số vấn đề tâm lý

học về thiếu niên phạm pháp” [23]

Nhìn chung, các công trình, đề tài nghiên cứu đều chú trọng đến tình hình vi phạm pháp luật của trẻ em đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên, nguyên nhân của tình trạng này và những biện pháp ngăn chặn, giáo dục lại Qua đó, các nhà nghiên cứu đã góp phần làm nên hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc về quá trình giáo dục lại trẻ em hư, phạm pháp Từ đó, cũng cho thấy vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật đang ngày trở nên nóng bỏng và phức tạp ở

Trang 13

tất cả các địa phương trong cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, đòi hỏi có

sự quan tâm của các cấp, ban, ngành đoàn thể và cộng đồng

Như đã đề cập ở trên, tình hình trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có những diễn biến phức tạp Hiện nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu về thực trạng, các giải pháp, biện pháp can thiệp

hỗ trợ cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật với những diễn biến phức tạp đó

3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em

vi phạm pháp luật tại Quảng Ninh; các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó đưa ra các biện pháp thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa các khái niệm, lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu, từ đó xây dựng cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm trong việc trợ giúp cho trẻ em

vi phạm pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này

Khảo sát và đánh giá thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh hiện nay; Các hoạt động của công tác xã hội tới nhóm trẻ này và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này

Đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ

em vi phạm pháp luật

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Trang 14

4.2 Khách thể nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khách thể chính đó là trẻ em Ngoài ra, còn có các cán bộ làm công tác Lao động - Thương binh và Xã hội, cộng tác viên công tác xã hội

4.3 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác xã hội

nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh qua 4 hoạt động: Hoạt động giải trí nhóm; Hoạt động giáo dục nhóm; Hoạt động phát triển kỹ năng xã hội cho nhóm; Hoạt động hỗ trợ dạy nghề và kết nối việc làm

Phạm vi về khách thể: Nghiên cứu trên 100 trẻ em, có độ tuổi từ 14 - 18

tuổi; 30 cán bộ có liên quan tới trẻ đang làm việc tại các phường, xã

Phạm vi về thời gian, địa bàn: Từ tháng 02/2016 - 6/2016 tại Thành

phố Hạ Long và Thị xã Đông Triều

5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận duy vật lịch sử: Đối tượng nghiên cứu được đánh giá, phân tích theo một trục thời gian, mang tính lịch sử rõ nét Qua đó, các vấn đề và yếu tố liên quan trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu

Trang 15

theo các thời kỳ lịch sử, đảm bảo tính xác thực và toàn vẹn trong trình bày kết quả nghiên cứu

5.2 Phương pháp nghiên cứu

5.2.1 Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu

Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước Phương pháp này được áp dụng phân tích các tài liệu như: Báo cáo về tình hình văn hóa, kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Ninh, mẫu thu thập thông tin có sẵn của huyện và thành phố cùng với các báo cáo chuyên ngành của Công an, Tư pháp, Văn hóa Thông tin, các văn bản quy định…nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu

5.2.2 Phương pháp thu thập thông tin

- Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin thực

nghiệm mà thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập thông tin về các quá trình, các hiện tượng xã hội trên cơ sở nghiên cứu của đề tài và mục đích của cuộc nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông tin đã thu thập Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi chú trọng quan sát thái độ và cách ứng xử của

trẻ để có cái nhìn khách quan, sinh động về vấn đề nghiên cứu

- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: Là phương pháp điều tra xã

hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một bảng hỏi cho nhóm đối tượng trong một khu vực nhất định ở một không gian, thời gian nhất định Sử dụng phương pháp này, có thể thu thập được một lượng thông tin lớn mang tính đại chúng trong quá trình điều tra và thu thập thông tin

Trong khuôn khổ luận văn và thực hiện đề tài, tôi có xây dựng một bảng hỏi là tổ hợp các câu hỏi với các chỉ báo, con số định lượng để thu thập thông tin từ trẻ về hành vi và mức độ vi phạm pháp luật; Thực trạng các hoạt động xã hội liên quan đến việc trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật về giáo dục nhân cách, pháp lý hoặc tham gia các mô hình hỗ trợ như học văn hóa, học nghề và tạo việc làm…tại huyện Đông Triều và thành phố Hạ Long Dữ liệu

Trang 16

từ phương pháp này sẽ đem lại kết quả chính cho nghiên cứu.Cơ cấu bảng hỏi gồm 4 phần:

+ Phần 1: Phần thông tin cá nhân

+ Phần 2: Thông tin về nhu cầu

+ Phần 3: Thông tin về gia đình, bạn bè

+ Phần 4: Phần trả lời câu hỏi (Trong đó, số lượng câu hỏi là 28 câu)

Số lượng phiếu phát ra: 130 phiếu; Số lượng phiếu thu về: 130 phiếu (Tất cả các phiếu đều hợp lệ)

Phương pháp phỏng vấn sâu: Là phương pháp thu thập thông tin cụ thể

của xã hội học, thông qua những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ của người ấy

Phỏng vấn sâu được tiến hành với cán bộ huyện/thành phố bao gồm: Cán bộ lãnh đạo chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Chủ tịch/phó Ủy ban nhân dân, Tư pháp, Công an,… nhằm tìm hiểu sâu những vấn đề mà nội dung nghiên cứu mong muốn thực hiện

6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận của luận văn

Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan tới vấn đề nghiên cứu như: Vi phạm pháp luật là gì? Trẻ em vi phạm pháp luật là gì? Các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng Bên cạnh đó, đề tài thể hiện được vai trò của công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó mọi người nhận rõ được tầm quan trọng của nhân viên công tác xã hội hiện nay

Trang 17

6.2 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Đề tài xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh và Công tác xã hội nhóm đối với vấn đề này tại địa bàn nghiên cứu Trên cơ sở đó, phát hiện các vấn đề trong thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng thời,

đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người làm công tác xã hội; Tiếp tục bổ sung hệ thống lý thuyết, thực hành chuyên biệt cho hoạt động

công tác xã hội với trẻ em nói chung và trẻ em vi phạm pháp luật nói riêng

7 Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu; Kết Luận; Danh mục tài liệu; Phụ lục kèm theo,

luận văn còn có 3 chương sau đây:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm với trẻ em vi phạm pháp luật

Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh

Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Trang 18

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM

ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT

1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và đặc điểm

1.1.1 Một số khái niệm

- Khái niệm trẻ em

Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của Việt Nam “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” Theo Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 quy định: “Trẻ

em là những người dưới 16 tuổi” Nhưng theo Điều 1 trong Công ước của

Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [2]

- Khái niệm trẻ em vi phạm pháp luật

Từ điển xã hội họ - G.Endruweit và G Trommsdorff - Nhà xuất bản thế giới: Trẻ em vi phạm pháp luật là những hành động, hành vi làm trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội Những hành vi hành động này có tác động có hại cho xã hội và con người [5]

Một khái niệm khác: Trẻ em vi phạm pháp luật là những người có hành

vi vi phạm các quy định của pháp luật ở các mức độ khác nhau

Trẻ vi phạm pháp luật có thể bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hoặc theo Bộ luật Hình sự phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự

Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em trong độ tuổi từ 14 -

18 (gọi là người chưa thành niên) sẽ bị xử phạt hành chính về các vi phạm hành chính có chủ ý và người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt hành chính về các vì bất cứ các vi phạm hành chính nào mà họ gây ra (Pháp

Trang 19

lệnh xử lý vi phạm hành chính, số 44/2002/PL-UBTVQH10, ngày 02/7/2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội) [3]

Theo Bộ luật Hình sự: Người chưa thành niên từ 14-16 chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự cho các tội hình sự rất nặng gây ra có chủ ý hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng Người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm với mọi vụ án mà họ gây ra Mục đích chính của việc xử phạt hình sự người chưa thành niên vi phạm pháp luật là để giáo dục và giúp đỡ những người này sửa chữa lỗi lầm và phát triển lành mạnh, trở thành những người công dân có ích (Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009, số 37/2009/QH12, ngày 19/6/2009 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [3]

Tóm lại, trẻ em vi phạm pháp luật là những trẻ có độ tuổi từ 0 đến dưới

18 tuổi có các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật

1.1.2 Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp luật

* Đặc điểm tâm lý của trẻ em vi phạm pháp luật

Trẻ em, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi vị thành niên, đây là giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, trí tuệ, thể lực nên tâm lý khá phức tạp, thiếu

ổn định Lứa tuổi này các em luôn có xu hướng muốn vươn lên để trở thành người lớn Đặc điểm này luôn thôi thúc các em có khuynh hướng tự lập, bứt phá sự ràng buộc, sự kiểm tra, áp đặt của những người lớn trong gia đình, của thầy cô giáo Sự bức phá này có nguy cơ dễ bị sa ngã, bị dụ dỗ, lôi kéo rủ rê của kẻ xấu nếu như khuynh hướng tự lập không theo chiều hướng tốt

Tính hiếu động, hiếu thắng, nông nổi và liều lĩnh Đặc điểm này hình thành trong các em thường có những hành động bộc phát, thiếu suy nghĩ, không phân biệt được đúng, sai, do đó trong hành động thường liều lĩnh, không sợ nguy hiểm, không sợ vi phạm pháp luật, hoạt động không theo khuôn mẫu, không có quy luật nhất định mà thường bộc phát khi bị kích động Luôn có tính tò mò, bắt chước (cả những cái sai) Dễ hăng say sôi nổi,

Trang 20

dễ bị kích động nhưng cũng dễ chán nản.Nhu cầu giao tiếp bạn bè phát triển nên hình thành nhóm bạn để chơi bời, học tập

Ngoài các đặc điểm chung nói trên, trẻ em vi phạm pháp luật còn có thêm một số đặc điểm tâm lý như: Tính ích kỷ, tính thiếu kiên định, tính phủ định, tính dối trá, tính ưa tâng bốc, tính thô lỗ, tính vô kỷ luật

* Nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp luật

Trước hết là nhu cầu về mặt vật chất phục vụ cho việc ăn uống, vệ sinh, đảm bảo cho sự phát triển về mặt thể chất của trẻ;

Thứ hai, nhu cầu về mái ấm gia đình, là chỗ dựa về mặt thể chất và tinh thần của trẻ;

Nhu cầu được giải trí vui chơi (nhu cầu phát triển), học tập, thông qua những hoạt động này đưa trẻ được hòa mình vào xã hội tự khẳng định mình;

Nhu cầu được tôn trọng, trẻ luôn đòi hỏi nhu cầu này từ người lớn, ở bạn bè và ở cha mẹ Sự tôn trọng này sẽ làm tăng sự tự tin, nghị lực của trẻ;

Nhu cầu cao nhất của trẻ là tự khẳng định mình, chứng minh rằng mình

có năng lực, mình có thể làm được mọi việc

Tuy nhiên, đối với trẻ vi phạm pháp luật thì cần thêm một số nhu cầu như sau:

Nhu cầu được tham vấn, tư vấn: Thực tế khi tiếp xúc với nhóm trẻ em

vi phạm pháp luật cho thấy, phần lớn các em bị tổn thương về nhiều mặt Các

em thiếu tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ, gia đình, dẫn tới sự lệch lạc trong cấu trúc nhân cách, rối nhiễu tâm trí, rối loạn hành vi… Hầu hết các

em đều có nhu cầu được chia sẻ tâm tư nguyện vọng và vượt qua những trở ngại tâm lý Do đó, hoạt động tư vấn, tham vấn kịp thời có thể giúp các em vượt qua khủng hoảng tâm lý, giúp các em nhìn nhận rõ hơn về vấn đề của mình và tự giải quyết vấn đề theo hướng tích cực hơn Qua đó, giảm bớt nhiều hậu quả xấu và đưa lại những kết quả về mặt kinh tế, giáo dục, thậm chí còn

Trang 21

ngăn chặn, phòng ngừa những rối loạn hành vi trong các em như: giận dữ, đánh nhau, bỏ ăn hay tự sát…

Nhu cầu được trang bị kiến thức về Pháp luật: Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ là sự hạn chế trong nhận thức pháp luật Nhiều em không biết những hành vi mà các em định làm là vi phạm pháp luật, không biết rằng các em phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình như thế nào Vì vậy, việc trang bị các kiến thức về pháp luật cho các

em là hoạt động rất cần thiết Từ đó trẻ có thể nhận thức được hành vi nào đúng, hành vi nào sai nhằm kịp thời ngăn chặn các hành vi sai lệch của trẻ

Nhu cầu được trang bị kỹ năng sống: Trẻ vi phạm pháp luật rất cần được trang bị các kỹ năng sống Vì phần lớn kinh nghiệm sống của các em còn non nớt, tư duy bồng bột, chưa sâu sắc, thiếu bao quát… các em rất dễ chịu ảnh hưởng từ bạn bè Đặc biệt, khi các em chơi với bạn xấu thì ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh khỏi Chính vì vậy, các em rất cần được cung cấp các kỹ năng sống cho bản thân để có thể làm chủ được bản thân, sống tích cực

và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho xã hội

Nhu cầu được tiếp tục học văn hóa: Đa số trẻ vi phạm pháp luật đều chưa học xong văn hóa, trước khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật các

em đã có thời gian dài thường xuyên bỏ học, vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường Có em chủ động bỏ học, có những em bị nhà trường đuổi học Tuy nhiên, sau khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc sau một thời gian lang thang, tụ tập, trẻ rất muốn được quay lại tiếp tục học văn hóa Do

đó, để trẻ có thể tái hòa nhập cộng đồng tốt, cần kết nối để có thể đáp ứng được nhu cầu này của trẻ

Nhu cầu được học nghề gắn với tạo việc làm: Từ những đặc điểm đã phân tích ở trên cho thấy, nhóm trẻ vi phạm pháp luật thường lông bông, không nghề nghiệp ổn định, bên cạnh đó các em bị hàng xóm, láng giềng kỳ thị Hơn nữa, xuất phát điểm của các em thường từ những gia đình có hoàn

Trang 22

cảnh khó khăn Do vậy, vấn đề tìm việc làm với các em là rất khó khăn Vì thế các em rất cần được hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm cho bản thân

1.1.3 Nguyên nhân và hậu quả của trẻ em vi phạm pháp luật

* Nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật: Có rất nhiều nguyên

nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật, tuy nhiên ở đây tác giả chỉ nêu ra ba nhóm nguyên nhân chính như sau:

- Nguyên nhân từ phía gia đình

Theo khảo sát cho thấy, những tác động từ gia đình khiến trẻ em hư, vi phạm pháp luật là rất lớn Có thể là do bố mẹ không thực sự gương mẫu, thường xuyên vi phạm pháp luật, sống trái với những chuẩn mực xã hội; hoặc một số khác thì quá mải mê làm ăn, quá đề cao lợi ích kinh tế nên hướng trẻ

em tới lối sống thực dụng, vì tiền v.v Chưa thành công trong việc giáo dục con cái là nỗi khổ tâm lớn nhất của các bậc cha mẹ Thực tế thì những trẻ lang thang và vi phạm pháp luật xuất phát nhiều từ các gia đình quá chiều chuộng con cái Trong các nguyên nhân của yếu tố gia đình tác động khiến cho trẻ vi phạm pháp luật được biểu hiện ở các mặt như: Cha mẹ không quan tâm đến việc giáo dục con cái; Cha mẹ, gia đình là những gương xấu cho con cái noi theo; Không khí đạo đức trong gia đình không thuận lợi; Cha mẹ không thống nhất được phương pháp giáo dục con cái; Cha mẹ chưa nắm được phương pháp giáo dục con cái; Cha mẹ chưa hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ…

Như vậy, gia đình là nơi gần gũi nhất với trẻ Tuy nhiên, đây cũng là nơi phát sinh ra các yếu tố tạo cho trẻ cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã hội

Vì vậy, các bậc cha mẹ cần phải có thái độ ứng xử hợp lý trong gia đình để trẻ noi theo

- Nguyên nhân từ phía nhà trường

Nhà trường là nơi góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện con người Tuy nhiên, giáo dục trong nhà trường hiện nay còn đặt ra nhiều bất cập: Chỉ chú trọng tới việc dạy chữ, chạy theo thành tích với những kết quả ảo

Trang 23

mà chưa thật sự chú ý đến việc giáo dục pháp luật, đạo đức nhân cách cho học sinh, đặc biệt là việc trang bị những kiến thức, kỹ năng sống cho học sinh chưa được đầy đủ Đặc biệt, trong giáo dục thì còn nhiều vấn đề tác động vào trẻ làm chúng không thống nhất được về tư duy như: Sự tác động không thống nhất giữa những người giáo dục; Một số giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục học sinh cá biệt; Một số giáo viên không hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ; Thiếu nghiêm túc trong học hành, thi cử…

Ngoài vòng tay gia đình thì nhà trường là nơi dạy dỗ con người thành người, là môi trường có tác dụng to lớn đến sự hình thành nhân cách của các

em Đây là một tổ chức có tính chất chiến lược nhất trong việc phòng ngừa các em vi phạm pháp luật Tuy nhiên, nhà trường cũng có những yếu kém, sai lầm có thể tạo ra cho trẻ hư hỏng, đặc biệt là nếu nhà trường không quản lý tốt thì trẻ sẽ rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội

- Nguyên nhân từ phía xã hội

Trẻ sống trong môi trường xã hội có rất nhiều biến đổi như hiện nay thì việc ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con trẻ là rất lớn Điển hình như: Thiếu sót về tổ chức Đoàn, Đội ở địa phương, không tạo cho trẻ được những sân chơi lành mạnh, bổ ích; Thiếu sót trong việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng Việc đưa lên phim ảnh, báo những chuyện bạo lực chém giết tàn nhẫn, thủ đoạn lừa gạt tinh vi, những thủ thuật trộm xe… Chính những bài học ấy đã vận dụng vào thực tế và đã thành công làm cho tính chất tội phạm trẻ em ngày càng trầm trọng, việc trốn tránh pháp luật ngày càng khéo léo, bởi trẻ chưa được trang bị kỹ năng tiếp thu có chọn lọc, thiếu khả năng khái quát, đánh giá; Ảnh hưởng của các luồng văn hóa phẩm đồi trụy; Ảnh hưởng của môi trường sống không lành mạnh, trẻ bị rủ rê, lôi kéo và những ảnh hưởng tiêu cực của nên kinh tế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến việc đưa trẻ đến con đường phạm pháp

- Nguyên nhân từ chính bản thân trẻ

Trang 24

Các nghiên cứu cho thấy, trẻ có những thay đổi mạnh mẽ về tâm lý hàng ngày, với sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm tư, có em khép mình vào thế giới nội tâm, có em lại muốn tự khẳng định mình, không muốn phụ thuộc và rất dễ dàng bị tác động, rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu Các

em thường dễ dàng hành động mà không có sự cân nhắc, tính toán Chính sự vận động tâm lý đó đã chiếm một phần lớn các yếu tố khác nhau dẫn đến con đường vi phạm pháp luật

* Hậu quả của trẻ em vi phạm pháp luật

Việc trẻ vi phạm pháp luật để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân các em mà còn cho cả gia đình, nhà trường và xã hội Trước hết, đối với bản thân trẻ phạm tội, sau khi có hành vi vi phạm sẽ phải chịu nhiều hình thức xử phạt và ảnh hưởng lớn đến đạo đức, nhân cách của trẻ, kìm hãm sự phát triển của trẻ, gây cho trẻ bị khủng hoảng tâm lý, tự ti, xa lánh bạn bè và xã hội Mặt khác, khi đã vi phạm pháp luật thì tương lai của trẻ sau này cũng bị ảnh hưởng do những tiền án và tiền sự mà trẻ đã có Còn đối với gia đình của trẻ có hành vi vi phạm pháp luật cũng bị ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và chịu nhiều tác động của dư luận xã hội… Đối với

xã hội, trẻ em là tương lai của đất nước nhưng nếu trẻ vi phạm pháp luật thì đồng nghĩa với đất nước sẽ mất đi một phần nguồn lực, ảnh hưởng đến trật

tự xã hội, nếp sống văn minh

1.2 Lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

1.2.1 Một số khái niệm

* Khái niệm công tác xã hội nhóm

Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận với Công tác xã hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và những ứng dụng thực hành cụ thể Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định nghĩa bao quát được bản chất của Công tác xã hội nhóm và tổng hợp những điểm riêng biệt của các cách tiếp cận với Công tác xã hội nhóm như sau: “Công tác xã

Trang 25

hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ Hoạt động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn thể nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ” [25, tr.12] Hoạt động có mục đích được các tác giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế hoạch đúng trật tự, hướng tới nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như để hỗ trợ hay giáo dục nhóm giúp các thành viên trong nhóm giao tiếp và phát triển cá nhân Định nghĩa này cũng nhấn mạnh hoạt động có định hướng không chỉ với cá nhân thành viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm

Trong từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm được định nghĩa là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp CTXH, trong đó các thành viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu

cụ thể Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, mục tiêu CTXH nhóm không chỉ là trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình cảm mà còn là trao đổi thông tin, phát triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các định hướng giá trị và làm chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành các nguồn lực hiệu quả Các

kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình CTXH nhóm nhưng không hạn chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu” [25, tr.85]

Tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998) đưa ra khái niệm trị liệu nhóm mô tả

rõ nét hơn thân chủ và yêu cầu của cán bộ chuyên môn trong trị liệu nhóm Theo tác giả, trị liệu nhóm nhằm trị liệu cá nhân các bệnh tâm thần, những người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu Mối tương tác giữa bệnh nhân được dùng để hỗ trợ quá trình trị liệu, nhưng công tác này đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học

Theo tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2008), Công tác xã hội nhóm tập trung vào một nhóm thân chủ không chỉ là cá nhân thân chủ Phương thức và cách tiếp cận của công tác xã hội nhóm là làm việc với thân chủ khác với làm

Trang 26

việc cho thân chủ Các hoạt động tập thể thể hiện trong tiến trình công tác xã hội nhóm khác với nhân viên xã hội làm việc theo phương thức một - một với cá nhân Công tác xã hội nhóm đặt trọng tâm vào sự phát triển của cá nhân và xã hội, đặc biệt là những đóng góp của xã hội với các thân chủ Nhìn chung, cách tiếp cận này được nhìn nhận trên quan điểm mở hơn, mang tính hệ thống và theo quan điểm sinh thái hơn, không chỉ tập trung vào những vấn đề của cá nhân

Vậy, Công tác xã hội nhóm là một tiến trình trợ giúp cho các thân chủ

có những vấn đề, khó khăn tương đối giống nhau Phương pháp này dựa trên

sự tương tác của các thành viên trong một nhóm Mối tương tác này ảnh hưởng đến sự thay đổi hành vi theo hướng tích cực được nhân viên xã hội dự kiến trong một kế hoạch hành động

* Khái niệm Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

Từ khái niệm trẻ em vi phạm pháp luật, công tác xã hội nhóm, đề tài đưa ra khái niệm công tác xã hội nhóm với trẻ em vi phạm pháp luật như sau:

Công tác xã hội nhóm với trẻ em vi phạm pháp luật là một tiến trình trợ giúp các em có hành vi phạm pháp luật nhằm giúp các em trong nhóm có cơ hội và môi trường để tham gia vào các hoạt động tương tác lẫn nhau với mục tiêu nhằm tăng cường làm rõ động cơ của các em phạm pháp, giúp các em giải tỏa tâm trạng, cung cấp thông tin giúp trẻ đề ra các quyết định, xác định tình thế, giúp các em thay đổi môi trường, nhận biết hành vi và tiếp nhận lời khuyên

1.2.2 Những phẩm chất đạo đức và nguyên tắc cơ bản của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với trẻ em vi phạm pháp luật

* Phẩm chất đạo đức

Trước hết nhân viên công tác xã hội cần sự cảm thông và tình yêu thương trẻ, sự sẵn sàng giúp đỡ trẻ;

Trang 27

Thứ hai, nhân viên công tác xã hội cần có niềm đam mê nghề nghiệp,

sự cam kết với nghề nghiệp;

Trung thực là một yếu tố đạo đức quan trọng mà nhân viên công tác xã hội cần có;

Nhân viên công tác xã hội cần có tính kiên trì, nhẫn nại;

Nhân viên công tác xã hội cần có lòng vị tha, sự rộng lượng;

Đặc biệt, cần tôn trọng trẻ: Con người, ai cũng có giá trị riêng biệt, trẻ

em cũng vậy cho dù dó là trẻ phạm pháp Khi tiếp xúc với trẻ nhân viên công tác xã hội không nên có thái độ dọa nạt, không coi thường và áp đặt những suy nghĩ của bản thân vào trẻ Tôn trọng, để trẻ bộc lộ bản thân, suy nghĩ, cách nhìn của mình và lắng nghe mọi điều chúng kể; Chấp nhận trẻ, đặt mình trong vị trí của chúng để hiểu trẻ: Khi chấp nhận trẻ tức là không có thái độ, định kiến; Luôn tỏ thái độ thân thiện, cởi mở; Không phán xét, tỏ thái độ khinh miệt trẻ

* Nguyên tắc trong làm việc với trẻ vi phạm pháp luật

Để đảm bảo cho sự thành công khi tiếp xúc, trợ giúp cho đối tượng là trẻ em vi phạm pháp luật thì nhân viên công tác xã hội cũng phải đảm bảo cá nguyên tắc sau: Dùng tình cảm chân thành; không khinh ghét, thị uy; tôn trọng tự do và nhu cầu của trẻ; chú ý điểm mạnh của trẻ; luôn luôn thành thật; không hứa những việc không thể thực hiện được; tuyệt đối không để trẻ mất lòng tin; động viên, khen ngợi khi trẻ thực hiện hành vi đúng đắn; khích lệ, gây hứng thú khi trẻ tham gia các hoạt động tích cực; thể hiện sự quan tâm

1.2.3 Hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật 1.2.3.1 Hoạt động giáo dục nhóm

Giáo dục nhóm là một hoạt động giáo dục trong đó các thành viên trong

nhóm (gồm những người cùng hoàn cảnh, môi trường, vấn đề…) cung cấp

thông tin cho nhau nhằm giúp đỡ nhau để đưa ra quyết định cũng như tiếp nhận hành vi mới góp phần ngăn ngừa các vấn đề cụ thể về sức khỏe hay xã hội

Trang 28

Mục đích của hoạt động giáo dục là nhằm hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy sự thay đổi về nhận thức và hành vi của từng cá nhân trong nhóm, khuyến khích phát triển các hành vi lành mạnh

Nội dung của giáo dục nhóm khá đa dạng, được tổ chức các hoạt động giáo dục về nhân cách, lối sống lành mạnh và kiến thức pháp luật cho trẻ, chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản, giao tiếp - ứng xử,…

Hình thức giáo dục nhóm là thông qua các buổi đào tạo, tập huấn, tư vấn nhóm

Vai trò của nhân viên Công tác xã hội: Đánh giá nhu cầu trang bị kiến thức của trẻ; Xây dựng kế hoạch thực hiện các chương trình; Triển khai hoạt động giáo dục cho trẻ; Đánh giá hiệu quả của hoạt động, rút kinh nghiệm

1.2.3.2 Hoạt động giải trí nhóm

Giải trí nhóm là hoạt động trong thời gian rảnh rỗi nhằm tạo ra sự thoải mái, giải tỏa được căng thẳng và tạo ra sự hứng khởi cho các thành viên trong nhóm, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các cá nhân trong nhóm

Mục đích của hoạt động giải trí nhóm là nhằm giải tỏa sự căng thẳng về tinh thần cho trẻ, giúp trẻ cảm thấy thư giãn, thảnh thơi Từ đó, bớt đi những suy nghĩ tiêu cực và hướng tới những điều tốt đẹp hơn

Nội dung của giải trí nhóm là tổ chức cho trẻ chuyến đi dã ngoại, tham quan các khu di tích lịch sử, thông qua đó kể cho các em nghe về truyền thống

vẻ vang của dân tộc; Tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu kiến thức về pháp luật” cho trẻ; Tổ chức cho trẻ đi thăm gương tiêu biểu như trẻ em nghèo vượt khó đạt thành tích cao trong học tập

Hình thức giải trí nhóm được thông qua các cuộc thi, chuyến đi dã ngoại, chiếu clip…

Vai trò của nhân viên công tác xã hội: Tìm hiểu nhu cầu giải trí của trẻ

là gì, tập hợp các nhu cầu, xây dựng kế hoạch chi tiết, phối hợp với các cá nhân, đơn vị (nếu cần) để triển khai tổ chức các hoạt động giải trí cho trẻ

Trang 29

1.2.3.3 Hoạt động phát triển kỹ năng xã hội nhóm

Hoạt động phát triển kỹ năng xã hội nhóm là hoạt động cung cấp các kỹ năng xã hội giúp trẻ dễ dàng tương tác, giao tiếp, hòa nhập và thích nghi với

xã hội

Mục đích của hoạt động giúp trẻ tự làm chủ được bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, nâng cao hiệu quả học tập và trở thành người có ích cho xã hội

Nội dung của hoạt động là tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng tự nhận thức, xác định giá trị, kiểm soát cảm xúc, ứng phó với căng thẳng, giải quyết vấn đề, lắng nghe tích cực, xác định mục tiêu, thể hiện sự cảm thông…

Hình thức phát triển kỹ năng xã hội nhóm là tổ chức các buổi tọa đàm, đào tạo, mời chuyên gia chia sẻ các kỹ năng sống

Vai trò của nhân viên công tác xã hội: Tìm hiểu thông tin, xây dựng kế hoạch, nội dung đào tạo, kết nối với giảng viên tổ chức trang bị và nâng cao

kỹ năng sống cho trẻ

1.2.3.4.Hoạt động hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm

Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học

Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất;

số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động

Hoạt động hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm là hoạt động giúp các cá nhân trong nhóm được trang bị các kiến thức, kỹ năng tìm kiếm thông tin về việc làm, chủ động phỏng vấn và tiếp cận được với nhà tuyển dụng Qua đó, trẻ có thể tìm được công việc yêu thích, phù hợp với năng lực, sở trường và trở thành người có ích cho xã hội

Trang 30

Mục đích của hoạt động là nhằm tạo việc làm cho trẻ, giúp trẻ hòa nhập cộng đồng

Vai trò của nhân viên công tác xã hội là tiến hành khảo sát nhu cầu, lập

kế hoạch tái hòa nhập, tiến hành liệu pháp nhóm, cung cấp thông tin về việc làm, kết nối với các cơ sở tư nhân và nhà nước để hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho trẻ

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em

vi phạm pháp luật

1.3.1 Yếu tố trình độ chuyên môn của nhân viên công tác xã hội

Nhân viên Công tác xã hội là những người có kiến thức, kỹ năng Họ là cầu nối giữa đối tượng với các nguồn lực hỗ trợ của xã hội và là người có trách nhiệm kết nối với việc làm của các phòng ban có liên hệ với đối tượng

để có được sự thống nhất nhằm đạt hiệu quả tối đa nguồn lực hỗ trợ cho đối tượng Chính vì thế Nhân viên xã hội có vai trò rất to lớn trong hoạt động hướng nghiệp, giáo dục, kết nối nguồn lực cho đối tượng Nhân viên Công tác

xã hội còn cần có các kĩ năng ghi chép, hệ thống hóa, tư liệu hóa

Trình độ chuyên môn luôn ảnh hưởng hoạt động Công tác xã hội Khi

có trình độ chuyên môn cao, nhân viên Công tác xã hội có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình như kết nối nguồn lực, tham vấn, tư vấn cho đối tượng, từ đó có thể trợ giúp cho đối tượng của mình một cách hiệu quả Nếu trình độ chuyên môn chưa cao, chưa sâu thì có thể khiến đối tượng chưa tin tưởng và mong muốn có được sự trợ giúp của mình Từ đó hạn chế hiệu quả trong hoạt động CTXH nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

1.3.2 Yếu tố đặc điểm đối tượng

Trẻ em vi phạm pháp luật là những người đang trong độ tuổi chưa phát

triển đầy đủ về tâm, sinh lý (thể chất và nhận thức) để tự bảo vệ mình trước

những tác động xấu của môi trường sống Các em thường không có đủ kinh nghiệm, bản lĩnh, tư duy, trí tuệ cần thiết để nhận thức đầy đủ về tính chất

Trang 31

nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà các em thực hiện, không phân tích, đánh giá được tình hình, lựa chọn đúng các giải pháp, các hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, pháp lý mà xã hội kỳ vọng hoặc bắt buộc thực hiện Nhận thức của các em còn non nớt, thiếu chín chắn, dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo bởi bạn bè xấu và những người xung quanh Đặc biệt, kinh nghiệm sống và khả năng kiềm chế bản thân còn hạn chế, nên hành vi dẫn đến

vi phạm pháp luật của các em thường bột phát, nhất thời, ý thức về các hành

vi vi phạm pháp luật nhìn chung chưa sâu sắc Vì thế, ở môi trường xấu nếu không được chăm sóc, giáo dục chu đáo, các em rất dễ bị lôi kéo vào con đường vi phạm pháp luật Bên cạnh đó, sự thiếu quan tâm của cha mẹ trong việc chăm lo, giáo dục con cái, một số em nghỉ học sớm nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế

Đặc biệt trẻ em vi phạm pháp luật thường là những em có tính cách rất ngang bướng, lỳ lợm Do đó rất khó để tiếp cận thu thập thông tin và thực hiện các hoạt động can thiệp, trợ giúp cho các em nếu như các em không mong muốn và hợp tác Điều này, gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của quá trình trợ giúp đối tượng Tuy nhiên với nguyên tắc là luôn chấp nhận thân chủ nên dù có gặp trở ngại hay khó khăn trong việc tiếp cận cũng như trợ giúp thì nhân viên công tác xã hội vẫn luôn phải cố gắng để có thể hoàn thành nhiệm

vụ của mình Đặc điểm của đối tượng là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động Công tác xã hội, sự tích cực của đối tượng sẽ khiến quá trình trợ giúp suôn sẻ hơn Do đó, vai trò của nhân viên công tác xã hội là rất quan trọng Không chỉ giúp trẻ nhận thức được hành vi phạm pháp của mình là sai

mà còn khơi gợi ở trẻ những năng lực tiềm tàng cũng như là những mặt hạn chế ở trẻ để từ đó đưa ra kế hoạch giáo dục, hỗ trợ hiệu quả nhất cho trẻ

1.3.3 Yếu tố kinh phí hoạt động

Kinh phí để thực hiện các hoạt động trợ giúp cho trẻ em vi phạm pháp luật hàng năm được trích từ nguồn kinh phí của chương trình bảo vệ, chăm

Trang 32

sóc trẻ em từ ngân sách nhà nước, ngân sách tỉnh Ngoài ra, còn có sự hỗ trợ kinh phí từ cộng đồng, gia đình của đối tượng Tuy nhiên, đối với hoạt động

hỗ trợ cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, Quảng Ninh chưa vận động được nguồn lực từ các tổ chức phi chính phủ Vì vậy, nguồn kinh phí cho hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật chưa nhiều, chưa đảm bảo được các hoạt động hỗ trợ cho trẻ Đặc biệt, đây là nhóm đối tượng rất cần sự hỗ trợ về mặt tư vấn, giáo dục và nâng cao các kỹ năng

xã hội, hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm… Tất cả những hoạt động đó rất cần

có nguồn kinh phí đảm bảo để thực hiện và duy trì Nếu không có thì rất khó

để triển khai và sẽ không đáp ứng được hiệu quả trong công tác trợ giúp cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật Do đó, kinh phí là một yếu tố rất quan trọng

và thiết thực Các hoạt động của Công tác xã hội trước hết phải xuất phát từ cái Tâm, nhưng nếu không có kinh phí để thực hiện những hoạt động cụ thể thì hiệu quả đạt được có thể sẽ không cao

1.3.4 Yếu tố nhận thức của gia đình, cộng đồng

Trong nhiều gia đình hiện nay, việc tổ chức đời sống gia đình, nuôi dạy con cái trong nhiều gia đình chưa được coi trọng, vẫn còn quan niệm “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, do đó, vấn đề thiếu sự quan tâm của cha mẹ là sự biện bạch cho việc thiếu trách nhiệm Nếu trẻ bị bỏ rơi, thiếu sự quan tâm, sẽ gây ảnh hưởng xấu đến việc hình thành nhân cách, là nguyên nhân khiến trẻ có những hành vi lệch chuẩn, tiêu cực, vi phạm pháp luật Có những bậc phụ huynh lại quá khắt khe với con cái, họ đặt ra những yêu cầu quá sức mà trẻ không thể thực hiện được, điều đó cũng là nguyên nhân hình thành nhân cách phức tạp ở trẻ Nhiều gia đình chưa có sự thống nhất về mục tiêu, quan niệm

và phương pháp xây dựng gia đình và giáo dục con cái, sự tác động của những tiêu cực trong đời sống gia đình sẽ gây ảnh hưởng xấu đến trẻ

Hầu hết những trẻ vi phạm pháp luật được phát hiện khi trẻ đã phạm tội

và có sự can thiệp của pháp luật, khi đó gia đình và nhà trường mới biết Gia

Trang 33

đình đổ lỗi cho nhà trường, nhà trường buộc tội lại gia đình còn xã hội thì coi đứa trẻ đó không được giáo dục, tỏ thái độ khinh miệt, coi thường Họ phán xét mà không nhìn thấy nguyên nhân sâu xa bên trong Những đứa trẻ này vốn không được gia đình, nhà trường quan tâm, chỉ bảo tận tình khiến chúng ngày càng lấn sâu vào con đường tội lỗi, bên cạnh đó cả xã hội coi thường, lên án khiến trẻ càng có những hành động và thái độ tiêu cực, khó sửa chữa sai lầm của mình Như vậy, khách quan mà nói, thái độ của xã hội với những trẻ phạm pháp là chưa tích cực

1.4 Cơ sở pháp lý về Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

1.4.1 Cơ sở pháp lý về trẻ em vi phạm pháp luật

- Theo công ước về quyền trẻ em

Theo điều 37 “các quốc gia là thành viên phải đảm bảo rằng”:

+ Không trẻ em nào phải chịu sự tra tấn, bị đối xử hoặc bị trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá Không được xử tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng phóng thích đối với những hành động

phạm pháp do những người dưới 18 tuổi gây ra

+ Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tuỳ tiện Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật pháp và chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn

thích hợp ngắn nhất

+ Những trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng phẩm giá cố hữu của con người, theo cách thức có tính đến những nhu cầu của những người ở lứa tuổi các em Đặc biệt, những trẻ em bị tước quyền

tự do phải được cách ly với những người lớn, trừ trường hợp không làm như vậy là vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em Các em phải có quyền duy trì sự tiếp xúc với gia đình của mình qua thư từ và các cuộc thăm viếng, trừ những trường

hợp ngoại lệ

Trang 34

+ Những trẻ em bị tước quyền tự do có quyền đòi hỏi được nhanh chóng hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và những sự giúp đỡ thích hợp khác, cũng như quyền chất vấn tính hợp pháp của việc tước quyền tự do của các em trước một toà án hay một cơ quan khác có thẩm quyền, độc lập và vô tư, và có quyền đòi

hỏi một quyết định nhanh chóng về bất kỳ hành đồng nào như vậy”

+ Theo tinh thần của công ước về quyền trẻ em dù trẻ em là người phạm tội nhưng do đặc điểm về thể chất và nhận thức của chúng cho nên cần

có sự đối xử đặc biệt Trong công ước này các quốc gia thành viên phải có

nghĩa vụ đảm bảo:

+ Không được sử dụng nhục hình đối với trẻ em; Không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với trẻ em; Không được tước quyền tự do của trẻ em một cách bất hợp pháp; Trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối

xử một cách nhân đạo, tôn trọng các quyền cố hữu của con người Trong trường hợp bị cách ly với người thân thì được quyền giữ liên lạc; Trẻ em bị

tước quyền tự do được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý

- Theo pháp luật Việt Nam

Bộ luật hình sự 1999 của Việt Nam đã qui định những chế định riêng biệt áp dụng cho trẻ em phạm tội Theo đó:

+ Trẻ em phạm tội có thể được đưa đến những cơ sở giáo dưỡng, giáo

dục tại xã phường hoặc gia đình

+ Không áp dụng các hình phạt tử hình hay tù chung thân cho trẻ em

phạm tội

+ Khung hình phạt áp dụng cho trẻ em bằng ½ hoặc ¾ khung hình phạt

áp dụng cho người thành niên tuỳ theo độ tuổi

+ Không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với trẻ em phạm tội

- Theo Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em số: 25/2004/QH11 ngày 15/06/2004 (Điều 58 Trẻ em vi phạm pháp luật)

+ Trẻ em vi phạm pháp luật được gia đình, nhà trường và xã hội giáo dục, giúp đỡ để sửa chữa sai lầm, có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy

Trang 35

tắc của đời sống xã hội và sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội Việc tổ chức giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện tại cộng đồng hoặc đưa vào trường giáo dưỡng

+ Việc xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em vi phạm pháp luật phải theo quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên

+ Trẻ em vi phạm pháp luật đã bị xử lý bằng biện pháp hành chính, hình sự cách ly khỏi cộng đồng trong một thời gian nhất định, khi trở về gia đình được Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện, giúp đỡ tiếp tục học văn hoá, học nghề và hỗ trợ tìm việc làm

+ Trường hợp trẻ em đã chấp hành xong thời hạn giáo dục hoặc hình phạt mà không có nơi nương tựa thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đưa vào cơ sở trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo điều kiện để được học nghề và có việc làm

- Theo Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 (Điều 71 Các biện pháp bảo vệ trẻ em vi phạm pháp luật…)

Trẻ em vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách nhiệm hình sự; hình phạt cải tạo không giam giữ; án treo theo quy định của Bộ luật hình sự; trẻ em đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc tù có thời hạn được áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật, phục hồi, tránh tái phạm

a) Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ hỗ trợ quy định tại Điểm c và Điểm d Khoản 2 Điều 49 của Luật này;

b) Các biện pháp bảo vệ cấp độ can thiệp quy định tại Điểm a và Điểm

e Khoản 2 Điều 50 của Luật này;

Trang 36

c) Tìm kiếm đoàn tụ gia đình nếu thuộc trường hợp không có nơi cư trú

ổn định;

d) Áp dụng biện pháp chăm sóc thay thế theo quy định của Luật này trong trường hợp trẻ em không còn hoặc không xác định được cha mẹ; không thể sống cùng cha, mẹ; không xác định được nơi cư trú trong thời gian thực hiện quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý

vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền;

đ) Hỗ trợ gia đình giám sát, quản lý, giáo dục trẻ em;

e) Các biện pháp bảo vệ khác quy định tại các điều 48, 49 và 50 của Luật này khi xét thấy thích hợp

1.4.2 Cơ sở pháp lý về Công tác xã hội đối nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật

- Ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 Mục tiêu giai đoạn 2010-2015 của Đề án bao gồm: Xây dựng và ban hành mã ngạch, chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức công tác xã hội, tiêu chuẩn đạo đức cán bộ, viên chức, nhân viên công tác xã hội; Xây dựng ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thống nhất để phát triển nghề công tác xã hội Giai đoạn 2016-2020: Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội theo các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội và theo nhóm đối tượng; phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên, cộng tác viên công tác

xã hội ở các cấp, phấn đấu tăng khoảng 50%; xã hội hóa các hoạt động công tác xã hội theo hướng khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn kỹ năng và cung cấp dịch vụ công tác xã hội Tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề công tác xã hội

Trang 37

- Quyết định số 1305/QĐ-LĐTBXH ngày 22/10/2010 của Bộ trưởng

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể thực hiện Đề án phát triển nghề Công tác xã hội, giai đoạn 2010 - 2015

- Thông tư số 08/2010/TTLT-BNV-BLĐTBXH ngày 25/8/2010 của Bộ Nội vụ và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chức danh mã số ngạch viên chức Công tác xã hội

- Thông tư số 34/2010/TT-BLĐTBXH ngày 08/11/2010 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức Công tác xã hội

- Thông tư số 11/2011/TTLT?BTC-BLĐTBXH ngày 26/01/2011 của

Bộ Tài Chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, quản lý

và sử dụng kinh phí thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề Công tác xã hội

- Kế hoạch số 1811/KH-UBND ngày 24/5/2011 của UBND tỉnh về việc triển khai thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;

- Quyết định số 2871/QĐ-UBND ngày 09/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án 32, Tổ giúp việc Ban chỉ đạo Đề án

32 tỉnh Quảng Ninh;

- Quyết định số 4028/QĐ-UBND ngày 19/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh trên cơ

sở Trung tâm Công tác xã hội trẻ em tỉnh Quảng Ninh

- Quyết định số 3380/QĐ - UBND ngày 30/10/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc quyết định phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh - cơ sở 2

Đây là căn cứ và là hành lang pháp lý để nhân viên công tác xã hội sử dụng trong các tiến trình hoạt động công tác xã hội của mình

Trang 38

Kết luận chương 1

Ngày nay, sự gia tăng của các sai lệch xã hội và vi phạm pháp luật, đặc biệt là trẻ em vi phạm pháp luật đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải được quan tâm và ngăn chặn kịp thời Tất cả những hành động, hành vi làm trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, có tác động có hại cho xã hội và con người từ những người dưới 18 được gọi là trẻ em vi phạm pháp luật

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ vi phạm pháp luật Việc trẻ vi phạm pháp luật để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân các em

mà còn cho cả gia đình, nhà trường và xã hội

Để phòng ngừa và hỗ trợ cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật, rất nhiều chính sách đã được ban hành trước đây và đặc biệt là ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020 Để đẩy lùi được vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật và làm tốt công tác hỗ trợ trẻ vi phạm pháp luật hòa nhập cộng đồng, rất cần sự chung tay của các cấp, ban, ngành, đoàn thể và đặc biệt là từ chính nội lực của các em

Trang 39

Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI

PHẠM PHÁP LUẬT TẠI TỈNH QUẢNG NINH

2.1 Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu

2.1.1 Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu

Quảng Ninh là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, với diện tích 611.081,3 km2, gồm 14 huyện, thị xã, thành phố với 186 xã, phường, thị trấn

Có đường bờ biển dài 250 km, đường biên giới dài 132 km giáp với Trung Quốc và cửa khẩu Quốc tế Móng Cái Theo xu hướng chung của cả nước, cùng với những mặt tích cực của quá trình phát triển là những tác động tiêu cực của sự phát triển: sự phân hóa và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các nhóm dân cư, giữa nông thôn và đô thị, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã làm thay đổi cấu trúc xã hội và nẩy sinh nhiều vấn

đề xã hội phức tạp, đặc biệt trong đó là vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật

Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2014, dân số của tỉnh là: 1.159.463 người, trong đó nữ là 566.184 người (49,1%), nam là 593.279 người (50,9%) Kết cấu dân số ở Quảng Ninh là "dân số trẻ", tỉ lệ trẻ em dưới

15 tuổi chiếm 37,6% Người già trên 60 tuổi (đối với nam) và trên 55 tuổi (đối với nữ) là 7,1% Tại các huyện miền núi, tỉ lệ trẻ em dưới tuổi lao động là 45% Tỷ lệ tăng dân số bình quân từ năm 1999 đến 2009 là 1,3% (trung bình

cả nước là 1,2%) [106]

Hiện nay, Quảng Ninh có tổng số 264.881 trẻ em (trong đó có 119.522

nữ, 145.359 nam) Số trẻ em dân tộc ít người là 35.656 người Số trẻ em thuộc diện hộ nghèo là 13.750 trẻ, hộ cận nghèo là 7.036 trẻ [60, tr.13] Số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoặc có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt là 44.828 em, trong đó, có 3.023 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (1.106 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi; 9 trẻ em là nạn nhân chất độc hóa học; 1.658 trẻ em

Trang 40

khuyết tật, tàn tật; 7 trẻ em bị xâm hại tình dục; 197 trẻ em nhiễm HIV/AIDS;

146 trẻ em vi phạm pháp luật), trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt

là 41.805 em (3.477 trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ; 2.119 trẻ em có cha mẹ ly hôn; 23.050 trẻ em con hộ nghèo; 11.280 trẻ em con hộ cận nghèo; 502 trẻ em sống trong gia đình có người vi phạm pháp luật; 542 trẻ em sống trong gia đình có người nhiễm HIV/AIDS; 466 trẻ em bỏ học; 108 trẻ em không biết chữ) [59, tr.8]

Về kinh tế: Quảng Ninh là một vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nổi

bật với ngành công nghiệp khai thác than và dịch vụ thương mại - du lịch Đây là tỉnh đứng thứ 5 về thu ngân sách nhà nước năm 2011 (sau TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu và Hải Phòng) Tính đến hết năm 2015, GDP đầu người đạt 3.900 USD/năm [102]

Về văn hóa - xã hội:Giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển Tỷ lệ thí sinh

đỗ tốt nghiệp năm học 2011 - 2012 đạt 99,37%, trong đó, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp

hệ THPT đạt 99,67%, hệ GDTX đạt 96,86% Cơ sở vật chất trường lớp được đảm bảo, đã có 314 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 50,7% Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 54%, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ước đạt 43% [81, tr.6]

Về an ninh và trật tự an toàn xã hội: Năm 2015, các loại tội phạm về

trật tự an toàn xã hội có xu hướng tăng cao hơn so với cùng kỳ, nhất là về tội phạm ma túy (xảy ra 760 vụ, làm chết 20 người, bị thương 258 người, tài sản thiệt hại 17 tỷ đồng So với cùng kỳ, số vụ tăng 3,5% (760/734), riêng trọng

án giảm 10,3% (139/155 vụ) Tỷ lệ điều tra, khám phá án chung đạt 84,6%,

trong đó, án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 94,2%) [81, tr.7]

Tóm lại, đặc điểm chung của tỉnh Quảng Ninh là cơ cấu dân số trẻ; kinh tế phát triển ổn định; giáo dục - đào tạo được chú trọng Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng, tính chất phạm tội ngày càng nguy hiểm để lại nhiều

Ngày đăng: 13/10/2016, 14:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Thị Xuân Mai (2010), Giáo trình nhập môn công tác xã hội, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình nhập môn công tác xã hội
Tác giả: Bùi Thị Xuân Mai
Nhà XB: Nxb Lao động - Xã hội
Năm: 2010
2. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2009), Định hướng chính sách và hệ thống văn bản pháp luật trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng chính sách và hệ thống văn bản pháp luật trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Tác giả: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Nhà XB: Nxb Lao động - Xã hội
Năm: 2009
3. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - UNICEF - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Hiệp hội dạy nghề và nghề công tác xã hội Việt Nam - USAID (2013), Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Nâng cao tính chuyên nghiệp công tác xã hội vì phát triển và hội nhập, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Nâng cao tính chuyên nghiệp công tác xã hội vì phát triển và hội nhập
Tác giả: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - UNICEF - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Hiệp hội dạy nghề và nghề công tác xã hội Việt Nam - USAID
Nhà XB: Nxb Đại học Sư phạm
Năm: 2013
4. Đàm Hữu Đắc (2010), Thực trạng vấn đề tệ nạn xã hội và công tác phòng chống tệ nạn trong thời kỳ đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng vấn đề tệ nạn xã hội và công tác phòng chống tệ nạn trong thời kỳ đổi mới
Tác giả: Đàm Hữu Đắc
Năm: 2010
5. Phạm Văn Hùng (2002), Phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật, Vấn đề Phụ nữ và Trẻ em thời kỳ 2001 - 2010, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật
Tác giả: Phạm Văn Hùng
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động Xã hội
Năm: 2002
6. Nguyễn Hải Hữu (2008), Khung kỹ thuật phát triển nghề công tác xã hội, Nxb thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khung kỹ thuật phát triển nghề công tác xã hội
Tác giả: Nguyễn Hải Hữu
Nhà XB: Nxb thống kê
Năm: 2008
7. Đoàn Thị Thanh Huyền (2012), Công tác xã hội đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về Công tác xã hội và An sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công tác xã hội đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh
Tác giả: Đoàn Thị Thanh Huyền
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2012
8. Đoàn Thị Thanh Huyền (2012), Tình trạng vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trong những năm gần đây, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng vi phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên trong những năm gần đây
Tác giả: Đoàn Thị Thanh Huyền
Năm: 2012
9. Đặng Cảnh Khanh (2015), Tội phạm vị thành niên, thực trạng, giải pháp phòng ngừa đấu và đấu tranh trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Nhà nước Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội phạm vị thành niên, thực trạng, giải pháp phòng ngừa đấu và đấu tranh trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay
Tác giả: Đặng Cảnh Khanh
Năm: 2015
10. Nguyễn Thị Thái Lan (2008), Giáo trình Công tác xã hội nhóm, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Công tác xã hội nhóm
Tác giả: Nguyễn Thị Thái Lan
Nhà XB: Nxb Lao động - Xã hội
Năm: 2008
11. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
Tác giả: Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2005
12. Nguyễn Thị Oanh (2005), Một cây làm chẳng nên non, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một cây làm chẳng nên non
Tác giả: Nguyễn Thị Oanh
Năm: 2005
13. Phòng PC45, Công an tỉnh Quảng Ninh (2015), Thực tiễn hoạt động điều tra tội phạm liên quan đến người chưa thành niên tại địa phương - Thực trạng và những kiến nghị đề xuất hoàn thiện, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực tiễn hoạt động điều tra tội phạm liên quan đến người chưa thành niên tại địa phương - Thực trạng và những kiến nghị đề xuất hoàn thiện
Tác giả: Phòng PC45, Công an tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2015
16. Đặng Lệ Thu (2012), Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 - Yên Mô - Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Công tác xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 - Yên Mô - Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp
Tác giả: Đặng Lệ Thu
Năm: 2012
17. Đặng Thị Thanh Thủy (2009), Tình hình trẻ em, trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tham luận tại Hội thảo “Xây dựng gia đình thời kỳ CNH - HĐH đất nước” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình trẻ em, trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh", Báo cáo tham luận tại Hội thảo “Xây dựng gia đình thời kỳ CNH - HĐH đất nước
Tác giả: Đặng Thị Thanh Thủy
Năm: 2009
18. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh (2012), Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Tác giả: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2012
20. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo hoạt động tư vấn, giai đoạn 2010 - 2015, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hoạt động tư vấn, giai đoạn 2010 - 2015
Tác giả: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2015
21. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo hoạt động mô hình phòng ngừa, giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật trong và sau giáo dưỡng, giai đoạn 2011 - 2015, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hoạt động mô hình phòng ngừa, giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật trong và sau giáo dưỡng, giai đoạn 2011 - 2015
Tác giả: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2015
22. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo hoạt động truyền thông của Trung tâm Công tác xã hội, giai đoạn 2010 - 2015, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hoạt động truyền thông của Trung tâm Công tác xã hội, giai đoạn 2010 - 2015
Tác giả: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2015
23. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển nghề công tác xã hội của Trung tâm Công tác xã hội, giai đoạn 2010-2015, Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển nghề công tác xã hội của Trung tâm Công tác xã hội, giai đoạn 2010-2015
Tác giả: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Quảng Ninh
Năm: 2015

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w