1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sự biến đổi không gian, thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng việt nam trước và sau năm 1975 (LV01916)

131 547 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 131
Dung lượng 0,94 MB

Nội dung

Có thể nói, trong các công trình nghiên cứu đi trước, các tác giả tuy có những lí giải, đánh giá không giống nhau thậm chí trái chiều về các tác phẩm viết về chiến tranh trước và sau 19

Trang 1

NGUYỄN THỊ THỦY

SỰ BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VIỆT NAM

TRƯỚC VÀ SAU NĂM 1975

Chuyên ngành: Lí luận văn học

Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Văn Nam

HÀ NỘI, 2016

Trang 2

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới TS Nguyễn Văn Nam, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này

Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Ngữ văn, tổ Lý luận văn học; Phòng Sau đại học; Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian của khóa học

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết và đồng nghiệp đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thủy

Trang 3

Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong Luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu của riêng tôi

Trong quá trình nghiên cứu, tôi có kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những kết quả nêu trong Luận văn không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác và chưa được công bố trong công trình khoa học nào

Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016

Học viên

Nguyễn Thị Thủy

Trang 4

1 Lí do chọn đề tài 1

2 Lịch sử vấn đề 2

3 Mục đích nghiên cứu 6

4 Nhiệm vụ nghiên cứu 6

5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6

6 Phương pháp nghiên cứu 6

7 Những đóng góp mới 7

8 Cấu trúc luận văn 7

NỘI DUNG 9

Chương 1 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM QUA MỐC LỊCH SỬ 1975 VÀ CÁC PHẠM TRÙ KHÔNG GIAN,THỜI GIAN NGHỆ THUẬT 9

1.1 Về bản chất và vị trí của các phạm trù không gian và thời gian nghệ thuật trong văn chương và trong tiểu thuyết 9

1.2.1 Khái lược chung về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết 9

1.1.2 Khái lược chung về thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết 13

1.2 Vài nét khái quát về sự vận động của tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975 17

1.2.1 Tiểu thuyết viết về chiến tranh những năm trước 1975 17

1.2.2 Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 21

Chương 2 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬTTRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975 28

2.1 Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975 28

2.1.1 Không gian bối cảnh lịch sử - xã hội 28

2.1.2 Không gian đời sống nhân vật 33

Trang 5

2.1.4.1 Điểm nhìn 41

2.1.4.2 Các biểu tượng điển hình 43

2.2 Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 47

2.2.1 Không gian bối cảnh lịch sử - xã hội 47

2.2.2 Không gian đời sống nhân vật 53

2.2.3 Không gian tâm lí và cách ứng xử của nhân vật với không gian 57

2.2.4 Các thủ pháp nghệ thuật thể hiện không gian 62

2.2.4.1 Điểm nhìn 62

2.2.4.2 Một số biểu tượng điển hình 66

Chương 3 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975 76

3.1 Thời gian nghệ thuật trong các tiểu thuyết Việt Nam trước 1975 76

3.1.1 Đặc điểm chung 76

3.1.1.1 Thời gian quá khứ 77

3.1.1.2 Thời gian hiện tại 79

3.1.1.3 Thời gian tương lai 82

3.1.2 Các thủ pháp nghệ thuật thể hiện thời gian 87

3.1.2.1 Thời gian tuyến tính 87

3.1.2.2 Thời gian trần thuật 88

3.2 Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975 89

3.2.1 Đặc điểm chung 89

3.2.1.1 Thời gian quá khứ 91

3.2.1.2 Thời gian hiện tại 103

3.2.1.3 Thời gian tương lai 108

Trang 6

3.2.2.2 Kĩ thuật dòng ý thức 115 KẾT LUẬN 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO 123

Trang 7

MỞ ĐẦU

1 Lí do chọn đề tài

Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết Những biến cố lịch sử, những đổi thay xã hội, thế giới bên trong con người, cõi hiện thực hay tâm linh là những câu hỏi lớn mà văn học vẫn tiếp tục trên hành trình tìm kiếm câu trả lời Là một đề tài khá quen thuộc, văn học viết về chiến tranh là sự phán ánh sinh động nhất bức tranh hiện thực cuộc sống trong những giai đoạn lịch sử đặc biệt của từng dân tộc

và của cả loài người Soi chiếu vào hai nền văn học phương Tây và phương Đông, chúng ta đủ nhận thấy những thành tựu xuất sắc khai thác từ đề tài này như: Iliade, Odisseé của Homere, bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoi, Chuông nguyện hồn ai của Hemingway, Tam quốc diễn nghĩa – La Quán Trung, Thủy Hử - Thi Nại Am

Văn học Việt Nam luôn song hành cùng với dòng chảy của lịch sử, một nghìn năm phong kiến phương Bắc đô hộ, hơn một trăm năm chịu sự áp bức của thực dân, đế quốc, và hiện nay, văn học vẫn tiếp tục là tấm gương phản chiếu cuộc sống hiện đại với những đổi thay của đất nước và con người

Đề tài trong văn học Việt Nam viết về chiến tranh từng bước trưởng thành qua mỗi chặng đường phát triển của văn học dân tộc Ở mỗi chặng đường ấy lại xuất hiện những cây bút tài năng với những cách tiếp cận và phản ánh từ những góc độ khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng

Nếu văn học trước 1975, các nhà văn đặt nhiệm vụ phản ánh một cách trung thực nhất những chặng đường lịch sử, những bước trưởng thành của cuộc kháng chiến, tập trung thể hiện nhân vật người lính – người anh hùng của thời đại… thì văn học sau 1975 vẫn tiếp tục hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình trong việc phản ánh đời sống con người thời hậu chiến như trong

suy nghĩ của nhà văn Chu Lai: “Chiến tranh là một siêu đề tài và người lính

Trang 8

cũng là siêu nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung không mòn nhẵn” Chính bởi vậy không chỉ dừng lại ở thời kì hậu chiến, văn học đương

đại cũng coi đây là một mảnh đất gợi nhiều cảm hứng cho các thế hệ nhà văn tìm tòi, sáng tạo

Do sự khác biệt về bối cảnh lịch sử và nhãn quan của người nghệ sĩ khi tiếp cận hiện thực, văn học Việt Nam trước và sau 1975 đã có sự vận động và đổi thay để chiếm lĩnh mảng đề tài vốn trở nên quen thuộc và đưa nó gần hơn với nhu cầu thị hiếu của bạn đọc Sự đổi mới ấy diễn ra một cách toàn diện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật

Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sự biến đổi không

gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975” với mục đích tạo ra cái nhìn toàn diện về các

tiểu thuyết tiêu biểu viết về đề tài này trên hai phương diện không gian và thời gian nghệ thuật

2 Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu tiểu thuyết chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau

1975, chúng tôi quan tâm đến vấn đề kết cấu tác phẩm, đặc biệt là sự biến đổi của nó trên hai phương diện không gian và thời gian nghệ thuật.Vì thế để có một cái nhìn toàn diện và hệ thống, chúng tôi xin điểm lại những nghiên cứu

đi trước

Như trên đã khẳng định, chiến tranh là một đề tài lớn, đề tài ấy lại được thể hiện bằng một thể loại chủ lực của nền văn học là tiểu thuyết nên mỗi khi tác phẩm ra đời đều nhận được sự quan tâm của nhiều nhà phê bình là tất yếu

Ở đây chúng tôi chỉ xin khái quát các ý kiến bàn về phương diện không gian

và thời gian nghệ thuật, vấn đề mà chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu

Theo Nguyễn Minh Châu, khi nhìn tiểu thuyết viết về chiến tranh những năm trước 1975, ông cho rằng những sự kiện và biến cố lịch sử thường

Trang 9

lấn át sự miêu tả con người Cốt truyện nói chung là chuỗi sự kiện theo logic

nhân quả Vì thế: “Cảm giác thời gian luôn gắn liền với sự kiện biến cố…nên

dù tác giả có sử dụng kĩ thuật đảo thời gian trần thuật thì người đọc vẫn có cảm giác câu chuyện kể gần với lối tiểu thuyết chương hồi truyền thống”

Còn trong bài viết: “Với chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải”, tác giả Tôn Phương Lan đánh giá: “Càng lùi về thập kỉ 80 sự thật

trong văn chương về chiến tranh càng được biểu hiện theo một hướng khác Một mặt ở chủ đề sáng tạo, quan niệm về hiện thực không có nghĩa là sự sao chép hiện thực ngoài đời Mặt khác bản thân người đọc cũng muốn đi vào tìm hiểu thế giới tinh thần của con người trong những diễn biến phức tạp Con người trở thành đối tượng khám phá của cả người viết lẫn người đọc, và hiện thực chiến tranh với đầy đủ tính chất ác liệt của nó đã được hiện lên qua số phận và thế giới nội tâm của con người…” Có thể nói, trong các công trình

nghiên cứu đi trước, các tác giả tuy có những lí giải, đánh giá không giống nhau thậm chí trái chiều về các tác phẩm viết về chiến tranh trước và sau

1975 nhưng nhìn chung họ đều thống nhất ở chỗ chính sự đổi thay của những biến cố lịch sử đã thay đổi cảm quan nghệ thuật, làm cho cách lựa chọn tác phẩm di chuyển trong không gian, thời gian cũng thêm đa dạng, phong phú

Bàn về một cuốn tiểu thuyết được coi là cú sốc lớn trong văn học viết

về chiến tranh cách mạng Việt Nam, G.S Trần Đình Sử khi nói về Thân phận tình yêu của Bảo Ninh đã nhận xét như sau: “Tác giả đã trừu tượng bớt đi cái

phần mục đích, chiến công, nhân tố thắng lợi để chỉ kể lại cuộc chiến tranh với tất cả tính chất… chiến tranh của nó… có thế nói tác giả đã lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta nhìn vào cái phía trong bị che khuất lấp chỗ trống chưa được lấp” Cũng nói về cuốn sách này ở phương diện kết cấu nghệ thuật, tác

giả Lê Quang Trang lại khẳng định: “Tác giả cố gắng là người không chịu đi

trên lối mòn Có sử dụng kết hợp giữa tính huyền thoại và chân thực Thi

Trang 10

pháp đồng hiện sử dụng có hiệu quả nối liền hiện thực và quá khứ; kí ức xa

và gần; ý thức và vô thức Tất cả thông qua dòng ý thức của Kiên làm nên số phận các nhân vật”

Với bài Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,

PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Bảo Ninh không chỉ chú ý đến

chuyện mà ông rất quan tâm đến kĩ thuật dựng truyện… Ở Việt Nam cũng từng

có một số nhà văn miêu tả dòng ý thức của các nhân vật một cách khá tinh tế như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… Nhưng với những cây bút này, kĩ thuật dòng ý thức chỉ tồn tại như một thủ pháp nghệ thuật có tính cục bộ Phải đến Nỗi buồn chiến tranh thì kĩ thuật dòng ý thức được vận dụng triệt để trở thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối cách tổ chức kết cấu của tác phẩm”

Khi bàn về tiểu thuyết chiến tranh của nhà văn Chu Lai, tác giả Nguyễn

Hương Giang có nhận xét: “Sự thật về chiến tranh hôm nay được nhìn lại là

một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của người “chịu trận”,

“người trong cuộc”

Cùng với miêu tả thế giới nhân vật phong phú, Chu Lai còn đóng góp cho tiểu thuyết đương đại Việt Nam ở phương diện nghệ thuật Nhà nghiên cứu

Phan Cự Đệ đánh giá: “Tiểu thuyết Chu Lai không chỉ đa dạng trong phương

thức tiếp cận mà cả trong biện pháp nghệ thuật, kết hợp với độc thoại nội tâm, dòng ý thức, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định”

Bên cạnh thời gian nghệ thuật, văn học viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975 cũng có sự thay đổi đáng kể về không gian nghệ

thuật Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tú đã chỉ ra “Năm mô hình không gian

trong tiểu thuyết sử thi hôm nay” bao gồm: Không gian chiến trường – cái

nhìn bi kịch hóa; Không gian đời thường – cái nhìn đời tư hóa, Không gian tâm linh, huyền thoại – cái nhìn lạ hóa; Hình tượng thiên nhiên - xu hướng

Trang 11

biểu tượng hóa Có thể thấy rằng nhân vật trong tiểu thuyết hiện nay có xu hướng đặt trong không gian đời tư nhiều hơn, con người trực tiếp đối diện với những vấn đề cá nhân, bản chất cá nhân được tự do lên tiếng, làm cho con người gần người hơn

Sự thay đổi về nghệ thuật trong các tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh hiện nay trong đó có không gian là bắt nguồn từ sự thay đổi về điểm nhìn Do vậy phần lớn các nhà nghiên cứu văn học hiện nay đều xuất phát từ điểm nhìn nghệ thuật để soi xét tác phẩm Nhận định chung về tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Mai Hải Oanh cho rằng: “Bên cạnh những tác phẩm thiết tạo điểm

nhìn quen thuộc là hình thức tổ chức điểm nhìn mới, trong đó chủ yếu là ba hiện tượng nổi bật: Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật; Sự luân phiên điểm nhìn người trần thuật; Gấp bội điểm nhìn”

Tác phẩm “Văn học và người lính” cũng khẳng định: “Tiểu thuyết về đề

tài chiến tranh hôm nay rất chú ý tạo ra nhiều điểm nhìn là luân phiên thay đổi, dịch chuyển điểm nhìn để tạo ra một sự dân chủ bình đẳng trong nhận xét, đánh giá” Tác giả đặc biệt chú ý tới loại điểm nhìn mới là điểm nhìn tâm linh tạo ra

cho tiểu thuyết sử thi hôm nay một giọng điệu mới là giọng điệu cảm thương

Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975 đa dạng, phong phú về hình thức biểu hiện, chân thực, táo bạo với nhiều suy ngẫm, nhiều đào xới, khám phá những nội dung rộng lớn hơn Kế thừa tiểu thuyết sử thi trước 1975, tiểu thuyết hôm nay

đã vượt qua giới hạn của chính nó để tiếp cận mảng đời sống còn nhức nhối

trong và sau chiến tranh: “Chiến tranh không chỉ là chia đôi thế giới, mà có

khi chiến tranh còn chia đôi cả lòng người, tình người”

Những ý kiến nhận định của các nhà nghiên cứu đi trước đã phần nào giúp chúng tôi hình dung được quá trình vận động, các hình thức tổ chức kết cấu nghệ thuật trong đó có không gian và thời gian của tiểu thuyết nói chung

và tiểu thuyết viết về chiến tranh nói riêng Để từ đó người viết triển khai

Trang 12

thành một đề tài khoa học, tìm hiểu sự biến đổi về không gian, thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết viết về chiến tranh ở thời kì khác nhau

3 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở thống kê, phân tích các tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975, người viết hy vọng chỉ ra những nét đặc sắc cũng như những biến đổi quan trọng về không gian, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm.Từ đó góp phần tạo ra cái nhìn toàn diện về tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam

4 Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm nổi bật sự biến đổi về không gian, thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975

5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1 Phạm vi nghiên cứu

Hai tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt nam trước 1975 là:

- Hòn đất (Anh Đức)

- Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)

Hai tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam sau 1975 là:

- Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)

- Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

5.2 Đối tượng nghiên cứu

Sự biến đổi về không gian, thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh cách mạng Việt Nam

6 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề ra chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

6.1 Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống

Phương pháp này giúp người nghiên cứu có thể chia đối tượng ra thành nhiều yếu tố để xem xét Những yếu tố đó có cùng một trình độ, có chức năng

Trang 13

và nhiệm vụ khác nhau đặc biệt giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống

6.2 Phương pháp so sánh, đối chiếu

Sử dụng phương pháp này, người viết đặt hai cuốn tiểu thuyết viết về

chiến tranh sau 1975 là Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai và Nỗi buồn chiến tranh

của Bảo Ninh trong sự so sánh với hai cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh

trước 1975 là Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Hòn Đất của Anh

Đức, từ đó nhận ra sự biến đổi không gian, thời gian nghệ thuật giữa chúng

6.3 Phương pháp tổng hợp

Sử dụng phương pháp này, người viết luận văn có cái nhìn toàn diện về

đề tài và thể loại văn học mà luận văn quan tâm nghiên cứu Từ đó ta nhận thấy những nét độc đáo, mới mẻ của các tác giả

6.4 Phương pháp nghiên cứu thi pháp học

Vận dụng lí thuyết thi pháp học nghệ thuật để làm nổi bật yếu tố không gian, thời gian trong bốn tiểu thuyết nói trên

8 Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn sẽ được triển khai trong ba chương:

Trang 14

Chương 1: Quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam qua mốc lịch

sử 1975 và các phạm trù không gian, thời gian nghệ thuật

Chương 2: Những đặc trưng của không gian nghệ thuật trong tiểu

thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975

Chương 3: Những đặc trưng của thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975

Trang 15

NỘI DUNG Chương 1 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM QUA MỐC LỊCH SỬ 1975 VÀ CÁC PHẠM TRÙ KHÔNG GIAN,

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

1.1 Về bản chất và vị trí của các phạm trù không gian và thời gian nghệ thuật trong văn chương và trong tiểu thuyết

1.2.1 Khái lược chung về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

Không gian nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của nghiên

cứu thi pháp học, bên cạnh các yếu tố như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, tác giả Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của tác phẩm chứa đựng những quan niệm về thế giới, là phương thức chiếm lĩnh thế giới của nhà văn Nó không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của một tác giả hay một giai đoạn văn học Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo của tác phẩm cũng như nghiên cứu loại hình của hiện

tượng nghệ thuật

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng là một vấn đề được bàn tới

từ lâu.Tuy nhiên các quan điểm đều gặp gỡ nhau trong quan niệm cho rằng: Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực Đó là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong không gian đó Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng thuộc hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trù thuộc hình thức nghệ thuật

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Không gian nghệ thuật là hình

thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó Sự

Trang 16

miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ điểm nhìn, diễn

ra trong một trường nhìn nhất định Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ

về không gian, mang tính chủ quan chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học” [17]

Trong Thi pháp học, khái niệm không gian nghệ thuật là: “một phạm

trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật Nếu thế giới của nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn” [20] Không có hình tượng nghệ thuật nào lại không có không gian

nghệ thuật và không có nhân vật nào lại không tồn tại trong một nền cảnh nhất định nào đó Ngay bản thân người kể chuyện cũng nhìn nhận sự việc trong một khoảng cách, một góc nhìn nhất định

Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống Do đó, không thể đồng nhất không gian trong tác phẩm văn học với không gian địa lí,

không gian vật lí được Trong Thi pháp Truyện Kiều, GS Trần Đình Sử có

nhận xét: “Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con

người đang sống, đang cảm thấy vị trí,số phận của mình trong đó và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy Không gian nghệ thuật có thể xem là không quyển tinh thần bao bọc cảm hứng của con người, là hiện tượng tâm linh nội cảm chứ không phải là hiện tượng vật lí hay tâm lí” [32] Ở tác phẩm,

không gian nghệ thuật là bối cảnh tự nhiên nhưng cũng là ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ Không gian nghệ thuật luôn chứa đựng trong lòng nó những cảnh huống con người và xã hội nhằm thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống Do đó không thể quy không gian nghệ thuật về sự phản ánh giản

đơn không gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất Và đúng như Từ điển

Trang 17

thuật ngữ văn học đã nhận định: “Ngoài không gian vật thể còn có không

gian tâm tưởng”

Không gian nghệ thuật luôn luôn có những hình thức biểu hiện phong phú và đa dạng, phù hợp với nội dung hiện thực rộng lớn mà tác phẩm đề cập tới Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết rất đa dạng và phong phú Các phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng – hẹp, cong – thẳng, bên này – bên kia, vững chắc – bập bênh được dùng nhiều trong không gian nghệ thuật nhằm biểu hiện các phạm vi giá trị, phẩm chất của đời sống xã hội Có không gian rộng và không gian hẹp, không gian vật thể và không gian tâm tưởng, không

gian tầm thấp và không gian tầm cao Ví dụ như trong tiểu thuyết Sông đông

êm đềm của Sôlôkhôp, không gian có khi được mở ra rộng lớn trên tất cả các

mặt trận miền Tây nước Nga trong thế chiến thứ nhất từ Ukraina, Balan cho đến Xanh Peter bua, Moskva nhưng có lúc lại bị thu hẹp lại hai bên bờ sông

Đông, trong một ngôi làng Côdăc ven sông Trong Sống mòn của Nam Cao

có không gian tâm tưởng và không gian vật thể Không gian vật thể chính là không gian thành thị chật hẹp với những lo toan, cơm áo, gạo, tiền và không gian nông thôn tù túng, nghèo nàn với những con người lam lũ, vất vả Cuối tác phẩm, không gian tâm tưởng xuất hiện, đó là hình ảnh “một xó nhà quê” hiện ra trong đầu óc Thứ: “Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mục ra” và rồi một không gian lạc quan hơn lại xuất hiện trong tâm tưởng: “Cuộc sống sẽ dịu dàng hơn, công bằng hơn” Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết có khi là không gian tầm thấp, có khi lại là không gian tầm cao Trong Sông đông êm đềm, không gian tầm thấp là cánh đồng cỏ mơn mởn gắn liền với cuộc sống của người dân Côdăc tự nhiên hoang dã Còn không gian tầm cao chính là không gian bầu trời với những tưởng tượng hết sức quái dị: “Bầu trời xám xịt, mây rách mướp ”; “Bầu trời đen kít, khoảng tối sẫm như thây ma ”

Trang 18

Một trong những ưu điểm đặc trưng nổi bật của không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết là khả năng mở rộng tối đa đến hết chiều kích Nếu thời gian trong tiểu thuyết là vô tận thì không gian nghệ thuật ở đó cũng là vô cùng

Không gian trong Sống mòn của Nam Cao được diễn tả rất rộng và đa dạng:

Không gian nông thôn, không gian thành thị, trường học, bệnh viện, nhà riêng Đây là ưu thế của tiểu thuyết mà các thể loại khác (ví dụ như kịch) không có được Với không gian này, Nam Cao đã phần nào khái quát được bộ mặt xã hội thời bấy giờ - một xã hội tù túng, bế tắc đến ngột thở Hay như trong

tiểu thuyết Tấn trò đời của Bandăc, không gian mở rộng khắp mọi miền đất

nước và nó còn là hình ảnh của con đường đời Theo đó, không gian ở đây không chỉ dừng lại ở không gian địa lí mà còn là không gian mang tính xã hội

Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS Trần Đình Sử còn cho rằng

“Không gian nghệ thuật là một hiện tượng khép kín như không gian trò

chơi”[31] Luật chơi ở đâu nằm trong quy ước chung giữa tác giả và người

đọc, do tác giả đề xuất và người đọc đồng cảm Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của bức tranh thế giới như: tôn giáo, đạo đức, xã hội, pháp luật Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới, tính cản trở Nó cho thấy cấu trúc bên trong của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ hay một giai đoạn văn học Nó cung cấp cơ sở khách quan

để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu lọai hình của các hình tượng nghệ thuật

Thế giới không gian nghệ thuật có thể chia thành các tiểu không gian, giữa các tiểu không gian có đường ranh giới có thể hoặc không thể vượt qua.Theo IU.Lootman, đó có thể là không gian điểm (địa điểm, địa danh), không gian tuyến hoặc không gian mặt phẳng Không gian điểm được xác định bằng các giới hạn và tính chất chức năng của nó Chẳng hạn như: Không

Trang 19

gian quảng trường có tính chất cộng đồng; Không gian bãi chiến trường là nơi chiến đấu; Không gian ngôi nhà là nơi diễn ra các sinh hoạt riêng tư Không gian tuyến, không gian mặt phẳng lại có thể vượt ra chiều rộng hoặc chiều thẳng đứng; Không gian tuyến tính có thể hướng ra chiều dài như không gian con đường, đường đời như trong thơ Tố Hữu hay Truyện Kiều

Tóm lại, không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới nghệ thuật Sự lặp lại các hình thức không gian tạo thành tính loại hình của không gian nghệ thuật Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính biểu trưng và tính quan niệm, thể hiện một cách nghĩ, cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả về vấn đề đang được nói tới trong tác phẩm của mình Từ những cơ sở lí luận về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết nói chung, ở phần tiếp theo chúng tôi xin đi sâu hơn vào các

mô hình không gian nghệ thuật cụ thể trong bốn cuốn tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Hòn Đất của Anh Đức, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

1.1.2 Khái lược chung về thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

Song hành với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Thời gian nghệ thuật là “hình thức nội tại của hình

tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian Và cái trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian nghệ thuật Sự phối hợp của hai yếu

tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [17] Cũng giống như không gian nghệ thuật, thời

gian nghệ thuật là hình thức tồn tại bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó Thời gian nghệ thuật không phải là thời gian khách quan, vận động theo trật tự một chiều, trước sau không thể đảo ngược mà là

Trang 20

thời gian được soi chiếu bởi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, được nhào nặn

và sáng tạo trở thành hình tượng nghệ thuật, phù hợp với quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và thế giới Vì thế, thời gian nghệ thuật có thể nhanh hay chậm, dài hay ngắn, liên tục hay đứt quãng theo một logic riêng không hoàn toàn trùng khớp với thời gian khách quan

Tuy nhiên, không phải mọi thứ liên quan đến thời gian trong tác phẩm văn học đều trở thành thời gian nghệ thuật Nhà lí luận Nga D.X.Likhachop

cho rằng: “Thời gian vừa là khách thể vừa là chủ thể và đồng thời là công cụ

phản ánh văn học Văn học ngày càng thấm nhuần ý thức và cảm giác về sự vận động của thế giới trong hình thức hết sức đa dạng của thời gian” và

“thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lưới nghệ thuật Nó buộc thời gian cú pháp và quan niệm triết học về thế giới phải phục vụ cho những quan niệm nghệ thuật của nó” [34] Trong tác phẩm văn chương, thời gian chỉ

trở thành thời gian nghệ thuật khi nó trực tiếp tác động vào nhân vật, vào môi trường mà ở đó diễn ra số phận của nhân vật và những biến động của tâm tư, tình cảm của con người Khi đó thời gian nghệ thuật cùng với các yếu tố khác như kết cấu, cốt truyện thể hiện quan niệm của nhà văn về con người và

cuộc đời Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu

cũng khẳng định: “Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải chỉ đơn

giản chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hình tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm” [32]

Là hình thức của hình tượng nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học,bởi nó thể hiện thực chất sáng tạo của người nghệ sĩ Thời gian trong tác phẩm phụ thuộc vào điểm nhìn của tác giả,vì vậy nó được sử dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn Và khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, “thời gian nghệ

Trang 21

thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ có thể bay vượt tới tương lai xa xôi,

có thể dồn nén một khoảng thời gian dài, trong chốc lát thành vô tận” Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau: Bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức, sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm Như vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong hình tượng nghệ thuật Khi nào ngòi bút của người nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi nhanh, khi nào dừng lại mô tả chi tiết thì thời gian chậm lại

Nếu như tác phẩm văn học có khả năng mở rộng tối đa không gian thì chiều dài của thời gian cũng được mở rộng tới hết chiều kích của nó Trong tác phẩm, thời gian hoàn toàn có thể kéo dài từ năm này sang năm khác mà

không phải gặp bất cứ sự cản trở nào Thời gian trong Sống mòn trải dài theo

cuộc sống của nhân vật Thứ - nhân vật trung tâm của tác phẩm: Từ khi Thứ rời Sài Gòn lập nghiệp đến khi y bị bệnh phải về quê đi dạy học để kiếm sống rồi xảy ra chuyện mất việc lại phải về nhà Thời gian cứ trải dài thể hiện sự quẩn quanh, bế tắc của cuộc đời nhân vật Cũng có khi thời gian trong tiểu

thuyết có thể chiếm cả một thế kỉ như trong Trăm năm cô đơn – tiểu thuyết

đã từng được giải Nôben văn học của nhà văn người Côlômbia – Macket Cốt truyện trải dài theo dòng thời gian của một dòng họ tồn tại đến bảy thế hệ trong hoàn cảnh bị lưu đầy vào cõi cô đơn để chạy trốn khỏi tội loạn luân Thời gian trong tiểu thuyết cũng có thể thay đổi nhịp điệu, tăng giảm tốc độ nhưng cũng có lúc dồn nén, vụt hiện rất khó nắm bắt Ví dụ như trong tác phẩm Một ngày dài hơn thế kỉ của Aimatov, thời gian được dồn nén nên cho

dù là tiểu thuyết nhưng câu chuyện chỉ được kể trong một ngày – đó là ngày đưa tang Kazangap và những hồi tưởng về quá khứ của Êđigây Mặt khác, sự xuất hiện của thời gian hồi tưởng qua sự nhớ lại của nhân vật diễn ra với nhịp điệu khác nhau, có khi chậm rãi,có khi dềnh dàng, có khi gấp gáp được tính bằng phút, bằng giây

Trang 22

Thời gian nghệ thuật có đặc điểm, cấu trúc riêng Người ta hay chú ý tới hai yếu tố chính của lớp thời gian, đó là thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật Nếu thời gian trần thuật là thời gian của người kể truyện, có

sự hữu hạn, phụ thuộc vào tốc độ của người kể, có thể đảo ngược sự việc thì thời gian được trần thuật là thời gian của sự việc được nói tới, trong đó có thời gian sự kiện và thời gian nhân vật Thời gian sự kiện là thời gian truyện,

“thời gian lịch sử”, là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ liên tục trước sau, nhân quả Thời gian nhân vật bao gồm tiểu sử và thời gian được nếm trải qua tâm hồn nhân vật Giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật

có mối quan hệ qua lại thân thiết với nhau và chính mối quan hệ này tạo ra thời gian nghệ thuật Gắn với từng phương thức, phương tiện biểu hiện, mỗi thể loại lại có một kiểu thời gian riêng Trong kịch do chia hồi, thời gian mỗi hồi được tính theo đồng hồ, thời gian giữa các hồi được tính theo lịch Thời gian trong tự sự và trữ tình thì đa dạng hơn Tuy nhiên cũng có sự khác biệt

cơ bản: Nếu thời gian trong thơ có độ nhòe lớn, không rõ ràng thì thời gian trong văn xuôi (trong đó có tiểu thuyết) cụ thể, mang tính xác định hơn

Thời gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học bởi văn học là nghệ thuật của thời gian Thời gian là đối tượng, chủ thể, là công

cụ miêu tả, là sự tự ý thức và cảm giác về sự vận động và thay đổi của thế giới trong các hình thức đa dạng của tác phẩm Thời gian trong tác phẩm văn học nói chung, trong văn vuôi và tiểu thuyết nói riêng là một yếu tố quan trọng, và

là phương tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung của tác phẩm Đó là lí do giải thích tại sao mà trong những sáng tạo nghệ thuật hiện đại, các nhà văn thường quan tâm đặc biệt tới thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Bởi lẽ làm tốt điều đó đồng nghĩa với việc đóng góp to lớn vào sự đổi mới kĩ thuật viết

và tạo nên sắc thái độc đáo của tiểu thuyết thời kì đổi mới

Trang 23

1.2 Vài nét khái quát về sự vận động của tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975

1.2.1 Tiểu thuyết viết về chiến tranh những năm trước 1975

Từ sau 1945, nền văn học mới luôn theo sát và phục vụ đắc lực cho hai cuộc kháng chiến vệ quốc Trong suốt ba mươi năm ấy, các nhà văn không ngừng ca ngợi cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc và thể hiện vào niềm tin chiến thắng vào tương lai tươi sáng của đất nước Chiến tranh như là một cuộc đảo lộn lớn trong lịch sử xã hội, một thử thách phi thường về bản lĩnh của dân tộc và của từng con người Riêng với mỗi cá nhân, chiến tranh gây nên một áp lực căng thẳng buộc con người phải chấp nhận một cuộc sống sàng lọc.Vàng thau được phân định rõ qua sự thử thách nghiêm ngặt trong chiến tranh Đặc điểm của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam là lâu dài, gian khổ và phức tạp Trong thời kì cuộc chiến tranh đang diễn ra, văn học có nhiệm vụ cổ vũ, động viên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân và thắp lên ngọn lửa lí tưởng yêu nước cho con người.Vì vậy, phản ánh kịp thời

và cổ vũ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng là mục đích tối cao của văn

học Nguyễn Minh Châu cho rằng trước 1975 “những cuốn tiểu thuyết viết về

chiến tranh được mang dáng dấp gần với thể loại anh hùng ca” Cảm hứng

chủ đạo trong tiểu thuyết chiến tranh khi đó là chủ nghĩa yêu nước, khát vọng

tự do, độc lập, là niềm tự hào về sự nghiệp cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt

Nam anh hùng Hoài Thanh nhận định: “Thực đẹp vô cùng cái quang cảnh

của một dân tộc vươn mình đến ánh sáng, cảnh tưng bừng của cả dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy Tôi cảm thấy khắp nơi ở quanh tôi và trong lòng tôi một cuộc tái sinh màu nhiệm” Đó chính là niềm hạnh phúc tự đáy lòng của người

dân lần đầu tiên được làm chủ vận mệnh cuộc đởi mình, được thấy rõ sức mạnh của dân tộc mình Trong chiến tranh họ càng hiểu rõ hơn bao giờ hết, chân lí “không có gì quý hơn độc lập, tự do” Đã có bao lớp thanh niên xúc

Trang 24

động “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù” Với họ đường ra

trận là “đường vui” (Nguyễn Tuân), khuôn mặt người “bừng bừng như say”

(Dấu chân người lính) Cảnh ra trận trong nhiều trang viết thấm đẫm chất thơ và chất lãng mạn Anh phi công trong Vùng trời của Hữu Mai ngồi trong

máy bay mà vẫn nhận thấy thiên nhiên thật huyền diệu “Trên đầu anh có một

trời sao và dưới chân anh cũng có một trời sao của đất nước” Còn nhân vật

Thiêm (Mẫn và Tôi của Phan Tứ) thì thổ lộ: “Bỗng dưng tôi bắt gặp một

bông hoa vui đang nở ngập ngừng trong tôi, tỏa hương quen xông đầu tôi lịm dần Tôi nhận ra rồi Đó là niềm vui được đánh giặc” Những lời đẹp nhất

dành cho người anh hùng có chiến công oanh liệt, họ là “thứ thép được luyện

lửa nhiều rồi, đem đức súng hay rèn lưỡi cày đều ăn chịu cả” Âm hưởng sử

thi hào hùng sảng khoái, cảm hứng ngợi ca cuộc chiến đấu hiện tại và niềm tin tưởng mãnh liệt vào ngày mai đã trở thành đặc điểm chủ đạo trong văn xuôi viết về chiến tranh trước năm 1975 Nguồn cảm hứng chủ đạo ấy sẽ chi phối cách tổ chức cốt truyện, cách xây dựng nhân vật và sự lựa chọn ngôn ngữ, giọng điệu, tổ chức không gian, thời gian nghệ thuật Nhìn chung, cốt truyện của văn xuôi Việt Nam trước năm 1975 thường được xây dựng trên cơ

sở xung đột địch - ta Nhà văn thường đẩy xung đột đến mức gay gắt, quyết liệt qua việc thể hiện tội ác của kẻ thù với nhân dân hoặc với một vài nhân vật nào đó trong tác phẩm Đó là việc kẻ thù thả thuốc độc xuống suối và thằng

Xăm chém đứt đầu chị Sứ một cách man rợ (Hòn Đất - Anh Đức) Việc xây

dựng xung đột như vậy làm nổi bật sự đối lập giữa chính nghĩa của ta và phi nghĩa của kẻ địch, qua đó chỉ ra nguyên nhân làm nên sức mạnh để quân dân

ta đánh thắng giặc

Cách xây dựng nhân vật trong văn xuôi chiến tranh trước năm 1975

mang nhiều nét đặc trưng riêng Trần Đình Sử cho rằng: “Nhân vật văn học

nào cũng biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo một quan điểm

Trang 25

nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn” Cách xây dựng nhân vật

phụ thuộc vào quan niệm nghệ thuật về con người trong từng thời kỳ văn học

Sứ mệnh “phục vụ kháng chiến” đã hướng nhà văn tập trung thể hiện con

người quần chúng, những người thuộc ba thành phần cơ bản: công - nông - binh Các chủng loại nhân vật khác ít xuất hiện, hoặc nếu có cũng rất mờ nhạt Phù hợp với cách tổ chức cốt truyện trên cơ sở xung đột địch - ta, nhân vật được phân ra hai tuyến rạch ròi chính diện, phản diện Dụng công và tâm huyết của nhà văn luôn dành cho các nhân vật chính diện Đó phần lớn là những người anh hùng Họ mang phẩm chất của nhân vật sử thi: là đại diện cho vẻ đẹp cộng đồng, tầm vóc núi sông của lịch sử, luôn chiến thắng hoàn cảnh Họ sống chủ yếu trong tư cách con người chính trị, con người công dân

Bị kẻ thù treo lơ lửng trên cây dừa, chị Sứ tự nhủ: “Bữa nay có lẽ mình chết

Nhưng mình chỉ thấy tiếc chứ không ân hận mắc cỡ gì cả Tới phút này đối với Đảng, mình vẫn còn y nguyên, như chị Minh Khai, chị Võ Thị Sáu nên

từ phút này trở đi,mình cũng phải giữ được như vậy ” Ngay tình yêu giữa

các nhân vật cũng đẫm sắc thái lí trí, chính trị Đó là tình yêu của Thiêm và Mẫn, Ngạn và Quyên Nhìn chung nhân vật được lí tưởng hóa một chiều Người đọc ít gặp những trăn trở đời thường trong tâm hồn họ, họ rất ít khi buồn, không biết đến cô đơn, vì mọi cảm xúc đều gắn chặt với vận mệnh dân tộc Một bức thư ngắn ngủi của người vợ hậu phương gửi cho chồng nơi

tuyền tuyến vẫn không quên thông báo: “ở nhà mọi người đều bình yên và

đang tích cực sản xuất để góp phần cùng tiền tuyến chống Mĩ cứu nước” Khi

gặp con trai ngoài mặt trận, ông bố nói ngay: “Chốc nữa anh báo cáo với tôi

ngay công việc anh đã làm từ ngày đi bộ đội Quyết tâm thư khi đi chiến trường anh viết ra sao?”

Văn học viết về chiến tranh trước 1975 nổi bật tính đơn thanh trong

giọng điệu, ngôn ngữ Ta biết rằng: “Ngôn ngữ và cái nhìn nhân vật luôn bị

Trang 26

chi phối bởi tầm nhìn và phụ thuộc vào ngữ lưu của người kể chuyện”, mà

người cầm bút của nước ta giai đoạn này luôn đứng từ góc độ đại diện cho cách mạng, cho kinh nghiệm cộng đồng nên ngôn ngữ văn học luôn đậm chất

lí tưởng Ngay thứ ngôn ngữ đời thường trong nhiều tác phẩm văn xuôi chiến

tranh cũng vậy: “Tôi chia lửa cho đồng chí đó nghen”, “Thế mới biết bộ đội

mình làm việc gì cũng thạo mình không ngờ đồng chí Cận làm việc thạo vậy” Cảm hứng sử thi buộc các nhà văn tìm đến chất giọng hào hùng, thành

kính Hào sảng hoặc trữ tình thống thiết là những sắc giọng thể hiện ý thức nhà văn về tính chất chính nghĩa và vẻ đẹp của cuộc kháng chiến Hiện thực

chiến tranh thường được thi vị hóa, được “tráng một lớp men trữ tình hơi

dày” như sau này Nguyễn Minh Châu nhìn lại

Nguyễn Minh Châu thừa nhận trong văn xuôi chiến tranh, những sự kiện và biến cố lịch sử thường lấn át sự miêu tả con người Cốt truyện nói chung luôn là chuỗi những sự kiện lôgic theo quan hệ nhân – quả.Vì thế,

“Cảm giác thời gian luôn gắn với sự kiện, biến cố nên dù tác giả có sử dụng

kĩ thuật đảo thời gian trần thuật thì người đọc vẫn có cảm giác câu chuyện được kể gần với lối tiểu thuyết chương hồi truyền thống” Khảo sát qua một

số tác phẩm ta thấy rất rõ điều đó.Trật tự trần thuật trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu và Hòn Đất của Anh Đức hoàn toàn theo trình

tự thời gian Dấu chân người lính viết về chiến dịch Khe Sanh theo trình tự: Hành quân, Chiến dịch bao vây, Đất giải phóng Hòn Đất bám sát theo cuộc

chiến đấu của đội quân du kích trong hang Hòn và cuộc đấu tranh phối hợp của nhân dân Hòn Đất từ lúc kẻ thù kéo tới bao vây hòng tiêu diệt lực lượng quân ta cho đến lúc thua cuộc phải rút lui Tuy có một số đoạn quay ngược về quá khứ song dường như các đoạn này chỉ có tác dụng soi chiếu nội tâm nhân

vật chứ không tạo ấn tượng riêng nào về thời gian Truyện Mẫn và tôi do tôi

(Thiêm) kể lại, đôi khi có vài đoạn hồi tưởng lại thời kì Thiêm chưa vào bộ

Trang 27

đội song thực chất câu chuyện vẫn được kể theo trình tự thời gian tuyến tính, mối tình Mẫn - Thiêm hình thành từ và ngày càng gắn bó cùng sự trưởng thành của đội quân du kích Tam Sa từ lúc còn đầy khó khăn đến khi đủ lớn mạnh để đương đầu với kẻ thù Cảnh trần thuật theo thời gian tuyến tính như vậy là phù hợp với nhãn quan chính trị Mọi xung đột làm nền cho tác phẩm đều là xung đột có tính lịch sử - xã hội Để phù hợp với tầm vóc của người anh hùng, nhà văn thường cho nhân vật hoạt động trong không gian mở, hoành tráng, không gian sinh hoạt cộng đồng Đó là môi trường lí tưởng nhất

để mỗi cá nhân trưởng thành, được hoàn thiện, tìm được niềm tin cậy và sức mạnh bất khả chiến bại

Nhìn chung, tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng Việt Nam trước

1975 mang khuynh hướng sử thi rõ nét Âm hưởng này đã chi phối đề tài, cảm hứng và cách thể hiện nghệ thuật của các nhà văn trong quá trình sáng tác Tuy có những thành công nhất định song có thể nói các sáng tác viết về chiến tranh giai đoạn này chịu ảnh hưởng của tư duy sử thi nên nó vẫn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc phản ánh hiện thực, xây dựng nhân vật và nghệ thuật thể hiện

1.2.2 Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975

Hòa bình lập lại, bên cạnh cảm hứng về đề tài sản xuất, cảm hứng thế

sự, đời tư thì cảm hứng về đề tài chiến tranh vẫn thu được sự quan tâm của nhiều cây bút Khoảng mười năm sau chiến tranh, văn học Việt Nam nói chung chưa có biến động nhiều,G.S Trần Đình Sử gọi chung 30 năm văn học

(1945 - 1975) là “văn học sử thi” Song nhìn kĩ thì thấy văn xuôi Việt Nam

vừa có nét giống với giai đoạn trước vừa bắt đầu có sự thay đổi: Một số tác

phẩm đã có sự quan tâm hơn đến đời sống con người Miền cháy (1977) của

Nguyễn Minh Châu vẫn viết theo cảm hứng sử thi nhưng đã để lại dư vị buồn

về số phận bi kịch của mẹ Êm, một người mẹ nhân hậu, hết lòng vì cách mạng

Trang 28

có bốn đời chồng và sáu người con liệt sĩ Đồng thời tác phẩm còn gợi ra những lo âu về thời hậu chiến như vấn đề xóa bỏ hận thù, vấn đề hòa nhập với

hoàn cảnh mới Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu thấp

thoáng nỗi lo âu về sự thiếu khả năng thích nghi với cuộc sống đời thường, ở những người lính đã khá quen với đời sống trận mạc Nhân vật Phong cho

rằng “đánh nhau khoái chứ” Anh thấy “Ở nhà vài ngày đã chán Hình như tôi

sống với gia đình không hợp” Còn nhân vật Nhàn thì “Ngay giữa lúc này, giữa bốn bức tường nhà mình, anh đang sống ở đây, ăn những bữa cơm và hưởng tình yêu sum họp ở đây, nhưng anh vẫn thấy anh thuộc về một đời sống khác, một guồng mày khác, một thế giới khác” Những người lính như Phong

và Nhàn đang bắt đầu xa rời đời thường, có thể họ sẽ không tìm được hạnh phúc khi đất nước hòa bình

Cái nhìn về hiện thực chiến tranh cũng có dấu hiệu thay đổi Ký sự

Miền đất lửa của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh đã thể hiện sự ác liệt của chiến tranh và cái giá máu xương mà nhân dân phải trả cho mỗi chiến thắng Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh chọn thời điêm khốc liệt, gay cấn của chiến

tranh để khám phá tâm lý, tính cách của con người Những thương vong, tổn

thất cũng được nói tới nhiều hơn, thật hơn Trong năm 1975, Họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân có những cảnh: “Từ phía dưới, một tốp bộ đôi đi

đến rời rạc,mang vác lếch thếch Pháo binh sư đoàn không át được pháo binh địch, cao xạ sư đoàn không khống chế được may bay địch, bộ binh chỉ còn biết phơi lưng trên chốt cho chúng nó giã gạo”

Phải đến giữa thập kỉ tám mươi, văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi chiến tranh nói riêng mới thực sự đổi mới Nhìn chiến tranh qua số phận con người, cảm hứng thế sự dần dần thay thế cho cảm hứng sử thi, cảm hứng nhân bản, cảm hứng bi kịch và nhu cầu thể hiện nỗi buồn đã trở thành những cảm hứng, chủ đạo của nhiều tác phẩm Tính bất thường, khốc liệt của chiến tranh

Trang 29

không chỉ bộc lộ qua những đau thương chết chóc mà còn là tình trạng hủy hoại tâm hồn, xói mòn nhân tính Ở nhiều tác phẩm, bi kịch của thời hậu chiến đã lấn át tâm thế lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào một tương lai toàn màu hồng của con người trong văn học sau năm 1975

Trong khoảng mười năm sau khi chiến tranh kết thúc (từ 1975 – 1985),

các nhà văn vẫn có thiên hướng tập trung khám phá cuộc chiến theo “quán

tính cũ” (Nguyên Ngọc) Trong khi khá nhiều tác phẩm, âm hưởng sử thi vẫn

còn in đậm So với các giai đoạn trước, thời kì chuyển tiếp từ văn học sử thi sang văn học thời hậu chiến này, tiểu thuyết viết về chiến tranh không có nhiều tác phẩm nổi bật Tuy vậy vẫn có một số tác giả tìm tòi đổi mới trong nội dung và cách thức thể hiện, đặc biệt là từ những năm 80 trở về sau Ở các sáng tác này, chiến tranh được tiếp cận ở cự li gần, cảm hứng sử thi nhạt dần

và thay vào đó là cảm hứng thế sự Hiện thực chiến tranh đã được đào sâu hơn với cái nhìn chân thực Không chỉ bó hẹp trong cái nhìn giai cấp, dân tộc, con người đã nhìn nhận từ góc có thiên độ nhân bản và nhân loại Với góc nhìn này, nhà văn đã chỉ ra sự khốc liệt và ghê rợn của chiến tranh đối với người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu ở cả hai phía Bên cạnh con người đạo lý, con người tự nhiên cũng được chú ý khai thác Bên cạnh con người ý thức còn

có con người tâm linh, con người vô thức

Cái nhìn nhiều chiều ấy giúp các nhà văn xây dựng được những nhân

vật mới mẻ, chân thực Nhân vật phức tạp hơn và cũng “đời” hơn chứ không

đơn giản, một chiều như đa phần nhân vật trong văn xuôi chiến tranh trước năm 1975 Văn xuôi thời kì đổi mới vẫn có những nhân vật là chiến sĩ anh hùng từng vào sinh ra tử, không nao núng trước bom đạn kẻ thù (Liễu trong

Sao đổi ngôi của Chu Văn, Phác trong Mùa trái cóc ở miền Nam của Nguyễn

Minh Châu ) Song thực ra, nhà văn không hoàn toàn tập trung bút lực để thể hiện vẻ đẹp của con người anh hùng như văn học sử thi giai đoạn trước

Trang 30

mà hình như họ bận tâm nhiều hơn bởi người anh hùng chiến trận đang bị đẩy vào tình thế phức tạp Từ thực tế thời hậu chiến, nhà văn có chung cảm nhận bước ra từ chiến tranh khó lòng mà tìm được cuộc sống bình thường nữa, cho

dù bề ngoài họ có vẻ la những người thành đạt Bởi cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng đã gây nên những chấn thương tinh thần cho cả hai phe tham chiến

Bi kịch mà con người phải chịu đựng thật kinh khủng mà cũng muôn hình vạn trạng Đó có thể là bi kịch của những người phụ nữ đảm đang chung thủy ở

hậu phương như Hạnh, Dâu, Thắm (Bến không chồng của Dương Hướng);

hay bi kịch của những anh hùng chỉ có khả năng tỏa sáng trong chiến trận, chỉ quen với những nguyên tắc ứng xử thời chiến mà xa lạ với cái đa đoan phức

tạp của thời bình như các nhân vật Thuấn (Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp), Vạn và Nghĩa (Bến Không chồng) Sự sống lại của Lực (trong Cỏ lau

của Nguyễn Minh Châu) đã khiến anh và Thai rơi vào cảnh ngộ xiết bao chua

chát Giang Minh Sài (trong Thời xa vắng của Lê Lựu) là mẫu anh hùng rơi

vào bi kịch lần đầu tiên được biết tới trong văn học của chúng ta Quy và

Cường trong Chim én bay của Nguyễn Trí Huân cũng rơi vào bi kịch chẳng

giống ai Sau cuộc chiến, tất cả đều không thể có một gia đình hạnh phúc, cho

dù họ cố gắng và đầy thiện chí Sau chiến tranh, một số nhà văn còn chú ý khai thác tâm trạng bất ổn ở những nhân vật bị chấn thương – những người

tưởng đã quen với hoàn cảnh “sự chém giết đã trở thành hành động tất yếu

của con người” Nguyễn Trí Huân viết thật xúc động về những day dứt, dằn

vặt đầy nhân tính của một nữ chiến sĩ biệt động anh hùng Kiểu nhân vật “lạc

thời” xuất hiện tương đối nhiều trong văn xuôi chiến tranh Họ có thể là

những người lạc thời ngay khi cả dân tộc đang chiến đấu chống đế quốc Mĩ

như cha Kiên, dượng Kiên, Phương (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh)

Nhưng nhiều hơn cả là những con người lạc thời, lạc loài sau thời chiến Trở

về sống cùng gia đình sau một đời chinh chiến hào hùng, ông tướng của

Trang 31

Nguyễn Huy Thiệp thốt lên “Sao tôi cứ như lạc loài!” Liễu trong Sao đổi ngôi của Chu Văn – một nữ công binh xinh đẹp và anh hùng ở Trường Sơn

năm nào, đã trở thành con người hoài nghi, chán nản, bất lực trog thời bình

Trong Mùa trái cóc ở miền Nam, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên một thực

trạng đau xót: những người lính thực thụ từng vào sinh ra tử đã trở thành thất thế trước những kẻ cơ hội hèn nhát Khi tiếng súng vừa ngưng được mấy ngày thì tiểu đoàn trưởng Toàn và đại đội trưởng Đĩnh liền tìm cách vô hiệu hóa và tống giam một người đồng đội dũng cảm, tình nghĩa như Phác chỉ vì anh sắp được phong anh hùng Phác không chết vì bom đạn kẻ thù, không chết khi

“đột phá khẩu” tiêu diệt căn cứ “Con nhím” mà chết vì thói cơ hội độc đoán

của Toàn!Những lời nói của chiến sĩ tên Lưu mới chua xót làm sao: “Hòa

bình vừa được có mấy ngày, thế mà ở bốn đại đội của chúng ta không biết là bao nhiêu anh em tốt phải khoác ba lô ra đi khỏi tiểu đoàn này!” Nhân vật

anh hùng trong văn xuôi chiến tranh trước 1975 đều có tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ một cách hoàn hảo.Văn học thời hậu chiến lại chú ý khai thác những vùng khuất tối trong tâm hồn họ Họ cũng có thói xấu, có những toan tính và chịu sự ràng buộc của tập tục, của dư luận xung quanh như tất cả những người

bình thường khác.Trong một phút mềm lòng, Nghĩa (Bến không chồng) đã

không giữ được sự thủy chung với Hạnh, rồi trước áp lực của dòng họ, anh buộc phải li hôn vì Hạnh không sinh con cho anh Cường, đội trưởng đội chim én năm xưa, nay đã trở thành Chủ tịch huyện không dám lấy Quy vì chị

không còn khả năng làm mẹ nữa Vì tắc trách và “nhát gan sợ chết trong một

lúc trận đánh quá ác liệt” mà Lực trong Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu) đã để

cho trận tập kích của bộ đội thất bại Sau đó vì tự ái mà anh lại đẩy người liên lạc vào chỗ chết Nhà văn dũng cảm vạch trần thứ kẻ thù đáng sợ nhất, cái không ai ngờ nhất là thói nhẫn tâm, vô cảm, độc tài trong những kẻ sống ngay

cạnh ta – “cái ác mọc lên từ máu mình”

Trang 32

Ngôn ngữ giàu tính đối thoại và sự đa dạng về giọng điệu là đặc điểm của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết chiến tranh thời đổi mới nói riêng Trong tác phẩm, cái nhìn của nhân vật và tác giả không giống nhau Nhà văn không phải là người phán truyền chân lý nữa mà họ trở thành người đối thoại bình đẳng với bạn đọc Giọng người kể truyện thường là giọng giễu nhại, tự

trào Đây là một ví dụ: “Nhờ nghe hóng tôi biết được khối truyện, tôi biết cả

trong nhà và sau trận đánh cuối cùng ấy đã chứa đựng biết bao chuyện thật

và chuyện giả dối đến mức đau lòng Cái sự thật nghiệt ngã sẽ lắng đọng lại mãi trong trí nhớ những thằng lính đang ngồi với tôi đây nhưng nay mai mỗi đứa một ngả, còn lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng và sạch sẽ”

Từ sự thay đổi về cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về con người, cách

tổ chức cốt truyện trong nhiều tác phẩm văn xuôi chiến tranh sau năm 1975 cũng có nhiều thay đổi Bên cạnh cách tổ chức cốt truyện theo kiểu truyền

thống như ở năm 1975, Họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà của Nguyễn Minh Châu nhiều nhà văn đã

dùng nghệ thuật xáo trộn trật tự trần thuật và tổ chức cốt truyện theo kiểu

đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại Có thể kể đến Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Không phải trò đùa của Khuất

Quang Thụy Tất nhiên tương quan giữa không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong quá khứ và trong hiện tại ở mỗi tác phẩm là không giống nhau.Theo chúng tôi, cách tổ chức cốt truyện này đạt được hiệu quả đặc biệt khi thể hiện một sự thật nghiệt ngã: Với những người bước ra từ chiến tranh thì đoạn đời có ý nghĩa nhất đã mãi lùi xa theo những năm tháng khốc liệt rồi, hiện tại họ khó lòng thích nghi với cuộc sống hòa bình mà bản thân và đồng đội phải đổ xương máu mới có được Khi nhìn chiến tranh qua số phận con người, các nhà văn đã tạo sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện tại, từ đó đặt ra những câu hỏi nhân văn nghiêm túc Đó là cách can dự của người nghệ

sĩ vào cuộc sống cộng đồng ở thời điểm hiện tại

Trang 33

Qua những tác phẩm văn xuôi nói chung và tiểu thuyết chiến tranh thời

kì đổi mới nói riêng có thể thấy được bên cạnh sự kế thừa truyền thống, một

số nhà văn đã có những đột phá trong việc xử lý hiện thực để đem đến cho độc giả những tác phẩm nghệ thuật có nhiều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức Đặt trong mạch vận động của văn xuôi chiến tranh, bốn cuốn tiểu thuyết

Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Hòn đất của Anh Đức, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là những

thành công vượt trội, đặc biệt là việc xây dựng những mô hình không gian nghệ thuật và tổ chức những dạng thức thời gian nghệ thuật độc đáo

Tiểu kết chương 1

Trên đây là cái nhìn khái quát nhất về quá trình vận động của tiểu thuyết chiến tranh cách mạng Việt Nam trước và sau 1975 Qua một số những tác phẩm được dư luận quan tâm, có thể nhận thấy bên cạnh sự kế thừa những nét truyền thống, một số nhà văn đã có những đột phá trong cách lựa chọn khi viết về hiện thực chiến tranh để đem lại cho độc giả những tác phẩm nghệ thuật có nhiều mới mẻ cả về hình thức lẫn nội dung trước một đề tài sở dĩ đã trở nên quen thuộc Đồng thời việc tìm hiểu bản chất, vị trí của các phạm trù không gian và thời gian nghệ thuật trong văn chương nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng, tìm hiểu về các tác giả của bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu:

Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Hòn Đất (Anh Đức), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) sẽ giúp chúng tôi có

những cơ sở lí luận và thực tiễn xác thực, căn bản để đi sâu vào tìm hiểu sự biến đổi không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975

Trang 34

Chương 2 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975

Trong tiểu thuyết Việt Nam về đề tài chiến tranh, không gian nghệ thuật luôn được các nhà văn chú ý miêu tả Bởi trong chiến tranh thì không gian là vấn đề dặc biệt quan trọng Và có thể nói không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh đã bao hàm trong đó toàn bộ sự thật về chiến tranh Các nhà văn dựng lên một không gian nghệ thuật phong phú, đặc sắc, dung chứa nhiều loại hình không gian cụ thể khác nhau khiến cho cuộc chiến tranh được soi chiếu, nhìn nhận từ nhiều góc độ Mỗi không gian cho phép nhà văn bộc lộ một phương diện của chiến tranh, ví dụ như không gian chiến trường cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh, không gian tâm linh nói về những huyền thoại trong cuộc chiến, không gian đời tư cho thấy số phận của con người trong và sau chiến tranh Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy khi nói về không gian nghệ thuật tồn tại trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh

trước và sau 1975 với các tác phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Hòn Đất của Anh Đức, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của nhà văn Chu Lai có thể đề cập

đến một số vấn đề cụ thể: Không gian bối cảnh lịch sử - xã hội, không gian đời sống nhân vật, không gian tâm lí và ứng xử của nhân vật với không gian

2.1 Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975

2.1.1 Không gian bối cảnh lịch sử - xã hội

Trải qua ba mươi năm đấu tranh trường kì kháng chiến chống thực dân,

đế quốc, dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng đau thương nhưng rất đỗi hào hùng Có máu, có nước mắt, có hy sinh trên từng bước đường chiến trận song đổi lại là chiến thắng vinh quang của triệu triệu những con người

Trang 35

yêu nước Tiểu thuyết thời kì này dõi theo từng dấu chân người lính, có nhiệm

vụ cổ vũ, động viên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân và thắp sáng ngọn lửa lí tưởng yêu nước cho con người Là hai trong số những tiểu thuyết

thành công về đề tài người lính ra trận, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu và Hòn Đất của nhà văn Anh Đức là bức tranh toàn cảnh về một

dân tộc anh dũng trong chiến đấu và chiến thắng trước kẻ thù xâm lược

Dấu chân người lính cũng như xu hướng tiểu thuyết viết về chiến

tranh cách mạng trước 1975 lựa chọn phong cách sử thi, hướng đến những biến cố lịch sử lớn lao của cả dân tộc nên không gian trong tác phẩm đó chủ yếu là không gian có tính sử thi: bề thế, hoành tráng, rộng lớn và phản ánh một dòng chảy liên tục, có tính chất nhân quả của lịch sử.Trước hết đó là không gian chiến trận của chiến dịch Khe Sanh Dĩ nhiên đây là chiến trường nên màu sắc chủ đạo của không gian ấy là bom rơi, đạn nổ, là sức hủy diệt tàn

phá trong cuộc đối đầu giữa ta và địch: “Trên khoảng đất nằm van vát đầy

mảnh kim khí sáng lấp lánh có một búi cỏ khô, rễ nằm chổng ngược lên Nắng

đỏ rực lên mãi chung quanh các búi cỏ trước của hầm, y như một vồng hoa mười giờ Không gian tưởng như đang vỡ ra bởi tiếng động cơ của các loại máy bay Chung quanh hầm Lữ, chỗ nào cũng có địch Trên khoảng sườn đồi B chật hẹp, chúng đã vứt xuống hầm hai đại đội Chúng đang tràn ra, đang di động, đang hò hét, đang hô khẩu hiệu và phất cờ Tiếng súng trường và súng máy nổ khắp bốn phía” [7, tr.471] Chiến trường Khe Sanh càng trở nên ác liệt

hơn bao giờ hết: “Bầu trời Khe Sanh tưởng như rạn vỡ bởi tiếng động cơ như

có hàng trăm chiếc máy bơm nước khổng lồ đang hoạt động hết công suất Đủ các kiểu máy bay trực thăng chở quân, máy bay phản lực và cánh quạt hộ tống, máy bay C.130 và B.57 thả dù tiếp tế đạn dược, công sự và quân dụng cho những đơn vị vừa đặt chân xuống mặt đất” [7, tr.441] Cuộc đối đầu giữa ta và

địch dường như không chỉ dừng lại ở một mảnh đất, một chiến trường nhất định mà sức nóng của nó đã bao phủ toàn bộ đất nước

Trang 36

Nhưng điều đặc biệt, không gian dữ dội, ác liệt của đạn bom chiến trận

trong Dấu chân người lính luôn được cân bằng, thậm chí lấn át bởi cái lãng

mạn, thơ mộng ẩn sau vẻ đẹp hào hùng của thiên nhiên và con người Việt Nam Ngay đầu tiểu thuyết, tác phẩm mở ra không gian của một cuộc hành quân đông vui, rộn rã như không khí tưng bừng của ngày hội Đó là nơi gặp

gỡ của nhiều thế hệ, đến từ nhiều vùng quê, cùng hướng về chung một mục

đích: “Dọc con đường giao liên bấy giờ, khu rừng hai bên có những quãng

dòng thác người tự nhiên cứ quẩn lại, phình to ra, đông đúc, ồn ào như dòng nước lũ chảy qua một cái xoáy lớn ( ) Người ta cũng không thể phân biệt hiện tại hay khung cảnh lịch sử, hay là tương lai đang bước ra từ đây trên đôi bàn chân đất của người lính” [7, tr.44]

Suốt cả tác phẩm, thiên nhiên ở nơi thường trực đạn bom chịu hậu quả nặng nề nhất của sự hủy diệt, tàn phá vậy mà nó vẫn hiện lên đẹp đẽ, đầy chất

thơ thông qua cái nhìn thấm đẫm chất lạc quan: “Bom đạn đào xới lên tất cả

vậy mà có một giống cỏ được các chiến sĩ gọi là cỏ vạn thọ vẫn mọc tươi tốt, mùa xuân đến vẫn khoe một sắc hoa vàng sẫm như nghệ” [7, tr.201] Dường

như dưới bàn tay, khối óc đầy nhiệt huyết của con người cách mạng, thiên nhiên như khoác thêm tấm áo của sự sống và niềm hi vọng cùng người lính ra

trận: “Dọc theo bờ dốc thẳm của những vách đá sâu hun hút và tối tăm, ở đó

không khí bao giờ cũng ẩm ướt, các giống cây có gai và không có gai không tên tuổi vẫn mọc sum sê, cành lá chen khít nhau; mùa xuân đến các giống cây

ấy cũng thi nhau nở rộ những bông hoa nhỏ li ti khoe một thứ màu sắc mộc mạc như hạnh phúc của người bình thường” [7, tr.213] Giữa không gian

chiến trận khốc liệt đó, luôn thấy xuất hiện nụ cười lạc quan của người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí, tình cha con và nảy nở tình yêu lứa đôi thầm kín

mà thanh khiết, giữa cái chết của tử thần, người ta vẫn vọng nghe rõ lời hát

của người chiến binh: “Trường Sơn ơi, ta lại đến bên người”, “đi ta đi những

Trang 37

cánh đại bàng”, “Ta đi đây lòng ta như bay” đầy hào sảng và niềm tin chiến

thắng Khung cảnh chiến trường ở phần cuối cuốn tiểu thuyết hiện ra trong mắt chính ủy Kinh, người cha vừa mất đứa con trai út – một người lính pháo

binh kiên trung: “Bên kia phía đồi Không Tên, một tiểu đoàn dân công vận

chuyển hỏa tuyến vừa dựng lại bắc bếp thổi nấu, khói bếp bay chờn vờn trên nóc mấy chiếc hầm chữ Y đã bị bom đánh sập” là niềm tin mãnh liệt một sự

sống mới sẽ hiện hình ngay trong những mất mát, đau thương

Trong tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức, không gian chiến trường hiện lên không rộng lớn, dữ dội đầy khắc nghiệt như trong Dấu chân người lính

nhưng tác phẩm lại giống như một bức tranh thu nhỏ cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam trong phong trào Đồng khởi Cuốn tiểu thuyết là minh chứng cho một chân lí sáng ngời của thời đại: một miền đất, một thôn xóm nhỏ cũng

đủ sức chống đỡ cuộc càn quét với quy mô mở rộng của kẻ thù, mười bốn triệu đồng bào của ta ở miền Nam đang cùng nhân dân miền Bắc đánh đuổi

Mỹ - Ngụy ra khỏi bờ cõi

Không gian chiến trường được thu nhỏ trong phạm vi xung quanh hang

Hòn với địa thế hiểm trở: “Hòn đất có một chu vi bao bọc lối bốn cây số,

giống như một chiếc mai rùa Chiều dài Hòn Đất trên một cây số, còn chiều ngang ước độ bảy trăm thước Cả Hòn Đất chỉ có một miệng hang độc nhất Luồn qua miệng hang một chút là gặp cái hang nhỏ bùng binh Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong” [16, tr.83] Tại đây cuộc đụng độ diễn ra

hết sức căng thẳng, trong khi lực lượng giải phóng trong hang chỉ vẹn vẹn mười chín người, già có, trẻ có, hai người bị thương, ba phụ nữ, ba trẻ nhỏ, vũ khí thô

sơ mà ráng sức chống lại hàng vạn tên địch với ngót ngàn quân gồm một tiểu

đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội biệt kích: “Cái thị trấn

Tri Tôn nhỏ bé chiều hôm ấy bỗng dưng ầm ĩ hẳn lên Xe cam nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống Bụi bốc mù mịt trên con đường độc nhất của phố nhỏ quận lị Bụi xông tỏa vào các tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn

Trang 38

phố trệt và phố lầu mới cất Bọn lính chủ lực mặc đồ trai di, bọn biệt kích mặc

đồ rằn, giày da, giày bố nện rầm rập, bồm bộp” [16, tr.46] Cuộc đụng độ giữa

ta và địch không chỉ diễn ra trong phạm vi hang Hòn mà còn mở rộng đấu tranh khắp vùng Hòn

Không gian chiến trận trong Hòn Đất khốc liệt, bi thương do sự chênh

lệch lực lượng giữa ta và địch nhưng dần rộng mở cho quân ta tổ chức tấn công và thắng lợi trên toàn cục Ta tiến hành chống phá bằng ba mũi giáp công, kết hợp sự chung sức đồng lòng của cả người bên trong lẫn bên ngoài

hang với quyết tâm mạnh mẽ: “hễ có giết được một thằng giặc thì lòng cũng

đỡ bị đè trĩu bởi cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong năm đen tối” Cứ nhìn cảnh tượng ngót một ngàn dân trong thôn ùn ùn kéo tới bên

bờ suối Lươn đi đưa đám chị Sứ đã mang khí thế của một cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt Người dân Hòn nối tiếp nhau từ thế hệ này tới thế hệ khác,

từ những người lớn tuổi như mẹ Sáu, bà Cà Xợi, ông Tư Đờn cho đến những đứa con nít mới lớn như thằng Bé, thằng Út kế thừa và truyền cho nhau nguyên vẹn dòng máu yêu nước, hễ có một người ngã xuống trong mất mát, đau thương thì sẽ có lớp lớp những con người yêu nước khác sẵn sàng đứng dậy chiến đấu

Thiên nhiên vùng Hòn đẹp đẽ, nên thơ lại là một trong những yếu tố

quan trọng làm nhẹ dịu đi tính chất khốc liệt của không gian trận chiến: “Xóm

Hòn đất ở liền ngay chân Hòn Cuối xóm là bãi tre, cách biển vài trăm thước Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng Sông không rộng cho lắm, ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo chiều biển, theo tiếng bìm bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục Nhà cửa ở Hòn đất san sát bên đường, xen vào giữa những vườn cây treo vàng xám, giữa những vườn dừa, vườn cau” [16, tr.22; 23] Hòn Đất không chỉ đẹp về phong cảnh hữu tình mà

còn là nơi nuôi giấu và tổ chức đấu tranh cách mạng Ngay chính thằng Xăm

Trang 39

khi trở lại nơi đây cũng ngay lập tức bị ăn hai viên đạn tôm xông vào ngực do

quân du kích bắn phá từ hang Hòn và đó là điều hắn không ngờ: “Qua cái bãi

chông ban sáng và hai lần thọc vào hang đều bị đánh giạt ra, hắn thấy Hòn Đất hôm nay không giống Hòn Đất thuở hắn còn làm sếp bót” [16, tr.109]

Hang Hòn mặc sức tàn phá của kẻ thù vẫn vững chãi hơn bao giờ hết, là căn

cứ an toàn cho ta chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: “Bây giờ trước mắt hắn,

đỉnh Hòn mỗi lúc một sẫm đậm Và đến khi bóng đêm đã thực sự đổ xuống, đỉnh Hòn vẫn không biến đi mà cứ hiện sờ sờ ra đó, khum khum như một chiếc mai rùa đen in nổi giữa nền trời đầu hôm nhuộm màu lam biếc” Giữa

không gian trận chiến chống càn, người ta thấy lồng lộng vẻ đẹp của tình người, tình đồng chí, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa hòa chung với tình yêu Tổ Quốc

Không gian lịch sử - xã hội nhuốm màu sử thi đã góp phần thể hiện chất hào hùng, oanh liệt của thời đại đánh Mỹ Nó cho thấy lí tưởng, niềm tin

và khát vọng chiến thắng của cả một thời đại mang tính lịch sử đã phản ánh

trong văn chương, đúng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Cuộc

đấu tranh yêu nước vô cùng anh dũng, vô cùng phong phú của nhân dân ta ở miền Nam, của các tầng lớp nhân dân ở đồng bằng, ở rừng núi, ở thành thị, cuộc đấu tranh vừa quân sự, vừa chính trị nhằm “phá ấp chiến lược” và bẻ gãy những cuộc hành quân của giặc, nhằm đánh bại quân xâm lược Mỹ ở miền Nam nước ta là khúc ca anh hùng vĩ đại”

2.1.2 Không gian đời sống nhân vật

Nếu các nhà tiểu thuyết viết về chiến tranh thường xây dựng mô hình không gian lịch sử - xã hội rộng lớn, bao quát toàn bộ cuộc sống, những bước thăng trầm lịch sử của cả dân tộc trong một giai đoạn nhất định thì có thể nói tiểu thuyết trước 1975 cũng có đề cập tới không gian đời sống nhân vật với cái nhìn đời tư hóa Song dường như muôn mặt của đời thường ấy không phải

Trang 40

là của riêng bất kì ai, mà vẫn diễn ra chan hòa trong không gian chung của cả cộng đồng, hòa nhịp với khát vọng sống của cả dân tộc Đời sống xung quanh nhân vật dù giới hạn trong một không gian chật hẹp hay mở rộng tới mức tối

đa thì nó vẫn chịu sự chi phối của không gian lịch sử - xã hội Cái riêng không đối lập mà chan hòa với cái chung Nơi đây diễn ra các hoạt động bình thường của người lính, nơi sinh sống của những người mẹ, người chị, người vợ của các chiến sĩ Đó chính là hậu phương lớn vô cùng vững chắc để người lính yên tâm chiến đấu ngoài mặt trận

Trong tiểu thuyết Dấu chân người lính, không gian đời sống nhân vật

thường được hiện lên thông qua những hồi ức, có thể là những hồi ức buồn về những gì đau thương diễn ra trong quá khứ của các nhân vật hoặc cảnh tượng người lính bắt gặp trên đường chiến đấu Đó có thể là cảnh tượng đau buồn xảy ra đối với Khuê khi anh đang làm chiến sĩ cần vụ cho chính ủy Kinh:

“Nhà nó bị bom chết một đứa em lên năm, bà mẹ bị thương nặng, nhà bay

mất không còn một mảnh ván” [7, tr.28] Sự tàn phá của chiến tranh không

những chia cắt niềm hạnh phúc riêng của một người, một nhà mà có khi nó hủy diệt sự sống của một bản làng không trừ một ai Người đọc không thể nào quên một bản ALâu bên bờ sông ASi bị giặc Mỹ đốt phá trong nhật kí của Lữ:

“Con sông ASi ngập xác người Từ trên triền đá bên kia sông nhìn xuống, xác

người cứ chồng chất trên bãi cỏ, trên những phiến đá Tiếng quạ kêu như xé ruột Quạ bay viền đen cánh rừng Những con mắt người chết nhìn trừng trừng đàn quạ bay dọc bờ sông như những đám mây đen trên mặt nước xanh ngắt của dòng sông ASi Đến trưa, xe cộ lính tráng kéo đi hết, khói đen vẫn trùm kín trên bản” [7, tr.284] Song nỗi đau không bao giờ là điểm dừng, là

kết thúc của sự sống, ngôi nhà của gia đình Khuê nhanh chóng được anh dựng lại, là nơi chờ đợi những người con yêu nước như Khuê, chị Nết trở về sau

cuộc chiến Một “bản ALâu mới” hình thành từ trên mảnh đất chết, chỉ vẻn

Ngày đăng: 06/09/2016, 16:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Hán Việt
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2003
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), 150 thuật ngữ văn học
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2004
3. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (Khảo sát trên nét lớn), Luận án tiến sĩ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: hững đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975
Tác giả: Nguyễn Thị Bình
Năm: 1996
5. Trần Cương (1986), “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí văn học, số 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, "Tạp chí văn học
Tác giả: Trần Cương
Năm: 1986
6. Nguyễn Minh Châu (1979), “Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh”, báo Nhân dân, ngày 8/2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh”, báo" Nhân dân
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Năm: 1979
7. Nguyến Minh Châu (2004), Dấu chân người lính, NXB Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dấu chân người lính
Tác giả: Nguyến Minh Châu
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2004
8. Nguyễn Minh Châu (1977), Lửa từ những ngôi nhà, NXB Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lửa từ những ngôi nhà
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 1977
9. Nguyễn Minh Châu, Miền cháy, NXB Quân đội nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Miền cháy
Nhà XB: NXB Quân đội nhân dân
10. Nguyễn Minh Châu (2003), Truyện ngắn, NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện ngắn
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2003
11. Nguyễn Minh Châu (1978), “Viết về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Viết về chiến tranh”, Tạp chí "Văn nghệ quân đội
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Năm: 1978
12. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2003), Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết sau 1975, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết sau 1975
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Năm: 2003
13. Hồng Diệu (1991), Cảm nhận sự đổi mới trong quá trình tìm tòi của Chu Lai, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Cảm nhận sự đổi mới trong quá trình tìm tòi của Chu Lai," Tạp chí "Văn nghệ quân đội
Tác giả: Hồng Diệu
Năm: 1991
14. Đinh Xuân Dũng (1998), Nghĩ về sự biến đổi bên trong của tư duy sáng tạo của nhà văn viết về chiến tranh, in trong Văn hóa văn nghệ và đời sống quân đội, NXB Quân đội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa văn nghệ và đời sống quân đội
Tác giả: Đinh Xuân Dũng
Nhà XB: NXB Quân đội
Năm: 1998
15. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại
Tác giả: Đặng Anh Đào
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2001
16. Anh Đức (2001), Hòn Đất, NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hòn Đất
Tác giả: Anh Đức
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 2001
17. Nguyễn Đăng Điệp (2001), “Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, Tạp chí văn nghệ, số 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kĩ thuật dòng ý thức qua "Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh"”, Tạp chí "văn nghệ
Tác giả: Nguyễn Đăng Điệp
Năm: 2001
18. Lê Bá Hán (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán (đồng chủ biên)
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2004
19. Phạm Thúy Hằng (2004), Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai
Tác giả: Phạm Thúy Hằng
Năm: 2004
20. Đào Duy Hiệp (2007), “Thời gian trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thời gian trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh"”, Tạp chí "Nghiên cứu văn học
Tác giả: Đào Duy Hiệp
Năm: 2007
21. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp học hiện đại, NXB Hội nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp học hiện đại
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Nhà XB: NXB Hội nhà văn
Năm: 2000

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w