Trong trường mầm non, việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”và “phương pháp phát triển ngôn ngữ”là những môn học trọng tâm có vị trí quan trọng trong tất cả các môn học, thông qu
Trang 1LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng, người thầy
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu cho đến khi khóa luận được Hội đồng khoa học nghiệm thu
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,Trung tân thông tin Thư viện, Ban chủ nhiệm Khoa Tiểu học - Mầm non Trường Đại học Tây Bắc và các bạn sinh viên lớp K53 Đại học giáo dục Mầm non C đã tạo điều kiện cho chúng tôi học tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này
Xin cảm ơn các cô giáo và các cháu mẫu giáo 5 - 6 tuổi Trường Mầm non Hoa Ban - huyện Mộc Châu - Tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện giúp đỡ để chúng tôi hoàn thành khóa luận đúng thời gian
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Trang 2MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1 Lí do chọn đề tài 1
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5 Phương pháp nghiên cứu 4
6 Ý nghĩa của khóa luận 5
7 Cấu trúc khóa luận 6
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 7
1.1 Cơ sở lí luận 7
1.1.1 Đặc điểm tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi 7
1.1.2 Chức năng, vai trò, đặc điểm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi 8
1.1.3 Đặc điểm các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi 12
1.1.4 Những yêu cầu khi dạy học phần “Văn học thiếu nhi” cho sinh viên ngành giáo dục Mầm non 17
1.2 Cơ sở thực tiễn 21
1.2.1 Tác phẩm thơ trong chương trình “Chăm sóc - và giáo dục” trẻ em 21
1.2.2 Màu sắc của các thể loại thơ 24
1.2.3 Khảo sát thực trạng phát triển ngôn ngữ qua thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 32
CHƯƠNG 2 : BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5-6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DẠY THƠ 34
2.1 Sử dụng biện pháp đàm thoại 34
2.1.1 Khái niệm 34
2.1.2 Cách thức thực hiện 34
2.1.3 Những yêu cầu sử dụng phương pháp đàm thoại khi đọc thơ 37
2.2 Dạy trẻ đọc diễn cảm bài thơ 40
2.2.1 Rèn luyện trẻ phát âm đúng 40
Trang 32.2.2 Hình thành nhịp điệu của ngôn ngữ và chất liệu giọng nói 42
2.2.3 Hình thành lời nói diễn cảm cho trẻ 42
2.3 Biện pháp giảng giải, giải thích từ khó 43
2.3.1 Khái niệm 43
2.3.2 Cách thức thực hiện 43
2.4 Sử dụng các phương tiện trực quan trong việc đọc thơ cho trẻ nghe 44
2.4.1 Cách thức thực hiện 45
2.4.2 Yêu cầu của việc sử dụng trực quan 47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 48
CHƯƠNG 3 : THIẾT KẾ VÀ THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM 49
3.1 Mục đích thể nghiệm 49
3.2 Thời gian, đối tượng và địa bàn thể nghiệm 49
3.3 Điều kiện thể nghiệm 49
3.4 Phạm vi thể nghiệm 49
3.5 Mẫu thể nghiệm 49
3.6 Tiến trình thể nghiệm 50
3.6.1 Các bước thể nghiệm 50
3.6.2 Tiêu chí đánh giá và phân loại mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động đọc thơ 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 63
1 Kết luận 63
2 Kiến nghị 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
Trang 4MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển Vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững, đảm bảo đào tạo một thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước Đại hội Đảng khóa IX đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực của con người
Hiện nay, giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt giáo dục mầm non chiếm một vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa
Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh húc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, lớp người sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông cha để lại, gánh vác mọi công việc xây dựng Tổ quốc Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được giáo dục chăm sóc, được tồn tại và phát triển, được yêu thương trong gia đình cộng đồng Khi xã hội càng phát triển thì giá trị con người càng được nhận thức và đánh giá đúng đắn, do vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ lại càng mang
ý nghĩa nhân văn cụ thể và trở thành đạo lý của thế giới văn minh
Việc giáo dục trẻ mầm non phải dựa trên nhu cầu cơ bản, thỏa mãn những mong muốn tốt đẹp của trẻ, khơi gợi sự phát triển khả năng vốn có của trẻ
Trong trường mầm non, việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”và
“phương pháp phát triển ngôn ngữ”là những môn học trọng tâm có vị trí quan
trọng trong tất cả các môn học, thông qua các môn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất và sâu sắc nhất đặc biệt là qua hoạt động dạy thơ cho trẻ Dạy thơ cho trẻ giúp trẻ tiếp cận cái hay, cái đẹp trong tiếng nói của dân tộc để
từ đó làm giàu cảm xúc của trẻ, phát triển trí tưởng tượng, giúp trẻ khám phá những điều mới lạ của thế giới xung quanh Để làm được những điều đó cần phải cho trẻ tiếp xúc và làm quen với tất cả các tác phẩm thơ gần gũi với trẻ, ngôn ngữ thơ phải dễ hiểu, đơn giản mang màu sắc ngộ nghĩnh, vui tươi hồn
Trang 5nhiên nhí nhảnh Ngôn ngữ thơ được đánh giá là một hiện tượng ngôn ngữ độc đáo,với các từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình và các phương tiện tu từ mang nhiều hình ảnh Tuy nhiên, để phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua thơ đạt hiệu quả cao rất cần tìm hiểu nghiên cứu một cách đầy đủ
Nước ta đang thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nền công nghiệp hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh để hòa đồng với các nước Đông Nam Á và trên Thế giới thực hiện mục tiêu của Đảng chính phủ có chủ trương: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”và xác định chiến lược “giáo dục con người là phải đi trước chiến lược kinh tế”, “phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu từng nơi, bảo đảm hầu hết trẻ 5 tuổi được đi học chương trình mẫu giáo lớn và chuẩn bị vào lớp 1” Nghị quyết của Đảng đã xác định đúng đắn vị trí của giáo dục mầm non trong chiến lược giáo dục và đào tạo
và chỉ ra bước đi thích hợp với khả năng thực tế của đất nước
Chính vì những lý do trên, bằng sự tìm hiểu và tâm huyết của mình, đồng thời dựa trên những tiếp thu, học hỏi những thành tựu nghiên cứu thành công
khác, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non Hoa Ban - Mộc Châu - Sơn La”
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của nhân loại Nó tồn tại đi lên và phát triển cùng với xã hội loài người Nó luôn đồng hành với con người, là phương tiện giao tiếp của con người, tồn tại bên trong xã hội loài người Ngôn ngữ là kho tàng trí tuệ của loài người, nó chứa đựng và làm sống lại những thành tựu to lớn
do xã hội loài người xây dựng lên, là tượng đài đầy giá trị của nền văn minh nhân loại
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ được nghiên cứu rất kỹ lưỡng ở Liên Xô (cũ) với nhiều nhà sư phạm cùng với những công trình có tính khoa học, hiệu quả nổi tiếng, những công trình này đã vào Việt Nam khá sớm Giáo viên, sinh viên các trường đào tạo giáo viên mầm non đã biết đến Chikhieva.E.I
Trang 6như một tác giả có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo Ngoài ra, có nhiều tác giả chúng ta biết cũng đóng góp quan trọng vào việc hình thành chuyên ngành phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở nước ta Có thể kể
đến các tác giả như: Barodis.A.M với cuốn: “Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ”, (Nhà xuất bản Giáo dục Matxccova- 1974); Xukhin với tác phẩm: “Phát triển lời nói cho trẻ em”,(Nhà xuất bản giáo dục Maxcova- 1974)…
Thời cổ đại có Platon, Aristote, hay như O.B.Enconhin, L.X.Vưgotxki, V.L.Muakhina…
Những nghiên cứu tuy khác nhau nhưng luôn tìm hiểu chung về một vấn đề
đó là ngôn ngữ
I.M.Xesênnốp, K.D.Usinxki, L.B.Vuwgotski, Piegiê… có những nghiên cứu lý tưởng về tâm lý học ngôn ngữ, về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thơ Những nhà khoa học Nga cũng có những khám phá quan trọng, khoa học
về những vấn đề hoàn thiện ngôn ngữ ở lứa tuổi mầm non, với một số công trình tiêu biểu:
A.V.Petrovsky với Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm
A.M.Barodis với Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em
A.N.Xôkôlốp với Lời nói bên trong và tư duy
N.I.Giưnkin với Vấn đề hoàn thiện nội dung và phương pháp
A.A.Lêonchiép với Những cơ sở lý thuyết của hoạt động lời nói
Hay các nhà khoa học khác như:
M.M.Konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học
V.X.Mukhina với Tâm lí học mẫu giáo
Ở Việt Nam cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
phát triển ngôn ngữ của trẻ như: Dạy nói và trẻ trước tuổi cấp 1 của tác giả Phan Thiều Tác giả Phạm Thị Phú và Lê Thị Ánh Tuyết với Phương pháp làm quen với văn học ở mẫu giáo
Luận án phó tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 1-6 tuổi,dựa trên cơ sở tư liệu ngôn ngữ trẻ em nội thành Hà Nội (1996)
Trang 7Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Tâm- Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) qua kể chuyện sáng tạo…và rất nhiều công
trình khác nữa Những công trình nghiên cứu này đã dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lý và ngôn ngữ của trẻ và có những đóng góp lớn trên các phương diện
lí luận và thực tiễn Song những nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và việc phát triển về ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài thơ nói riêng vẫn còn hạn chế, gần như chưa một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt là vấn đề này
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Qua tìm hiểu về đặc điểm của trò chơi cùng với sự phát triển của trẻ mẫu giáo, đặc điểm tâm lí của trẻ 5- 6 tuổi, khóa luận sẽ đề xuất một số biện pháp nâng cao việc phát triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ từ 5- 6 tuổi ở Trường Mầm non Hoa Ban
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Với mục đích nghiên cứu đã xác định như trên, khóa luận hướng tới một
số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và khảo sát thực trạng trẻ mẫu giáo ở trường mầm non;
- Đề xuất biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài thơ;
- Thiết kế thực nghiệm và đưa ra kết luận
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua các bài thơ
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Trẻ từ 5 - 6 tuổi (30 trẻ)
- Giáo viên Trường Mầm non Hoa Ban
5 Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu sách, tài liệu có liên quan đến khóa luận , đọc và hệ thống hóa các
Trang 8tài liệu có liên quan đến cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và các tài liệu có liên quan đến việc nâng cao và phát triển ngôn ngữ cho trẻ
5.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1 Phương pháp quan sát
Quan sát ghi chép việc sử dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
5-6 tuổi thông qua các bài thơ
5.2.2 Phương pháp trò chuyện
Trao đổi, tọa đàm với các giáo viên về khóa luận nghiên cứu
Hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơn khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ
5.3 Phương pháp thống kê toán học
Xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học
5.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sử dụng phương pháp thực nghiệm trên với 30 trẻ để đánh giá khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ
6 Ý nghĩa của khóa luận
Đề xuất và vận dụng một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi nâng cao việc phát triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nếu các biện pháp khóa luận đề xuất phù hợp và được áp dụng thì việc phát triển ngôn ngữ của trẻ sẽ có hiệu quả, từng bước được nâng cao và dần hoàn thiện hơn
Trang 97 Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, cấu trúc của khóa luận gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1 Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương này tác giả đề xuất tới đặc điểm của thơ, có những biểu hiện gắn gũi với trẻ nên tạo cho trẻ cảm thấy hấp dẫn và dễ hiểu, các bài có nội dung phong phú, các tác giả đã đi tìm hiểu và tiếp nhận những sự hứng thú của trẻ
Chương 2: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 thông qua hoạt động dạy thơ
Chương 2, tác giả nghiên cứu các bài thơ được đưa vào trong chương trình giáo dục mầm non lứa tuổi 5 - 6 tuổi, đồng thời tiếp nhận về ngôn ngữ của thơ trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non
Chương 3: Thiết kế và thể nghiệm sư phạm
Ở chương này, chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng phương pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức dạy thơ Từ những cơ sở lí luận, thực tiễn, chúng tôi tiễn hành thiết kế một số mẫu giáo án về thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi
Trang 10CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Đặc điểm tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi
Sự hồn nhiên vô tư, trong sáng là nét tâm lí nổi bật của trẻ, đặc biệt là trẻ lứa tuổi mầm non Nhìn chung ở lứa tuổi này tình cảm thống trị tất cả các mặt hoạt động tâm lí của trẻ, chính vì vậy nhận thức của trẻ mang đậm màu sắc cảm xúc, trẻ luôn có nhu cầu được người khác quan tâm và cũng luôn bày tỏ tình cảm cuả mình đối với mọi người xung quanh và ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng như rất đơn giản Một bông hoa, một chiếc lá rơi, một con kiến tha mồi hay một đêm trăng sáng cũng có thể làm trẻ xúc động một cách sâu sắc Chính đặc điểm dễ nhạy cảm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện, đọc thơ có thể
dễ dàng hóa thân vào các nhân vật trong các tác phẩm, trẻ thường có những phản ứng trực tiếp ngay lập tức thì khi tiếp xúc với tác phẩm trẻ có thể cười hoặc khóc, có thể sung sướng hay tức giận trước những chi tiết sự kiện của tác phẩm, những tình huống mà nhân vật gặp phải Đó là phản ứng biểu thị trạng thái tâm
lí của trẻ, những phản ứng này tương đương với nội dung cả tác phẩm và nó càng trở nên mạnh mẽ nếu có sự đồng cảm của người lớn Chính vì vậy, ngôn ngữ, ngữ điệu, giọng điệu hoặc những cử chỉ điệu bộ của người đọc người kể tác phẩm văn học cho người nghe là hết sức quan trọng, việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ngoài kiến thức còn tạo cho trẻ một năng lực cảm nhận cái đẹp, một thái độ cảm nhận cuộc sống, một phong cách sống
Trẻ càng lớn tinh thần càng dần dần được ổn định sự hiểu biết của trẻ sẽ phong phú, phức tạp dần theo các mối quan hệ và những hiểu biết về thế giới xung quanh Như vậy, từ những cảm xúc tình cảm được nảy sinh trong quá trình cảm thụ tác phẩm văn học, trẻ sẽ biết yêu thương mọi vạn vật xung quanh Cảm xúc chi phối mạnh mẽ tri giác và thái độ tập chung chú ý đặc biệt là hứng thú nhận thức, trẻ luôn hướng về một cái gì đó Mỗi hoạt động của trẻ đều kích thích cảm xúc, mỗi cảm xúc đều ảnh hưởng đến tri giác Nhờ đó, trên nhận thức được thế giới xung quanh, nhà tâm lí học và sinh học người Anh Spen-xô cho rằng sự
Trang 11nhận thức của trẻ không những được mã hóa bằng kí hiệu và biểu tượng mà còn bằng cả cảm xúc Cảm xúc tinh vi ấy có chức năng tổng hợp và tổ chức thành các tổ nhận thức thành cấu trúc cảm xúc - nhận thúc còn là sự lặp lại quá trình này nhờ sự phát triển của các cấp độ tổ chức mà tạo nên sự phát triển của lí trí Như vậy, nguồn cảm xúc chẳng có mối quan hệ với nguồn kinh nghiệm cụ thể của trẻ mà còn gắn bó với tư duy và hành động của trẻ, nó trở thành một yếu tố tâm lí góp phần phát triển nhân cách của trẻ
Như đã nói trên, chính bởi trẻ em giàu cảm xúc, tình cảm cho nên sự tiếp nhận văn học của chúng cũng mang đậm màu sắc cảm xúc, theo quy luật chi thức kiểu tư duy trực quan hình tượng, nghĩa là những thứ mà chúng có thể mắt thấy tai nghe được Nhưng riêng với tác phẩm văn học thì trẻ tiếp nhận bằng cả tâm hồn, trái tim những tình cảm hết sức hồn nhiên ngây thơ của mình Có thể nói, trẻ em có lợi thế trong tiếp nhận cái đẹp trong văn học nghệ thuật Chỉ cần một cái chồi non hé mở, một chiếc mầm xinh sắn cũng có thể cho trẻ niềm vui
và sự hứng thú:
Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá Thấy máy bay hối hả Thấy lất phất mưa phùn
(Võ Quảng)
Chính bởi trẻ thơ nhìn đời bằng cặp mắt trong trẻo, với tâm hồn trong sáng nên trẻ ngạc nhiên và xúc động ngạc nhiên và xúc động ngay cả khi nhìn thấy một chiếc rơi, một con kiến tha mồi, một con voi nặng nề kéo gỗ nên dốc Ta thấy trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ ở lứa tuổi mầm non vấn đề tri thức
và kinh nghiệm là rất cần, nhưng quan trọng hơn là vẫn là cảm xúc, đó là năng lực hóa thân của các nhân vật với cái gây thơ, đơn giản về sự giống nhau giữa các tác phẩm văn học cũng là hiện thực ngoài đời nên dễ dàng muốn chia sẻ
1.1.2 Chức năng, vai trò, đặc điểm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi
Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể thay đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho
Trang 12nhau những kinh nghiệm… Lê - nin đã từng nói: con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng, giao tiếp là một đặc trưng quan trọng của con người, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
I.J.Gebb đã từng nói rằng: hệt như ngôn ngữ đã làm các việc tách con người
ra khỏi thế giới động vật, ngôn ngữ và lao động là hai yếu tố quyết định, ra đời, tồn tại và phát triển của con người trong xã hôi
Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó làm cho nó ngày càng phổ biến rộng khắp” (dẫn theo[13,tr.15])
Trong công tác giáo dục của thế hệ trẻ mầm non cho đất nước chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ Ngôn ngữ đặc biệt góp phần góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện Nó đã trở thành một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, song nhìn chung vai trò của ngôn ngữ được thể hiện như sau:
Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp:
Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của trọng ngôn ngữ, ngay cả những
bộ lạc người ta mới phát hiện cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau
Trong xã hội có thể có nhiều phương tiện giao tiếp khác nhau như: cử chỉ, dấu hiệu, điệu bộ, kí hiệu khác nhau (kí hiệu toán học, kí hiệu hóa học, kí hiệu đèn giao thông ), kết hợp với âm thanh của âm nhạc, sự kết hợp giữa màu sắc hội họa, nhưng bản thân là những kí hiệu dấu hiệu này muốn hiểu cần phải dùng ngôn ngữ để giải thích Vì vậy, chính ta cần khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, trẻ em sinh ra nếu không
có môi trường ngôn ngữ thì không thể sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp được
A.Aleonchiep nhấn mạnh vai trò của giao tiếp Sự phát triển lời nói của trẻ trước hết là sự phát triển của phương thức giao tiếp Việc tạo cho trẻ môi trường ngôn ngữ phù hợp là vấn đề rất cần được các nhà giáo dục quan tâm và thiết lập một cách nghiêm túc
Trang 13Thứ hai, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy, là công cụ để phát triển nhận
thức Ở trẻ nhỏ tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn quý của mọi tri thức Vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho trẻ qua việc đọc và kể lại tác phẩm văn học là trang bị cho trẻ nhận thức thế giới xung quanh và mở rộng quan hệ với mọi người, mắt khác ở lứa tuổi mẫu giáo yêu cầu khả năng rèn luyện diễn đạt cho trẻ là hết sức to lớn và là một nhiệm vụ cấp thiết của gia đình
và ở các lớp mẫu giáo Việc rèn luyện diễn đạt cho trẻ qua việc đọc và kể lại tác phẩm văn học có nội dung thông báo đầy đủ rõ ràng, dễ hiểu, ngắt nghỉ giọng đúng chỗ, giọng nói có sắc thái biểu cảm đó là sự rèn luyện của con người nói chung của trẻ mẫu giáo nói riêng
Các Mác và Ăng Ghen cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ và tư duy ra đời cùng một lúc Ngay từ đầu chúng đã quyện vào nhau không tách rời nhau Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy Nếu ngôn ngữ chỉ là những tổ hợp của âm thanh đơn giản thì không thể trở thành phương tiện giao tiếp được, mặc dù chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy, nhưng chúng lại tồn tại độc lập với nhau
Ngôn ngữ của con người không chỉ tồn tại ở dạng thành tiếng mà còn tồn tại dưới dạng biểu tượng âm thanh trong não bộ, chữ viết như viết ra Chức năng của ngôn ngữ với tư duy không chỉ nhận ra lời nói mà cả khi con người ta suy nghĩ thầm bên trong - ngôn ngữ cũng vẫn là phương tiện biểu hiện Bởi vậy, con người không thể tư duy mà không có ngôn ngữ
Ngôn ngữ là cơ sở của suy nghĩ và là công cụ của tư duy Ngôn ngữ là thành
tố của tình cảm, tri thức, trí tuệ, đạo đức của con người như F.De.Saussure từng nói là toàn bộ lôgic của cuộc sống chứa đựng trong một giọt của ngôn ngữ
Ngôn ngữ là vật chất, tư duy là tinh thần Tư duy có tính chất nhân loại còn ngôn ngữ có tính chất dân tộc Ngôn ngữ và tư duy ra đời cùng một lúc và không tách rời nhau, trong một chừng mực nào đó chúng xuất hiện cùng nhau và
bổ sung cho nhau
Trang 14Đối với trẻ em, ngôn ngữ có vai trò quyết định đến sự phát triển tâm lý của các em, ngôn ngữ làm phát triển tư duy Ngược lại, tư duy càng phát triển càng đẩy nhanh sự phát triển của ngôn ngữ
Khi đứa trẻ đã lớn, nhận thức của trẻ phát triển Trẻ không chỉ dừng lại ở những nhận thức về sự vật hiện tượng gần gũi, xung quanh trẻ và còn muốn biết
cả về những điều trẻ không trực tiếp nhìn thấy, trẻ muốn biết về quá khứ, tương lai Muốn biết về công việc của người lớn, của cha mẹ, muốn hiểu về chú bộ đội, về Bác Hồ kính yêu
Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ như phương tiện để biểu hiện nhân thức của mình Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt những hiểu biết của mình, đặt ra câu hỏi, yêu cầu, nguyện vọng, thể hiện thái độ, tình cảm yêu ghét, thương cảm… Biểu hiện bằng ngôn ngữ giúp cho nhận thức của trẻ được củng cố sâu hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường có các hoạt động giao tiếp, trên cơ sở đó tạo ra nhiều suy nghĩ sáng tạo mới Vì vậy, trong các trường mầm non, khi tiến hành các hoạt động vui chơi, lao động, học tập,… cần tạo điều kiện kích thích trẻ nói
Một trong những phương pháp để kiểm tra nhận thức của trẻ là phải thông qua ngôn ngữ Như vậy ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ, thông qua ngôn ngữ trẻ có thể nhận thức về thế giới xung quanh một cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong hoạt động trí tuệ Như vậy, việc phát triển trí tuệ cho trẻ không thể tách rời việc pháp triển ngôn ngữ
Thứ ba, vai trò của ngôn ngữ trong giáo dục đạo đức
Phát triển và hoàn thiện dần ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục tình cảm đạo đức Ở lứa tuổi mầm non, đặc biệt
là ở tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu hiểu biết và lĩnh hội những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã hội Tuy mới chỉ là những khái niệm ban đầu nhưng lại vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến việc hình thành những nét tính cách riêng biệt của mỗi con người trong tương lai Muốn cho trẻ hiểu và lĩnh hội được những khái niệm đạo đức này, chúng ta không thể chỉ
Trang 15thông qua những hoạt động cụ thể hoặc những sự vật, hiện tượng trực quan đơn thuần mà phải có ngôn ngữ Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ thể hiện được đầy đủ những nhu cầu, nguyện vọng và tình cảm của mình Cũng nhờ có ngôn ngữ mà nhà giáo dục và các bậc cha mẹ có điều kiện hiểu con cháu mình hơn, để từ đó
có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho trẻ những tình cảm, hành vi đạo đức trong sáng nhất
Thứ tư, ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mỹ
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu cho đúng cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp
Thật vậy, trong cuộc sống hằng ngày, khi giao tiếp với người lớn , trẻ nhận thức được cái đẹp ở xung quanh, từ đó trẻ có thái độ tôn trọng cái đẹp và tạo ra cái đẹp Đặc biệt khi tiếp xúc với bộ môn nghệ thuật như: Âm nhạc, tạo hình, trẻ
có thể cảm nhận được những cái đẹp tuyệt vời của cuộc sống qua âm thanh, đường nét,… Từ đó, giúp trẻ hiểu sâu hơn về giá trị thẩm mỹ, tâm hồn trẻ sẽ nhạy cảm hơn với cái đẹp và khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ có thể tìm thấy ở đó những hình tượng, nhân vật điển hình, mỗi nhân vật mang một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng, từ đó trẻ tự biết phải sống như thế nào
Thứ năm, ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực
Trong chế độ sinh hoạt hằng ngày giáo viên và người lớn đã dùng ngôn ngữ
để hướng dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu cầu mà mình đề ra Ví dụ: trong giờ thể dục giáo viên đã dùng ngôn ngữ tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện động tác thể dục nhằm giúp cơ thể phát triển cân đối về chất dinh dưỡng, ngoài chế độ sinh hoạt hằng ngày trẻ còn cần phải ăn no, ăn đủ chất dinh dưỡng, trong khi ăn người lớn cần dùng ngôn ngữ của mình để động viên khích lệ trẻ
1.1.3 Đặc điểm các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi
Là những sáng tác phù hợp với tâm lí lứa tuổi khác nhau của trẻ em, được
“nhìn đôi mắt trẻ thơ”và xuất phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên
“như trẻ thơ” Mỗi lần sáng tác cho các em là một lần người viết được “sống lại”
Trang 16tuổi thơ của mình và hòa đồng tâm hồn với trẻ thơ Thế giới xung quanh trẻ luôn vui tươi, trong trẻo Niềm vui như là một lẽ sống tự nhiên của các em - từ cách nhìn, cách nghe,cách cảm, cách nghĩ, trí tưởng tượng…
Một tác phẩm viết về con người hay đồ vật chỉ được coi là một tác phẩm văn học thiếu nhi khi tác giả biết “trẻ con hóa”những con vật, đồ vật ấy để nói lên những suy nghĩ của chính các em; cảm thông, chia sẻ, cảm hóa các em bằng những bài học nhân ái, nhẹ nhàng mà sâu sắc:
Ngỗng không chịu học Khoe biết chữ rồi Vịt đưa sách ngược Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhẩm Làm vịt phì cười Vịt khuyên một hồi Ngỗng ơi! Học! Học!”
(Ngỗng và Vịt - Phạm Hổ)
Có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em cả về đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ.Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn thơ ngây, trong trắng, chưa có nhiều những trải nghiệm cá nhân, nhận thức về thế giới xung quanh ở mức cảm tính…, nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngôn
từ và trí tưởng tượng phong phú trong tác phẩm văn học thiếu nhi sẽ là cơ sở để các em rung động và cảm nhận được vẻ đẹp về một thế giới bao la đầy âm thanh, màu sắc và sự huyền bí Trong truyện cổ tích, trẻ được gặp ông Bụt, bà Tiên tốt bụng với những phép biến hóa thần thông, những nàng công chúa xinh đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, can đảm… Còn trong truyện thần thoại, các em lại được bắt gặp lối nhân hóa và sự tưởng tượng nghệ thuật, ở đó các con vật, cỏ cây, hoa lá hiện lên một cách sinh động thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc giữa con người với thiên nhiên Trẻ thơ vốn đã sẵn trong đầu trí tưởng tượng phong phú nên khi gặp những yếu tố kì ảo, đẹp đẽ trong các tác phẩm văn học
Trang 17thì trí tưởng tượng ở trẻ càng được thăng hoa, giúp các em phát triển trí tuệ và thưởng thức cái đẹp, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế hơn…
Phải phù hợp với thị hiếu, tâm lí các em và hướng dẫn tới cái đẹp chân - thiện - mĩ Trẻ em ở lứa tuổi mầm non là những “bạn đọc đặc biệt”(chưa biết đọc, biết viết, được tiếp xúc với văn học thiếu nhi chủ yếu là qua lời đọc, lời kể của ông bà, cha mẹ, thầy cô,…), cho nên văn học thiếu nhi viết cho các em phải đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi và những sở thích của trẻ nhỏ Các
em vốn rất yêu cái cái đẹp, cái tốt, cái thực; vì vậy các nhà văn cần nắm được những đặc điểm tâm lí của trẻ để thỏa mãn những nhu cầu ấy một cách tự nhiên Những hình tượng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn kết hợp vần điệu, nhạc điệu do các nhà văn dày công sáng tạo trong tác phẩm sẽ gây được những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ, tác động nhẹ nhàng đến nhận thức, tư tưởng tình cảm ở trẻ Các tác phẩm thơ có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ Văn học thiếu nhi như một người bạn đồng hành cùng trẻ thơ, cung cấp cho trẻ thơ một vốn từ ngữ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật Khi trẻ thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm văn học thiếu nhi, vốn từ ngữ của các
em phong phú và sống động hơn Các em tự hình thành cho mình khả năng diễn đạt một vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm bởi đã được học cách diễn đạt sinh động ấy trong tác phẩm Đối với trẻ mầm non, sự phát triển ngôn ngữ ấy qua hoạt động bắt chước lời nói, việc làm của các nhân vật hoặc những cách diễn đạt trong tác phẩm Chính quá trình trẻ được nghe, được kể diễn cảm truyện, thơ và được trực tiếp tham gia vào hoạt động đọc, kể lại truyện thơ sẽ giúp trẻ tích lũy và phát triển thêm nhiều từ mới Điều này giúp giáo viên
có thể dễ dàng hơn trong việc rèn luyện khả năng biểu cảm trong ngôn ngữ nói, ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ đối thoại với trẻ
Những tác phẩm thơ, truyện của trẻ tự viết cho mình hay của người lớn viết cho các em phải rất hồn nhiên, vui tươi, ngộ nghĩnh và trong sáng Những tác phẩm thơ, truyện do chính các em sáng tác bao giờ cũng thể hiện những xúc cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo,… như chính bản tính của trẻ thơ Qua cái nhìn “trong veo”ấy, cuộc sống xung quanh các em trở nên hấp dẫn, đẹp đẽ và
Trang 18đầy sức sống Ví dụ: Đọc bài thơ “Giỡn sóng”của bé Cẩm Thơ, chúng ta thấy hiện lên một thế giới diệu kì với biết bao điều lí thú dưới con mắt của trẻ thơ:
“Năm năm em lại về giỡn sóng
Ôi cái sóng biển Đông! Phù sa về nhuộm hồng Triều lên cùng với sóng
Triều reo như trẻ nhỏ
Em òa vào lòng sóng mênh mông”…
Người lớn muốn viết cho trẻ em phải học được sự hồn nhiên, ngây thơ ấy, phải thực sự hòa nhập với cuộc sống trẻ thơ, sống hết mình với tuổi thơ mới có thể tạo ra được sự cộng hưởng với trẻ thơ và mang lại cho tác phẩm sự thành
công Ví dụ: Bài thơ “Chú thỏ đa nghi”(Phạm Hổ):
“Thỏ đây! Ai đấy? Mèo à? Mèo thế nào? Mình không trông thấy cậu/ Nhỡ đứa khác thì sao?”
không chỉ thể hiện sự hồn nhiên ngây thơ mà còn đa nghi, ngốc nghếch của chú thỏ Thỏ dùng máy nói mà cứ đòi phải nhìn thấy người ở đầu dây bên kia chú mới tin đó chính là bạn mình
- Về nghệ thuật:
* Giàu chất thơ, chất truyện Sở dĩ các tác phẩm truyện viết cho trẻ em lôi cuốn, hấp dẫn, có sức cảm hóa lạ lùng, mạnh mẽ được các em là vì luôn lấp lánh chất thơ Chất thơ giúp trẻ em sau khi được nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện, gấp sách lại vẫn thấy bao nhiêu điều kì diệu, “bám chặt”lấy tâm hồn, tình cảm và chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ
Chất truyện trong thơ cũng là một trong những yếu tố tạo nên hình tượng cảm xúc trong thơ Mỗi bài thơ viết cho trẻ thơ gần như là một trong yếu tố tạo nên hình tượng cảm xúc trong thơ Mỗi bài thơ viết cho trẻ gần như một mẩu truyện hoặc chứa đầy yếu tố truyện Điều đó khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm nhận và thuộc lòng những vần thơ Trong bài “Chú bò tìm bạn”(Phạm Hổ), các vần thơ, vần thơ được tác giả viết ra bằng những từ ngữ hết sức đời thường để
kể cho các em nghe một câu chuyện về tình bạn đầy xúc động và tinh tế:
Trang 19“Mặt trời rúc bụi tre Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn Lại gặp anh ở đây”
Nước đang nằm nhìn mây Nghe bò cười toét miệng…”
* Hài hước, dí dỏm Mỗi một tác phẩm viết cho các em đều chứa đựng những tiếng cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và trong sáng Có thể nói trong kí ức về một làng quê bình dị, ở đó chứa đựng biết bao điều lí thú nảy sinh
từ những kỷ niệm ấu thơ của mình và bật lên những tiếng cười thật sảng khoái Khác với những tác phẩm của trẻ tự viết cho mình, thơ hay truyện của người lớn viết cho các em phải tiến tới sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ và chất trẻ thơ, phải hồn nhiên, vui tươi, ngộ nghĩnh Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đặc trưng ấy trong bài thơ “Ngủ rồi”(Phạm Hổ):
“Gà mẹ hỏi gà con Đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao Ngủ cả rồi đấy ạ!”…
* Ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu Nếu như thơ, văn viết cho người lớn thường hướng tới cái gì đó cao xa, trừu tượng thì thơ, văn viết cho trẻ em phải ngắn gọn, súc tích, trong sáng, dễ hiểu Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ Trong văn xuôi thường sử dụng những câu đơn, ngắn, vừa sức với khả năng tiếp nhận của trẻ nhỏ; còn trong thơ, các nhà văn thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất gần với đồng dao, vui nhộn, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dễ nhớ
* Giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu Những hình ảnh đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh động và có sức lôi cuốn, hấp dẫn các em Đây là một trong những yếu tố không thể thiếu trong thơ viết cho các em
Trang 201.1.4 Những yêu cầu khi dạy học phần “Văn học thiếu nhi”cho sinh viên ngành giáo dục Mầm non
1.1.4.1 Giáo viên phải có những hiểu biết và kiến thức về văn học thiếu nhi
Trong hầu hết các tác phẩm viết cho thiếu nhi thường chứa đựng những yếu
tố kì ảo, hoang đường Vì vậy, khi dạy học văn học thiếu nhi, mỗi giáo viên cần phải định hướng cho sinh viên biết khai thác các yếu tố kì ảo, hoang đường trong các tác phẩm văn học thiếu nhi để thỏa mãn nhu cầu tìm kiếm cái đẹp và phát triển tư duy, trí tưởng tượng phong phú cho trẻ
Không những thế, tác phẩm văn học thiếu nhi luôn hướng tới sự hồn nhiên, vui tươi, ngộ nghĩnh và trong sáng Vì vậy, khi dạy phần văn học thiếu nhi cho sinh viên, người dạy cũng phải thổi được cái hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của mình trong cảm thụ trong bối cảnh xã hội hiện nay, với những trải nghiệm cuộc sống diễn ra khá phức tạp ở mỗi con người, không phải ai cũng dễ dàng tìm thấy được sự đồng cảm thực sự trong cảm thụ các tác phẩm văn học thiếu nhi Thể hiện thế giới nội tâm ở nhiều sắc thái cung bậc khác nhau Có những câu thơ đọc lên nghe thật vui tai, thật sảng khoái Ngược lại có những câu thơ nghe sao mà
da diết, day dứt lòng người Những sắc thái cảm xúc đó khơi dậy ở trẻ tình cảm sâu đậm về con người, hun đúc ở trẻ một tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động khi tiếp xúc với con người và cảnh vật xung quanh bồi bổ lòng nhân ái, lòng yêu quê hương gia đình
Sự phản ảnh thực hiện của thơ ca vừa thực lại vừa hư, điều đó giúp trẻ phát triển mãnh liệt trí tưởng tượng Hơn nữa nghệ thuật nhân cách hóa trong thơ ca
là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu thương với trí tưởng tượng và đó chính là đặc điểm tâm lý nổi bật của trẻ nhỏ Sự vật xung quanh trong mắt của trẻ thơ bao giờ cũng có hồn, nhuốm màu xúc cảm và bay bổng đến kì diệu Sức tưởng tượng thơ
ca còn giúp trẻ có một tâm hồn giàu ước mơ, sớm hình thành tiền đề của hoạt động sáng tạo, hình dung ra những cái sẽ có và mong muốn làm nên những điều tốt đẹp
1.1.4.2 Thơ mộng và lãng mạn
Trẻ em nào cũng thơ mộng và lãng mạn Ngây thơ ngộ nghĩnh dễ yêu thương
Trang 21dễ hờn dỗi hay mộng mị buồn vui là thơ mộng Đôi mắt trẻ thơ là khoảng trời xanh áng mây trắng đi vào mắt chúng là cả một ảo giác về tương lai Trăm năm của một đời người khoảnh khắc tuổi thơ là cái lãng mạn mênh mông nhất Phương diện tâm lý này trở thành đặc điểm thẩm mỹ quan trọng của văn học cho thiếu nhi
Đặc điểm này ít được nói đến hay nói một cách sơ sài trong nghiên cứu văn học cho thiếu nhi Trong khi đó lãng mạn và thơ mộng là thiên tính rõ nét nhất của lứa tuổi từ ấu thơ cho đến lúc thành niên Hiện thực đối với trẻ em là những
gì đang có rất nghèo nàn chỉ là những gì trẻ nhìn thấy xung quanh góc sân hay khoảng trời con đường hay mái trường trẻ đang học tập Quan hệ xã hội có khi chỉ là những cấm đoán làm cho trẻ thấy luôn bị tù túng Đó là lý do trẻ em cần một thế giới khác lãng mạn hơn thơ mộng hơn thế giới của những ảo tưởng Văn học nói chung dù là tác phẩm đi theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt nhất cũng phải có một chất lãng mạn mộng mơ Bởi đó là niềm tin khát vọng của con người mà thiếu nó tác phẩm trở thành bản kê khai đơn giản những sự kiện hàng ngày của đời sống Quan niệm văn học càng ngày càng gần gũi với đời sống có lẽ thích ứng với người lớn hơn là đối với trẻ em Cũng như chúng ta càng lớn lên miếng cơm manh áo và các ràng buộc xã hội khác càng làm cho ta phải bận tâm Nhưng văn học cho con trẻ chúng ta không thể là một thế giới đóng kín như thế để chúng những tưởng tương lai của cuộc đời này chỉ có tối tăm Nhiệm vụ của một nền văn học lành mạnh là phải dọn đường cho trẻ em thênh thang bước tới tương lai Chúng phải được nhìn thấy ánh sáng nhiều hơn bóng tối cái đáng yêu nhiều hơn đáng ghét cái vui vẻ nhiều hơn những buồn phiền Khéo như tác giả Andersen “một giọt nước mắt”của chú lính chì cũng phải biết giấu đi hay phải thanh lọc bằng một tình yêu trong sáng Các tác giả dân gian dù không ý thức rõ điều này nhưng bằng kinh nghiệm mỹ cảm gần như những tác phẩm nào được đọc hoặc kể cho trẻ nghe cũng đều thấm đẫm tinh thần lãng mạn mộng mơ Cũng có lẽ vì thế mà thời phong kiến Khổng tử chọn
Kinh Thi cho trẻ học vỡ lòng Ông nói “Kinh Thi oán nhi bất nộ” những lời ca
ấy dù có lúc bi ai nhưng không đẩy con người vào thất vọng hay căm thù Có thể
Trang 22nói bất cứ một tác phẩm nào dù có ý thức viết cho trẻ em hay không nhưng ánh sáng lãng mạn cũng tràn ngập trong thế giới nghệ thuật tác phẩm đó càng dễ đến với trẻ em
Nếu nói văn học phải gần gũi với đời sống như một quy luật sinh tồn và phát triển của nó thì đối với văn học cho thiếu nhi cần phải nói nó gần gũi với đời sống của chính trẻ em chứ không phải đời sống chung chung Đời sống của
cc em khác với đời sống của chúng ta Chúng sống bằng tinh thần hơn vật chất bằng niềm vui hơn là những toan lo bằng tình yêu thương hơn là những oán hờn bằng mơ tưởng hơn là chấp nhận cái hiện hữu đời thường Tạo điều kiện cho trẻ sống như điều chúng ước mơ khao khát chính là thực hiện quyền trẻ em như Công ước quốc tế đã đặt ra Nhà thơ Phạm Hổ cho công việc làm thơ của mình
giản dị cũng như “muốn góp thêm cho các em một thứ đồ chơi như một viên bi như một cánh diều hay thậm chí như một thứ đồ chơi điện tử nào đó Còn chức năng giáo dục? Nếu có giáo dục theo tôi thơ ca cũng như văn chương nghệ thuật nói chung chỉ nên giáo dục cho các em về mặt thẩm mỹ mà thôi!”[7 tr38]
Người lớn chúng ta hay bị cái thành kiến rằng vui chơi là hư hỏng vì thế thường buộc trẻ em phải toan lo như chính mình Vô tình chúng ta đã cướp mất đi giai đoạn hạnh phúc nhất của một đời người Khi đọc mấy câu thơ trong sách học vần cũ thời bao cấp:
“Mèo con bé tí
Đã có râu ria
Mèo cứ ngồi kia
Meo meo kêu mẹ
Ăn thì ăn khoẻ
Mà lại ham chơi
Bạn nhỏ ta ơi
Chớ theo mèo nhé”
Xuân Quỳnh đã nói bằng nước mắt của người mẹ: “Thực ra việc: “Kêu mẹ
ăn khoẻ ham chơi…”của trẻ con là hoàn toàn không có lỗi Tại sao lại bắt con trẻ không được làm nũng mẹ không được ăn khoẻ không được ham chơi Nếu
Trang 23như ta chưa có hoàn cảnh đáp ứng cho các em được gần mẹ nhiều được ăn và chơi đầy đủ thì đó là lỗi ở chúng ta Còn các nhu cầu kia của các em là cần thiết
và chính đáng Đọc những câu thơ trên tôi thấy thương các em quá!”[10 tr15]
Khi được làm người lớn đôi khi chúng ta nhẫn tâm đánh mất quá khứ của mình Chúng ta giáo dục con trẻ toàn những răn đe cấm kỵ điều mà xưa kia trong chúng ta chẳng mấy ai thích thú Chúng ta quên rằng chơi đùa đúng nghĩa tích cực của nó sẽ mang lại bao nhiêu điều bổ ích Không cần nói đến việc giải toả bao nhiêu căng thẳng của đời sống thường nhật với trẻ con những khi giải trí như thế
là cả một thế giới mới đang mở ra Chúng có thể tưởng tượng ra cả một lâu đài ngoài xa khơi nàng tiên dưới đáy biển hay thần tiên ở trên trời… Đó là lý do vì sao trẻ em rất thích huyền thoại cổ tích hơn là những sự thật trong lịch sử thích truyện khoa học viễn tưởng hơn là những trang giáo khoa thư với những công thức định lý định luật Chính thế giới hư ảo lãng mạn và mộng mơ đó chắp đôi cánh tâm hồn cho trẻ thơ đi vào cái huyền diệu của trời đất Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em chính là vun đắp cho cả một sự sống tâm hồn trẻ trung lành mạnh ấy Viết được những trang văn trang thơ giàu chất lãng mạn mộng mơ là giúp cho trẻ em nhìn thấy được chính mình trong tác phẩm Không thấy được bóng dáng của mình trong tác phẩm trẻ em đọc văn khác nào lạc vào một thế giới xa
lạ mà chúng chưa bao giờ tin đó là sự thật Sự thật của trẻ em đơn giản là sự thật
mà chính chúng muốn giãi bày khao khát chứ không phải là sự thật như người lớn chúng ta nghĩ
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ, ngây thơ ngộ nghĩnh dễ yêu thương, dễ hờn dỗi, buồn vui là thơ mộng, đôi mắt trẻ thơ là khoảng trời xanh, áng mây đi vào mắt chúng là cả một ảo giác về tương lai
Sự thơ mộng và lãng mạng là nét tâm lí nổi bật của trẻ lứa tuổi mầm non, chính nét tâm lí này đã giúp cho trí tương tượng của tẻ vô cùng phong phú, súc tưởng tượng của trẻ em dường như vô bờ bến, không biết đâu là bờ, chúng tượng tượng để khám phá thế giới để thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình, tưởng tượng góp phần vào tư duy nhận thức của trẻ, trí tượng tượng ở lúa tuổi này bắt đầu mang tính sáng tạo Tưởng tượng phụ thuộc vào nhiều cảm xúc,
Trang 24tưởng tượng cũng làm giàu thêm cảm xúc kinh nghiệm của trẻ, việc hình thành
và phát triển tượng tương gắn chặt với phát triển ngôn ngữ cho trẻ, những hình ảnh hiện lên trong tâm trí của trẻ qua nội dung của các bài thơ, còn tạo cho trẻ
gắn kết bạn bè qua các ình thức đối thơ với nhau như bài thơ “Ong và Bướm”của tác giả Nhược Thủy
Ong và Bướm
Con bướm trắng
Lượn vườn hồng
Gặp con ong
Đang bay vội
Bướm liền gọi
Rủ đi chơi
Ong trả lời
Tôi còn bận
Mẹ tôi dặn
Việc chưa xong
Đi chơi rong
Mẹ không thích
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tác phẩm thơ trong chương trình “Chăm sóc - và giáo dục”trẻ em
Với tuổi mầm non, tuổi học nói, một cách tự nhiên các bé rất thích và có nhu cầu muốn được nghe đọc thơ và học đọc thơ Thơ ca mang đến cho bé một kho từ vựng mới, hay, đẹp và phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tiếp nhận của các
bé Đồng thời, thơ khơi gợi nơi bé niềm hứng thú khám phá thế giới, khuyến khích bé tự tin giao tiếp Ngôn ngữ thơ ca súc tích, giàu hình ảnh và nhạc điệu giúp bé dễ cảm, dễ thuộc và dễ nhớ Và không một người lớn nào không cảm động khi được lắng nghe và ngắm nhìn một em bé tuổi mầm non đọc bài thơ yêu thích của mình
Điểm đặc biệt, bộ sách Thơ hay cho bé mầm non đã tuyển chọn và tập hợp các bài thơ theo 12 chủ đề chuẩn chương trình giáo dục mầm non hiện hành Đó
Trang 25là: Động vật; Thực vật; Tết; Thiên nhiên bốn mùa; Lễ hội; Trường mầm non; Gia đình; Quê hương-Đất nước; Bác Hồ; Giao thông; Nghề nghiệp; Bản thân Chính vì vậy không chỉ là sự lựa chọn của nhiều bậc ông bà, bố mẹ, bộ sách phù hợp để các giáo viên mầm non dùng làm tài liệu giảng dạy
Với mỗi chủ đề, giáo viên và phụ huynh có thể chọn lựa các bài ngắn - dài phù hợp để đọc cho các bé và hướng dẫn các bé đọc theo Bên cạnh đó, mỗi bài thơ trong Thơ hay cho bé mầm non đều được minh họa bằng những bức tranh bốn màu khổ lớn, bồi dưỡng trí tưởng tượng cho các bé và tạo hứng thú, niềm vui cho bé trong mỗi lần mở sách đọc thơ
Bộ sách tuyển tập những bài thơ hay cho bé mầm non gồm hai cuốn, tuyển chọn những bài thơ hay nhất của các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng viết cho các bé
85 bài là những bài thơ đã đằm sâu trong kí ức của nhiều thế hệ người Việt: “Ai dậy sớm” của Võ Quảng; “Xe chữa cháy”, “Mười quả trứng tròn”, “Bắp cải xanh” của Phạm Hổ; “Trăng sáng sân nhà em”, “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa; “Bàn tay cô giáo”, “Gọi bạn” của Định Hải, “Cờ Việt Nam” của Thy Ngọc, “Bóng mây”của Thanh Hào, “Lời chào đi trước”của Nguyễn Hoàng Sơn,
“Nhất mẹ, nhì bà”của Cao Xuân Sơn
Những hình ảnh được nối lên trong bài thơ “Hạt gạo làng ta”của tác giả Trần Đăng Khoa bắt đầu từ ý khái quát: hạt gạo được kết tinh từ những hương vị ngọt ngào của quê hương Đó là hương đồng gió nội, là bài ca lao động, là lời ru của mẹ, là vị phù sa màu mỡ của đất đai quê nhà Nhưng hạt gạo cũng còn được làm ra từ trong khó khăn của thiên tai, từ trong khói lửa của chiến tranh Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá: "Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay”Các khổ 2 và 3 của bài thơ tập trung thể hiện những "đắng cay"mới có được hạt gạo dẻo thơm Trong một bài ca dao ông cha đã từng nhắc nhở: "Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo ngon một hạt đắng cay muôn phần" Vị đắng cay mà Trần Đăng Khoa muốn nói đến là nỗi vất vả trong khắc phục thiên tai để sản xuất của người nông dân Những bão lụt, hạn hán dồn
Trang 26dập… Điệp từ “có”kết hợp với số từ “bảy”, “ba”, “sáu”, nhà thơ đã thể hiện được sự tàn phá tàn ác của thiên nhiên:
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Bài thơ ca ngợi ý chí vượt khó của mẹ, của bà con nông dân trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên Những năm 60, 70 của thế kỉ XX, giặc Mĩ leo thang bắn phá miền Bắc Chúng hòng phá hoại những thành quả xây dựng ta, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam Những trai làng phải lên đường đánh giặc:
"Những năm bom Mĩ Trút lên mái nhà Những năm khẩu súng Theo người đi xa"
Ở quê nhà là các bà, các chị Họ vừa phải sản xuất vừa phải chiến đấu để bảo vệ thành quả lao động của mình, bảo vệ quê hương bình yên với đồng lúa thẳng cánh cò bay Ngày ấy, hình ảnh các cô gái súng quàng vai, lưng đeo băng đạn cả khi cày khi cấy trở thành một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam
Đó là sự kết hợp đẹp giữa chiến đấu và sản xuất:
"Những năm băng đạn Vàng như lúa đồng Bát cơm mùa gặt Thơm hào giao thông"
Trang 27Những năm tháng gian khổ ấy, các em thiếu nhi cũng muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước:
"Hạt gạo làng ta
Có công các bạn Sớm nào chống hạn Vục mẻ miệng gàu Trưa nào bắt sâu Lúa cao rát mặt Chiều nào gánh phân Quang trành quết đất"
Các em tham gia một cách tự giác, chăm chỉ Sự chăm chỉ ấy được bài thơ thể qua các từ: sớm, trưa, chiều Sự đối lập giữa sức vóc bé nhỏ với công việc người lớn mà các em tham gia được tác giả khắc họa một cách khá ngộ nghĩnh
và xúc động Khổ cuối, tác giả nâng giá trị của hạt gạo thành: "Hạt vàng làng ta" Hạt gạo quý như hạt vàng Điệp khúc "Hạt gạo làng ta”ở mỗi khổ thơ thể hiện được sự trân trọng tự hào của nhà thơ đối với quê hương Ta có thể nhận ra những ”hạt vàng” lấp lánh trong bài thơ phân tích bài thơ hạt gạo làng ta hạt gạo làng ta Trần Đăng Khoa
Với mỗi chủ đề, giáo viên và phụ huynh có thể chọn lựa các bài ngắn-dài phù hợp để đọc cho các bé và hướng dẫn các bé đọc theo Bên cạnh đó, mỗi bài
thơ trong Thơ hay cho bé mầm non đều được minh họa bằng những bức tranh
bốn màu khổ lớn, bồi dưỡng trí tưởng tượng cho các bé và tạo hứng thú, niềm vui cho bé trong mỗi lần mở sách đọc thơ, giáo viên và phụ huynh phải chọn những bức tranh có hình ảnh gắn liền với nội dung của bài thơ, những hnhf ảnh
dễ hiểu không quá phức tạp
1.2.2 Màu sắc của các thể loại thơ
Thơ, thơ ca hay thi ca, là một khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học
Có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng Một bài văn cũng
có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc một cách nhanh chóng Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn
Trang 28mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh Sự tương tác giữa tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn có trước đây
Tính nhạc trong thơ là một hình thức làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc và sức cảm nhận nhanh chóng này tương tự như hiệu ứng của việc xem phim và nghe âm nhạc trong phim hòa quyện với nhau cùng một lúc Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn ngữ, giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các từ lại gây cảm xúc
về âm nhạc Sự kết nối khéo léo giữa hai tính chất này của ngôn ngữ thúc đẩy sự tìm tòi các từ có âm thanh hay, xác thực với tình cảm người viết muốn truyền, đồng thời tìm tòi những từ mới Tính âm nhạc còn thể hiện trong việc sử dụng các từ diễn tả âm thanh như "rì rào", "vi vút", "ầm ầm", "lanh canh", v.v Chính
vì tính chất này, việc làm thơ nhiều khi tương tự như việc làm toán, hoặc việc bài binh bố trận trong quân sự, mà bài toán hay kẻ thù phải chinh phục chính là cảm xúc của họ, và câu chữ hoặc từ là phép toán hay lực lượng quân đội mà họ
có, và người làm thơ phải nhanh chóng tìm ra phương pháp biểu tả tình cảm của mình dưới một hình thức cô đọng, hợp lý, với một số lượng từ rất nhỏ Để lùng tìm những câu, chữ, từ, nghĩa nhanh chóng, người làm thơ thường phải kinh qua một quá trình luyện tập lâu dài, bằng cách đọc sách, học cách biểu tả tình cảm của mình bằng những câu chữ ngắn gọn, đồng thời có cảm quan nhạy bén với ngữ nghĩa của từ được dùng Thơ còn đòi hỏi tính phân tích các từ ghép và cô đọng từ Chính vì thế, nhiều khi do làm thơ, người làm thơ dễ rơi vào tình trạng
Trang 29liên tưởng giữa từ của nghĩa này sang từ của nghĩa khác Khi được dùng trong thơ, người ta còn gọi là sự "chơi chữ"
Tính hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi là
"cảm hứng" Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm cả các khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một thế giới nhỏ bé Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy
có thể động vào những vật thể, ngửi thấy mùi vị, thấy sự chuyển động của vật thể, thấy màu sắc v.v Người làm thơ sẽ sống trong thế giới ấy trong khi họ đang nghĩ về bài thơ, họ sẽ đi lại, vào các góc của thế giới của mình, nhìn rõ hơn các vật cảnh, liên kết thêm những màu sắc, những chuyển động, những dãy liên tiếp của các sự kiện xảy ra, hay nói cách khác, họ xa rời cái thế giới mà họ đang
sống Chính vì hiện tượng này, người ta có câu nói đùa, chỉ các nhà thơ là thơ thẩn,nằm mơ hay mơ mộng như người ở trên cung trăng Đây là một hiện trạng
có thật Sự hưng phấn do được sống trong thế giới riêng của mình, được sắp đặt
nó theo ý riêng của mình, được thêm thắt, chắt lọc, được cho các vật chuyển động, xoay quanh các vật, chiêm ngưỡng chúng, cảm giác chúng v.v gây nên sự ham mê, thôi thúc người làm thơ tiếp tục sống và diễn tả lại chúng bằng từ ngữ Không những quan sát và diễn tả không thôi, họ còn phải nâng sự quan sát của
họ lên đến một mức độ nhạy bén, hoa mỹ, không tầm thường - đây chính là sự khác biệt giữa thơ và truyện hay với các loại hình nghệ thuật khác Một số cách dùng từ để thể hiện:
Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng Có những hình ảnh khắc khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ sộ, đôi khi gớm ghiếc Mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người làm thơ lúc họ viết Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm thấy trong
tập Truyện Kiều của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Trang 30Do ảnh hưởng của quan niệm hội họa dưới thời người làm thơ còn sống, Nguyễn Du thường sử dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình Phong cảnh đơn sơ, chấm điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức quyến
rũ Một câu khác của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà
hay Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
hay gần đây hơn của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài Nghe thầy đọc thơ:
Em nghe thầy đọc bao ngày Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa
Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình ảnh trong thơ còn động đậy, hoạt bát Người đọc thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu sắc, vừa thấy sự chuyển động của chúng Chính vì lý do này, nhiều khi các vật được miêu tả trong thơ được nhà thơ cho thêm tính "hoạt họa”của nó, hay còn gọi là
"nhân cách hóa" Dùng động từ cho những vật tưởng là vô tri, vô giác cũng giống như việc thổi sức sống vào trong vật thể, làm nó sống động trong đầu
người đọc thơ Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa đã viết trong bài Mặt bão:
Bão đến ầm ầm Như đoàn tàu hỏa Bão đi thong thả Như con bò gầy
Đương nhiên khi đọc những câu thơ trên, chúng ta còn thấy tính ẩn dụ, so sánh hình ảnh Tính tương đương của hình ảnh làm cho người đọc dễ liên tưởng hơn, đặc biệt khi để miêu tả một trạng thái với nhiều chi tiết mà tính chắt lọc của
Trang 31thơ không cho phép người ta được rườm rà Ví von, ẩn dụ còn gây hiệu ứng về các trạng thái tình cảm, chẳng hạn như người ta cảm thấy những vật vô tri, vô giác, hay những hoàn cảnh tự nhiên bỗng trở nên đáng yêu hơn, ngộ nghĩnh hơn, đáng ghét hơn, hay đáng sợ hãi hơn v.v Những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh thường thấy trong các bài thơ của thiếu nhi làm, chẳng hạn mấy câu thơ Khoa
làm lúc 9 tuổi trong bài Buổi sáng nhà em:
Ông trời nổi lửa đằng Đông
Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà
Thơ là thể loại văn học lấy cảm xúc, lấy trí tuệ súc tích được diễn đạt theo hình thức có vần điệu hoặc tự do (không vần điệu) Trong việc sáng tác các thể loại văn học thì nhà thơ là người cần thiên phú nhất, cho nên ít khi do học mà làm được thơ hay, dù nếu đã làm được thơ hay và cũng được học thì vẫn tốt hơn Thơ tồn tại như một loại thể văn học, còn "chất Thơ”hay "chất Thi ca”thì tồn tại ở nhiều loại hình, loại thể văn nghệ và trong thiên nhiên nói chung Ví dụ một phong cảnh đẹp, một không khí môi trường gợi cảm xúc thi ca - như mùa thu vàng, chiều đông tuyết nhẹ rơi lãng đãng, khi tiễn hay đón gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng làm cho tâm hồn tràn lên cảm xúc trữ tình, khiến ta như muốn ca lên, hát lên để biểu lộ một cái gì đó dạt dào hay xao xuyến
Nói tóm lại, thi ca là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối của cảm xúc rung động đa dạng của con người Khi nào bạn còn những rung động
đó, nghĩa là tâm hồn bạn còn chất thi ca, còn khiến bạn sống có ý nghĩa hơn trên cõi đời này Thơ, ngoài đặc điểm đó, lại là một nghệ thuật tuân theo các tính chất riêng của thể loại này - trong đó yếu tố trời cho làm thơ là số một Những tính chất riêng của thể loại thơ là một vấn đề lớn, mà muốn hiểu nó chúng ta cần tham khảo
từ nhiều nguồn như các giáo trình văn học, cũng như các nguồn khác
Trang 321.2.3 Khảo sát thực trạng phát tiển ngôn ngữ qua thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.3.1 Mục đích khảo sát
Quá trình khảo sát thực trạng phát triển ngôn ngữ ở trẻ mẫu giáo tìm hiểu những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân nhằm mục đích tìm hiểu biện pháp phát huy và khắc phục khó khăn để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo:
- Thực trạng về trình độ giáo viên đang giảng dạy trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
- Thực trạng dạy học về việc dạy học phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
- Thực trạng mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
1.2.3.2 Địa bàn thời gian khảo sát
Trường Mầm non Hoa Ban- huyện Mộc Châu- Sơn La
Thời gian: từ ngày 25/2 - 28/4/2016
1.2.3.3 Đối tượng khảo sát
- GV đang dạy các lớp mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) tại trường Mầm non Hoa Ban
- Các nhóm trẻ lớp mẫu giáo 5-6 tuổi tại trường Mầm non Hoa Ban
1.2.3.4 Nội dung khảo sát
Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về việc dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi qua những bài thơ nhằm phát triển ngôn ngữ của trẻ
Dự giờ quan sát giáo viên tổ chức dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi: đọc thơ ghi chép các biện pháp giáo viên sử dụng
Nghiên cứu giáo án (kế hoạch) hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đọc thơ Đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua thơ
1.2.3.5 Phương pháp khảo sát
Phương pháp khảo sát bằng phiếu Anket
+ Đối với giáo viên:
- Tiến hành khảo sát ý kiến của giáo viên mầm non nhằm tìm hiểu về nhận thức về tác động của thơ tới sự phát triển của trẻ, đặc biệt là sự phát triển ngôn ngữ, nhận thức của giáo viên trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ
Trang 33- Các bước tiến hành:
Bước 1: Phát phiếu khảo sát cho giáo viên
Bước 2: Tiến hành phân tích, tổng hợp kết quả theo nội dung khảo sát Bước 3: Nhận xét thực trạng, phân tích nguyên nhân dẫn tới thực trạng + Đối với trẻ:
- Đánh giá thực trạng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nhằm tìm hiểu mức độ ngôn ngữ của trẻ qua hoạt động dạy đọc thơ theo các tiêu chí đã đặt ra
1.2.3.6 Phân tích kết quả khảo sát
Kết quả điều tra đối với trẻ
Tôi xây dựng tiêu chí đánh giá như sau:
Bảng 1.1: Các tiêu chí đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thông qua các tác phẩm thơ
1 Khả năng phát âm + Diễn đạt dễ dàng
+ Diễn đạt bình thường + Diễn đạt khó khăn + Không diễn đạt được
+ Tốt + Khá + Trung bình + Yếu
2 Khả năng hiểu từ + Nhanh
+ Bình thường + Chậm
+ Không hiểu
+ Tốt + Khá + Trung bình + Yếu
3 Khả năng sử dụng ngữ
pháp
+ Sử dụng tốt + Sử dụng bình thường + Sử dụng khó khăn + Không sử dụng được
+ Tốt + Khá + Trung bình + Yếu
4 Khả năng cảm thụ thơ + Nhanh
+ Bình thường + Chậm
+ Không hiểu
+ Tốt + Khá + Trung bình + Yếu
Trang 34Bảng 1.2: Kết quả điều tra thực trạng ngôn ngữ 30 trẻ Trường Mầm non
Hoa Ban - huyện Mộc Châu - Sơn La
Kết quả khảo sát đối với giáo viên
Thực trạng trình độ đào tạo của giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ 5-6 tuổi ở trường mẫu giáo được khảo sát
* Trình độ đào tạo:
- Giáo viên có trình độ Đại học Sư phạm Giáo dục mầm non là: 06 giáo viên
- Giáo viên có trình độ Cao đẳng Sư phạm Giáo dục mầm non là: 04 giáo viên
- Giáo viên có trình độ Trung cấp Sư phạm Giáo dục mầm non là: 05 giáo viên
* Thâm niên công tác:
- Dưới 10 năm: 02 giáo viên
- Từ 10 - 20 năm: 3 giáo viên
- Từ 20 năm trở lên: 10 giáo viên
Qua số liệu khảo sát trên, cho thấy trường mầm non mà chúng tôi đã tiến hành điều tra phần lớn giáo viên có trình độ trung cấp trở nên đến đại học và đa
số các giáo viên có thâm niên công tác lâu năm tại các lớp lớn Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn
+ Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc nâng cao chất lượng hoạt động cho trẻ làm quen với thơ