Hy vọng, luận án sẽ hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm nền tảng cơ bản cho việc nghiên cứu chủ đề xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC; trên cơ sở phân tíc
Trang 1VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN NĂM
XÃ HỘI HÓA NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2016
Trang 2VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN NĂM
XÃ HỘI HÓA NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế quốc tế
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực Những kết luận khoa học của Luận án chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất công trình nào khác
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận án
Phạm Văn Năm
Trang 4MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC HÌNH ix
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 9
1.1 Các nghiên cứu liên quan đến lý luận về xã hội hóa 9
1.2 Các nghiên cứu liên quan đến thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam 12
1.3 Các nghiên cứu liên quan đến giải pháp xã hội hóa tài chính cho hoạt động PCCC 21
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÃ HỘI HÓA NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PCCC 23
2.1 Lý luận chung về nguồn tài chính và xã hội hóa nguồn tài chính 23
2.2 Xã hội hóa công tác PCCC và xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC 41
2.3 Các yếu tố tác động tới xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC 53
Chương 3 THỰC TRẠNG XÃ HỘI HÓA NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PCCC TẠI TRUNG QUỐC, HOA KỲ VÀ NHẬT BẢN 58
3.1 Xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC tại Trung Quốc 58
3.2 Xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC tại Hoa Kỳ 74
3.3 Xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC tại Nhật Bản 90
Trang 53.4 Một số đánh giá về quá trình xã hội hóa nguồn tài chính cho hoạt động PCCC tại các nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 101
Chương 4 HỘI H A NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PCCC
Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC, HOA KỲ VÀ NHẬT BẢN 110
4.1 Thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho hoạt động PCCC ở Việt Nam 110 4.2 Phương hướng huy động nguồn tài chính cho hoạt động PCCC 121 4.3 Một số giải pháp đối với công tác xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC ở Việt Nam thời gian tới 130
KẾT LUẬN 138 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ Đ ĐƯỢC CÔNG BỐ 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO 143
Trang 6DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
PCCC&CNCH Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Trang 7DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư Trực tiếp nước ngoài IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
NFPA National Fire Preventation
Association
Hiệp hội PCCC quốc gia Hoa Kỳ
ODA Official Development
Trang 8Bảng 4.3 Lực lượng PCCC của các nước trên thế giới đầu thế kỷ 21 116
Bảng 4.4 Dự báo nhu cầu nguồn tài chính đầu tư cho các loại phương tiện
chữa cháy giai đoạn từ 2011 – 2030 122Bảng 4.5 Dự báo nhu cầu nguồn tài chính đầu tư cơ sở vật chất cho lực
lượng PCCC giai đoạn từ 2011 – 2030 123
Trang 9DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Hệ thống các nguồn tài chính 34Hình 2.2 Mô hình xã hội hóa nguồn tài chính trong hoạt động PCCC 53Hình 2.3 Các nhân tố tác động tới quá trình xã hội hóa nguồn tài chính cho
hoạt động PCCC 56Hình 3.1 Mô hình tổ chức lực lƣợng PCCC Trung Quốc 60Hình 3.2 Cán cân ngân sách của chính phủ Trung Quốc 2001-2013 62Hình 3.3 Ngân sách và chi tiêu thực tế cho hoạt động PCCC tại bang
California giai đoạn 1999-2015 79
Trang 10
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tại nhiều quốc gia trên thế giới, chi tiêu cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đều có xu hướng ngày càng tăng nhanh, vượt cả tốc độ tăng thu ngân sách, nên không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, điều này dẫn đến thâm hụt ngân sách, phải đi vay dẫn đến nợ công của nhiều quốc gia luôn và ngày càng nghiêm trọng Tình trạng đó xảy ra không chỉ ở các nước đang phát triển, mà ở cả các nước phát triển, không những ở các nước nhỏ, mà cả những nền kinh tế khổng lồ như Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản Thậm chí, kể từ sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, ở nhiều quốc gia, thâm hụt ngân sách và nợ công đã trở nên nghiêm trọng hơn, tới mức khủng hoảng
Trong rất nhiều khoản chi tiêu ngân sách của các quốc gia, các khoản chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ công thường chiếm một tỉ lệ không nhỏ Cùng với thời gian, nhu cầu tiêu thụ của xã hội đối với các hàng hóa và dịch vụ công không những ngày càng lớn, mà đòi hỏi ngày càng tinh tế và có chất lượng cao hơn Tuy vậy, đáng tiếc là, mặc dù các chính phủ đã hết sức cố gắng, song việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công vẫn không theo kịp với nhu cầu của xã hội, thậm chí ở nhiều quốc gia, sự chênh lệch đó còn ngày càng rộng thêm ra Một trong những nguyên nhân quan trọng và chủ yếu nhất của tình trạng đó là nguồn cung tài chính từ ngân sách nhà nước ngày càng không theo kịp được với nhu cầu hàng hóa và dịch vụ công ngày càng lớn Để giải quyết tình trạng không cân đối cung-cầu tài chính cho việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công, một trong những giải pháp cốt lõi mà hầu hết các chính phủ đã thực hiện cho đến nay là tiến hành xã hội hóa, hay đa dạng hóa các nguồn tài chính Tức
là, cố gắng giảm bớt tình trạng dựa, hay lệ thuộc vào các nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước, mà mở đường cho sự tham gia của các nguồn tài chính
Trang 11khác từ các thành phần ngoài Nhà nước cho các hàng hóa và dịch vụ công
Một trong các hàng hóa và dịch vụ công đang rất thiếu các nguồn tài chính để sản xuất và cung ứng này là dịch vụ phòng cháy chữa cháy (PCCC) Đây là loại dịch vụ công không thể thiếu được cho việc đảm bảo và duy trì an toàn cho cuộc sống (sản xuất và sinh hoạt) của dân cư và doanh nghiệp Trong điều kiện hiện nay, nhu cầu đối với loại dịch vụ công này ngày càng lớn, do sản xuất ngày càng phát triển và cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện Điều đó được thể hiện cụ thể ở GDP và tổng tài sản tích lại của từng địa phương, từng quốc gia, và cả loài người ngày càng lớn, ở mật độ tài sản (được
đo bằng tổng tài sản trên một đơn vị diện tích), nhất là ở các thành phố lớn, ngày càng cao, và đồ dùng cũng như thiết bị phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của người dân ngày càng nhiều Trong điều kiện kinh tế, kinh doanh và sinh hoạt như vậy, khả năng cháy và nổ càng dễ xảy ra hơn, và nếu không may xảy
ra, thì hậu quả sẽ càng nghiêm trọng và khó lường hơn
Để có thể phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả và dập tắt được một cách nhanh chóng tình trạng cháy nổ, các dịch vụ PCCC cũng cần được mở rộng, phát triển và hiện đại hóa tương ứng Trên thực tế, dịch vụ PCCC ở hầu hết các quốc gia đều đang tiến triển theo hướng đó và, để làm được như vậy, không có cách nào khác là phải đầu tư thích đáng và phù hợp Mặc dù hầu như chẳng có quốc gia nào không nhận thức được điều đó, nhưng đáng tiếc là hầu như tất cả các quốc gia đều nằm trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan là nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước luôn không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư Trước tình trạng đó và cũng giống như đối với các hàng hóa và dịch vụ công khác, hầu như tất cả các quốc gia đều tiến hành đa dạng hóa hay xã hội hóa các nguồn tài chính cho dịch vụ này, tìm cách để huy động sự tham gia đóng góp tài chính từ các thành phần khác ngoài nhà nước
Trong quá trình này, mỗi nước có những cách làm khác nhau, đạt được những thành công ở các mức độ khác nhau và vấp phải những vấn đề và hạn
Trang 12chế cũng khác nhau, tiêu biểu trong số những quốc gia đầu tư mạnh mẽ cho công tác PCCC và có những cách làm tiêu biểu và đáng lưu ý trong việc xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC có Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản
Từ nhiều năm qua, chính phủ các quốc gia này đã hết sức nỗ lực đẩy mạnh và hoàn thiện hoạt động xã hội hóa nhằm đa dạng hóa, tìm kiếm thêm các nguồn tài trợ mới ngoài các nguồn tài trợ sẵn có từ ngân sách Nhà nước để phục vụ tốt hơn cho hoạt động PCCC trong nước
Trong lĩnh vực này, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ Cho đến nay, nguồn kinh phí to lớn để thực hiện tốt công tác PCCC, hiện đại hóa và nâng cao năng lực hoạt động của lực lượng PCCC chủ yếu (hay đúng hơn là tuyệt đại đa số) lấy từ ngân sách Nhà nước Tuy vậy, hiện nay, trước nhu cầu cấp bách phải hiện đại hóa cơ sở vật chất, nâng cao khả năng ứng phó của lực lượng PCCC và đa dạng hóa các dịch vụ PCCC, số kinh phí để đáp ứng nhu cầu này là rất lớn, ngày càng vượt quá khả năng cung cấp từ ngân sách còn hạn chế của Nhà Nước Chẳng hạn, chỉ tính nhu cầu đầu tư mua sắm phương tiện chữa cháy bị hư hỏng cần phải thay thế đến năm 2010 đã lên tới 30.000 tỷ đồng ( Đề án 1110/C66-BCA, năm 2011) [16] Do vậy, làm cách nào để có đủ nguồn tài chính nhằm nâng cao năng lực, chất lượng và hiệu quả của hoạt động PCCC trong tình hình mới hiện nay, luôn là điều trăn trở của các cơ quan hoạch định chính sách và thực tiễn có liên quan đến PCCC ở Việt Nam Trên thực tế, nhiều năm qua, nhất là từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới và chuyển sang nền kinh tế thị trường từ nửa cuối những năm 1980, nguồn tài chính cho các dịch vụ công, trong đó có dịch vụ PCCC, đã được xã hội hóa hay được đa dạng hóa, giảm dần sự lệ thuộc tuyệt đối vào ngân sách Nhà nước Tuy vậy, khác với các dịch vụ công khác, việc xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC của Việt Nam, tiến triển rất chậm, và còn vấp phải rất nhiều vấn đề cả về cơ chế, chính sách, lẫn cung cách, bước đi và biện pháp tiến hành, nên kết quả mang lại còn rất khiêm tốn, còn rất xa mới có thể đáp ứng
Trang 13được nhu cầu và mong muốn
Với nhận thức như vậy, NCS đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Xã hội hóa
nguồn tài chính cho công tác PCCC: Kinh nghiệm một số nước và bài học cho Việt Nam” để nghiên cứu cho luận án kinh tế của mình Hy vọng, luận án sẽ
hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm nền tảng cơ bản cho việc nghiên cứu chủ đề xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC; trên
cơ sở phân tích thực trạng XHH nguồn tài chính cho công tác PCCC, chỉ ra những thành công, những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân cụ thể của chúng ở một số quốc gia, như Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và
từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho hoạt động này tại Việt Nam; cuối cùng, trên cơ sở đó và xuất phát từ những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động XHH nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam cho đến nay, luận án sẽ đưa ra một số giải pháp chủ yếu giúp Việt Nam có thể vận dụng được các bài học trên nhằm đẩy mạnh và làm tốt hơn hoạt động XHH nguồn tài chính cho PCCC ở Việt Nam trong tương lai
2 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC tại Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản, Luận án sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm cũng như giải pháp để Việt Nam có thể vận dụng nhằm đẩy mạnh việc xã hội hóa tài chính cho công tác PCCC của mình
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận án có nhiệm vụ trả lời được các câu hỏi nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, việc xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC xuất
phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu nào?
Thứ hai, xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC của Trung
Quốc, Hoa Kỳ, và Nhật Bản có những đặc điểm chủ yếu gì, đã đạt được
Trang 14những thành công nào, còn tồn tại những vấn đề gi và tại sao?
Thứ ba, xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam có
thể học hỏi được gì từ các nước trên và cần phải làm gì để vận dụng những bài học đó nhằm đẩy mạnh việc xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC?
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC của một số nước, cụ thể là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam
3.2 Về phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Xã hội hóa bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau,
song ở đây Luận án chỉ nghiên cứu hoạt động xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC thuộc lĩnh vực dân sự
- Phạm vi về không gian: Luận án tiến hành nghiên cứu việc xã hội hóa
nguồn tài chính cho PCCC ở Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam
- Phạm vi về thời gian: Luận án tiến hành nghiên cứu việc xã hội hóa
nguồn tài chính cho PCCC ở Trung Quốc trong thời gian từ cuối những năm
1970, khi bắt đầu cải cách và mở cửa kinh tế, ở Hoa Kỳ và Nhật Bản chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dù đôi khi có đề cập đến một vài thời điểm trước đó khi cần thiết để so sánh, còn ở Việt Nam, việc nghiên cứu sẽ tập trung vào giai đoạn từ năm 1986, đến năm 2014, định hướng cho thời gian tới
4 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận: Luận án sẽ đi theo các phương pháp luận sau:
- Nghiên cứu hệ thống: Phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến
xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC được đặt trong một phức hợp những yếu tố có liên quan, tác động qua lại với nhau tạo ra một chỉnh thể thống nhất
Trang 15- Nghiên cứu liên ngành: Có sự kết hợp của nhiều ngành khoa học xã
hội nhân văn, khoa học lịch sử, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, chủ yếu
là kinh tế quốc tế,…
- Nghiên cứu lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong
quá trình nghiên cứu, đặc biệt các vấn đề sẽ được xem xét qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau và được nhìn nhận dưới góc độ logic phát triển
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, Luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp thống kê, thu thập số liệu, so sánh, phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgich, kết hợp những kết quả thống kê với sự vận dụng lý luận làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra cho luận án
Sau khi thu thập các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến hoạt động PCCC, việc xã hội hóa nguồn lực tài chính cho PCCC, nghiên cứu sinh sẽ so sánh các khái niệm, phân loại, số liệu và đưa ra các kết luận tổng hợp hay quan điểm riêng đối với từng khía cạnh, nội dung cụ thể Từ đó, đưa ra một bức tranh tổng quát về vấn đề nghiên cứu
Người viết sẽ nghiên cứu và kế thừa những nghiên cứu về kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới (như Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản) có thể vận dụng cho Việt Nam, đi sâu phân tích và so sánh thực trạng và cách thức xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC, những kết quả và những vấn
đề còn tồn tại trong hoạt động này tại các quốc gia trên, từ đó rút ra những kinh nghiệm và bài học có thể vận dụng ở Việt Nam
Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn vận dụng các quan điểm, đường lối và chính sách phát triển kinh tế-xã hội, và các chính sách về dịch vụ công, trong đó
có hoạt động PCCC của Đảng và Nhà Nước để phân tích, đánh giá và khái quát một cách có hệ thống về công tác PCCC và xã hội hóa nguồn tài chính cho PCCC ở Việt Nam, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và giải pháp khắc phục
Trang 165 Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã phân tích được thực trạng XHH nguồn tài chính cho công tác PCCC, chỉ ra những thành công, những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục
và nguyên nhân cụ thể của chúng ở một số quốc gia, như Trung Quốc, Hoa
Kỳ và Nhật Bản Từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho hoạt động này tại Việt Nam;
- Trên cơ sở đó và xuất phát từ những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động XHH nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam thời gian qua, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu để vận dụng hợp lý các bài học kinh nghiệm trên nhằm đẩy mạnh và làm tốt hơn hoạt động này ở Việt Nam trong tương lai
- Với những đóng góp mới như vậy, Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho cả các nhà nghiên cứu về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC nói riêng, cũng như cho các nhà hoạch định chính sách và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực tài chính và huy động vốn cho công tác PCCC ở Việt Nam; đồng thời, góp phần nâng cao nhận thức của dân chúng về những vấn đề của công tác PCCC và hoạt động XHH nguồn tài
chính cho công tác này trên thế giới và Việt Nam
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động này ở Việt Nam
Trang 177 Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt (tiếng Việt và tiếng Anh), Danh mục các bảng, Danh mục các hình, Danh mục các công trình của tác giả đã công bố, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án;
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hóa nguồn tài chính cho
công tác PCCC;
Chương 3: Thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC
tại Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản
Chương 4: Xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam
và giải pháp vận dụng các bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc, Hoa Kỳ và
Nhật Bản
Trang 18Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1 Các nghiên cứu liên quan đến lý luận về xã hội hóa
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến lý luận về xã hội hóa
Nghiên cứu liên quan đến lý luận về xã hội hóa được nhiều tác giả trong nước và nước ngoài tiến hành ở nhiều phạm vi và nội dung khác nhau Tuy ở mỗi công trình có những đặc điểm riêng, nhưng đều có những đóng góp quan trọng cho lý luận về xã hội hóa Từ những nghiên cứu này, các tác giả đi sau đã
kế thừa một cách tích cực và vận dụng để nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực cụ thể để từ đó xây dựng được các giải pháp hữu hiệu trong luận sán của mình
- Bài nghiên cứu ngắn của tác giả Mạnh Quang Thắng trên Tạp chí Lý
luận chính trị, số 12/ 2005, trang 90- 92, Xã hội hóa kết quả nghiên cứu khoa
học ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [61] đã chỉ ra được những
điểm đặc thù của các công trình nghiên cứu khoa học về chủ đề trên tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đó là thường mang nặng tính lý luận, hàn lâm khoa học, đặc biệt chuyên sâu về lý luận của Đảng Đồng thời, từ đó tác giả đề xuất cần có cơ chế, chính sách nhằm xã hội hóa các sản phẩm ấy bằng các hình thức khác nhau, trong điều kiện kinh tế, xã hội như hiện nay
- Trong luận án tiến sĩ Kinh tế “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
nhằm thúc đẩy xã hội hoá giáo dục ở Việt Nam” của Bùi Tiến Hanh, Học
viện Tài chính (2007) [24], tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn
về vai trò của giáo dục, xã hội hóa giáo dục, cơ chế quản lý tài chính xã hội hóa giáo dục Luận án của tác giả Bùi Tiến Hanh đã nghiên cứu sâu và thành công công tác xã hội hóa giáo dục qua xã hội hóa nguồn tài chính phục vụ cho việc phát triển giáo dục
1.1.2 Các nghiên cứu liên quan đến lý luận về xã hội hóa nguồn tài chính
- Trong luận án tiến sĩ kinh tế, Hoàn thiện chính sách tài chính cho
giáo dục Việt Nam (2005) [40] tại Học viện Ngân hàng, Lê Phước Minh đã đi
Trang 19vào tổng hợp lý luận và thực tiễn cơ bản về chính sách tài chính cho giáo dục đại học trong và ngoài nước, trên cơ sở đó phân tích các cơ hội, thách thức, quan điểm định hướng nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam Có lẽ, những phân tích của luận án trên
về nguồn tài chính cho giáo dục nước ta thực sự là gợi mở tốt cho nghiên cứu sinh về việc xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác Phòng cháy chữa cháy
- Luận văn Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính cho
hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ nay đến năm 2015 theo hướng bền vững của Đỗ Danh Thành năm 2007 [60] tại
trường Đại học Kinh tế (Đại học quốc gia Hà Nội) đã hệ thống hóa các cơ sở
lý luận về các nguồn lực tài chính cho sự phát triển kinh tế xã hội, thực trạng huy động và sử dụng các nguồn tài chính tài trợ cho đầu tư phát triển ở tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu Luận văn này đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận
cơ bản và tương đối rõ nét về tài chính và nguồn tài chính cho các hoạt động đầu tư phát triển nói chung
1.1.3 Các nghiên cứu liên quan đến nội dung xã hội hóa công tác PCCC
- Nguyễn Quang Thứ (2004) trong bài viết Mối quan hệ giữa quản lý
nhà nước về phòng cháy chữa cháy với xã hội hóa công tác PCCC trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, đã nêu ra khái niệm xã hội
hóa công tác PCCC là: “sự phối hợp hành động một cách có kế hoạch của
mọi lực lượng xã hội theo một định hướng, một chiến lược quốc gia nhằm giải quyết một vấn đề xã hội,… Một hoạt động được coi là đã được XHH khi hoạt động đó đã huy động được nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội, hoạt động đó có sự tham gia một cách tích cực, chủ động của các lực lượng, của cộng đồng và của mỗi người dân theo một kế hoạch có sự phân công trách nhiệm rõ ràng” Với ý nghĩa như vậy, thì có thể nói, xã hội hóa trong lĩnh vực
PCCC mà tác giả chỉ ra là làm cho các cấp, các ngành, các cơ sở, mọi thành
viên trong xã hội nhận thức và tự giác thực hiện việc PCCC, coi trọng công
Trang 20tác PCCC như là một nội dung trong hoạt động của ngành, đơn vị mình Đây
là công trình nghiên cứu ngắn gọn của tác giả trong lĩnh vực xã hội hóa đối với hoạt động PCCC hiện nay ở Việt Nam trên nhiều phương diện nhưng lại chưa đi sâu phân tích về xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC như hướng đi của luận án mà nghiên cứu sinh đang thực hiện
- Tương tự, trong bài viết Xã hội hóa công tác Phòng cháy chữa cháy -
Vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta hiện nay trên Tạp chí Phòng cháy chữa
cháy, số 6, Tiến sĩ Đào Hữu Dân (2012) [17] cho rằng: cùng với quá trình đổi mới, việc hình thành và từng bước thúc đẩy xã hội hóa công tác PCCC là xu hướng phát triển đúng đắn nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi cơ sở, gia đình và từng cá nhân vào hoạt động PCCC Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, của các cấp chính quyền và đặc biệt là trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát PCCC, chắc chắn xã hội hóa công tác PCCC sẽ đạt được những kết quả tốt Tuy vậy, trong bài viết trên, tác giả vẫn chưa đề cập đến vấn đề xã hội hóa nguồn tài chính trong công tác PCCC, và đây là một nội dung rất quan trọng của hoạt động xã hội hóa mà nghiên cứu sinh sẽ nghiên
cứu trong Luận án của mình
1.1.4 Những nghiên cứu liên quan đến mô hình hợp tác công-tư
- Luận án tiến sĩ của Louis Gunnigan (2007) “Increasing effectiveness
of public private partnerships in the Irish construction industry” (tại trường
Đại học Salford, Anh ) tìm cách xây dựng và chứng minh một mô hình phân tích được sử dụng để tăng tính hiệu quả cho những dự án PPP trong tương lai trong ngành xây dựng của Ai-len
- Nghiên cứu “Best Methods of Railway Restructuring and
Privatization”của các tác giả Ron Kopicki và Louis S Thompson (Số phát
hành 111, do World Bank công bố năm 1995) đưa ra mô hình hợp tác công-tư trong việc tái cấu trúc hạ tầng đường sắt công cộng, coi đây như là một trong nhũng hướng và cách để xã hội hóa ngành đường sẳt
Trang 211.2 Các nghiên cứu liên quan đến thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam
1.2.1 Những nghiên cứu liên quan đến công tác phòng cháy chữa cháy ở Việt Nam hiện nay
- Cuốn sách“Công tác phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Quang Thứ (2011) [ 64] do
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, công bố, đã phân tích thực tiễn công tác phòng cháy, chữa cháy, nhấn mạnh vai trò của công tác này đối với việc bảo đảm an toàn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Tác giả đã đề xuất phương hướng và những giải pháp hình thành tổ chức bộ máy kinh doanh dịch vụ phòng cháy, chữa cháy để phát triển mạnh dịch vụ này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Mặc
dù nghiên cứu đã nhấn mạnh vào các giải pháp để đảm bảo công tác PCCC
có hiệu quả ở nước ta, nhưng chưa có sự phân tích hợp lý và cụ thể về vấn
đề xã hội hóa các nguồn vốn để trang trải, đầu tư trước sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn
- Công trình “Nghiên cứu sự chuyển đổi nhận thức về hoạt động PCCC
từ khi chuyển sang kinh tế thị trường” của Tiến sĩ Ngô Văn iêm năm 1995 (
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Công an, năm 1995) [80] tập trung đánh giá vai trò của công tác PCCC đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; phân tích
tư duy kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đã cản trở việc phát triển các loại hàng hoá công cộng, trong đó có dịch vụ PCCC
- Đề tài khoa học cấp cơ sở Trường đại học PCCC của Vũ Hữu Quyết
năm 2001 “Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng cháy
chữa cháy trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ” [53] tập trung vào phân tích
và làm rõ những vấn đề liên quan đến hoạt động PCCC trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy nâng cao hiệu quả PCCC trong các doanh nghiệp này
Trang 22- Đề tài khoa học cấp Bộ Công an của các tác giả Nguyễn Ngọc Sơn,
Nguyễn Thế Từ và Kiều Hồng Mai: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay" [54] năm 2004 đã phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn hoạt động PCCC trong các cơ sở sản xuất công nghiệp trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài
đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động PCCC trong các cơ sở sản xuất công nghiệp
1.2.2 Các nghiên cứu liên quan tới thực trạng xã hội hóa công tác PCCC tại Việt Nam
- Trong luận văn Thạc sĩ kinh tế của bản thân nghiên cứu sinh (Phạm
Văn Năm) “Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường đại học Phòng cháy, chữa
cháy trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2007, nghiên cứu sinh đã làm rõ các vấn đề về quản lý tài chính của Trường đại học Phòng cháy chữa cháy, trên hai hình thức quản lý là đơn vị sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu Luận văn đã đi vào phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý tài chính của Trường đại học Phòng cháy chữa cháy, trên cơ sở đó nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng của công tác quản lý tài chính trong đơn vị nhà trường Đây cũng là một công trình nghiên cứu bước đầu của nghiên cứu sinh về quản lý tài chính tại một đơn vị cấp trường trong hoạt động Phòng cháy chữa cháy hiện nay Luận văn là một trong những tham khảo khoa học hữu ích cho nghiên cứu sinh thực hiện đề tài tiến sĩ của mình
- Trong bài viết Xã hội hóa công tác Phòng cháy và chữa cháy trong
tình hình mới của mình đăng trên Tạp chí Khoa học và Giáo dục PCCC, số
tháng 12/ 2008, Nghiên cứu sinh cũng đã chỉ ra rằng, trong tình hình mới, với nhiệm vụ mới, cả nước và toàn dân góp sức thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mục tiêu công tác tuyên truyền và xây dựng
Trang 23phong trào quần chúng PCCC là từng bước xã hội hóa công tác PCCC phù hợp yêu cầu phát triển của đất nước Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của lực lượng Cảnh sát PCCC Bài viết thống kê, đưa ra các số liệu, luận cứ khoa học, các kết quả bước đầu đã đạt được trong hoạt động Xã hội hóa công tác phòng cháy chữa cháy với những mô hình điểm ở các địa phương Cho đến nay, trong công tác Phòng cháy chữa cháy, Cảnh sát PCCC cả nước đã xây dựng được 81.551 đội PCCC cơ sở và dân phòng với 848.381 đội viên làm nòng cốt trong phong trào PCCC ở cơ sở Hàng năm, lực lượng này đã phát hiện và dập tắt kịp thời khoảng trên 60% tổng số vụ cháy xảy ra, ngăn chặn cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng, góp phần cùng lực lượng Cảnh sát PCCC bảo vệ tài sản của nhà nước, tính mạng tài sản của nhân dân Với những nỗ lực trên, công tác PCCC
đã và đang được từng bước xã hội hóa Một bộ phận lớn cơ sở và người dân đã xác định được quyền lợi và nghĩa vụ trong việc thực hiện công tác PCCC; nhiều ngành, địa phương đã chủ động bố trí kinh phí cho công tác PCCC, nhân dân đã tự phá dỡ, giải toả tạo khoảng cách an toàn, làm đường cho xe chữa cháy tiếp cận khu dân cư dễ cháy, đóng góp kinh phí mua sắm trang bị phương tiện, dụng cụ chữa cháy, thực hiện nghiêm quy định an toàn PCCC tại nơi làm việc, nơi sinh sống; tham gia tích cực vào các hoạt động PCCC với nhiều việc làm tốt, kinh nghiệm hay trong công tác PCCC như mô hình “cụm công nghiệp
an toàn PCCC” của Hải Phòng; ấp an toàn PCCC của Tiền Giang; nhiều nơi còn khó khăn như một xã miền núi của Sơn La cũng đã vận động mỗi hộ gia đình có một người tham gia vào đội PCCC để giúp nhau mỗi khi có cháy xảy ra, Kết luận, công trình nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra các mục tiêu
xã hội hóa công tác PCCC trong thời gian tới, những giải pháp, biện pháp mà lực lượng Cảnh sát PCCC cần tiếp tục thực hiện Trong công trình nghiên cứu chuyên sâu về PCCC của mình, tác giả cũng đã đề cập đến một số khía cạnh xã hội hóa công tác Phòng cháy chữa cháy, như xã hội hóa đào tạo, xây dựng lực lượng, Tuy nhiên, vấn đề xã hội hóa các nguồn lực tài chính cho PCCC nói chung và ở Việt Nam nói riêng, là chủ đề nghiên cứu chính của Luận án này,
Trang 24đã chưa được Nghiên cứu sinh đề cập nhiều ở công trình trên
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Thứ (2004) với
chủ đề “Dịch vụ phòng cháy chữa cháy - Một loại hàng hoá công cộng trong
nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta" [63], bảo vệ tại Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, đã nghiên cứu về công tác xã hội hóa hoạt động PCCC ở nước ta, nhưng không đi sâu phân tích xã hội hóa nguồn tài chính liên quan Luận án mới tập trung nghiên cứu hoạt động PCCC với tư cách là một loại hàng hóa công cộng và cần huy động mọi nguồn tài chính cho loại hàng hóa đặc biệt này đáp ứng nhu cầu của người dân và xã hội ngày một tốt hơn theo kịp sự phát triển năng động của nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.3 Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng đầu tư chung và xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam
- Nghiên cứu của Chu Văn Thành “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch
vụ công” (2004) [59], Nxb Chính trị Quốc gia, đã trình bày một số vấn đề
về thực tiễn của vấn đề xã hội hóa dịch vụ công, đề cập đến việc xã hội hóa dịch vụ công như một chủ trương và có xu hướng đi kèm với công tác đổi mới tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
- Trong công tác PCCC, đề tài khoa học cấp cơ sở Trường ĐH PCCC
của tác giả Đào Hữu Dân "Nghiên cứu chức năng quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực PCCC của lực lượng Cảnh sát PCCC trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay", Hà Nội, 2001, đã phân tích thực trạng
việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về PCCC của lực lượng Cảnh sát PCCC hiện nay
- Trong ngành viễn thông, công trình nghiên cứu “Ý kiến về rủi ro trong
thực thi xã hội hóa và quan hệ công tư thuộc lĩnh vực viễn thông công ích”
của các tác giả Đàm Văn Huệ, Bùi Xuân Chung trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 142/2009, trang 51-54, đã phân tích thực trạng thị trường viễn thông,
Trang 25từ đó nêu nên những rủi ro của thị trường này trong bối cảnh xã hội hóa và nêu ra những giải pháp cho vấn đề
- Trong ngành y tế, luận án tiến sĩ kinh tế Xã hội hóa y tế ở Việt Nam:
Lý luận - Thực tiễn và giải pháp của tác giả Đặng Thị Lệ Xuân (2011) bảo vệ
tại Trường đại học Kinh tế Quốc dân đã trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hóa y tế ở nước ta thời gian qua và trên cơ sở đó đề xuất và gợi ý một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xã hội hóa y tế trong thời gian tới Luận án có thể là tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh trong việc trình bày luận án của mình, cũng như những hướng gợi mở đặc thù cho ngành phòng cháy chữa cháy hiện nay
1.2.4 Những nghiên cứu thực trạng và đánh giá về hoạt động Xã hội hóa công tác PCCC của các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản
- Tác giả Chương Châu Phát trong tham luận“Thành lập cơ chế giám
sát vĩ mô đối với công tác PCCC” tại Hội thảo khoa học ở Phúc Kiến, Trung
Quốc, năm 2010 đã đề cập đến nội dung kiểm soát hoạt động PCCC Việc phát triển và đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm cháy nổ nhằm huy động tốt hơn các nguồn tài chính cho lĩnh vực PCCC tại Trung Quốc
- Tác giả Sir Ken Knight CBE QFSM FIFireE, trong nghiên cứu
“Facing the Future: Findings from the review of efficiencies and operations
in fire and rescue authorities in England”, Department for Communities and
Local Government, Vương Quốc Anh (tháng 5 năm 2013) đã cho biết, có sự thay đổi rất quan trọng đối với công tác đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy tại Vương Quốc Anh, đó là ngân sách chính phủ dành cho công tác này
bị cắt giảm rõ rệt trong khi khoản thu thuế của ngân sách địa phương gần như không đổi Các nhà chức trách về Phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn phải đối mặt với nguồn thu ngân sách hạn chế trong khi phải đảm bảo hiệu quả công việc của hoạt động này trong giai đoạn mới (trang 66) Nghiên cứu này cũng nhấn mạnh đến giải pháp tiếp tục đầu tư vào giải pháp công nghệ
Trang 26nhằm giảm bớt các nguy cơ tử vong, thương tích từ hỏa hoạn mang lại như hệ thống báo cháy, hệ thống an toàn tắt điện tự động khi có sự cố Với hơn 50% các vụ hỏa hoạn tại các gia đình dân cư là do các nguyên nhân liên quan đến đun nấu bằng điện (trang 72) Nghiên cứu này cũng cho biết, ngoài những đổi mới cơ bản trong quản lý hoạt động an toàn cháy nổ ở các địa phương, cần phải đẩy mạnh công tác huy động nguồn tài chính hữu hiệu nhằm đáp ứng ngân sách cho hoạt động này (trang 73) Tác giả đã nghiên cứu công phu nhiều nội dung quan trọng về công tác PCCC và cứu hộ cứu nạn tại Vương Quốc Anh tại thời điểm khi có thách thức về cắt giảm ngân sách quốc gia Tác giả đã đề cập đến vấn đề giải quyết nguồn ngân sách nhưng lại không đưa ra cách giải quyết như thế nào, nguồn từ đâu ra và các thành phần trong xã hội chia sẻ cùng nhau gánh vác các chi phí này là ai?
- Cuốn sách, OECD and ASEAN economies: The challenge of policy
coherence (1995) của tác giả Kiichiro Fukasaku, do OECD xuất bản tại Paris,
với dung lượng 235 trang, đã trình bày về các nền kinh tế OECD và ASEAN
và các vấn đề mà họ phải đối mặt trong các hợp tác phát triển kinh tế; sự liên kết kinh tế, ASEAN và sự hội nhập kinh tế ở Châu Mỹ, vai trò của các nguồn tài chính nước ngoài trong ASEAN những năm 1980; chính sách môi trường của OECD và ứng dụng của nó vào ASEAN, nghiên cứu thực tế về các chính sách phát triển kinh tế Mỹ, Nhật và Châu Á
- Đối với hoạt động Xã hội hóa công tác PCCC tại Trung Quốc, trong
bài viết “Xã hội hóa công tác phòng chống cháy xây dựng như thế nào để thích
nghi với đô thị hóa” trên Tạp chí Viện Công nghệ An Dương, Trung Quốc, số
3/2013, tác giả Yu Xiao Lei Niu đã chỉ ra sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế -xã hội Trung Quốc và những bất cấp trong công tác PCCC tại các đô thị Trên thực tế, tình hình cháy nổ diễn ra ngày càng phức tạp kéo theo những thiệt hại
về người và của ngày càng tăng, ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế, xã hội của Trung Quốc Tác giả đã nêu ra một loạt các giải pháp huy động nguồn
Trang 27tài chính đối với phát triển công tác PCCC tại đây Đây là bài nghiên cứu chuyên sâu của tác giả với những tư liệu hữu ích về kinh nghiệm trong việc huy động nguồn tài chính cho hoạt động này, là tài tham khảo hữu ích cho tác giả khi viết luận án này của mình
- Đối với hoạt động Xã hội hóa công tác PCCC tại Nhật Bản, báo cáo
nghiên cứu “Concepts in Fire Protection - Practices from Japan, Hong Kong,
Australia, and New Zealand”, 1985, của các tác giả Philip S.Schaenman và
Edward F.Seits, đã phân tích sự nổi bật của công tác PCCC tại Nhật Bản Theo đó, Nhật Bản là nước có dân số bằng một nửa dân số Hoa Kỳ nhưng lực lượng lính cứu hỏa gần tương đương với Hoa Kỳ với số lượng là 128.000 lính chuyên nghiệp cộng với khoảng 1.000.000 lính cứu hỏa tình nguyện trên cả nước Lực lượng cứu hỏa tình nguyện thực hiện phần lớn việc phòng cháy chữa cháy tại các khu vực nông thôn và có thể tham gia công tác tại các đô thị Vai trò chính của lực lượng cứu hỏa tình nguyện ở các đô thị là tham gia các hoạt động phòng cháy, tuy nhiên lực lượng này cũng tham gia tích cực đối với các công việc của lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp Nhật Bản thực hiện công tác tuyên truyền rất hiệu quả về quan tâm của cộng đồng đối với an toàn phòng cháy và chữa cháy cũng như mọi người dân có trách nhiệm liên quan
Sự quan tâm rất lớn của Nhật Bản đó là an toàn ngay tại nhà và nhiều chương trình thực hành cụ thể cho người dân đối với công tác phòng cháy chữa cháy
đã có tác động rất lớn đến phần đông dân chúng Nhật Bản Các chương trình tuyên truyền an toàn PCCC trên truyền hình, các tờ rơi liên tục được phát cho người dân và giáo dục đào tạo bắt buộc tại nhà trường phổ thông với các nội dung liên quan đến PCCC đã huy động được cả hệ thống xã hội vào cuộc Nghiên cứu này đã chỉ rõ các chương trình hành động đa dạng của chính phủ Nhật Bản nhằm tuyền truyền những nội dung cần thiết và đào tạo các kỹ năng cần thiết cho mọi người dân đối với lĩnh vực PCCC Tuy vậy, nghiên cứu đã không đề cập đến nguồn tài chính từ đâu để cung cấp cho các hoạt động này
Trang 28Điểm hạn chế này của nghiên cứu trên sẽ được luận án của nghiên cứu sinh làm sáng tỏ trong phần nghiên cứu về hoạt động huy động các nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Nhật Bản dưới đây
- Ngoài ra, các tác giả của báo cáo “Disaster Prevention and People:
Working Towards the Creation of a Strong Society”, do The Japan
Foundation xuất bản năm 2011, đã đề cập đến kế hoạch ứng phó hiệu quả đối với các thảm họa tại Nhật Bản cho biết, trong trận động đất tại Kobe, lực lượng tình nguyện viên cứu hộ cứu nạn thiếu kinh nghiệm trở thành vấn đề nổi cộm để người ta quan tâm đến các nhóm tình nguyện tại Nhật Bản Có rất nhiều kỹ năng cần đào tạo cho lực lượng tình nguyện cũng như đào tạo chung cho giới trẻ để họ có thể giúp đỡ người khác khi có thảm họa xảy ra như đào tạo về an toàn phòng cháy chữa cháy, đào tạo về cứu hộ cứu nạn, đào tạo về
di chuyển dân cư thông qua nhiều hình thức khác nhau Sự ảnh hưởng nghiêm trọng của thảm họa nói chung dẫn đến sự hình thành mạng lưới giúp đỡ nhau trong cộng đồng thông qua trung tâm cứu hộ, trung tâm di cư giữa các tổ chức địa phương và tổ chức của chính phủ nhằm giải quyết các hậu quả cũng như ứng phó với thảm họa động đất (trang 97, 98) Nghiên cứu này của tác giả không chỉ tập trung vào vấn đề phòng cháy chữa cháy mà hướng chung vào các vấn đề thảm họa chung mà Nhật Bản thường hứng chịu như động đất, sóng thần, hỏa hoạn, núi lửa hoạt động Kinh nghiệm trong ứng phó thảm họa tại Kobe hay Niigata đó là huy động tổng lực các nguồn lực trong xã hội tham gia vào khắc phục các hậu quả mà thảm họa ập tới Mặc dù tác giả không đi vào nghiên cứu nguồn gốc tài chính chi cho các hoạt động liên quan của các
cá nhân, tổ chức tham gia vào công tác cứu hộ cứu nạn tại Nhật Bản, nhưng cũng có thể thấy rằng tính xã hội hóa rất cao nguồn tài chính cho hoạt động này tại quốc gia này
Đối với hoạt động Xã hội hóa công tác PCCC tại Hoa Kỳ, có rất nhiều nghiên cứu về công tác xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC Các
Trang 29nghiên cứu được tiến hành ở cấp độ quốc gia, địa phương đặc thù cũng như liên quan giữa công tác PCCC với các hoạt động công cộng khác như dịch vụ
y tế khẩn cấp Trong đó, có thể nói, công trình của cơ quan quản lý quốc gia
về PCCC Hoa Kỳ được đánh giá là cụ thể nhất và cập nhật số liệu tổng thể
nhất cho đến thời điểm này Trong cuốn sách “Các nguồn tài chính cho hoạt
động PCCC và y tế khẩn cấp của Hoa Kỳ” (Funding Alternatives for
Emergency Medical and Fire Services), FA-331/April 2012, Cơ quan quốc gia Hoa Kỳ về PCCC (United State Fire Administration) đã cho rằng: Các nguồn tài chính từ khu vực tư nhân cho ngân sách dịch vụ công tại Hoa Kỳ rất
đa dạng với nguồn lực huy động lớn từ các tổ chức lợi nhuận và phi lợi nhuận Thông thường, hoạt động tài trợ thực hiện một lần duy nhất và thỉnh thoảng cũng có các tổ chức gia hạn tài trợ kinh phí trong nhiều năm Trong thực tế, không tổ chức nào hỗ trợ tiếp tục các khoản chi cho tiền lương hay các chi phí quản lý hành chính Tuy nhiên, các tổ chức này đóng góp kinh phí hết sức quan trọng cho việc thực hiện các chương trình mới, thực hiện các chương trình đặc biệt, mua sắm trang thiết bị hoạt động Các tổ chức tư nhân
có thể tài trợ tài chính dưới dạng vật chất hoặc dịch vụ liên quan Các nguồn tài chính được huy động bao gồm: các tổ chức tại các địa phương hay các câu lạc bộ dịch vụ cộng đồng (Local Foundations/Community Clubs; large foundations); ủng hộ của các doanh nghiệp tư nhân (Private corporations donation) dưới dạng tiền mặt và trang thiết bị, vật chất; đối tác công tư (Private/public partnerships) (trang 103-104) Tài liệu này đã chỉ rõ các nguồn tài chính huy động được từ các nguồn ngoài ngân sách của chính phủ Hoa Kỳ liên bang và địa phương cho hoạt động PCCC Như vậy, với việc tiếp cận tư liệu quan trọng này, luận án sẽ khai thác triệt để cách tiếp cận rất thành công
và điển hình của Hoa Kỳ trong hoạt động xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam
Trang 301.3 Các nghiên cứu liên quan đến xã hội hóa tài chính cho hoạt động PCCC ở Việt Nam
- Trên cơ sở trình bày đặc điểm của lĩnh vực PCCC ở Việt Nam, tác giả
Trịnh Ngọc Bảo Duy, trong luận văn Thạc sĩ chuyên nghành quản lý kinh tế,
Đa dạng nguồn tài chính đối với lĩnh vực phòng cháy chữa cháy ở Việt Nam
(2011), bảo vệ tại Trường đại học Kinh tế Quốc dân, đã nêu ra những giải pháp nhằm huy động các nguồn lực tài chính cho lĩnh vực PCCC Có thể thấy mặc
dù là một công trình nghiên cứu ở mức độ là một luận văn song với những gì tác giả thực hiện thực sự có ý nghĩa để tham khảo khi nghiên cứu sinh thực hiện luận án của mình Mặc dù Luận văn cũng liên quan đến lĩnh vực tài chính cho PCCC, nhưng có hướng đi khác so với luận án mà Nghiên cứu sinh đang thực hiện và không trùng lặp với hướng nghiên cứu của Luận án
- Trong luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị Tăng cường quản lý nhà nước
đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, Nguyễn Thị
Hương Giang đã trình bày và làm được những nhiệm vụ sau: Nêu được cơ sở
lý luận và thực tiễn, thực trạng, và phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam Luận văn đã phân tích những đặc thù của công tác PCCC tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam nhằm lưu ý phải tăng cường việc quản lý của nhà nước đối với hoạt động PCCC tại đây Tuy vậy, luận văn này chưa chỉ ra được nguồn tài
chính cho hoạt động PCCC tại các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có đặc thù gì
Do đó, Luận án của NCS sẽ hướng vào nghiên cứu vấn đề huy động nguồn tài chính từ chính các doanh nghiệp FDI cho công tác PCCC để bảo vệ tài sản và con người của các doanh nghiệp trước nguy cơ cháy nổ xảy ra
Nhìn chung, các công trình nêu trên đều đề cập một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp tới vấn đề xã hội hóa dịch vụ công và, ở một chừng mực nhất định,
Trang 31đến vấn đề xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản Các đề tài và công trình nghiên cứu đó đã trình bày một cách có hệ thống các
cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về xã hội hóa, xã hội hóa dịch vụ công và các nguồn tài trợ cho hoạt động PCCC của một số nước và Việt Nam, song chưa
có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu và tòan diện các vấn đề liên quan đến xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và, từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Vì vậy, với cách tiếp cận riêng của tác giả, đề tài luận
án “Xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC: Kinh nghiệm một số
nước và bài học cho Việt Nam” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách
toàn diện thực trạng xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác PCCC ở các nước, trong đó tập tung vào các quốc gia Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản,
từ đó hướng tới đẩy mạnh và hoàn thiện hoạt động xã hội hóa nguồn tài chính trong công tác PCCC ở Việt Nam thời gian tới
Trang 32Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÃ HỘI HÓA NGUỒN
TÀI CHÍNH CHO CÔNG TÁC PCCC
2.1 Lý luận chung về nguồn tài chính và xã hội hóa nguồn tài chính
2.1.1 Tổng quan về nguồn tài chính
(*) Khái niệm nguồn tài chính
Doãn Văn Kính (1996) trong cuốn “Kinh tế các nguồn lực tài chính”
cho rằng nguồn tài chính là toàn bộ quá trình tạo ra tài chính, bố trí nguồn tài chính, luân chuyển và sử dụng tiền vốn được thể hiện dưới hình thái giá trị Nguồn tài chính là một thành phần quan trọng của sức mạnh Nhà nước và có tác dụng chủ đạo trong toàn bộ sức mạnh của Nhà nước Nguồn tài chính thường được thể hiện dưới hình thái giá trị, số lượng của nguồn tài chính được thể hiện bằng tiền tệ, sự luân chuyển của nguồn tài chính cũng được thể hiện bằng tiền tệ [32, tr24-25]
Trong phạm vi doanh nghiệp, nguồn tài chính được định nghĩa trong Từ
điển thuật ngữ kinh doanh (Busines Dictionary) là vốn tiền tệ có sẵn cho
doanh nghiệp sử dụng để chi tiêu dưới dạng tiền mặt, chứng khoán có tính thanh khoản và hạn mức tín dụng Trước khi tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp cần đảm bảo được cung cấp đầy đủ các nguồn tài chính để có thể hoạt động hiệu quả nhằm đem lại thành công cho doanh nghiệp
Thực tiễn hoạt động kinh tế-xã hội cho chúng ta thấy các biểu hiện bên
ngoài của tài chính được thể hiện dưới dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền
và chi ra bằng tiền của các chủ thể kinh tế - xã hội trong hệ thống tài chính
Thông qua các hiện tượng kinh tế - xã hội, có thể kết luận, hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ Tiền tệ đại diện cho một lượng giá trị, một thế năng và sức mua nhất định và được gọi là nguồn tài chính (hay nguồn lực, nguồn lực tài chính)
Trang 33Nguồn tài chính được đề cập đến dưới nhiều tên gọi khác nhau như: tiền vốn, vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, vốn kinh doanh, vốn tín dụng, vốn trong dân cư, Đối với mỗi chủ thể kinh tế, khi nguồn tài chính được tập trung (hay hiện tượng thu vào) có nghĩa là các quỹ tiền tệ được hình thành, và khi nguồn tài chính được phân tán (hay hiện tượng chi ra) có nghĩa là các quỹ tiền tệ được sử dụng Quá trình vận động của các nguồn tài chính đó chính là quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ Trong quá trình đó, các chủ thể kinh tế - xã hội tham gia vào việc phân phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền
Trong kinh doanh, thuật ngữ “nguồn tài chính” có thể được đồng nghĩa với khái niệm “vốn” hay “vốn tiền tệ” Tuy nhiên, thông thường thì nguồn tài chính chỉ có nghĩa là nguồn vốn khi nguồn tiền được huy động sử dụng vào đầu tư kinh doanh [33]
Theo quan điểm của tác giả luận án, nguồn tài chính là khả năng tài
chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích cụ thể của mình Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất Sự vận động của các nguồn tài chính phản ánh sự vận động của những bộ phận của cải dưới hình thức giá trị (tiền tệ) Nguồn tài chính thể hiện khả năng về sức mua nhất định Việc sở hữu
những nguồn tài chính nhất định đồng nghĩa với việc sở hữu những nguồn lực nhất định phục vụ cho mục đích tích lũy hoặc tiêu dùng của mình
(*) Bản chất của nguồn tài chính
Như trên đã nói, nguồn tài chính có thể được gọi với các tên khác nhau, như vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn hay trong các trường hợp cụ thể có thể được gọi là vốn tín dụng, vốn ngân sách, Nguồn tài chính không chỉ hình thành từ các quỹ mà còn hình thành từ các tài sản dưới dạng hiện vật có khả năng chuyển hóa thành tiền tệ, những tài sản này khi cần có thể chuyển hóa thành tiền tệ để trở thành nguồn tài chính Trên bình diện quốc gia, nguồn tài
Trang 34chính không chỉ bao gồm các giá trị hiện tại mà cả những giá trị có khả năng nhận được trong tương lai, sự mở rộng này có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm về nguồn tài chính vì nó mở rộng giới hạn về nguồn tài chính mà các chủ thể kinh tế nắm giữ Quyết định về việc sử dụng các quỹ tiền tệ hiện tại của chủ thể kinh tế không chỉ dựa vào nguồn tài chính mà họ đang nắm giữ mà cũng bao gồm cả những nguồn tài chính mà họ kỳ vọng sẽ có trong tương lai
Theo cách hiểu thông thường, nguồn tài chính (vốn) là điều kiện tiền
đề để tất cả các hoạt động trong xã hội diễn ra và trở thành một tác nhân đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế Ở tầm vĩ mô, vốn là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia Các nhà kinh tế học đều thống nhất cho rằng, vốn là một phạm trù kinh tế Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề tài chính khiến cho các quốc gia luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt,…
Ở Việt Nam, theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học, “Vốn là
tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh, nhằm mục tiêu sinh
lời” [75] Vốn có những đặc điểm như sau:
- Về hình thái biểu hiện của vốn (nguồn tài chính):
+ Xét về tính trừu tượng, vốn là hình thái giá trị, giá trị đó được ứng ra
để chuyển hóa thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá trình sản xuất, giá trị lớn lên không ngừng, và một phần lại được đưa vào tái sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Xét về biểu hiện cụ thể, vốn cũng được biểu hiện rất đa dạng, gồm tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính Những tài sản này tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, đồng thời tăng giá trị Theo đó, vốn là giá trị thực của tài sản hữu hình, tài sản vô hình
và tài sản tài chính đưa vào đầu tư để tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu sinh lời Những tiếp cận khác nhau về tài chính và nguồn tài chính
Trang 35cho thấy sự đa dạng về hình thái tồn tại Mặt khác, với tư cách là vốn thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu mang lại các lợi ích cho người sử dụng, cộng đồng xã hội tiêu dùng Như vậy, vốn luôn gắn với sự vận động và quan trọng là đảm nhiệm chức năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Về nội dung, nguồn tài chính bao gồm các bộ phận như sau:
+ Bộ phận của cải xã hội mới được tạo ra trong kỳ Đây được xem là tổng sản phẩm trong nước – GDP (Gross Domestic Product);
+ Bộ phận của cải xã hội còn lại từ kỳ trước Đây là phần tích lũy quá khứ của xã hội và dân cư;
+ Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải
từ trong nước chuyển ra nước ngoài;
+ Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn
- Về mặt hình thức tồn tại, nguồn tài chính tồn tại dưới dạng:
(i) Nguồn tài chính hữu hình: Là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể
của vật chất, bao gồm hai bộ phận cơ bản Trước hết là tài sản hữu hình phục
vụ trực tiếp sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ, nguyên – nhiên vật liệu, bán thành phẩm,… ét về thực chất, những tài sản hữu hình
này chính là sự cụ thể hóa năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế Tiếp đến
là tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản xuất như trụ sở văn phòng, phương tiện đi lại, nhà ở,…
(ii) Nguồn tài chính vô hình: Là loại tài sản không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, bao gồm sản phẩm trí tuệ như bằng phát minh, sáng chế, bản quyền, thương hiệu sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp trong kinh doanh, vị trí của doanh nghiệp trên thương trường; chi phí đào tạo nguồn nhân lực,… Ngày nay, tài sản vô hình ngày càng trở nên quan trọng và có xu hướng tăng
Trang 36nhanh trong tổng cơ cấu vốn của doanh nghiệp
(iii) Tài sản tài chính: bao gồm tiền mặt hay các chứng chỉ có giá như
cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ,… được gọi chung là tiền Tuy vậy, không phải tất cả tiền đều là vốn Tiền chỉ là hình thái cụ thể của vốn, hay được coi
là vốn khi tiền đại diện cho một lượng giá trị hàng hóa, dịch vụ hay tài sản nhất định, được đưa vào lưu thông hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất – kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận Chính vì thế, những đồng tiền được cất trữ hay mang ra tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày, tức là những đồng tiền không có khả năng sinh lời, thì không được coi là vốn trong nền kinh tế thị trường
(iv) Vốn đầu tư: Là số tiền và những tài sản hợp pháp khác được sử
dụng để thực hiện hoạt động đầu tư
Thực chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế học chính trị Mác – Lê nin và kinh tế học hiện đại lập luận rõ ràng
(*) Phân loại nguồn tài chính: Có mấy cách phân loại nguồn tài chính
chủ yếu sau:
- Theo loại hình tổ chức, người ta có thể chia nguồn tài chính thành các loại: nguồn tài chính doanh nghiệp (vốn chủ sở hữu, nguồn lợi nhuận tích lũy), nguồn tài chính nhà nước (ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính thuộc nhà nước khác), nguồn tài chính dân cư, nguồn tài chính của các tổ chức trung gian tài chính (vốn ngân hàng, vốn của các công ty tài chính), nguồn tài chính của các tổ chức chính trị - xã hội
- Theo xuất xứ, có nghĩa là nguồn tài chính được phân chia dựa trên cơ
sở nguồn gốc của nó đến từ thành phần kinh tế nào Theo cách phân chia này, nguồn tài chính bao gồm: nguồn tài chính từ khu vực kinh tế nhà nước, nguồn tài chính từ khu vực kinh tế tư nhân và nguồn tài chính từ khu vực có vốn đầu
Trang 37tư nước ngoài
- Dựa theo kênh huy động, nguồn tài chính có thể phân chia thành: nguồn huy động qua kênh ngân sách nhà nước, nguồn huy động thông qua kênh các tổ chức tài chính trung gian, nguồn huy động thông qua kênh thị trường chứng khoán và nguồn huy động thông qua kênh đầu tư trực tiếp
- Theo hình thức huy động, nguồn tài chính có thể phân chia thành: nguồn tài chính đầu tư trực tiếp, nguồn tài chính huy động gián tiếp qua các trung gian trên thị trường tài chính, nguồn tài chính huy động trực tiếp trên thị trường tài chính và không qua các trung gian tài chính, nguồn tài chính huy động theo hình thức xã hội hóa (kết hợp giữanhà nước và khu vực tư nhân)
Luận án này tiếp cận nguồn tài chính theo hướng tập trung vào cách phân chia nguồn tài chính dựa trên các kênh huy động
2.1.2 Xã hội hóa nguồn tài chính
(*) Xã hội hóa
Trong tiếng Anh, động từ Socialise được cấu thành từ hai phần: Social
(tính từ XÃ HỘI) và hậu tố “ise” (H A) và được dịch ra tiếng Việt với nghĩa
XÃ HỘI HÓA, tức là làm cho vấn đề nào đó trở thành vấn đề của cả xã hội, hay có sự tham gia của cả xã hội, đồng nghĩa với việc đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ hay sở hữu tập thể Bên cạnh đó, động từ “socialize” sẽ được chuyển hóa thành danh từ là “socialization” Từ socialization sẽ có nghĩa là xã hội hóa theo cách hiểu thông thường trong cách dùng từ
- Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ và Từ điển Tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên, cụm từ “xã hội hóa” là làm cho trở thành của chung của
xã hội, chẳng hạn xã hội hóa tư liệu sản xuất có nghĩa là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất
- Quan điểm về xã hội hóa của C Mác: Từ xã hội hóa theo truyền
thống có 2 nghĩa, một nghĩa nhìn từ phía chủ nghĩa tư bản, một nhìn từ phía
nhà nước “xã hội chủ nghĩa” ã hội hóa theo C Mác là: “Sự tiến xa hơn nữa
Trang 38của quá trình xã hội hóa lao động,… thành khai thác xã hội, và do đó, là tư liệu sản xuất chung” và hai là “sự tiết kiệm mọi tư liệu sản xuất trong sử dụng như là tư liệu sản xuất của lao động tập thể”
- So với ý nghĩa thông thường nói trên thì khái niệm “xã hội hóa” được
sử dụng phổ biến hiện nay ở Việt Nam có nghĩa hoàn toàn trái ngược khi nói
về xã hội hóa hoạt động khoa học công nghệ hay xã hội hóa giáo dục, y tế,
Vì vậy, để thể hiện tính chất bao quát hơn, ý nghĩa của cụm từ “xã hội hóa”
được thể hiện trong Từ điển Tiếng Việt (của Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà
Nẵng, 2008) là làm cho trở thành sự nghiệp chung của xã hội [75]
- Trong cuốn Giáo trình xã hội học trong quản lý do Nguyễn Đình Tấn
chủ biên năm 2004, Nxb Lý luận Chính trị, khái niệm xã hội hóa hiện nay
được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, xã hội hóa (xã hội) là sự tham gia rộng rãi
của xã hội (các cá nhân), nhóm, tổ chức, cộng đồng, ) vào một số hoạt động
mà trước đó chỉ được một đơn vị, một bộ phận hay một ngành chức năng nhất
định thực hiện Thứ hai, xã hội hóa cá nhân được dùng để chỉ quá trình
chuyển biến từ con người sinh vật trở thành con người xã hội [56, tr 85] Trong phạm vi của luận án này, tác giả chỉ tập trung vào phân tích cụm từ “xã hội hóa” theo nghĩa thứ nhất, nghĩa là xã hội hóa xã hội
- Theo tác giả Ngô Thanh Nhàn (2006), trong dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụm từ “xã hội hóa” có hai ý nghĩa khác biệt Trước hết “xã hội hóa” có ý nghĩa trong bối cảnh “xã hội hóa sản xuất kinh doanh” và “xã hội hóa sở hữu” Thuật ngữ này nhằm làm rõ vấn đề doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa nhằm thúc đẩy xã hội hóa hoạt động sản xuất kinh doanh và việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có nghĩa là
xã hội hóa [44]
- Nghị quyết số 90/NQ- CP của Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1997 về xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa có các nội dung thể hiện cơ bản cụm từ xã hội hóa và hàm ý rất rõ với sự tham gia
Trang 39của các thành phần xã hội khác bên cạnh sự dẫn dắt của nhà nước Các nội dung quan trọng bao gồm [14]:
+ Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội
+ ã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách Nhà nước mà là ngược lại
+ ã hội hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa ở mỗi địa phương
+ ã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển của
sự nghiệp đó
Qua đó cho thấy, các văn bản pháp quy của Việt Nam cũng đã đề cập khá cụ thể các nội dung cơ bản của xã hội hóa với việc nhấn mạnh đến sự tham gia của khối bên ngoài nhà nước vào các hoạt động cung cấp dịch vụ công của Nhà nước
(*) Xã hội hóa dịch vụ công
- Khái niệm dịch vụ công
Theo Báo cáo của TS Đặng Đức Đạm (2010), dịch vụ công là những dịch vụ có tính chất không thể loại trừ (non-excludable) và không cạnh tranh (non-rival) trong tiêu dùng hay sử dụng Tính không loại trừ có nghĩa là tất
cả mọi người đều có quyền sử dụng bất kể họ có trả tiền cho dịch vụ đó hay không Tính không cạnh tranh có nghĩa là việc sử dụng dịch vụ của người này không làm giảm hoặc ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ của người khác [20]
Chu Văn Thành (2004) trong cuốn Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ
công: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho rằng: “Dịch vụ công là những
hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy
Trang 40định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi gì; đảm bảo công bằng và ổn định xã hội [59, tr 15]
Về bản chất, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ này [59, tr 31] Theo quan điểm của Nhà nước Việt Nam, Hoạt động phòng cháy chữa cháy thuộc nhóm dịch vụ công đặc biệt thuộc độc quyền của Nhà nước [59, tr 189]
- Khái niệm xã hội hóa dịch vụ công:
Khái niệm “xã hội hóa dịch vụ công” phổ biến hiện nay có vẻ gần với khái niệm “hợp tác công tư” (public-private partnership – PPP), nghĩa là áp dụng phương thức quan hệ đối tác công-tư vào ngành dịch vụ công đó PPP chủ yếu liên quan đến vấn đề phân công giữa chính quyền và xã hội (hay người dân nói chung) trong việc cung cấp dịch vụ và nguồn tài chính cho các dịch vụ đó [59]
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể xã hội
và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với dịch vụ công
Xã hội hóa dịch vụ công theo mô hình hợp tác công-tư có liên quan đến vấn đề phân công giữa chính quyền và xã hội trong cung ứng dịch vụ và cấp tài chính cho các dịch vụ đó
(+) Khái niệm về quan hệ đối tác công-tư trên thế giới
Trên thế giới, khi lĩnh vực dịch vụ công cộng được mở cửa cho khu vực
tư nhân vào đầu tư, các nhà hoạch định chính sách gọi đó là quá trình tư nhân hóa Tuy nhiên, sau một thời gian, người ta nhận thấy cách gọi đó chưa thích hợp vì kinh doanh hàng hóa công cộng không hoàn toàn giống với kinh doanh hàng hóa thông thường, và Chính phủ vẫn phải có trách nhiệm bảo đảm cung ứng đầy đủ dịch vụ công cộng ngay cả khi khâu sản xuất đã được chuyển giao cho khu vực tư nhân Vì vậy, khái niệm tư nhân hóa được thay thế bằng khái niệm sự tham gia của khu vực tư nhân (Private Sector Participation)
(+) Khái niệm về quan hệ đối tác công-tư tại Việt Nam
Ở Việt Nam, PPP được hiểu là việc Nhà nước cùng với một hoặc nhiều