TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ku Su Jeong MỐI QUAN HỆ VIỆT – HÀN TRONG VÀ SAU CHIẾN TRANH CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM 1955 - 2005 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tài liệu
Mối quan hệ Việt – Hàn chưa được nghiên cứu đầy đủ, đặc biệt là trong các giai đoạn sau thế kỷ XIX Các công trình hiện có chủ yếu tập trung vào giai đoạn từ thế kỷ XII đến XIX, trong khi thiếu các nghiên cứu hệ thống cho những giai đoạn sau Để thực hiện luận án, chúng tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu tản mạn từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm xâu chuỗi sự kiện và tái hiện một cách toàn diện lịch sử quan hệ giữa hai nước Các nguồn tư liệu chính được khảo sát trong luận án này sẽ được trình bày cụ thể.
Trước năm 1955, quan hệ Việt – Hàn được ghi nhận qua những tài liệu lịch sử, trong đó nhà nghiên cứu Hán học Lê Dư đã nhấn mạnh vai trò của hoàng tử Lý Long Tường trong bài viết của mình về dòng dõi vua Lý Anh Tông (1137-) Những nghiên cứu này mở ra cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ văn hóa và lịch sử giữa hai quốc gia.
Năm 1942, tạp chí Tri Tân đã xuất bản một bài viết về "1195) hiện ở Cao Ly" trong số xuân Nhâm Ngọ Đến năm 1959, nhà sử học Trần Văn Giáp đã thu thập tài liệu quý về dòng họ Lý Hoa Sơn trong chuyến thăm Bắc Hàn và mang về Việt Nam Cùng năm đó, tác giả Trần Đại Sỹ phát hiện một bài viết về Lý Long Tường tại thư viện Paris, đăng trên tập san Sử địa (số 2, 1941) của Nhật Bản.
Năm 1980, ông Trần Đại Sỹ phát hiện Trần tộc vạn thế ngọc phả tại Trung Quốc, trong đó có những ghi chép quý giá về Ninh tổ hoàng đế Trần Lý và thông tin mới về Lý Long Tường Ông cũng đã thực hiện hai chuyến thăm tới Bắc Hàn và Nam Hàn vào các năm 1980.
1983, Trần Đại Sỹ công bố bài viết “Đi tìm con cháu thuyền nhân 849 năm trước: Nguyên tổ hai dòng họ Lý tại Đại Hàn”
Tại Hàn Quốc, năm 1948, tác giả Kim Vĩnh Kiện cho xuất bản quyển sách
Triều Tiên trong thời đại khai hóa, trong đó có đề cập đến Lý Long Tường Năm
1966, nhà dân tộc học Choi Sang Su cho xuất bản quyển sách Mối quan hệ Hàn
Quốc và Việt Nam là công trình duy nhất nghiên cứu quan hệ hai nước từ khía cạnh lịch sử, tường thuật những sự kiện quan trọng trong mối quan hệ Hàn-Việt từ năm 1216 đến 1965 Nghiên cứu này bao gồm nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa Đến năm 1997, Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã xuất bản tập sách "Người Việt".
Nội dung về mối giao lưu văn hóa Việt – Triều trong lịch sử cho thấy rằng công trình của Choi Sang Su và tài liệu của Hội sử học Việt Nam đã ghi lại các cột mốc quan trọng trong quan hệ hai nước Tuy nhiên, hai nguồn tư liệu này chủ yếu mang tính tường thuật và liệt kê sự kiện, thiếu đi sự phân tích và đánh giá sâu sắc, do đó chưa thể tái hiện một cách hệ thống bức tranh quá khứ.
Trong thời cận hiện đại, mối quan hệ giữa Việt Nam và các nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh với Triệu Tố Ngang, Kim Khuê Thực đã được thể hiện rõ nét Tuy nhiên, thông tin về mối liên hệ này hiện nay vẫn còn rải rác và thiếu hệ thống, chủ yếu được tìm thấy trong các tác phẩm của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh và các báo cáo của mật thám Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc Những tài liệu như "Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923)" của Thu Trang và "Thêm một số tư liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thời gian ở Pháp" của Nguyễn Phan Quang đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề này.
Mặc dù chưa có nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Triều Tiên, nhưng đây là một khoảng trống đáng tiếc trong lịch sử quan hệ hai nước Tài liệu liên quan đến Nguyễn Ái Quốc và những người Triều Tiên hiện có thể tìm thấy trong các hồ sơ của Quốc tế Cộng sản tại Nga và các tài liệu của Đảng Cộng sản Đông Dương Ngoài ra, những bài viết của Hồ Chí Minh về chiến tranh Triều Tiên, được ký với bút danh Đ.X., C.B., T.L., đăng trên báo Cứu quốc và Nhân dân trong giai đoạn 1950-1955, cũng đang được lưu trữ tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh Những tư liệu này rất quý giá và cần được khai thác, công bố rộng rãi, vì vậy tác giả xin phép dẫn ra trong luận án này mặc dù chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ.
2) Tư liệu về quan hệ Việt – Hàn giai đoạn 1955 – 1975
Tài liệu nghiên cứu về quan hệ Việt Nam Cộng hòa và Đại Hàn Dân Quốc giai đoạn 1955-1975 chủ yếu được thu thập từ Trung tâm lưu trữ quốc gia II tại TP HCM, bao gồm các tư liệu gốc Các tài liệu này được phân loại thành hai nguồn: văn bản về quan hệ hai nước từ Phủ tổng thống và Phủ thủ tướng, cùng với tư liệu thống kê từ các cơ quan chức năng Tại đây, các tư liệu được lưu trữ trong hai phông: Phông Phủ tổng thống đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) và Phông Phủ tổng thống đệ nhị Cộng hòa (1964-1975) Bên cạnh đó, còn có sách báo và tạp chí của chế độ Sài Gòn được lưu trữ tại Thư viện tổng hợp TP HCM.
Tại Hàn Quốc, tài liệu về quan hệ Việt – Hàn, đặc biệt liên quan đến việc Hàn Quốc gửi quân sang Việt Nam, được lưu trữ tại Phòng sử liệu ngoại giao của Bộ Thương mại – Ngoại giao Ngày 26-08-2005, Bộ Ngoại giao Hàn Quốc đã công khai 49 quyển tài liệu ngoại giao liên quan đến chiến tranh Việt Nam từ 1965-1973, với tổng cộng khoảng 7400 trang Tiếp theo, vào ngày 02-12-2005, Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cũng công bố 17 quyển tài liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam, với hơn 1700 trang Những tài liệu này là nguồn tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu, giúp làm sáng tỏ nhiều khúc mắc lịch sử về chiến tranh Việt Nam.
Bảng DL.1: Những hồ sơ về quan hệ Việt – Hàn lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II (1955-1975)
Phông lưu trữ Tên hồ sơ Ký hiệu tài liệu
HS v/v ngoại kiều Đại Hàn xin nhập Việt tịch 1960-1961 Hộp số 708, HS số 7236
HS v/v tổng thống VNCH viếng thăm Đại Hàn từ 17-
Tổng thống Đại Hàn Syng Man Rhee viếng thăm VN năm
HS v/v các cá nhân, phái đòan Đại Hàn viếng thăm VN năm
HS v/v các cá nhân Đại Hàn viếng thăm VN năm 1959 Hộp số 918, HS số 8915
HS v/v các phái đòan Đại Hàn viếng thăm VN năm 1959 Hộp số 918, HS số 8916
HS v/v các cá nhân, phái đòan Đại Hàn viếng thăm VN năm
HS v/v quan hệ VN và Đại Hàn năm 1960 Hộp số 936, HS số 9096
HS v/v quan hệ VN và Đại Hàn năm 1962 Hộp số 959, HS số 9289
HS v/v 02 khu trục hạm và sinh viên Te Sik Yoo Đại Hàn viếng thăm VN năm 1963 Đệ nhất cộng hòa
Tài liệu của Bộ kinh tế v/v quan hệ thương mại giữa VN với Đại Hàn năm 1962
HS về hoạt động của quân đội Đại Hàn tại VNCH năm
T1.Viện trợ quân sự Đại Hàn cho VNCH Hộp số 57, HS số 528
T2.Diễn văn của tổng thống VNCH đọc nhân dịp đón nhận các đơn vị tác chiến và chuyến thăm trường võ bị Đại Hàn năm 1965
T3.Tướng lĩnh phái đòan cựu chiến binh Đại Hàn thăm viếng VNCH và xin yết kiến tổng thống Hộp số 57, HS số 530
T4.Quân nhân Đại Hàn phạm pháp tại VNCH Hộp số 57, HS số 531
T5.Bản tin về hoạt động của quân đội Đại Hàn Hộp số 57, HS số 532
T6.Lễ kỷ niệm đệ ngũ chu niên quân đội Đại Hàn hoạt động tại VNCH Hộp số 57, HS số 533
T7.Triệt thoái quân đội Đại Hàn ra khỏi VNCH từ 23-10-
1969 đến 03-12-1973 Hộp số 58, HS số 534
T8.Lễ tiễn đưa Bộ tư lệnh quân đội Đại Hàn về nước Hộp số 58, HS số 535
T9.Phái đoàn tướng lĩnh VNCH dự lễ Ngày quan hệ VNCH
HS v/v các phái đoàn, cá nhân Đại Hàn xin yết kiến tổng thống năm 1970, 1972, 1974 Hộp số 199, HS số 2023
HS v/v bang giao VNCH với Đại Hàn 1967-1975 Hộp số 207, HS số 2127
HS v/v phê chuẩn thỏa ước hợp tác kinh tế và kỹ thuật giữa
VNCH và Đại Hàn năm 1970-1971 Hộp số 246, HS số 2605 Đệ nhị cộng hòa
HS v/v tổng thống tiếp kiến ông Jae Pil Koh tổng trưởng y tế và xã hội Đại Hàn năm 1974 Hộp số 346, HS số 3998
Bảng DL.2: Những hồ sơ của Bộ Ngoại vụ Hàn Quốc liên quan đến chiến tranh Việt Nam
Năm Ký hiệu tài liệu Tên hồ sơ Microfilm số
1962 787724.11US Tổng thống Park Chung Hee viếng thăm Mỹ 11-1961 File no 05
891729.12VT Viện trợ quân sự Hàn Quốc cho MNVN G-0002
1089 741.13VT Hiệp định về địa vị quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam J-0010(06)
1097 741.14 Thỏa thuận giữa Hàn – Mỹ - Việt về thực thi công vụ (để hỗ trợ cho quân đội Hàn Quốc tại MNVN) J-0010(14)
1965 1482-83724.11US Tổng thống Park Chung Hee viếng thăm Mỹ 16-05-1965 C-0011
1574 741.13VT/14 Thỏa thuận giữa nhân viên thực thi nhiệm vụ Hàn – Việt về địa vị quân đội Hàn Quốc tại MNVN J-0024 (04)
1653 761.311VT Hội đàm kinh tế cấp cao Hàn – Việt lần thứ nhất tại Seoul M-0005 (03)
1677 765.54VT Thương lượng về xuất khẩu vật tư quân nhu sang MNVN N-0004 (05)
1683 772VT Việc Hàn Quốc gửi quân sang MNVN và phản ứng của các nước O-0022 (04)
1810 723.3XB Đề nghị tổ chức Hội nghị hòa bình toàn châu Á về vấn đề
Vào ngày 21 tháng 10 năm 1816, Tổng thống Park Chung Hee đã thực hiện chuyến thăm Việt Nam Tiếp theo, từ ngày 31 tháng 10 đến 02 tháng 11 năm 1826, Tổng thống Lyndon B Johnson cũng đã đến thăm Hàn Quốc Vào ngày 08 và 09 tháng 07 năm 1833, Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk đã có chuyến thăm Hàn Quốc Cuối cùng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa, Trần Văn Đỗ, cũng đã đến thăm Hàn Quốc trong thời gian này.
1840724.62US Henry C Lodge - Đại sứ Mỹ tại MNVN viếng thăm HQ 19-
2033765.54VT Thương lượng về xuất khẩu vật tư quân nhu sang MNVN N-0005 (06) 2156724.12US Phó tổng thống Mỹ Humphrey viếng thăm HQ lần thứ ba
Hiệp định 2326741.23VT quy định quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản của chính phủ và thiệt mạng trong quá trình thực thi công vụ của thành viên quân đội Hàn – Việt J-0043 (02).
2357722.4121 Việc thành lập ASEAN và Hội nghị cấp cao lần thứ II C-0024 (30) 538-40 722 4121 Hội nghị cấp cao ASPAC lần thứ III tại Canberra 30/07 –
2577-78 724.11US Tổng thống Park Chung Hee viếng thăm Mỹ 17-19/04 C-0027 (06) 2605724.62US William P Bundy – Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách Á Đông và Thái Bình Dương viếng thăm HQ 7.22-24C-0028
2662-69 729.55 Sự kiện Đội 124 Bắc Hàn đột nhập vào Dinh tổng thống HQ
3012723.3XB Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao 07 nước tham chiến tại VN lần thứ III tại Bangkok 22-05 C1-0022 (02)
3017-19 724.11US Tổng thống Park Chung Hee viếng thăm Mỹ 20-25/08 C-0033 (01-03) 3035-37 724.12VT Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm HQ 27-30/05 C-0034 (07-09) 3042724.32US Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ W.P Rogers viếng thăm HQ
3100729.21US Hội đàm Bộ trưởng Quốc phòng Hàn – Mỹ lần thứ II tại
3510-11 723.3XB Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao 06 nước tham chiến tại VN lần thứ III tại Sài Gòn 05-06/07 C1-0023 (06-07)
3659729-439VT Việc triệt thoái quân đồng minh khỏi MNVN G-0019 (10)
3943722VT Vấn đề chuyển giao tù binh chiến tranh VN O-0029 (02)
4716722VT Chuyển giao tù binh chiến tranh và vấn đề quân nhân HQ mất tích trong chiến tranh VN C-0031 (16)
4906722.31VT Việc giải tán Công quán hải ngoại HQ tại Đà Nẵng 01-11 C-0052 (15) 514729.22 Thương lượng với Mỹ về việc bảo vệ quân đội HQ tại
5631791.42VT Kế hoạch di tản Hàn kiều tại MNVN P-0011 (13)
Theo An Jeong Ae (2004), trong bài viết "Tính chất và các loại hình tư liệu trong nước liên quan đến việc gửi quân Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam", tác giả đã phân tích các loại tài liệu và đặc điểm của chúng liên quan đến sự tham gia của quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến này Nghiên cứu được đăng trong Nghiên cứu Ký lục học, số 9 của Học hội Ký lục Hàn Quốc, trang 234-251, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò và ảnh hưởng của Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam.
Tại Việt Nam, có rất nhiều nguồn tư liệu cấp II nghiên cứu về việc quân đội
Mỹ đã tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, nhưng chưa có nhiều tư liệu nghiên cứu về hoạt động của các quân đội đồng minh, đặc biệt là Hàn Quốc Trong khi đó, cả Mỹ và Hàn Quốc đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về vấn đề này, tiêu biểu có thể kể đến một số tác phẩm nổi bật.
- “Korea’s Involvement in Vietnam” (Sự can dự của Hàn Quốc vào Việt Nam) của Princeton N Lyman (1968)
South Korea's engagement in Vietnam has significantly influenced both the economic and political landscape of the region The historical context of this involvement, particularly during the Vietnam War, showcases South Korea's military and economic contributions, which have fostered bilateral relations Additionally, the economic impact includes increased trade and investment opportunities, while politically, South Korea's presence has shaped diplomatic ties and regional stability Overall, the repercussions of South Korea's involvement in Vietnam are profound, marking a pivotal chapter in the development of both nations.
- America’s Rented Troops: South Koreans in Vietnam (Các đội quân đánh thuê của Mỹ: Người Hàn Quốc ở Việt Nam) của Baldwin Frank and Diane
Phương pháp nghiên cứu và bố cục luận án
Để khắc họa mối quan hệ đa diện giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong nửa thế kỷ qua, một quá trình phức tạp với những thăng trầm và cả những thời điểm gián đoạn, chúng tôi sẽ áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Nhà sử học Lucien Fèbvre từng ví von rằng một sử gia xuất sắc như một người khổng lồ trong những câu chuyện thần tiên, có khả năng chạm đến mọi khía cạnh của con người Cùng quan điểm, Fernand Braudel nhấn mạnh rằng lịch sử là tổng hợp tất cả khả năng của nó, phản ánh sự đa dạng trong cuộc sống của con người Do đó, nghiên cứu lịch sử không chỉ cần khai thác tư liệu từ khoa học lịch sử mà còn phải tận dụng sự hỗ trợ từ các lĩnh vực như khảo cổ học, dân tộc học, kinh tế học, thống kê, nhân loại học, xã hội học, ngôn ngữ học và tâm lý học.
Để làm rõ yêu cầu và mục đích của luận án, chúng tôi áp dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, và loại suy Đặc biệt, phương pháp thống kê được sử dụng để định lượng hóa các sự kiện lịch sử bằng con số, cùng với phương pháp điền dã để khảo sát thực tế và phỏng vấn nhân chứng, nhằm tăng cường tính phong phú và xác thực cho luận án.
Ngoài hai phần Dẫn luận và Kết luận, nội dung chính của luận án gồm 04 chương:
Chương I: Mối quan hệ Việt – Hàn trong lịch sử (trước năm 1955) đã chứng minh rằng Việt Nam và Hàn Quốc có mối liên hệ từ rất sớm Những mốc lịch sử quan trọng giữa hai nước cho thấy quan hệ này không mang tính vụ lợi mà dựa trên tinh thần “tứ hải giai huynh đệ.” Hai dân tộc đã thể hiện sự cảm thông và chia sẻ, cùng nhau vượt qua những khó khăn do ngoại bang xâm lược và đô hộ.
Trong giai đoạn 1955-1963, Việt Nam Cộng hòa và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, khi cả hai quốc gia vừa mới thoát khỏi chiến tranh và đang trong tình trạng chia cắt Thời kỳ này, cả hai nước tập trung vào việc xây dựng lại đất nước và củng cố lực lượng quân sự, dẫn đến mối quan hệ chủ yếu mang tính chính trị hơn là hợp tác kinh tế hay giao lưu văn hóa Mỹ coi Việt Nam Cộng hòa và Hàn Quốc là hai tiền đồn chống Cộng trong chiến lược ngăn chặn và bao vây chủ nghĩa cộng sản ở Đông Á, từ đó thúc đẩy sự phát triển quan hệ giữa hai nước dựa trên nền tảng chủ nghĩa chống Cộng dưới sự bảo trợ của Mỹ.
Trong giai đoạn 1964-1973, khi Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam, Hàn Quốc đã tham gia chiến đấu như một đồng minh quân sự của Mỹ, gửi quân sang hỗ trợ Việt Nam Cộng hòa Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thời kỳ này trở nên khăng khít về chính trị, quân sự và kinh tế Việc gửi quân sang Việt Nam không chỉ mang lại lợi ích kinh tế và quốc phòng cho Hàn Quốc mà còn để lại những dấu ấn đau thương cho dân tộc Việt Nam, đánh dấu một chương bi thảm trong lịch sử quan hệ giữa hai dân tộc.
Chương IV: Mối quan hệ Việt – Hàn sau chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (1975-2005) ghi nhận sự thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1992, đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn gián đoạn từ sau chiến tranh Việt Nam Kể từ khi khôi phục quan hệ, Việt Nam và Hàn Quốc đã xây dựng một mối quan hệ bang giao năng động và đầy triển vọng, phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học và kỹ thuật.
Luận án này phân tích mối quan hệ Việt – Hàn trong bối cảnh cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1955-2005, nhấn mạnh tác động của cuộc chiến và chiến lược toàn cầu của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương đến hai nước Chúng tôi sẽ làm rõ sự thay đổi trong mối quan hệ này trước, trong và sau cuộc chiến, đồng thời nhận định rằng mối quan hệ hiện tại đang phát triển mạnh mẽ nhưng cũng xuất hiện một số vấn đề tiêu cực Kết luận sẽ đề cập đến những hạn chế cần khắc phục và triển vọng tương lai của mối quan hệ Việt – Hàn.
Những đóng góp của luận án
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn, từ sự gắn bó trong quá khứ, đến những khó khăn trong chiến tranh Việt Nam, và hiện nay đang dần được củng cố hướng tới tương lai Việc nghiên cứu mối quan hệ này không chỉ là nhu cầu khoa học mà còn mang ý nghĩa thiết thực cho các thế hệ sau Công trình nghiên cứu đầu tiên về mối quan hệ Việt – Hàn trong giai đoạn 1955-2005 sẽ tổng hợp và phân tích các tư liệu liên quan, nhằm khôi phục bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ hai nước trong nửa thế kỷ qua và đặt nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn trong tương lai.
Việc chính phủ Park Chung Hee gửi quân tham gia vào cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, dù xuất phát từ động cơ nào, đã bị chỉ trích là hành động sai lầm, đi ngược lại khát vọng độc lập của dân tộc Việt Nam Đây là lần đầu tiên Hàn Quốc đưa quân ra nước ngoài tham chiến, và từ những trải nghiệm đau thương đó, Hàn Quốc cần rút ra bài học quý giá Trong quá trình tham chiến, quân đội Hàn Quốc đã gây ra nhiều vụ thảm sát đối với dân thường Việt Nam, để lại những vết đen trong quan hệ hai nước Tổng thống Kim Dae Jung đã thừa nhận rằng những năm tháng đó là “thời kỳ bất hạnh của hai nước”.
Nghiên cứu này nhằm khôi phục giá trị lịch sử và tính chân thực của mối quan hệ Việt - Hàn, từ đó giúp nhân dân hai nước hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, hướng tới một tương lai hợp tác và phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ Việt – Hàn đang được củng cố và tăng cường, với tiềm năng hợp tác lớn giữa hai quốc gia Hy vọng rằng mối quan hệ này sẽ tiếp tục phát triển, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân hai nước Sự kết hợp giữa tiềm lực của Việt Nam và nguồn vốn, công nghệ từ Hàn Quốc sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của cả hai quốc gia và nền kinh tế khu vực Chúng tôi mong rằng luận án này sẽ góp phần định hướng cho mối quan hệ toàn diện, cân bằng và bền vững giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong hiện tại và tương lai.
Mối quan hệ Việt − Hàn trong lịch sử (trước năm 1955)
Quan hệ Việt − Hàn trong thời kỳ hai nước có chủ quyền
1.1.1 Sự khởi đầu của mối quan hệ Việt – Hàn dưới góc nhìn tông tộc
Việt Nam và Hàn Quốc đã thiết lập mối quan hệ truyền thống lâu dài Qua các biến cố lịch sử, từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV, một số người Việt Nam đã di cư sang Cao Ly để lập nghiệp, và hậu duệ của họ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Những sự kiện lịch sử này không được chính sử ghi chép đầy đủ, hoặc chỉ được đề cập một cách sơ sài Các nguồn tư liệu liên quan hiện đang phân tán ở hai quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau như tộc phổ, dã sử, câu chuyện dân gian, văn bia và địa danh, nhưng chưa được tập hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh.
Chúng tôi đã tiến hành so sánh và đối chiếu với chính sử để xác minh tính chân thực của các nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan đến câu chuyện này Mặc dù kết quả nghiên cứu của luận án còn hạn chế, nhưng nó mở ra hướng đi cho những nghiên cứu bổ sung trong tương lai.
Hòang tử Lý Dương Côn của Đại Việt và dòng họ Lý Tinh Thiện ở Hàn Quốc
Trong giới hạn chúng tôi được biết, người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hàn Quốc là Lý Dương Côn
Tinh Thiện Lý thị tộc phổ 4 ghi nhận Lý Dương Côn, tự Nguyên Minh, là hoàng tử thứ ba của Lý Càn Đức và là em của Lý Dương Hoán Theo chính sử, Lý Càn Đức được xác định là vua Lý Nhân Tông (1072 − 1128), trong khi Lý Dương Hoán là vua Lý Thần Tông (1128 − 1138).
Chính sử Việt Nam chỉ ghi chép về Lý Dương Hoán mà không đề cập đến
Lý Dương Côn Cho nên còn nhiều vấn đề cần phải tra cứu và làm rõ thêm:
Lý Dương Côn là con của ai? Trong khi Dương Hoán được xác nhận là con của Sùng Hiền hầu, câu hỏi về nguồn gốc của Dương Côn vẫn chưa rõ ràng Tác giả Trần Đại Sỹ, một Việt Kiều tại Pháp, đã nghiên cứu hai dòng họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc và khẳng định rằng Dương Côn là con của Thành Quảng hầu, được phong tước Kiến Hải Vương Tuy nhiên, thông tin này chỉ dựa trên gia phả và vẫn mang tính phỏng đoán.
Lý Dương Côn sang Hàn Quốc vào khoảng thời gian nào? Theo tộc phổ, ông đã đến Hàn Quốc trong thời kỳ vua Tống Huy Tông, từ năm 1114 đến 1125, tương ứng với triều đại vua Lý Nhân Tông của Đại Việt Tuy nhiên, Trần Đại Sỹ cho rằng Lý Dương Côn thực sự sang muộn hơn, vào năm 1150, tức là sau khi vua Anh Tông lên ngôi.
(1138 − 1175), cháu của ông lên ngôi được 22 năm
Lý Dương Côn rời Việt Nam để lánh nạn sang Cao Ly do sự đe dọa từ nước Kim đối với nước Tống, theo tộc phổ.
Lý do cho sự kiện này khó chấp nhận vì nước Kim ở xa Việt Nam GS Phan Huy Lê chỉ giải thích chung chung rằng đó là do “tranh giành quyền lực” khi vua Lý Nhân Tông không có con trai Tuy nhiên, ông không nêu rõ ai tranh giành với ai và thời điểm cụ thể Trần Đại Sỹ đưa ra giải thích khẳng định hơn, cho rằng vào năm 1150, đã xảy ra chính biến trong triều, liên quan đến Cảm Thánh hoàng hậu (vợ vua Thần Tông) và tình nhân Đỗ Anh.
Vũ đã giết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu và Thành Hưng Riêng
Lý Dương Côn, Đô Đốc thủy quân 5, đã đưa gia đình xuống thuyền để lưu vong Tuy nhiên, thông tin này khó xác minh vì sử sách không ghi chép về sự liên quan của ông trong vụ chính biến này.
Lý Dương Côn là một nhân vật lịch sử còn nhiều điều chưa rõ, nhưng con cháu của ông, đặc biệt là Lý Nghĩa Mẫn, nổi bật trong sử sách Hàn Quốc Lý Nghĩa Mẫn, cháu đời thứ sáu của Lý Dương Côn, đã nắm quyền như tể tướng và lãnh đạo chính quyền quân sự Cao Ly trong 14 năm từ 1183 đến 1196 Tuy nhiên, vào năm 1196, ông và ba con trai đã bị Thôi Trung Hiến sát hại để chiếm đoạt quyền lực Mặc dù gia đình Lý Nghĩa Mẫn bị tuyệt tự, dòng họ Lý vẫn được duy trì nhờ vào gia đình người anh Sau đó, cháu đời thứ chín là Lý Ngộ Nguyên được phong làm Thượng thư tả bộc xạ và di cư đến Tinh Thiện thuộc đảo Giang Nguyên.
Dương Côn lấy Tinh Thiện làm quê quán của mình
Dòng họ Lý Tinh Thiện hiện nay chủ yếu cư trú tại Bắc Hàn, nhưng một số hậu duệ đã di cư vào Nam Hàn sau khi bán đảo Triều Tiên bị chia cắt Theo kết quả điều tra dân số năm 1985, dòng họ này tại Nam Hàn có 809 hộ với tổng cộng 3.107 người.
Hoàng tử Lý Long Tường của Đại Việt và dòng họ Lý Hoa Sơn ở Hàn Quốc
Người Việt Nam thứ hai vượt biển sang Cao Ly cũng là một hoàng thân họ
Lý Long Tường, theo tài liệu Hoa Sơn Lý thị gia truyền thực lục 7 và Hoa Sơn Lý thị thế bộ 8, là hoàng tử thứ của vua Lý Anh Tông, cháu nội của vua Lý Thần Tông và em của vua Lý Cao Tông (1176 − 1210).
Lý Long Tường, hoàng tử thứ 7 của vua Lý Anh Tông, sinh năm 1174, được ghi chép rõ hơn so với Lý Dương Côn Mặc dù không được nhắc đến trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Trần tộc vạn thế ngọc phả cho biết Lý Long Tường vẫn được vua Trần Thái Tông tin dùng, phong chức Đại đô đốc và tước Kiến Bình Vương sau khi nhà Lý mất ngôi vào năm 1225 Tuy nhiên, sau khi Trần Thủ Độ hãm hại cựu hoàng Lý Huệ Tông vào năm 1226, Lý Long Tường, cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng, đã quyết định cùng gia thuộc và tướng sĩ dưới quyền vượt biển sang Cao Ly để tránh bị hãm hại.
Nguyên nhân Lý Long Tường chọn Cao Ly làm nơi lánh nạn có hai giả thuyết chính Thứ nhất, nhà Lý đã từng chinh phạt Chiêm Thành và nhiều lần đánh bại nhà Tống, khiến Lý Long Tường không thể tìm nơi trú ẩn tại Trung Quốc hay Đông Nam Á Thứ hai, có thể Lý Long Tường dự định tị nạn tại Trung Hoa, nhưng do bị gió bão đánh dạt, thuyền của ông đã trôi vào đất Cao Ly.
Trong Hoa Sơn Quân bản truyện, triều đình Cao Ly đã có những ghi chép rõ ràng về sự đối xử với hoàng tử Lý Long Tường Năm 1253, khi Mông Cổ xâm lược Hàn Quốc, triều đình phải lánh sang đảo Giàng Hoa Lý Long Tường đã tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ, góp phần buộc chúng phải đầu hàng Để ghi nhận công lao của ông, vua Cao Ly đã phong ông tước Hoa Sơn Quân, cấp cho ông 30 dặm đất và 2000 dân.
Quan hệ Việt − Hàn trong thời kỳ hai nước mất chủ quyền
Vào đầu thế kỷ XIX, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và đều trải qua hoàn cảnh mất nước Từ giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, trong khi Hàn Quốc chịu sự áp bức của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản từ năm 1905.
Cả hai dân tộc đều có lịch sử văn hóa phong phú và đã trải qua thời kỳ bị ngoại bang thống trị Họ chia sẻ truyền thống yêu nước và đấu tranh cho độc lập, tự do Các nhà cách mạng của hai quốc gia đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc.
1.2.1 Mối liên hệ giữa Phan Bội Châu và những nhà cách mạng Triều Tiên
Phan Bội Châu, một nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy mối quan hệ giữa hai dân tộc trong giai đoạn này.
Sau khi đỗ giải nguyên năm 1900, Phan Bội Châu bắt đầu hoạt động cách mạng tích cực Ông thành lập Hội Duy Tân vào năm 1904 và sang Nhật Bản năm 1905 để phát động phong trào Đông Du Tại Nhật, theo lời khuyên của Lương Khải Siêu, ông đã viết cuốn "Việt Nam vong quốc sử" bằng chữ Hán, được xuất bản lần đầu tiên ở Thượng Hải vào tháng 9-1905.
Tác phẩm "Việt Nam vong quốc sử" đã được in lại tại Hàn Quốc vào năm 1906, với bản dịch đầu tiên do Huyền Thái thực hiện bằng chữ hỗn hợp Hàn – Hán Năm sau, hai bản dịch khác bằng chữ Hàn của các tác giả Chu Thời Kinh và Lý Tương Ích cũng được xuất bản Dù Triều Tiên đang trải qua thời kỳ vong quốc sau Hòa ước bảo hộ Ất Tỵ năm 1905 và Tân Hiệp ước Hàn – Nhật năm 1907, tác phẩm này vẫn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ độc giả.
Năm 1909, nhà cầm quyền Nhật tại Triều Tiên đã cấm lưu hành quyển sách Việt Nam vong quốc sử do ảnh hưởng lớn của nó đối với người đọc Hàn Quốc Trong khi đó, Đông Kinh Nghĩa Thục, trường học do các đồng chí của Phan Bội Châu thành lập ở Hà Nội, đã dịch tác phẩm Cao Ly vong quốc sử của các tác giả Hàn Quốc Năm 1907, bài viết "Văn minh Tân học sách" (tác giả không rõ) được Đông Kinh Nghĩa Thục in cùng hai bài khác trong một tập sách tài liệu học tập và tuyên truyền Việc dịch và xuất bản Việt Nam vong quốc sử ở Hàn Quốc và Cao Ly vong quốc sử ở Việt Nam thể hiện sự đồng cảm giữa hai dân tộc Việt – Hàn trong hoàn cảnh cùng bị mất nước.
Năm 1907, Nhật Bản đã thể hiện sự liên kết với Pháp, cam kết tôn trọng quyền lợi của Pháp ở Đông Dương và buộc vua Triều Tiên thoái vị Trước những sự kiện này, Phan Bội Châu nhận ra rằng không thể trông cậy vào Chính phủ Nhật Bản, vì nước này đang trở thành một cường quốc thực dân tại châu Á Ông tìm kiếm sự liên kết với các nhà cách mạng từ những quốc gia có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam, bao gồm Trung Hoa, Triều Tiên, Ấn Độ và Philippines, cũng như những người Nhật chống lại chủ nghĩa thực dân Phan Bội Châu đã tham gia vào Hội Đồng minh Đông Á và Hội Liên minh Điền – Quế – Việt.
Hội Đồng minh Đông Á, còn gọi là Hội hòa thân châu Á, được thành lập vào năm 1907 tại Tokyo với mục tiêu tập hợp người châu Á chống lại chủ nghĩa thực dân đế quốc và hỗ trợ lẫn nhau trong việc giành lại độc lập dân tộc Tuy nhiên, nhiều người Triều Tiên không mấy hứng thú khi hợp tác với người Nhật, do Nhật Bản đang tiến hành thôn tính quê hương của họ.
Nhật Bản, mặc dù không xâm lược trực tiếp Việt Nam, lại là cường quốc mà Phan Bội Châu từng đặt chân đến, trong khi đối với Trung Quốc, Nhật Bản là một trong những nước tham gia vào việc chia cắt lãnh thổ Đối với người Triều Tiên, Nhật Bản là cường quốc duy nhất thôn tính đất nước họ Điều này khiến người Trung Quốc tìm kiếm liên minh với các Đảng Cách mạng Nhật Bản, trong khi người Triều Tiên từ chối mọi liên kết Phan Bội Châu không đánh giá tích cực như người Trung Quốc về sự liên kết với Đảng Cách mạng Nhật Bản, nhưng cũng không từ chối như người Triều Tiên.
Trong các tài liệu của Hội Đồng minh Đông Á, người Nhật Bản và Trung Quốc đề cập đến việc tiếp xúc với một số người Triều Tiên tại Nhật Bản, nhưng không nêu rõ danh tính của họ.
Tiên, trong hồi cố đàm của Takeuchi Zensaku, cho biết rằng theo thông tin của ông, người Triều Tiên không tham gia vào Hội Tuy nhiên, Phan Bội Châu đã chỉ ra rằng có người Triều Tiên, cụ thể là Triệu Tố Ngang, tham gia vào tổ chức này Điều lệ của Hội cũng ghi rõ rằng ngoài việc đặt Tổng bộ ở Tokyo, còn có các Trạm liên lạc tại Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Philippines, An Nam và Anh Quốc, cho thấy sự hiện diện của người Triều Tiên trong Hội này, có thể thông qua hình thức nào đó.
Cuối năm 1908, Chính phủ Pháp yêu cầu Nhật Bản đàn áp phong trào của người Việt tại đây Tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu bị trục xuất sang Xiêm rồi trở lại Trung Quốc hoạt động Sau thành công của Cách mạng Tân Hợi năm 1911, ông thành lập Việt Nam Quang Phục hội và cùng Liêu Trọng Khải lập Hội chấn Hoa hưng Á, với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam, Ấn Độ, Miến Điện và sau đó là Triều Tiên.
Trong hồi ký của Phan Bội Châu, ông kể về những chuyến đi của mình trong giai đoạn 1920 – 1921 qua Bắc Kinh, Hàng Châu, Quảng Đông và Đông Tam Tỉnh Trong một chuyến tàu từ Hoành Tân về Đại Liên, ông đã gặp một người cách mạng Triều Tiên tên Lâm, người đã ám sát một mật thám Nhật Bản tại Tokyo Khi lực lượng cảnh sát Nhật truy lùng gắt gao, Lâm đã cố gắng trốn thoát nhưng cuối cùng phải nhảy xuống nước Do nghi ngờ, cảnh sát Nhật đã bắt giữ 8 người trên tàu, trong đó có Phan Bội Châu Ông đã ghi nhận Lâm là “một người tốt” và bày tỏ sự đồng cảm với những người cách mạng Việt Nam bị nghi ngờ là đảng viên Triều Tiên, thể hiện tinh thần đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống áp bức.
Trong tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu, ông quan tâm đến vấn đề
“Đồng chủng đồng văn” và việc kết nối với các dân tộc “đồng bệnh” được coi là công cụ quan trọng trong nỗ lực tự cường, góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mối quan hệ Việt – Hàn hiện tại chưa thật sự chặt chẽ như với Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng đã vượt qua tính chất cá nhân, đánh dấu sự hình thành những mầm mống đoàn kết giữa hai dân tộc.
1.2.2 Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và phong trào giải phóng dân tộc Triều Tiên