1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bài tập lớn học kì môn Luật tố tụng hình sự

17 755 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 17
Dung lượng 273 KB

Nội dung

Vì họ là những người trực tiếp thực thi các quy định của pháp luật trong việc tiến hành các trình tự tố tụng nhằm xác định sự thật vụ án cũng như thông báo cho bị can về các quyền và ngh

Trang 1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……… 1

NỘI DUNG……… 1

I khái quát chung về bị can, bị cáo địa vị pháp lý của bị can bị cáo……… 1

1 khái niệm bị can, địa vị pháp lý của bị can……… 1

2 Khái niệm bị can, địa vị pháp lý của bị cáo………1

II Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo……….2

1 Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị can……….2

a Các quyền tố tụng……….2

* Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì………2

* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ………3

* Quyền được trình bày lời khai………3

* Quyền được đưa ra tài kiệu, đồ vật, yêu cầu ……… 3

* Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch……… 3

* Quyền được bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa………4

* Quyền được nhận các quyết định văn bản tố tụng……… 4

* Quyền khiếu nại, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng……… 5

b Các quyền tố tụng……… 5

2 Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo……….6

a Các quyền tố tụng……….6

* Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng……… 6

* Quyền được tham gia phiên toà………7

* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ……….8

* Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật……… ………8

* Đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu……… ….……8

* Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa……… ….……9

* Quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà……… ….….9

* Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án……… ….10

* Quyền kháng cáo bản án quyết định của Toà án……… ….10

* Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng……… …11

b Các nghĩa vụ tố tụng……… …12

III Những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại và một số giả pháp trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo……… …12

1 Những vướng mắc và tồn tại……… 12

2 Một số giải pháp……… …14

KẾT LUẬN……….…15

Trang 2

MỞ ĐẦU

Trong tố tụng hình sự, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể có vai trò hết sức quan trọng Bởi vì khi giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau Và ở mỗi giai đoạn thì địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng là không giống nhau Khi đó, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể sẽ đảm bảo cho việc thực hiện đúng các thủ tục tố tụng, đảm bảo cho việc xác định sự thật vụ án Như vậy, có thể thấy việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể đặc biệt là những NTHTT đối với những NTGTT

có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo đúng người đúng tội

NỘI DUNG

I khái quát chung về bị can, bị cáo địa vị pháp lý của bị can bị cáo.

1 khái niệm bị can, địa vị pháp lý của bị can.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự thì bị can là người đã bị khởi

tố về hình sự

Như vậy, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm Tư cách tố tụng của

bị can sẽ chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Toà

án đình chit vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án Tuy vậy, điều đó không có nghĩa xác định họ là người có tội Đây là vấn đề có tính nguyên tắc Vì vậy theo quy định tại Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9 BLTTHS 2003 thì: “ Không ai bị coi là cố tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.”

Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị pháp lý của bị can Nhưng dựa vào những đặc điểm đã phân tích ở trên có thể thấy: địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các nguyên tắc và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự Khi một người có đại vị pháp lý là bị can thì họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật Quyền và nghĩa vụ của bị can được quy định

cụ thể tại Khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003

2 Khái niệm bị can, địa vị pháp lý của bị cáo.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS thì: Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử

Như vậy bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật Và khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm Bị cáo cũng không phải người có tội Họ chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Toà án ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật

Cũng tương tự như bị can Từ trước tới nay chưa có một khái niệm cụ thể nào về địa vị pháp lý của bị cáo Và dựa trên những gì đã phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm cụ thể về địa vị pháp lý của bị cáo: Địa vị pháp lý của bị cáo chính là tổng thể các quyền và nghĩa vụ

Trang 3

của một người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án có thẩm quyền đến khi bản

án kết tội hay quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật

II Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo.

1 Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị can.

c Các quyền tố tụng.

Các quyền của bị can trong tố tụng hình sự được quy định rõ tại khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003:

* Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.

Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định Quyền này thể hiện tính chất quan trọng của việc một người bị nghi ngờ tội cần phải biết mình bị khởi tố về tội gì Bởi vì, mục đích của việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay không nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào Do vậy người bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết rằng mình bị khởi tố về tội gì để họ có thể tự bào chữa để gỡ tội cho mình Nếu không biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ tội cho mình cùng những lời bào chữa

Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can thể hiện sự công bằng, bình đẳng

và tiến bộ của pháp luật Việt Nam nói chung và của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng Bởi vì, quyền lực nằm trong tay của nhà nước mà cụ thể ở đây là nằm trong tay những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng Do vậy, việc đảm bảo được biết mình bị khởi

tố về tội gì của bị can phụ thuộc rất nhiều vào các CQTHTT tụng và đặc biệt là những NTHTT Vì họ là những người trực tiếp thực thi các quy định của pháp luật trong việc tiến hành các trình tự tố tụng nhằm xác định sự thật vụ án cũng như thông báo cho bị can về các quyền và nghĩa vụ của mình

Trên thực tế, để biết mình bị khởi tố về tội gì thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải giao các quyết định tố tụng và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can Bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can Quyết định khởi tố bị can cần phải có đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 126 BLTTHS và phải được tống đạt đến bị can theo đúng quy định của pháp luật Theo quy định của pháp luật thì cơ quan điều tra phải có trách nhiệm giao ngay quyết định khởi tố bị can và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can

Như vây, việc thực hiện và đảm bảo tốt quyền này của bị can sẽ tạo điều kiện cho CQTHTT và NTHTT nhanh chóng kịp thời điều tra, xác minh sự thật vụ án góp phần giảm bớt những oan sai trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hình sự

* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.

Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn được biết mình có những quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình Và để đảm bảo cho bị can biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì thì BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể là bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ Việc thực hiện được quyền này của bị can đồng nghĩa với việc CQTHTT và NTHTT phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình Đó là nghĩa vụ giải thích cho bị can hiểu rõ họ có những quyền và nghĩa vụ gì

Trang 4

Quyền này của bị can là một quyền mới được quy định trong BLTTHS 2003 Trong BLTTHS 1998 thì bị can không có được quyền này Mà theo như BLTTHS 1998 thì quyền này gần như được ngầm hiểu theo quyền biết mình bị khởi tố về tội gì

Việc đảm bảo quyền này của bị can cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án

* Quyền được trình bày lời khai.

Đây cũng là một quy định mới của BLTTHS 2003 về các quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự Theo quy định này thì bị can có quyền trình bày lời khai về những vấn

đề liên quan đến vụ án mà họ bị khởi tố

Đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can Do vậy nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này của mình để khai báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô tội hoặc là phạm tội ở mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết, lý do để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình Cũng có những trường hợp bị can từ chối không khai báo về hành vi của mình Tuy nhiên trong những trường hợp mà họ từ chối không khai báo hay khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó

Và ngược lại, nếu bị can có thái độ khai báo thành khẩn thì đó lại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999

Trong những trường hợp nào thì cơ quan điều tra cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can Bởi vì qua lời khai của bị can – người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện Đặc biệt những NTHTT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật để bược bị can phải khai báo Điều đó sẽ dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án Và nghiêm trọng hơn là việc làm đó của NTHTT đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền của bị can

* Quyền được đưa ra tài kiệu, đồ vật, yêu cầu

Theo quy định này của pháp luật thì bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án cũng như những yêu cầu như yêu cầu trưng cầu giám định bổ xung hoặc giám định lại, yêu cầu điều tra lại…

Theo quy định của BLTTHS 2003 thì bị can có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật, yêu cầu”.

Đây là sự thay đổi mới trong quy định của pháp luật, sự thay đổi này hoàn toàn hợp lý, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của nước ta Bời vì khi bị can cũng cấp cho cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì không phải mọi tài liệu, đồ vật đó đều là chứng cư trong vụ

án Khi cơ quan điều tra nhân được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không Và chỉ khi các tài liệu, đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì chúng mới trở thành chứng cứ trong vụ án

* Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.

Người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là những chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ thể nêu trên thực hiện tốt được vai trò của mình trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự Bởi vì, việc thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch để

Trang 5

đảm bảo vụ án được điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, sự thật của vụ án được xác minh một cách khách quan, công bằng là điều rất cần thiết

Theo đó, bị can có quyền đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ vè việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không

có lợi cho bị can Khi các CQTHTT nhận được thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét giải quyết yêu cầu đó nếu thấy yêu cầu đó là có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Việc đảm bảo tốt quyền được đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của bị can góp phần đảm bảo tính công khai minh bạch trong tố tụng hình sự và đảm bảo nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tham gia tiến hành tố tụng

* Quyền được bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Đây là một quyền quan trọng vủa bị can trong tố tụng hình sự Bị can có quyền tự bào chữa Theo đó thì bị can có quyền dùng những lý lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của bị can mà quyền bào chữa chính là sự tổng hoà các quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Bởi vì khi tham gia vào quá trình tố tụng, ngoài việc bị can đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can còn thực hiện quyền bào chữa của mình thông qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày lời khai, quyền đưa ra tài kiệu đồ vật, yêu cầu… Việc thực hiện các quyền này của bị can không chỉ nhằm gỡ tội cho bị can

mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị can

Ngoài quyền tự bào chữa, bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình Quyền này thể hiện sự đảm bảo của pháp luật cho quyền bào chữa của bị can Pháp luật đảm bảo cho bị can được người khác bào chữa cho mình nếu không thể tự mình bào chữa Người được bị can nhờ bào chữa phải là người có ddurt tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật Theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLTTHS thì trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho bị can Và khoản 2 Điều 305 cũng quy định trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ

Bị can và người đại diện của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa được đoàn luật sư cử bào chữa cho bị can Các cơ quan tiền hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của bị can

* Quyền được nhận các quyết định văn bản tố tụng.

Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003 thì khi tham gia vào quá trình

tố tụng, bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng Các quyết định và văn bản tố tụng như: Quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS

Trang 6

Các quyết định và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can Việc pháp luật quy định bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng nhằm đảm bảo cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các quyền

tố tụng khác của mình Để đảm bảo tố quyền này của bị can thì đòi hỏi các CQTHTT, NTHTT phải tiến hành các trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật, các quyết định tố tụng cũng phải được đưa ra dưới hình thức văn bản, có căn cứ và đúng pháp luật

* Quyền khiếu nại, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Theo quy định tại Điều 328 BLTTHS 2003 thì bị can chỉ có quyền khiếu nại trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà bị can cho rằng

có vi phạm pháp luật Tuy nhiên, Điều 328 cũng quy định, trong trường hợp vì đau ốm, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở những nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan mà bị can không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại

Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét và giải quyết khiếu nại theo đúng quy định và thời hạn pháp luật quy định Kết quả xem xét, giải quyết khiếu nại phải được thông báo bằng văn bản cho bị can biết

Theo quy định tại Điều 329 BLTTHS 2003 thì đối với khiếu nại về quyết định, hành vi

tố tụng của điều tra viên, phó thủ trưởng cơ quan điều tra do thủ trưởng cơ quan điều tra xem xét và giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại thì bị can có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cũng cấp phải xem xét, giả quyết Việm kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của thủ trưởng cơ quan điều tra và các quyết định của cơ quan điều tra đã được viện kiểm sát phê chuẩn do viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, viện kiểm sát cấp trên phải xem xét và giải quyết Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết cuối cùng

Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS 2003 thì khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của phó viện trưởng viện kiểm sát, Kiểm sát viên do viện trưởng viện kiểm sát giải quyết ttrong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng viện kiểm sát do viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng

d Các quyền tố tụng.

Khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 quy định: “ bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của

cơ quan điều tra, viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.” Như vây, trong trường hợp bị can được tại ngoại,

khi cần sự có mặt của bị can để tiến hành các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động tố tụng khác thì cơ quan tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo

Trang 7

giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiếm sát Việc triệu tập bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 129 BLTTHS 2003 Giấy triệu tập bị can phỉ ghi rõ họ tên, chỗ ở của

bị can, thời gian, địa điểm bị can phải có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không

có lý do chính đáng Giấy triệu tập bị can này sẽ được gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc Cơ quan, tổ chức nhận giấy triệu tập phải có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can Và bị can khi nhận được giấy triệu tập phải ký nhận và ghi rõ ngày, giờ nhận được Người chuyển giấy triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã triệu tập bị can Nếu trong trường hợp bị can đã nhận được giấy triệu tập nhưng không ký nhận thì người chuyển giấy triệu tập phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can Nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can

Trong trường hợp bị can vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải Việc

áp giải bị can cũng phải tuân theo đúng quy định tại Điều 130 BLTTHS Và đặc biệt, trong trường hợp bị can bỏ trốn thì sẽ bị truy nã Còn trong trường hợp bị can bị tam giam thì việc triệu tập bị can của cơ quan tiến hành tố tụng sẽ được thông qua ban giám thị trại giam

2 Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.

a Các quyền tố tụng.

* Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.

Bị cáo là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử Khi đó, bị cáo sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với mình Quyền đầu tiên của bị cáo là quyền được nhận quyết định đưa

vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ ác biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS

Trong đó, quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo Vì quyết định đó sẽ khiến người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo Và bị can dựa vào quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ có thể biết được mình bị đưa ra xét

xử với tội danh gì, thời gian, địa điểm mở phiên toà, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà án tham gia phiên toà (Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết nếu có), Kiểm sát viên tham gia phiên toà (Khiểm sát viên dự khuyết nếu có), người bào chữa, người phiên dịch, những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên toà, vật chứng cần xem xét tại phiên toà

Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 178 BLTTHS 2003 Theo quy định tại khoản 1 Điều 182 BLTTHS thì quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ chậm nhất là 10 ngày trước khi phiên toà mở Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo Quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng cần phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cũng của bị cáo Nếu CQTHTT, NTHTT không đảm bảo thực hiện tốt quyền này của bị cáo thì bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên toà

Trog quá trình xét xử, khi có lý do hợp pháp và xét thấy cần thiết hoặc không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn thì CQTHTT, NTHTT có thể ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn Để đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của bị cáo thì bị cáo

Trang 8

có những quyền được nhận quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn Quyết định này phải được gửi ngay cho bị cáo cũng như Viện kiểm sát cũng cấp hay trại giam nơi bị cáo đang bị tạm giam

Ngoài hai quyết định trên, bị cáo còn có quyền được nhận quyết dịnh đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật Các quyết định này đều có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo

Do vậy, các quyết định này là căn cứ pháp lý để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến quyết định đó

* Quyền được tham gia phiên toà.

Đây là quyền vô cũng quan trọng của bị cáo tong tố tụng hình sự Vì phiên toà là nơi diễn ra hoạt động thẩm vấn, xét xử công khai Bản án, quyết định của Toà án phải dựa trên những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà Vì vậy, có quyền tham gia phiên toà sẽ tạo điều kiện thuân lợi cho việc bị cáo thực hiện các quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình Hơn nữa, đây không chỉ là quyền của bị cáo mà còn là vấn đề mang tính nguyên tắc Vì quyền này của bị cáo đã thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong tố tụng hình sự, đó là sự bình đẳng giữa một bên là Hội đồng xét xử; kiểm sát viên – chủ thể mang quyền lực Nhà nước và một bên là bị cáo – người bị buộc tội, không mang quyền lực nhà nước Tại phiên toà, bị cáo sẽ bình đẳng với kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên toà Việc bị cáo tham gia phiên toà là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ Vì Điều 187 BLTTHS

2003 quy về sự có mặt của bị cáo tại phiên toà đã quy định rõ: “ bị cáo phải có mặt tại phiên

toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của Bộ luật này; nếu bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà

Nếu bị cáo bị bênh tâm thần hoặc bị bếnh hiểm nghèo khác thì hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.

Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án theo yêu cầu của cơ quan truy nã bị cáo”

Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên toà xét xử sẽ đảm bảo cho bị cáo thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi của mình Hơn nữa, sự có mặt của bị cáo tại phiên toà còn thể hiện tính công khai, minh bạch khi xét xử, đảm bảo được quyền bình đẳng trước Toà án của

bị cáo

Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp bị cáo đều thực hiện tốt quyền hay cũng là nghĩa vụ tham gia phiên toà của mình Có nhiều trường hợp bị cáo trốn tránh không tham dự phiên toà xét xử Điều đó đã gây khó khăn cho việc xét xử của Toà án làm ảnh hưởng đến việc xác minh sự thật vụ án Do vậy, để đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi thì khoản 2 Điều 187 đã quy định Toà án có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp: bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có hiệu quả; bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà; nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ

Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 05/2005/ NQ – HĐTP ngày 8/12/2005 hướng dẫn thi hành một số quyết định trong phần thứ

Trang 9

tự xét xử phúc thẩm của BLTTHS thì:” trong trường hợp bị cáo có kháng cáo, bị kháng

cáo, kháng nghị thì Toà án xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản 2 Điều 187 BLTTHS.” Theo khoản 2 Điều 187 thì Toà án xét xử vắng mặt bị cáo trong trường hợp bị

cáo là người có kháng cáo thì không hợp lý Việc bị cáo vắng mặt mà không có lý do chính đáng sẽ gây khó khăn, trở ngại cho việc xét xử của Toà án thì cần phải coi là bị cáo đã từ bỏ việc kháng cáo của mình và phiên toà phúc thẩm sẽ bị huỷ bỏ

* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.

Trong quá trình tham gia tố tụng, người bị buộc tội sẽ có địa vị pháp lý khác nhau tương ứng với mỗi tư cách tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng Và khi người bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách bị cáo thì họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách bị cáo Do vậy, họ cũng cần được CQTHTT, NTHTT giải thích cho họ hiểu về quyền

và nghĩa vụ của mình

Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định của Toà án đưa vụ án ra xét xử Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS 2003 về thủ tục bắt đầu phiên toà thì Chủ toạ phiên toà là người giải thích cho bị cáo cũng như nhưng người được triệu tập có mặt tại phiên toà về quyền và nghĩa vụ của họ

Cũng giống như bị can, bị cáo biết về quyền vầ nghĩa vụ của mình sẽ giúp bị cáo thực hiện tốt hơn các quyền tố tụng của mình và đặc biệt là quyền tự bào chữa và quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu và quyền kháng cáo Như vây, việc đảm bảo quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị cáo sẽ góp phần đảm bảo cho bị cáo thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình

* Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 42 BLTTHS 2003 thì NTHTT phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu: họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sư, bị đơn dân sự, người

có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân thích của người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ

Như vậy, nếu người tiến hành tố tụng thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiên hành tố tụng mà không từ chối thì bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT Quyền này của

bị cáo thể hiện sự khách quan trong quá trình xét xử Đây là sự thể hiện nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng

Ngoài ra, bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi người giám định, người phiên dịch Họ

là những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc xác minh sự thật vụ án Cũng như những người tiến hành tố tụng khác, khi người giám định, người phiên dịch thuộc hai trường hợp phải từ chối tham gia tố tụng mà không từ chối thì bị cáo có quyền yêu cầu thau đổi người giám định, người phiên dịch

Bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTTT, người giám định, người phiên dịch trước hoặc tại phiên toà xét xử Khi có yêu cầu thì Chánh án toà án, Hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định, trong trường hợp cần thiết thì phải hoãn phiên toà

* Đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu.

Trang 10

Tại phiên toà xét xử, bị cáo có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật Trong quá trình điều tra, bị cáo cũng có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật nhưng những tài liệu, đồ vật đó có thể chưa phải là những tài liệu, đồ vật quan trọng hoặc chưa đưa ra vì chưa tìm được Và đến khi

bị đưa ra xét xử thì những tài liệu đồ vật mà bị cáo đưa ra thường là những tài liệu, đò vật mới được tìm thấy hoặc là rất quan trọng đối với vụ án, có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ quan trọng trong vụ án không và giá trị của chúng trong việc xác minh sự thật vụ án

Bị cáo cũng có quyền đưa ra các yêu cầu Nhưng BLTTHS không quy định rõ bị cáo có quyền đưa ra những yêu cầu gì Và thực tế cho thấy, bị cáo thường yêu cầu những vấn đề như yêu cầu triệu tập then người làm chứng, yêu cầu đưa them vật chứng, yêu cầu hoãn phiên toà… các yêu cầu này phải Hội đồng xem xét quyết định

Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị cáo cần phải được đảm bảo trong suốt quá trình xét xử từ khi bắt đầu phiên toà đến phần xét hỏi tại phiên toà cũng như trạnh luận tại phiên toà Đảm bảo tốt quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị cáo trong suốt quá trình xét xử sẽ góp phần đảm bảo việc xác minh sự thật vụ án , đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo

* Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Quyền tự bào chữa được thực hiện ngay khi một người bị khỏi tố về hình sự Khi họ trở thành đối tượng bị buộc tội thì quyền bào chữa được thực hiện trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử dưới nhiều hình thức khác nhau Điều 217 BLTTHS 2003 trong phân tranh luận tại phiên toà có ghi rõ: sau khi kết thúc phần xét hỏi, kiểm sát viên trinh bày lời luận tội thì bị cáo có quyền trình bày lời bào chữa của mình Trong trường hợp bị cáo có người bào chữa thì người bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo và bị cáo bổ sung ý kiến bào chữa Như vậy, trong trường hợp bị cáo không hiểu rõ về pháp luật thì việc người bào chữa tham gia phiên toà bào chữa cho bị cáo đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong trường hợp bị cáo không hiểu rõ về pháp luật thì việc người bào chữa tham gia phiên toà bào chữa cho bị cáo đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong trường hợp bị cáo chưa thành niên, có nhược

điểm về thể chất tinh thần Do vậy, Điều 190 BLTTHS 2003 quy đinh:” người bào chữa có

nghĩa vụ tham gia phiên toà Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho toà án Nếu người bào chữa vắng mặt Toà án vẫn mở phiên toà xét xử trong trường hợp phải bắt buộc có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà”.quy đinh này của pháp luật đảm

bảo cho bị cáo thực hiện tốt nhất quyền bào chữa tại phiên toà

Hội đồng xét xử phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo Vì tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo không chỉ đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong

tố tụng hình sự mà còn đảm bảo cho việc xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất

* Quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà.

Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS thì bị cáo có quyền trình bày ý kiến của mình về luận tôi của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình Kiểm sát viên sẽ đưa ra những lập

Ngày đăng: 30/01/2016, 04:17

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w