1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

42 1,3K 5

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Tác giả Trương Thanh Hải
Trường học Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
Chuyên ngành Lịch sử
Thể loại Báo cáo tốt nghiệp
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 42
Dung lượng 2,54 MB

Nội dung

Đây là công trình có ý nghĩa vô cùng quan trọng tiêu biểu để khẳng định chân lý thời đại: “trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, nếu quyết tâm

Trang 1

ĐỀ TÀI: Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng

chiến chống Mỹ cứu nước

PHẦN MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học khắp nơi trên thế giớiđược tiến hành với mong muốn lý giải lý do Việt Nam đã chiến đấu vàchiến thắng đế quốc Mỹ Các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử quân sựtrong nước và quốc tế đã lần lượt công bố nhiều công trình đặc sắc, đồsộ; chứng nhân một cách khoa học và thuyết phục cội nguồn sức mạnhquân sự áp đảo, tiềm năng kinh tế của một cường quốc hàng đầu thế giới– đế quốc Mỹ đã không khuất phục được nhân dân Việt nam, một dân tộckiên cường, anh dũng, thông minh, sáng tạo, biết tìm ra cách đánh Mỹ vàthắng Mỹ phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình

Hệ thống địa đạo là một trong những biểu tượng sáng ngời củalòng yêu nước, sự thông minh sáng tạo, chiến đấu kiên cường, bất khuấtcủa nhân dân ta khi đánh Mỹ Trong đó tiêu biểu là địa đạo Vịnh Mốc ở

xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị đã được Bộ Văn hoáThông tin (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch

sử văn hoá cấp quốc gia

Đây là công trình có ý nghĩa vô cùng quan trọng tiêu biểu để khẳng

định chân lý thời đại: “trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do,

có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ quốc tế, thì hoàn toàn có khả năng đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo”.[2, 116]

Địa đạo Vịnh Mốc trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là hiệnthân của lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dânVĩnh Linh nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung dưới sự lãnh đạocủa Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh

Trang 2

Từ ngày đất nước thống nhất sau đại thắng mùa xuân năm 1975,địa đạo Vịnh Mốc trong hệ thống làng hầm Vĩnh Linh tiếp tục toả sánggiá trị khoa học lịch sử quân sự, nhân văn, giáo dục truyền thống cáchmạng cho thế hệ trẻ; điểm hẹn của sự ngưỡng mộ chiến công phi thườngcủa quân và dân Vĩnh Linh và dân tộc Việt Nam, sự cảm phục của bạn bèquốc tế.

Vì lẽ ấy, mà công trình “Làng địa đạo Vịnh Mốc”, một công trìnhtiêu biểu cho 114 công trình kì lạ trên mảnh đất Vĩnh Linh vẫn phải giữlại Đã có rất nhiều bài báo, phim ảnh, sách, công trình nghiên cứu về hệthống làng hầm Vĩnh Linh và địa đạo Vịnh Mốc Hiện nay đang là sinhviên ngành lịch sử, tôi chọn địa đạo Vịnh Mốc bởi tôi là một người concủa Vĩnh Linh, mang trong mình niềm tự hào lớn lao về một miền quênơi mà tôi được sinh ra ở đó, nơi mà lịch sử đã gửi trao vai trò tuyến đầucủa Tổ quốc trong những năm kháng Mỹ cứu nước để làm nên biết bao

kỳ tích vĩ đại của một dân tộc đã chiến thắng quân thù xâm lược Vì lẽ

đó, đề tài “Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng chiến chống Mỹ

cứu nước” đã được tôi chọn làm đề tài Báo cáo tốt nghiệp của mình.

Với đề tài này tôi hi vọng góp phần làm phong phú hơn lịch sửnghiên cứu về địa đạo Vịnh Mốc đồng thời bổ sung thêm nguồn tư liệuviết về công trình này

Nghiên cứu về địa đạo Vịnh Mốc còn nhằm góp phần củng cố vàphát huy truyền thống anh hùng và lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuấtcủa người dân Vĩnh Linh nói riêng, của dân tộc ta nói chung Giới thiệu

và có cái nhìn thực tế về công trình vĩ đại này cũng như quảng bá mộtđiểm du lịch thú vị khi đến thăm Quảng Trị

2 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về hệ thống làng hầm địa đạo Vịnh Mốc để thấy đượcvai trò và những đóng góp to lớn của nó trong cuộc kháng chiến chống đếquốc Mỹ xâm lược, hiểu được truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm,sức chịu đựng và sự sáng tạo của người dân Vĩnh Linh trong sự nghiệp

Trang 3

đấu tranh và xây dựng quê hương Địa đạo Vịnh Mốc là minh chứng chonhững kỳ tích hào hùng đó.

Ngày nay hệ thống làng hầm Vĩnh Linh và tiêu biểu là địa đạoVịnh Mốc là những chứng tích lịch sử mang giá trị lịch sử nhân văn sâusắc Nghiên cứu đề tài này góp phần làm nổi bật những giá trị của nó, qua

đó phát huy niềm tự hào, giáo dục cộng đồng cũng như quảng bá hìnhảnh đất nước và con người Việt Nam trong bối cảnh phát triển và hộinhập hôm nay

3 Lịch sử nghiên cứu đề tài

Thực ra đây không phải là một đề tài mới lạ mà trước đó đã cónhiều cá nhân, đơn vị, những công trình nghiên cứu của các nhà nghiêncứu trong và ngoài nước tìm hiểu về di tích lịch sử này

Tiêu biểu như cuốn sách Ký sự miền đất lửa của Vũ Kì Lân – Nguyễn Sinh viết năm 1965 – 1968, Những ngôi làng bên dưới cuộc chiến của Lê Thị Vy viết năm 1999, Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh của Lê Đức Thọ viết năm 2004 Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh của Trung tâm bảo tồn di tích và danh thắng Quảng Trị phát hành năm 2010, Vịnh Mốc – Cồn Cỏ:Hành trình máu! của Lê Đức Dục đăng trên Báo tuổi trẻ, số 68/2005, trang 8 Cuộc sống trong lòng đất của Nam

Việt đăng trên Báo Giáo dục – Thời đại, số 96 ngày 12 tháng 7 năm

2006, trang 14-15

Hiện nay đề tài này đang được quan tâm nhiều Đặc biệt đã có hộithảo khoa học về làng hầm – địa đạo Vĩnh Linh đề nghị xét giải thưởng

Hồ Chí Minh cho công trình

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

+ Đối tượng: Hệ thống Địa đạo Vịnh Mốc

+ Phạm vi: Đề tài đi sâu nghiên cứu về công trình – di tích lịch sửĐịa đạo Vịnh Mốc thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh QuảngTrị trong lịch sử đấu tranh chống Mỹ cứu nước và định hướng bảo tồn vàphát triển di tích trong thời kì mới

Trang 4

5 Phương pháp nghiên cứu

Để tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng haiphương pháp chính là Phương pháp lịch sử và Phương pháp logic Ngoài

ra tôi còn kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như Phương phápđiền dã thực địa, tổng hợp tư liệu và so sánh đối chiếu

6 Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phầnnội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về vùng đất và con người Vĩnh Linh

Chương 2: Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng chiến chống

Mỹ cứu nước

Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị của địa đạo Vịnh Mốc ởVĩnh Linh ngày nay

Trang 5

A PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI

VĨNH LINH 1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên của huyện Vĩnh Linh

Cả thế giới biết đến Vĩnh Linh không chỉ nơi đây chứng kiến nỗiđau chia cắt và khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc ta, nơi đây còncuốn hút mọi người bởi những di tích, danh thắng khác như: Địa đạoVịnh Mốc, bãi tắm Cửa Tùng, khu du lịch sinh thái Rú Lịnh (rừngnguyên sinh duy nhất ở Trung Trung Bộ) Mỗi bước trưởng thành, mỗichiến công giành được của Vĩnh Linh là sự nổ lực vượt lên chính mìnhcủa con người nơi đây và có sự đóng góp của đồng chí, đồng bào cảnước, của bạn bè bốn biển năm châu

giáp biển Đông,

phía Bắc giáp huyện Lệ Thuỷ (Quảng Bình), phía Tây giáp huyện HướngHoá, phía Nam giáp huyện Gio Linh Huyện Vĩnh Linh có diện tích626,35 Km2 (trước đây kể cả đảo Cồn Cỏ là 820 Km2)(1), dân số 85.117người, hiện nay toàn huyện có 19 xã, 3 thị trấn (4/2009)(2) [12]

(1) Huyện Cồn Cỏ được thành lập theo nghị định số 174/2004 NĐ-CP ngày 1/10/2004 với diện tích 2,2 km² Dân số: khoảng 400 người Tỉnh Quảng Trị đã làm lễ ra mắt huyện đảo Cồn Cỏ ngày 18/4/2005.

(2) Gồm 3 thị trấn: Hồ Xá, Bến Quan và Cửa Tùng Có 19 xã: Vĩnh Thạch, Vĩnh Kim, Vĩnh Hiền, Vĩnh Hoà, Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Thành, Vĩnh Thái, Vĩnh Hà, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Long, Vĩnh

Trang 6

Thành phần dân tộc gồm có Kinh, Bru – Vân Kiều, Pakô, Tà Ôitrong đó người Kinh chiếm hơn 85%.

Địa bàn có trục đường quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam điqua, đường Cáp Lài và đường tỉnh lộ 572, 537 Hệ thống giao thông củahuyện rất thuận lợi trong việc phát triển, giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hộivới các vùng lân cận

ha diện tích đất nông nghiệp, chiếm 16,8% diện tích đất tự nhiên Trong

đó 6.600 ha đất trồng lúa Đất lâm nghiệp 22.204 ha, trong đó có rừngnguyên sinh Rú Lịnh nằm trên địa bàn hai xã Vĩnh Hiền và Vĩnh Hoà, lànơi có rất nhiều loài động vật quý hiếm Với điều kiện địa hình, thổnhưỡng như vậy nên Vĩnh Linh có điều kiện thuận lợi cho việc phát triểncác loại cây nông nghiệp, cây công nghiệp ngắn và dài ngày Ngoài raphát triển lâm nghiệp cũng là thế mạnh của vùng Cùng với đó phát triểnchăn nuôi như các loại vật nuôi: trâu, bò, dê…

1.1.3 Khí hậu, sông ngòi

Vĩnh Linh nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệtđới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 250C Lượng mưatrung bình năm khá cao khoảng 2.400mm (trong đó 80% lượng mưa tậptrung vào tháng 9 đến tháng 12) Cường độ mưa có tháng đến 500mmnên thường gây lũ lụt ở vùng trũng và xói mòn vùng đồi núi Ngược lạichỉ số khô hạn rất cao gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và đời sốngdân cư Độ ẩm tương đối cao khoảng 80%, vào các tháng từ tháng 8 đến

Trang 7

tháng 11 có bão nhiệt đới thổi từ biển Đông vào, mùa bão trùng với mùamưa nên thường kèm theo mưa lớn, nên gây rất nhiều khó khăn nơi đây.

Sông ngòi Vĩnh Linh tương đối nhiều, có hệ thống sông suối, đầm,

hồ phủ khắp địa bàn: sông Bến Hải, sông Sa Lung, sông đào Hồ Xá, sôngBến Tám và nhiều hệ thống khe suối, kênh mương tự nhiên cũng nhưnhân tạo lấy nước vào mùa khô và tiêu nước vào mùa lũ lụt Không chỉ

có tác dụng cho thuỷ lợi mà hệ thống sông ngòi còn là con đường giaothông vận chuyển hàng hoá hoặc giao lưu qua lại bằng thuyền bè nhỏ rấtthuận tiện giữa các làng quê thôn xóm trong vùng Với tổng diện tích mặtnước khá lớn như vậy có thể phát triển việc đánh bắt và nuôi trồng thuỷsản

1.1.4 Tài nguyên thiên nhiên

Vĩnh Linh cũng có một số loại khoáng sản, sa khoáng, đá granít,

bờ biển có cát xây dựng, cát titan ở Vĩnh Thái, Vĩnh Kim Tuy chiều dài

17 km nhưng huyện có đến 24 km bờ biển chủ yếu là bãi ngang (biểnchân rạn) Tuy không tổ chức được ngư trường lớn song bù lại có rấtnhiều hải sản có giá trị cao như: tôm hùm, cua, các loại cá, cầu gai…

Rừng Vĩnh Linh vào loại giàu có và gần đồng bằng như rừng RúLịnh nằm giữa 2 xã Vĩnh Hiền và Vĩnh Hoà, hiện nay rừng Rú Lịnh đãtrở thành khu du lịch sinh thái của tỉnh Ngoài ra còn có Rú Mưng ở xãVĩnh Thạch Rừng ở Vĩnh Linh có nhiều loại gỗ quý như lim, trai, dạhương, mưng… Do bom đạn của chiến tranh, cùng với nạn cháy rừng vàtình trạng chặt phá bừa bãi làm cho rừng ngày càng lùi xa, thu hẹp, nhiềuloại gỗ quý và động vật giảm dần Do vậy cần phải có kế hoạch bảo vệ vàkhai thác hợp lý để phát triển bền vững các nguồn lợi của rừng

1.2 Dân số, dân cư lao động và một số đặc điểm kinh tế - xã hội

Nằm trong quy luật chung của tình hình biến động xã hội, QuảngTrị nói chung và Vĩnh Linh nói riêng là một vùng đất hứng chịu nhiềuđau thương mất mát của chiến tranh cũng như điều kiện khắc nghiệt của

Trang 8

tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử đó đã trở thành lực cản lớn trong sự phát triểnkinh tế - xã hội, sự bất ổn định trong phân bố dân cư.

1.2.1 Dân số, dân cư lao động

Vĩnh Linh có dân số 85.117 người, toàn huyện có 23.621 hộ; 22

độ tuổi lao động khá lớn và có trình độ, tay nghề tương đối cao Đây làđiều kiện thuận lợi để Vĩnh Linh phát triển các ngành nghề đòi hỏi nhiềunhân công, vốn là một thế mạnh của mình

Hiện nay Vĩnh Linh nói riêng và cả nước nói chung đang thực hiệncông tác tuyên truyền sâu rộng trong cộng đồng dân cư về kế hoạch hoágia đình, sinh đẻ có kế hoạch, mỗi gia đình chỉ nên sinh từ một đến haicon dù gái hay trai Công tác này Vĩnh Linh đã thực hiện nghiêm túc và

đã đạt kết quả tích cực

1.2.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội

Kinh tế Quảng Trị nói chung và Vĩnh Linh nói riêng cũng khôngnằm ngoài đặc điểm nổi bật xuyên suốt đó là nông nghiệp Nông nghiệp

là thế mạnh trong hoạt động kinh tế mũi nhọn của huyện Với đặc điểm

tự nhiên, điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu, sông ngòi cho phép vùngphát triển nhiều loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao Ngoài trồnglúa, lạc, ngô, khoai, sắn …Vĩnh Linh đã tìm ra hướng phát triển các loạicây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, cà phê… Đó là bước độtphá làm thay đổi hẳn bộ mặt của vùng

Là một huyện có hệ thống sông ngòi, ao hồ khá cao, cùng với bờbiển dài 24 km, Vĩnh Linh đã tận dụng lợi thế này để khai thác và nuôitrồng thuỷ hải sản, đem lại hiệu quả kinh tế cao

Trang 9

Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp, huyện còn chú trọngphát triển các ngành thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại Du lịchđược coi là một trong những ngành có thế mạnh khi mà Vĩnh Linh sởhữu những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như địa đạo Vịnh Mốc, cầuHiền Lương – sông Bến Hải, bãi tắm Cửa Tùng, khu du lịch sinh tháirừng Rú Lịnh…

Hệ thống giao thông đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh

tế của huyện nhà khi có các trục đường lớn chạy qua như quốc lộ 1A,đường sắt Bắc – Nam, đường Hồ Chí Minh, đường tỉnh lộ 572, 537… tạođiều kiện thuận lợi trong giao lưu, buôn bán với các vùng lân cận

Do vị trí địa lí và lịch sử đã tạo cho vùng đất con người Vĩnh Linh

có một bản sắc văn hoá được thể hiện bởi những nét đặc trưng: có lốisống thật thà,chất phác, có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường,không hề khuất phục trước kẻ thù xâm lược nào, dũng cảm, cần cù, sángtạo trong lao động sản xuất, phòng chống địch hoạ thiên tai và trong xâydựng cuộc sống mới

Đến nay toàn huyện có 36 đơn vị, 17 cá nhân được phong tặngdanh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang và Anh hùng lao động, 185 bà

mẹ Việt Nam anh hùng (hiện 9 mẹ còn sống đang được phụng dưỡng),nhiều đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng Đặc biệt quân và dânVĩnh Linh có 8 lần được Bác Hồ gửi thư khen ngợi Trên mảnh đất VĩnhLinh lũy thép anh hùng hiện có 68 di tích lịch sử văn hóa được Trungương, Tỉnh xếp hạng và có 3 di tích là địa đạo Vịnh Mốc, đôi bờ HiềnLương, bến đò B Tùng Luật được xếp hạng đặc biệt cấp quốc gia

Không những anh hùng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong laođộng sản xuất, Vĩnh Linh còn là mảnh đất có bề dày truyền thống vănhóa rất đáng tự hào Là quê hương của nhiều nhà khoa học nổi tiếng,hàng trăm người có học vị tiến sĩ; học hàm giáo sư, phó giáo sư; nhà văn,nhà báo, nghệ nhân, nghệ sỹ có tên tuổi tiêu biểu như giáo sư, tiến sĩ Trần

Trang 10

Đức Vân, nghệ sĩ nhân dân Châu Loan, nghệ sĩ nhân dân Lê Thi, nghệ sĩnhân dân Xuân Đàm…

Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, Vĩnh Linh chỉ có hai bàn tay trắng

và mặt đất nham nhở hố bom Toàn bộ cơ sở vật chất mà nhân dân VĩnhLinh gom góp chắt chiu đã bị giặc Mỹ ném bom hủy diệt hoàn toàn Từnăm 1975- 1985, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, cán bộ và nhândân Vĩnh Linh đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của địa phương đểbước vào thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo.Đến thời điểm này có thể nói rằng so với mặt bằng chung cả nước thìVĩnh Linh vẫn còn nghèo và phải phấn đấu nhiều nhưng so với điểm xuấtphát từ con số không thì Vĩnh Linh bây giờ đã có bước tiến xa, làng quêđang từng ngày đổi mới

Để lập nên chiến công hiển hách trong chiến đấu, vững bướctrưởng thành trong xây dựng, biết bao con em quê hương, đồng chí đồngbào trong cả nước đã đổ máu xương, mồ hôi trong sự nghiệp chiến đấuxây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh Công ơnnày, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh đời đời ghi nhớ

1.3 Lược sử mảnh đất Vĩnh Linh

Từ xa xưa Vĩnh Linh là một phần đất của bộ Việt Thường, đến thờinhà Tống, khi phong kiến phương Bắc suy yếu, nước Chăm Pa, một nướcmới thành lập từ đèo Hải Vân trở vào đem quân đánh chiếm và đặt thànhcác châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Lý

Năm 1064, Lý Thường Kiệt đem quân đánh thành Chăm Pa, bắtđược vua là Chế Củ Chế Củ xin dâng 3 châu là Bố Chính, Địa Lý, MaLinh để được tha Năm 1065, nhà Lý đã đổi tên châu Địa Lý thành châuLâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh (tức Vĩnh Linh ngàynay) rồi di dân đến sinh sống Như vậy, huyện Vĩnh Linh được thành lập

từ năm 1065, là một trong những huyện được thành lập sớm của tỉnhQuảng Trị

Trang 11

Năm 1491 (Hồng Đức thứ XI), triều Lê định lại bản đồ cả nước, xứThuận Hoá lúc đó gồm hai phủ Tân Bình và Triệu Phong, bấy giờ châuMinh Linh được chia làm 5 tổng là An Xá, Minh Lương, Bái Trời, Thuỷ

Ba, Yên Mỹ

Tháng 12 âm lịch năm 1835, vua Minh Mạng chia huyện MinhLinh thành hai huyện Minh Linh và Địa Linh Đời Hàm Nghi năm ẤtDậu 1885, vì huý chữ Minh nên đổi Minh Linh thành Chiêu Linh Đếnnăm Thành Thái thứ nhất 1889 lại huý chữ Chiêu nên đổi tên huyệnChiêu Linh thành huyện Vĩnh Linh

Cho đến khi Pháp đặt nền đô hộ, Vĩnh Linh được chia làm 5 tổng:Xuân Hoà, Thuỷ Ba, Hồ Xá, Huỳnh Công, Hiền Lương

Năm 1931, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chi bộcộng sản đầu tiên của Vĩnh Linh được thành lập Ngày 23/8/1945, cùngvới Quảng Bình và Thừa Thiên Huế, quân và dân Vĩnh Linh, Quảng Trịthực hiện thành công cuộc cách mạng Tháng tám lịch sử, thiết lập chínhquyền dân chủ nhân dân

Ngày 30/3/1947, thực dân Pháp trở lại xâm lược Vĩnh Linh Thựchiện lời kêu gọi trường kì kháng chiến của Chính phủ, năm vạn ngườidân Vĩnh Linh dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy đã triệt để tản cư, lập làngchiến đấu, xây dựng chiến khu, tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh,nhiều địa danh đã đi vào lịch sử: Chiến khu Thủy Ba, làng chiến đấuVĩnh Hoàng lập nên nhiều chiến công vang dội như trận Hạ Cờ- Chấp Lễdiệt 300 lính Âu Phi, bắn rơi máy bay, đốt cháy hàng chục xe quân sựPháp; trận bức rút đồn Thủy Cần…[8, 67]

Với chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève được ký kết,Vĩnh Linh trở thành địa đầu giới tuyến Ngày 25/8/1954, tên thực dânPháp cuối cùng rút qua cầu Hiền Lương sang bờ Nam Vĩnh Linh hoàntoàn giải phóng Và cũng ngày này, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh chọnlàm ngày truyền thống của mình Mười năm hòa bình ngắn ngủi (1954 -1964) Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh được sự giúp đỡ của Đảng, Chính

Trang 12

phủ, đồng bào cả nước và bằng tất cả sự thông minh, năng động, cần cù,sáng tạo của mình, Vĩnh Linh đã nhanh chóng đổi thịt thay da Từ một

vùng quê nghèo "ăn cơm bữa diếp" (ba ngày mới có một bữa cơm) trở thành "viên kim cương đầu giới tuyến" như nhà văn Nguyễn Tuân đã ca

ngợi

Ngày 8/2/1965, thất bại trước chiến trường miền Nam, Mỹ leothang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào cuộc chiếnđấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho chiếntrường miền Nam

Để đảm bảo cho chiến đấu, 4,5 vạn người dân Vĩnh Linh (ngườigià, trẻ em) được sơ tán ra miền Bắc Lực lượng còn lại bám trụ quêhương vừa sản xuất vừa chiến đấu ở cả ba chiến trường (bảo vệ VĩnhLinh, chi viện cho đảo Cồn Cỏ, chia lửa với bà con Gio Linh, Cam Lộ).Bảy năm chiến đấu kiên cường chống chiến tranh phá hoại khốc liệt củagiặc Mỹ, quân và dân Vĩnh Linh tiếp tục lập nên nhiều chiến công vangdội, xứng đáng với vị trí lịch sử mà tổ quốc giao phó

Ngày 1/1/1967, với những thành tích đặc biệt xuất sắc, Vĩnh Linh một địa phương tương đương cấp tỉnh đầu tiên của cả nước được Quốchội và Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

-Sau giải phóng, ngày 11/3/1977 Vĩnh Linh được hợp nhất vớihuyện Gio Linh và Cam Lộ thành huyện Bến Hải, thuộc tỉnh Bình TrịThiên Sau khi tách tỉnh, ngày 23/3/1990 thì chia huyện Bến Hải ra thànhhai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị

Trang 13

CHƯƠNG 2

VAI TRÒ CỦA ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của địa đạo Vịnh Mốc

Theo hiệp định, nước ta tạm thời chia làm hai miền, lấy Vĩ tuyến

17 làm đường ranh giới quân sự tạm thời Từ đó, phần đất đai 820 km2

với 44.700 người dân Vĩnh Linh ở bờ Bắc sông Bến Hải được hoàn toàngiải phóng, bước vào thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội Thực hiệnhiệp định Genève, sau khi ngừng bắn, thời gian chuyển quân tập kết là

300 ngày và ngày 20/7/1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước

để thống nhất Việt Nam

Ngày 20/7/1956, Mỹ - Diệm cự tuyệt phá hoại hiệp định, biến giớituyến quân sự tạm thời thành ranh giới chia cắt lâu dài đất nước ta Trướctình hình đó, Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, Đảng uỷ khu vực đã độngviên cán bộ và nhân dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh thống nhất haimiền và hiệp thương tổng tuyển cử Đặc biệt, đầu cầu Hiền Lương lá cờ đỏ

Trang 14

sao vàng (1) bay phấp phới trên mảnh đất thanh bình trở thành điểm hội tụtình cảm sâu lắng thiết tha của đồng bào miền Nam hướng về miền Bắc.

Với âm mưu chia cắt lâu dài miền Nam Việt Nam, biến miền NamViệt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách đểphá hoại hiệp định, cùng với việc đàn áp phong trào đấu tranh của nhândân miền Nam, chúng ra sức khiêu khích gây chiến với lực lượng bảo vệgiới tuyến Vĩnh Linh Đặc biệt năm 1965, với việc dựng lên sự kiện VịnhBắc Bộ, quân Mỹ bắt đầu mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằngkhông lực, trong đó Vĩnh Linh là mục tiêu đánh phá hàng đầu Bởi đâykhông chỉ là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, mà còn là địa bàntrực tiếp chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam Với dãtâm huỷ diệt Vĩnh Linh, Mỹ đã dùng đủ các loại vũ khí hiện đại để đánhphá làng mạc, trường học, bệnh viện… suốt ngày đêm

Với vị trí chiến lược hết sức quan trọng, Vĩnh Linh được coi làtuyến lửa, người dân Vĩnh Linh hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt vớibom đạn của kẻ thù, trực tiếp chống lại các âm mưu chống phá điêncuồng của Mỹ - Ngụy để tồn tại, chiến đấu và chi viện cho miền Namruột thịt Đế quốc Mỹ trong âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta đã tiếnhành ở Vĩnh Linh một cuộc huỷ diệt tàn khốc chưa từng thấy trong lịch

sử chiến tranh thế giới, chúng sử dụng một lực lượng không quân rất lớn,trong đó có pháo đài bay B52, hàng trăm nồng pháo, đại bác tầm xa, tầmgần từ bờ Nam bắn ra, từ Hạm đội 7 bắn vào

Sự đánh phá, huỷ diệt tàn khốc mà đế quốc Mỹ rải xuống buộcngười dân Vĩnh Linh phải chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất để

mà tồn tại, quyết bám trụ quê hương, tổ chức sản xuất và chiến đấu, chiviện cho chiến trường miền Nam

(1) Ban đầu cột cờ của ta là một cây phi lao cao 12m được dựng lên sau ngày 21/7/1954 Đến ngày 19/7/1954 ta dựng cột cờ mới bằng sắt cao 34,5m Đến năm 1962, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân cả nước, Chính phủ đã điều một đơn vị xây dựng giúp Vĩnh Linh dựng một cột cờ mới bằng thép cao 38,6m, lá cờ rộng 108m 2 Cột cờ của chúng ta lúc nào cũng cao hơn của Mỹ - Nguỵ.

Trang 15

Ngay từ những năm 1964 – 1965, khi tình hình vùng phi quân sựdiễn biến phức tạp và rất nhạy cảm Nhận thấy sớm muộn gì đế quốc Mỹ

cũng đánh phá miền Bắc, Đảng bộ Vĩnh Linh đã chủ trương “Quân sự hoá toàn dân, công sự hoá toàn khu vực” được đặt ra như là một chiến

lược cho sự tồn tại của mảnh đất này Khi quả bom Mỹ đầu tiên rơixuống đất này thì ngay lập tức, một hệ thống hầm, hào, công sự đã đượchình thành [1, 11]

Đó là sự ra đời của loại hình hầm chữ A, hầm lán… và hệ thốnggiao thông hào phân bố khắp vùng đất đỏ Vĩnh Linh Hầm chữ A là loạihầm được kè bằng gỗ làm thành hai mảng, phía trên đấu múi nhau, phíadưới chân choãi ra như chữ A Hầm lán là những hố hình vuông hoặc chữnhật, phía trên được kè bằng gỗ rồi

đổ đất lên trên, cửa hầm nối với

giao thông hào Các loại hầm này

được bố trí tại nơi dân cư, đường

đi, ven ruộng, bờ biển để tiện lúc

có báo động, nhân dân nhanh

chóng vào hầm ẩn nấp Hệ thống

giao thông hào nối từng thôn,

từng xã, liên xã, liên thôn chằng

chịt đan xen

Làng hầm còn gọi là địa đạo, xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam từnăm 1947 tại vùng đất kháng chiến Phú Thọ Hoà (Tân Bình – Thành phố

Hồ Chí Minh), nơi đây đã có những căn hầm được nối thông nhau bằng

hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất Rồi sau đó, những năm

1961 – 1965, ở Củ Chi đã xuất hiện hệ thống địa đạo lan rộng khắp 5 xã

Vào cuối năm 1963, đồng chí Trần Nam Trung từ trung ương Cụcmiền Nam trên đường ra Bắc công tác đã ghé thăm làng chiến đấu ở xãVĩnh Giang (Vĩnh Linh) Sau khi quan sát địa hình, đồng chí gợi ý Vĩnh

Trang 16

Linh nên đào địa đạo như Củ Chi Tiếp thu ý kiến đó, cùng với các loạihầm hào cạn đã bị bom đánh phá, Đảng uỷ Khu vực nhận thấy đây là loạihình phòng tránh an toàn, lại có thể thực hiện được ở vùng đất đỏ VĩnhLinh nên quyết định giao cho Bộ chỉ huy quân sự Khu vực, Công an vũtrang giới tuyến và Đảng ủy xã Vĩnh Giang nghiên cứu, đào thử.

Sau một thời gian đào, lực lượng tham gia đào (chủ yếu là dânquân và thợ đào giếng) đã hoàn thành một địa đạo dài 50m, sâu cách mặtđất 6 – 7m tại thôn Tân Mỹ, đây được xem là địa đạo đầu tiên ở VĩnhLinh

Từ đường hầm thí điểm đó, không bao lâu, hầu hết các thôn có đất

đỏ bazan đều triển khai đào địa đạo, dặc biệt là vùng phía đông VĩnhLinh như Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Thạch, Vĩnh Kim… Đến giữanăm 1966, cả huyện Vĩnh Linh đã có hàng chục địa đạo được hình thành,tuy nhiên kiểu địa đạo này còn ngắn và cách mặt đất chưa sâu nên gọi làtiểu đạo, trung đạo

Học phí của sự thành bại trong chiến tranh không chỉ có mồ hôi màcòn là máu Qua cuộc thử nghiệm trong cuộc đối đầu ngày càng ác liệt, hệthống tiểu đạo này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trú, trực, chiến đấumột cách an toàn cho nhân dân vùng giới tuyến, thậm chí đã gây ra không

ít tổn thất về nhân mạng Điển hình là các vụ: Địa đạo Đơn Duệ (VĩnhHoà) bị bom đánh sập ngày 26/2/1967 làm chết 4 người, địa đạo Tân Lý(Vĩnh Quang) ngày 20/6/1967 sập làm chết 61 người, địa đạo Xóm Bơợc(Vĩnh Thạch) bị sập ngày 27/7/1967 đã có 22 người chết, địa đạo BìnhMinh (Vĩnh Hiền) sập ngày 10/9/1967 làm chêt 39 người…[1, 17]

Đế qốc Mĩ càng điên cuồng hủy diệt thì ý chí tồn tại và chiến thắngcủa con người và mảnh đất nơi đây càng bất khuất kiên cường Với khẩu

hiệu “Một tấc không đi một ly không rời”, “Mỗi làng, xã là một pháo đài chiến đấu” [9, 24], cả Vĩnh Linh rầm rộ tiến sâu vào lòng đất Mọi nhà,

mọi thôn, người người đào địa đạo Đến cuối năm 1968, gần 70 làng, 15

xã, thị trấn ở Vĩnh Linh đã có địa đạo Địa đạo lúc này không còn đơn

Trang 17

thuần là những đường hầm trú ẩn và chiến đấu như ở Củ Chi mà thật sự

đã trở thành một không gian sinh tồn Sự sống đã lặn sâu xuống lòng đất,

có nơi âm hơn 30m

Nếu chỉ tính các làng hầm tiêu biểu thì toàn khu vực Vĩnh Linh có

114 làng hầm với độ dài hơn 40 km Đó là chưa kể hệ thống giao thônghào dài hơn 2.000km, hệ thống hầm hào, tiểu đạo lên đến hàng chục ngànchiếc Và tiêu biểu nhất trong số những công trình kì vĩ đó, minh chứnghùng hồn cho sự bất diệt, lòng yêu nước, ý chí ngoan cường, thông minh,sáng tạo của con người nơi tuyến đầu đánh Mỹ chính là làng hầm - địađạo Vịnh Mốc

Làng hầm – địa đạo Vịnh Mốc nằm trên địa bàn xã Vĩnh Thạch,huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị Cái tên Vịnh Mốc xuất xứ từ chuyệnngày xưa giữa hai thôn Vĩnh Ân và Thừa Luật có chôn một cột mốc đểphân định ranh giới Phía Bắc lại có một cái vịnh biển dưới mũi Lài Nênlàng biển nằm giữa hai thôn có tên gọi là Vịnh Mốc Vịnh Mốc là mộtlàng quê toạ lạc trên một khu đồi đất đỏ bazan nằm sát bờ biển, cách thịtrấn Hồ Xá (trung tâm huyện lị) chừng 13 km về phía Đông, cách CửaTùng 6 km về phía Bắc

Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Vịnh Mốc không chỉ là địađầu miền Bắc mà còn là địa điểm thuận lợi cho việc tập kết lương thực,

vũ khí tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, một đảo có chiến lược quan trọng trongviệc án giữ vùng biển Vĩnh Linh

(cách Vịnh Mốc 28 km)

Ông Hồ Triêm, người thôn

Vịnh Mốc, nguyên là xã đội phó

xã Vĩnh Thạch vào giai đoạn đào

địa đạo Vịnh Mốc, cũng như ông

Lê Xuân Vy đều đã kể lại rằng tên

gọi Vịnh Mốc bây giờ đã quen nên

để như vậy, chứ để có địa đạo này

Trang 18

không riêng gì người dân Vịnh Mốc đào mà hệ thống địa đạo Vịnh Mốchiện nay là sự nối kết liên hoàn từ ba địa đạo Một địa đạo do cán bộchiến sĩ đồn 140 đào, một của dân quân Vịnh Mốc đào, cái còn lại củadân quân thôn Sơn Hạ Ban đầu đây là ba địa đạo riêng lẻ, nhưng sau đó

do yêu cầu phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu nên cả ba địa đạođược nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn khép kín, nhiềutầng, nhiều cửa

Cuối năm 1966, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đồn Công an VịnhMốc và chi bộ thôn Vịnh Mốc, một tổ xung kích gồm 4 đồng chí đã bổnhững nhát cuốc đầu tiên đi vào lòng đất Sau đó toàn bộ quân và dânVịnh Mốc thay phiên nhau đào bới Sau 3 tháng chỉ bằng cuốc thuổng vàtrí thông minh, vừa đánh giặc vừa đào địa đạo, làng Vịnh Mốc đã huyđộng 18.000 ngày công, đào đắp 6.000m3 đất đá, tạo nên trong lòngquả đồi đất đỏ bazan một hệ thống

đường hầm địa đạo chằng chịt với rất

nhiều cửa ra vào từ tất cả các hướng, 4

đội đào 4 nhánh, hợp lại thành một hệ

thống thông suốt gọi là Làng hầm Bao

quanh địa đạo có 8.200m giao thông

hào chiến đấu

Thật ra để hoàn chỉnh địa đạo

Vịnh Mốc, phải mất 3 năm đào (1966

-1968) với khối lượng đất đá lên tới 3,76

triệu mét khối Để đào sâu xuống lòng

đất, người Vịnh Mốc đã có sáng kiến

đào những cái giếng như giếng nước, đến độ sâu quy định thì đàoxuyên vào lòng đất Mỗi tổ đào đường hầm có 20 người, nhưng mỗi kípđào chỉ có 2 người Người đào, người chuyển đất ra miệng giếng đểngười ở trên quay tời kéo lên Chuyển đất mới lên mặt đất phải đổ thật xa

và ngụy trang kín đáo để địch không phát hiện ra Thời gian đầu ngành

Trang 19

Thương nghiệp cung cấp 5 - 7 đôi pin để soi sáng, sau đó pin cũng khôngcòn, nên phải đào bằng đèn dầu hỏa, đất đèn, mỡ lợn để thắp sáng Lànghầm Vịnh Mốc nằm ở độ sâu 20 - 28m dưới lòng đất Tổng chiều dài hệthống đường hầm là 2.034m Trục đường chính dài 768m, cao 1,5- 1,8mcho người đi lại thoải mái, rộng từ 1- 1,2m Từ trục chính tỏa ra 13 nhánhthông với 13 cửa gồm 7 cửa ra biển và 6 cửa trên đồi đi xuống Có 3 trạmcảnh giới Các ống thông hơi đều bí mật Tại các cửa đều có khung gỗchống đỡ Làng hầm không bao giờ ngập nước vì các cửa đều dốc rangoài 20 - 30 Hai bên trục đường cứ cách khoảng 3- 5m khoét sâu vàothành từng căn nhỏ, đủ cho một hộ sinh sống

Làng hầm có 3tầng: Tầng 1 có độsâu 10m là nơi sinhsống của nhân dân;tầng 2 có độ sâu20m là trụ sở Đảng

ủy, Ủy ban và chỉhuy quân sự Tầng 3

có giường, có bàn tủ thuốc cấp cứu Trong nhà hộ sinh này đã có 17 đứa

Trang 20

trẻ sinh ra Đó là một kỳ công, một chứng tích cho sự bất diệt của vùngđất này.

Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại dưới lòng đất đã nói lên sự tích

kì diệu của con người nơi đây Hơn nữa, họ không chỉ thụ động tránhbom đạn, bảo toàn mạng sống mà còn tổ chức đánh địch ngay trên quêhương, vận chuyển, tập kết lương thực, vũ khí, cấp cứu thương binh vàđặc biệt tổ chức hàng trăm chuyến thuyền cảm tử vận tải cho đảo Cồn

Cỏ Người dân và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh nói chung, Vịnh Mốc nóiriêng đã khẳng định được vai trò và tầm quan trọng của mình trong cuộckháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta

2.2 Vai trò của địa đạo Vịnh Mốc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Với việc Vĩnh Linh trở thành địa đầu giới tuyến, trở thành mộtkhu vực đặc biệt có vị trí chiến lược hết sức trọng yếu, nơi đương đầutrực tiếp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, làm hậu phương – căn cứđịa cho cách mạng miền Nam và cách mạng cả nước tiến tới hoànthành sự nghiệp thống nhất non sông

Trang 21

Ngày 8/2/1965, thất bại trước chiến trường miền Nam, Mỹ leothang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào cuộc chiếnđấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Từ khi giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Vĩnh Linh trở thànhchiến trường ác liệt nhất Bọn giặc dùng máy bay, kể cả máy bay B52,hàng trăm khẩu pháo cỡ 46 - 175 ly ở Cồn Tiên - Dốc Miếu và các hạmtàu ngoài khơi ngày đêm điên cuồng trút bom đạn xuống từng tấc đấtVĩnh Linh Theo số liệu thống kê, suốt những năm 1965 đến 1972, hầunhư không ngày nào ở Vĩnh Linh ngớt tiếng đạn nổ bom rền, đế quốc Mỹ

đã ném xuống vùng đất nhỏ bé chưa đầy 820km2 này hơn nữa triệu tấnbom đạn các loại, tính bình quân mỗi người dân Vĩnh Linh phải gánhchịu 7 tấn Mỹ - Ngụy còn thực hiện hàng trăm vụ tập kích, biệt kích vàcác thủ đoạn chiến tranh gián điệp, tâm lí chiến khác Chỉ riêng thônVịnh Mốc, diện tích chưa đầy 1 km2 với 300 dân, 82 nóc nhà, mà phảihứng chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ của 1003 trận oanh kích, rảithảm Ngày 27/11/1964, tàu chiến Mỹ từ hạm đội 7 đã bắn đại bác thiêurụi một lúc 72 ngôi nhà, làm hàng trăm người dân Vịnh Mốc chết và bịthương [8, 46] Đến tháng 6/1966, thôn Vịnh Mốc bị máy bay Mỹ dộibom hủy diệt Nhưng người Vịnh Mốc vẫn kiên cường bám trụ chiếnđấu Vịnh Mốc trở thành một trong hai địa điểm chính tập kết sức người,sức của cho đảo Cồn Cỏ cách mũi Lài gần 30 km và cũng là nơi triểnkhai trận địa pháo tầm xa 85 ly, 136 ly chi viện đảo [5, 33]

Từ tháng 6/1965, sự đánh phá của không quân và pháo binh địchngày càng trở nên ác liệt và tàn khốc Vịnh Mốc, Sơn Hạ và nhiều làngkhác trên vùng đất Vĩnh Linh bị bom Mỹ đốt trụi Vĩnh Linh lúc này có

vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là vị trí đầu cầu của miền Bắc, hậuphương của miền Nam Nơi tập trung quân, kho tàng đạn dược của miềnBắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam Nơi đóng quân của các đơn vịchủ lực của ta trước khi vượt sông sang bờ Nam chiến đấu, rồi trở lạicủng cố, nghỉ ngơi, tập luyện chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới

Ngày đăng: 16/01/2016, 01:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1) Ban quản lí di tích và danh thắng Quảng Trị (2005), Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh, Sở Văn hoá – Thông tin Quảng Trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban quản lí di tích và danh thắng Quảng Trị (2005), "Hệthống làng hầm Vĩnh Linh
Tác giả: Ban quản lí di tích và danh thắng Quảng Trị
Năm: 2005
2) Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2005), Lịch sử 12, NXB Giáo Dục, Tập 2, trang 116 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2005), "Lịch sử 12
Tác giả: Đinh Xuân Lâm (chủ biên)
Nhà XB: NXB GiáoDục
Năm: 2005
3) Lê Đức Dục (2005), Vịnh Mốc – Cồn Cỏ:Hành trình máu!, Báo tuổi trẻ, trang 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê Đức Dục (2005), "Vịnh Mốc – Cồn Cỏ:Hành trình máu
Tác giả: Lê Đức Dục
Năm: 2005
4) Lê Đức Thọ (2004), Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh Quảng Trị, Sở Văn hoá – Thông tin, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh Quảng Trị
Tác giả: Lê Đức Thọ
Nhà XB: Sở Văn hoá – Thông tin
Năm: 2004
5) Lê Thị Vy (1999), Những ngôi làng bên dưới cuộc chiến, NXB Thuận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê Thị Vy (1999), "Những ngôi làng bên dưới cuộc chiến
Tác giả: Lê Thị Vy
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1999
6) Nam Việt (2006), Cuộc sống trong lòng đất, Báo Giáo dục – Thời đại, trang 14-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nam Việt (2006), "Cuộc sống trong lòng đất
Tác giả: Nam Việt
Năm: 2006
7) Nguyễn Huy (1982), Vĩnh Linh, NXB Văn Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Huy (1982), "Vĩnh Linh
Tác giả: Nguyễn Huy
Nhà XB: NXB Văn Hoá
Năm: 1982
8) Thường vụ huyện uỷ Vĩnh Linh (1994), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh, Sở Văn hoá – Thông tin Quảng Trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thường vụ huyện uỷ Vĩnh Linh (1994), "Lịch sử Đảng bộ vànhân dân Vĩnh Linh
Tác giả: Thường vụ huyện uỷ Vĩnh Linh
Năm: 1994
9) Thường vụ huyện ủy Vĩnh Linh (2004), Vĩnh Linh 50 năm chiến đấu và trưởng thành Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vĩnh Linh 50 năm chiến đấu và trưởng thành
Tác giả: Thường vụ huyện ủy Vĩnh Linh
Năm: 2004
10) Tổng cục du lịch Việt Nam (2007), Non nước Việt Nam.NXB Văn Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Non nước Việt Nam
Tác giả: Tổng cục du lịch Việt Nam
Nhà XB: NXB Văn Hóa
Năm: 2007
11) Vũ Kì Lân – Nguyễn Sinh (1965 – 1968), Ký sự miền đất lửa, NXB Văn Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vũ Kì Lân – Nguyễn Sinh (1965 – 1968), "Ký sự miền đấtlửa
Nhà XB: NXB Văn Hóa
12) Các website: www.google.com.vn www.dulichvn.org.vn Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w