Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại đã rất lâu đời, hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo. Từ rất lâu, đạo Phật đã trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt Nam, bên cạnh Nho giáo, Thiên chúa giáo… Phật học đã đồng hành cũng quá trình dựng nước, giữ nước của người Việt và góp phần tạo nên bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc. Tuy nhiên, không phải giai đoạn lịch sử nào Phật học cũng giữ vai trò tôn giáo chủ đạo, chi phối nhận thức và hành vi của người Việt. Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết tư tưởng chủ đạo, tồn tại song song cùng với các tư tưởng tôn giáo khác. Trong đó, Phật giáo vẫn là tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm trong tư tưởng, tình cảm, ý thức hệ của người Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Phật giáo là không thể nên chúng ta cần phải biến nó trở thành công cụ phục vụ mục tiêu của thời kỳ quá độ. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Triết học của Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt là cần thiết để hiểu rõ tâm lý, nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân. Điều này sẽ giúp định hướng nhân cách, lối sống của người Việt một cách đúng đắn, tránh mê tín, dị đoan, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân và tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trang 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM
TP Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2015
Trang 2DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM 3
Trang 3MỤC LỤC
1 Tính cấp thiết của đề tài 4
2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 4
3 Nội dung nghiên cứu 5
4 Phương pháp nghiên cứu 5
5 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO 7
1.1 Sự ra đời của Phật giáo 7
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ 7
1.1.2 Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca 8
1.1.3 Các tông phái Phật giáo 9
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo 10
1.2.1 Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan 10
1.2.2 Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan 12
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM 17
2.1 Thời điểm du nhập 17
2.2 Quá trình truyền giáo: Thời Bắc thuộc 17
2.3 Quá trình hưng thịnh: Thời độc lập 17
2.4 Giai đoạn suy yếu 19
2.5 Giai đoạn phục hồi và chấn hưng 19
CHƯƠNG 3: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT 22
3.1 Ảnh hưởng của Phật giáo trong cách thức giao tiếp và ứng xử của người Việt 22
3.1.1 Quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình 22
3.1.2 Quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội 23
3.1.3 Quan hệ giữa con người và giới tự nhiên 24
3.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đối với phong tục tập quán của người Việt 24
3.2.1 Ảnh hưởng phật giáo đối với tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí 24
3.2.2 Ảnh hưởng Phật giáo đối với tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa 26
3.2.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi 26
3.2.4 Các phong tục tập quán khác 27
Trang 43.3 Ảnh hưởng của Phật giáo trong quan niệm đạo đức và nhân cách của người Việt 303.4 Đánh giá, nhận xét về ý nghĩa giá trị của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam 32
KẾT LUẬN 34 TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
Trang 5LỜI MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế giới,tồn tại đã rất lâu đời, hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo Từ rất lâu, đạoPhật đã trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của ngườiViệt Nam, bên cạnh Nho giáo, Thiên chúa giáo… Phật học đã đồng hành cũng quá trìnhdựng nước, giữ nước của người Việt và góp phần tạo nên bản sắc văn hoá độc đáo củadân tộc
Tuy nhiên, không phải giai đoạn lịch sử nào Phật học cũng giữ vai trò tôn giáo chủđạo, chi phối nhận thức và hành vi của người Việt Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết tư tưởng chủ đạo, tồn tại song song cùngvới các tư tưởng tôn giáo khác Trong đó, Phật giáo vẫn là tôn giáo có ảnh hưởng sâuđậm trong tư tưởng, tình cảm, ý thức hệ của người Việt Nam Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnhhưởng của Phật giáo là không thể nên chúng ta cần phải biến nó trở thành công cụ phục
vụ mục tiêu của thời kỳ quá độ Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Triết học của Phật giáo
và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt là cần thiết đểhiểu rõ tâm lý, nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân Điều này sẽ giúp định hướngnhân cách, lối sống của người Việt một cách đúng đắn, tránh mê tín, dị đoan, gây ảnhhưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân và tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng vàphát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề tôn giáo, đề tàiphân tích ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam, làm cơ sở choviệc nghiên cứu các giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế nhữngảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới
* Nhiệm vụ: để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Khái quát những nội dung Triết học từ các giáo lý, giáo luật của Phật giáo
- Phân tích những ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người Việt trên một
số phương diện cơ bản
Trang 63 Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài được kết cấu làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Sự ra đời của Phật giáo và những tư tưởng cơ bản của triết học Phậtgiáo
1.1 Sự ra đời của Phật giáo
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo
Chương 2: Lịch sử phát triển của Phật giáo tại Việt Nam
2.1 Thời điểm du nhập
2.2 Quá trình truyền giáo: Thời Bắc thuộc
2.3 Quá trình hưng thịnh: Thời độc lập
2.4 Giai đoạn suy yếu
2.5 Giai đoạn phục hồi và chấn hưng
Chương 3: Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của ngườiViệt
3.1 Ảnh hưởng của Phật giáo trong cách thức giao tiếp và ứng xử của người Việt 3.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đối với phong tục tập quán của người Việt
3.3 Ảnh hưởng của Phật giáo trong quan niệm đạo đức và nhân cách của ngườiViệt
3.4 Đánh giá, nhận xét về ý nghĩa giá trị của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam
4 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử củachủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê so sánh, thảo luậnnhóm
5 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất, đề tài góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về tôn giáo nóichung, về Phật giáo nói riêng cho đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực này
Trang 7Thứ hai, đề tài góp phần làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống củangười Việt Nam, làm cơ sở cho việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởngtiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới ở Việt Nam.
Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
lý luận về tôn giáo và một số lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn khác
Thứ tư, đề tài góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn giúp Đảng vàNhà nước đề ra những chính sách phù hợp nhằm đoàn kết, phát huy vai trò của các tôngiáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
Trang 8CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ
TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ởmiền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN) Do được truyền bá trong mộtthời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đadạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học
1.1 Sự ra đời của Phật giáo
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng.
Đất nước này vừa có dãy núi Himalaya hùng vĩ ở phía Bắc, vừa có biển Ấn Độ Dươngrộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy về phíaĐông Vì thế, Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có vùng nóng ẩm mưanhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc khô cằn, nóngbức Những điều kiện tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớmnhững tư tưởng tôn giáo triết học
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ
Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian đã cónền văn minh khá cao Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ,trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công
xã nông thôn” Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước, gắnliền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã, và quan hệ giữa gia đìnhthân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các đẳng cấp
Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 giai cấp lớn là:
- Bà-la-môn: gồm những giáo sĩ, phụ trách lễ nghi, cúng bái, giữ quyền thống trịtinh thần, được ưu tiên tôn kính và hưởng mọi quyền lợi sung sướng nhất
- Sát-đế-lỵ: là hàng vua chúa, quý tộc, giữ quyền cai trị đất nước
- Vệ-xá: là hàng thương gia, chủ điền, đảm đương về kinh tế
- Thủ-đà-la: là hàng hạ tiện, nô lệ, làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên, bịđánh, giết tùy tiện
Trang 9Mỗi giai cấp sống theo luật lệ cha truyền con nối, không được thay đổi nghềnghiệp hay cưới gả lẫn nhau Chỉ có 3 giai cấp trên là có quyền đọc kinh, học đạo, còngiai cấp Thủ-đà-la thì đời đời tăm tối Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiệnnhững mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội.Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó cóPhật giáo.
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba
giai đoạn Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV –VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành cáctrường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và khôngchính thống Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là có thừa nhận uy thếcủa kinh Vê-đa và đạo Bà-la-môn hay không Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sựngự trị của đạo Bà-la-môn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đườnggiải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ Vìchống lại sự ngự trị của đạo Bà-la-môn đặc biệt là quan điểm của kinh Vê-đa nên Phậtgiáo được xem là dòng triết học không chính thống
Về khoa học: ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về
khoa học tự nhiên Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…
Những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là cơ sở cho sự nảysinh và phát triển những tư tưởng triết học của Phật giáo tại Ấn Độ
1.1.2 Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Xít-đác-ta Gô-ta-ma(Siddhartha Gautama), thuộc bộ tộc Thích Ca (Shakya) Xít-đác-ta là thái tử của vua TịnhPhạn, một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan) Ông sinh ngày 8tháng 4 năm 563 TCN, theo truyền thống Phật lịch thì là ngày 15/04 (rằm tháng tư) còngọi là ngày Phật Đản
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi đế vương lại có vợ đẹp conngoan, nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, và sự bất lực củacon người trước khó khăn của cuộc đời, ông quyết định từ bỏ con đường vương giả xuấtgia tu đạovàonăm 29 tuổi Sau 6 năm tu hành, năm 35 tuổi, Xítđácta đã giác ngộ tìm rachân chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ
Trang 10cho chúng sinh Từ đó ông đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và đã trở thànhngười sáng lập ra tôn gáo mới là đạo Phật Về sau ông được suy tôn với nhiều danh hiệukhác nhau: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…Với mục đích nhằm giảiphóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phậtgiáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.
Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dântộc Châu Á Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” baogồm Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận
1.1.3 Các tông phái Phật giáo
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nólan toả từ Ấn Độ ra khắp nơi Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phươngpháp tu học và cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi
xã hội mỗi thời điểm là chuyện tất yếu Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có
sự phân chia tông phái này
Các bộ phái chính ngày nay:
Theravada (Phái Thượng tọa bộ): Theravada còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ
hay Phật giáo Nam tông, tên quen gọi là Phật giáo Tiểu thừa Tông phái này hình thànhngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch Chữ Theravada có nghĩa là “lờidạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ
Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa Từ thế kỷ I TCN các
tư tưởng “đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay “đại thừa”, chỉ thực
sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa Nói chung, ý tưởngMahayana là có xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc của Theravada
Vajrayana: Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông hay Kim cương thừa.
Tông phái này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI Phái này chia sẻ chung nhiều tư tưởngvới Đại thừa nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành Nếu như Đại thừa có nhiều tínhchất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tông đi xa hơn về mặt thực nghiệm và cũng thể hiện
sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo
Tịnh Độ tông (Liên tông): Tịnh Độ Tông (Pure Land) xuất hiện vào giữa thế kỷ
IV từ sự truyền bá của sư Huệ Viễn (Hui-yuan) Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là mộtnhánh của Đại thừa song tông này không có sự truyền thừa như các tông phái khác mà
Trang 11chỉ do sự đóng góp công sức để phát huy giáo lý Tịnh Độ Nguyên lý của tông phái dựavào nguyện lực (tha lực) của Phật A Di Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu Phật
Thiền tông: Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là ZEN, ch’an, tên cũ là
Thiền na Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ khởi thủy.Nhưng cho đến khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma(Bodhidharma) du hành sang Trung Quốc (năm 520) và truyền lại thì Thiền tông bắt đầutrở thành một tông phái riêng biệt
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết thànhvăn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng kinh điển là:Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận Trong đó thể hiện các quan điểm về thế giới vàcon người
1.2.1 Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên
Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bà-la-môn và đa số các môn phái triết họctôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo vàchi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải domột vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và
“Danh” Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất,nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi
Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sựnhận thức)
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn” Ngũ uẩn bao gồmsắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng tácđộng qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ làtạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi Do đó, không có
“Bản ngã” hay cái tôi chân thực (vô ngã)
Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Trang 12Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi Các sự vật, hiệntượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không nghỉ theochu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt” Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi khôngngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi,
hư hoại, đều là vô thường” Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng thái nhấtđịnh, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã Sinh
và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật, hiện tượng cũng như trong toànthể vũ trụ rộng lớn Đức Phật cũng dạy rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mớigọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết khôngphải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới
Duyên khởi (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớnnhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên Trong đó duyên là điều kiện giúp chonguyên nhân trở thành kết quả Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác,nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổikhông ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-Quả”, nhân là cái hạt, quả là cáitrái, cái trái do mầm ấy phát sinh Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vàonhau mà có Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu không có quả thì không thể cónhân, nhân thế nào thì quả thế ấy Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điềukiện thuận lợi về không khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả”
là cây lúa
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phậtgiáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra conngười và thế giới Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tốvật chất và tinh thần Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vậnđộng, biến đồi không ngừng Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm trong các sựvật Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất phác nhưng rất đángtrân trọng Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới
Trang 131.2.2 Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi
người phải nhận thức được Tứ diệu đế là:
Khổ đế (Duhkha-satya):
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, khôngtrọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời là vôthường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ Có 8 nỗi khổ là : sinh khổ, lãokhổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng hội (ghétnhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do
5 yếu tố tạo nên con người)
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàncảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất Về phương triết học, khổ đau là mộtthực tại như thực đối với con người Khổ đế là một chân lý khách quan hiện thực Khổhay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ tâm thức Như vậy trinhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người
Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thậtcủa đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối Do đó, conngười ở đâu, làm gì cũng khổ Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác Ngay cảcái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới Phật ví sự khổ của conngười bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”
Nhân đế (hay Tập đế) (Samudayya-satya):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ “Tập” là tụ hợp, kết tập lại.Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trởthành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi Đạo Phật
cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân duyên”, tức 12
nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người 12 nhân duyên gồm:
1 Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt.
Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ
Trang 14Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũngđược gọi là Vô minh.
2 Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3 Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4 Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức)
5 Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy,đón nhận
6 Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác Đó là sắc,
thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào
7 Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục
căn sinh ra cảm giác
8 Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của
thế giới bên ngoài
9 Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ
lấy không chịu buông ra
10 Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11 Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12 Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm
đau rồi chết
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đềucho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia, cáinày là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau Cũng có lời giải thích là 12 yếu tốtích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam,ích kỷ, còn gọi là ngã chấp Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cáivòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõbản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và
Trang 15chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng Chúng ta có thểnhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình Hay nói cách khác, tùy theocách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không Nếu không bị sự chấpngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đờiđầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế (Nirodha-satya):
Là chân lý về diệt khổ Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được
để đạt tới trạng thái “niết bàn” Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổcũng được tận diệt Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vôminh
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướngcủa vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệpnữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử Nói cách khác diệt trừ được vô minh, thamdục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinhtử
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thìnhững nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óctỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn Đó là mộthình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấpthủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hãi mà tâm lý củabạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chínhxác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanhrộng lượng và bao dung hơn Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức
độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy
Ðạo đế (Marga-satya):
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ Đây là con đường tu đạo để hoàn thiệnđạo đức cá nhân Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi dứtđược những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử Chấm dứt luân hồi,vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn Có 8 con đường chân chính để đạt
sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo” Bát chính đạo bao gồm:
Trang 161 Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế
và giáo lí vô ngã
2 Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm
3 Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4 Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu,
nên làm việc thiện
5 Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến
sát sinh
6 Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu
7 Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác
trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý
8 Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã,
vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh
tử luân hồi
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và
xã hội Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ(không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không trộmcướp)
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tưtưởng biện chứng của thế giới Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm việcthiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh vàcon đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng vàduy tâm về xã hội Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hộiđẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nỗi
bi kịch cho con người lúc đó Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội
Trang 17nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về
xã hội
Trang 18CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO TẠI
VIỆT NAM
2.1 Thời điểm du nhập
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất được thời điểm Phật giáo
du nhập vào Việt Nam Có ý kiến cho rằng, từ những thế kỷ trước công nguyên, nhiềuthuyền buôn Ấn Độ đã cập bến nước ta Các thương nhân Ấn Độ khi đó đã đem theo vănhóa Ấn Độ cùng Phật giáo đến Việt Nam Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phậtgiáo được du nhập vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên
2.2 Quá trình truyền giáo: Thời Bắc thuộc
Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có nhiều nhà sư vào Việt Nam để truyền đạonhư Khương Tăng Hội, Chi Lương Cương (Ấn Độ), Mâu Bác Cư sĩ (Trung Quốc) Đồngthời, xuất hiện một số nhà sư Việt Nam có danh tiếng như Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền.Quá trình truyền đạo này đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu
Từ thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ X, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độgiảm dần, trong khi ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên Các pháithiền Trung Quốc như Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông đã được du nhập vào ViệtNam
2.3 Quá trình hưng thịnh: Thời độc lập
Thời Đinh - Lê
Đến thế kỷ thứ X, Việt Nam giành được quyền tự chủ Lúc này Phật giáo mới bắtđầu hưng thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước Năm 971, vua Đinh TiênHoàng lập ra chức tăng thống cho thiền sư Khuông Việt - người đứng đầu phật giáo củađất nước Vua Đại Hành sau khi hoà với nhà Tống đã sai sứ sang triều cống Trung Hoa
và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá Nhiều thiền sư đã được vua Lê Đại Hành trọngdụng, mời tham gia đóng góp trí tuệ cho đất nước như Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sưVạn Hạnh
Theo các thư tịch và dấu vết còn sót lại, vào thế kỷ X, tại Hoa Lư – Ninh Bình đã
có khá nhiều chùa tháp Ninh Bình hiện có 2 trong 3 "Nam thiên đệ nhất động" của ViệtNam, gồm: chùa Bích Động, chùa Địch Lộng