- NS cấp tỉnh, cấp huyện phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền - NSX có tầm quan trọng đặc bi
Trang 1–––––––––––––––––––
LƯƠNG THỊ NGỌC DIỆP
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
THÁI NGUYÊN - 2013
Trang 2–––––––––––––––––––––––
LƯƠNG THỊ NGỌC DIỆP
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS ĐOÀN HỮU XUÂN
THÁI NGUYÊN - 2013
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn của tôi là trung thực và chưa hề được dùng để bảo vệ một học vị nào
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc
Thái Nguyên, năm 2013
Tác giả luận văn
Lương Thị Ngọc Diệp
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Kinh tế
& Quản trị kinh doanh Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn
Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các phòng ban của thành phố Việt Trì đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp cho tôi những số liệu quý báu, những kiến thức, kinh nghiệm thực tế về công tác quản lý ngân sách nhà nước của thành phố
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các phường Tân Dân, xã Trưng Vương - thành phố Việt Trì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình điều tra, thu thập số liệu tại địa phương
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS Đoàn Hữu Xuân đã
tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám Hiệu trường Cao Đẳng Kinh tế
Kỹ Thuật Phú Thọ, các đồng chí, đồng nghiệp, bè bạn và gia đình đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi, đồng thời có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình tôi thực hiện và hoàn thành luận văn
Thái Nguyên, năm 2013
Tác giả luận văn
Lương Thị Ngọc Diệp
Trang 5MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các sơ đồ, biểu đồ viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4 Ý nghĩa của đề tài 3
5 Bố cục của luận văn 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH 4
ề quản lý ngân sách 4
4
17
ề quản lý ngân sách 18
18
23
1.3 Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam nói chung và cho tỉnh Phú Thọ nói riêng trong việc quản lý ngân sách 33
1.3.1 Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc quản lý, sử dụng NSNN nêu trên, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau 33
1.3.2 Một số gợi ýcho việcquản lý ngân sách từ việc phân cấp ngân sách 35
1.3.3 Các giải pháp đặt ra nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh 38
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
2.1 Câu hỏi nghiên cứu 40
2.2 Khung phân tích Biến độc lập - Biến phụ thuộc 40
Trang 642
42
42
2.4 Hệ thố 44
2.4.1 Tên các chỉ tiêu nghiên cứu 44
2.4.2 Ý nghĩa kinh tế của các chỉ tiêu nghiên cứu 44
Chương 3: 45
3.1 Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu 45
3.1.1 Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ 45
3.1.2 Đặc điểm chung của đơn vị được chọn điểm nghiên cứu 47
3.2 Thực trạng công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ 48
3.2.1 Hệ thống quản lý ngân sách cấp xã 48
3.2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ 49
3.3 Nhận xét chung về công tác quản lý ngân sách cấp xã 77
3.3.1 Những kết quả đạt được 77
3.3.2 Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 77
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NGÂN SÁCH CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ 83
4.1 Quan điểm, phương hướng, mục tiêu phát triển của thành phố Việt trì nói chung và của các xã, phường được chọn điểm nghiên cứu nói riêng trong thời gian tới 83
4.1.1 Cơ sở đề ra giải pháp 83
4.1.2 Định hướng, mục tiêu quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn thành phố Việt trì, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011-2015, hướng tới năm 2020 83
4.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ 85
Trang 74.2.1 Nâng cao chất lượng công tác xây dựng dự toán 85
4.2.2 Tăng cường chấn chỉnh công tác quản lý thu, khuyến khích tăng thu, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh 87
4.2.3 Quản lý và sử dụng có hiệu quả các khoản chi ngân sách 89
4.2.4 Tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản 91
4.2.5 Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cơ quan tài chính, thuế, kho bạc 92
4.2.6 Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác quản lý ngân sách 93
4.2.7 Công tác thanh tra,kiểm tra, giám sát quản lý ngân sách 93
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
Trang 9DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp nguồn thu và tỷ lệ % NSX được hưởng 50
Bảng 3.2: Định mức chi thường xuyên NSX 51
Bảng 3.3: Bảng tổng hợp thu NS các phường trên địa bàn thành phố Việt trì 52
Bảng 3.4: Bảng tổng hợp thu ngân sách các xã trên địa bàn thành phố Việt trì 52
Bảng 3.5: Bảng tổng hợp chi NS các phườngtrên địa bàn thành phố Việt trì 53
Bảng 3.6: Bảng tổng hợp chi ngân sách các xã trên địa bàn thành phố Việt trì 53
Bảng 3.7: Tỷ lệ tăng trưởng và tỷ trọng nguồn thu NS phường Tân Dân 55
Bảng 3.8: Tỷ trọng nguồn thu ngân sách phường Tân Dân 56
Bảng 3.9: Các khoản thu NS phường Tân Dân được hưởng 100% 58
Bảng 3.10: Các khoản thu NS phường Tân Dân được hưởng theo tỷ lệ % 60
Bảng 3.11: Khoản thu trợ cấp từ NS cấp trên qua các năm tại phường Tân Dân 62
Bảng 3.12: Tình hình thực hiện dự toán thu ngân sách phường Tân Dân 62
Bảng 3.13: Tỷ lệ tăng trưởng và tỷ trọng nguồn thu NS xã Trưng Vương 63
Bảng 3.14: Tình hình thực hiện dự toán thu ngân sách xã Trưng Vương 64
Bảng 3.15: Tỷ trọng nguồn thu ngân sách xã Trưng Vương 65
Bảng 3.16: Các khoản thu NS xã Trưng Vương được hưởng 100% 66
Bảng 3.17: Các khoản thu xã Trưng Vương được hưởng theo tỷ lệ % 68
Bảng 3.18: Khoản thu trợ cấp từ NS cấp trên tại xã Trưng Vương 69
Bảng 3.19: Tỷ lệ tăng trưởng và mức chi trung bình phường Tân Dân 71
Bảng 3.20: Tỷ trọng nhiệm vụ chi ngân sách phường Tân Dân 72
Bảng 3.21: Tình hình thực hiện dự toán chi ngân sách phường Tân Dân 73
Bảng 3.22: Tỷ lệ tăng trưởng và mức chi trung bình xã Trưng Vương 73
Bảng 3.23: Tỷ trọng nhiệm vụ chi ngân sách xã Trưng Vương 74
Bảng 3.24: Tình hình thực hiện dự toán chi ngân sách xã Trưng Vương 75
Trang 10DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Hệ thống NSNN 6
Sơ đồ 1.2: Hệ thống NSNN 7
Sơ đồ 2.1: Khung nghiên cứu Quản lý NSNN 40
Sơ đồ 2.2: Khung nghiên cứu công tác Quản lý NS cấp xã tại TP Việt Trì 41
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức Ban tài chính xã 48
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ tăng trưởng và tỷ trọng nguồn thu NS phường Tân Dân 55
Biểu đồ 3.2: Tỷ trọng nguồn thu ngân sách phường Tân Dân 56
Biểu đồ 3.3: Tỷ trọng khoản thu NS phường Tân Dân được hưởng 100% 58
Biểu đồ 3.4: Tỷ trọng khoản thu NS phường Tân Dân được hưởng theo tỷ lệ % 61
Biểu đồ 3.5: Khoản thu trợ cấp từ NS cấp trên qua các năm tại phường Tân Dân 62
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ tăng trưởng và tỷ trọng nguồn thu NS xã Trưng Vương 63
Biểu đồ 3.7: Tỷ trọng nguồn thu ngân sách xã Trưng Vương 65
Biểu đồ 3.8: Tỷ trọng khoản thu NS xã Trưng Vương được hưởng 100% 67
Biểu đồ 3.9: Tỷ trọng khoản thu NS xã Trưng Vương được hưởng theo tỷ lệ % 69
Biểu đồ 3.10: Khoản thu trợ cấp từ NS cấp trên tại xã Trưng Vương 70
Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ tăng trưởng và mức chi trung bình phường Tân Dân 71
Biểu đồ 3.12: Tỷ trọng nhiệm vụ chi ngân sách phường Tân Dân 72
Biểu đồ 3.13: Tỷ lệ tăng trưởng và mức chi trung bình xã Trưng Vương 74
Biểu đồ 3.14: Tỷ trọng nhiệm vụ chi ngân sách xã Trưng Vương 75
Trang 11MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngân sách Nhà nước là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời Ngân sách nhà nước là công cụ quan trọng để Nhà nước điều khiển vĩ mô nền kinh tế, giữ gìn an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt N
cấp xã, phường là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống ngân sách
nhà nước, gọi chung là ngân sách xã (NSX)
NSX là một bộ phận của NSNN, là ngân sách của chính quyền cấp cơ sở do UBND xã xây dựng, tổ chức quản lý và thực hiện dưới sự giám sát của HĐND xã NSX được xây dựng từ các nguồn thu, được phân cấp và các nội dung chi để thực hiện các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã Chính quyền
xã là cấp chính quyền cơ sở có nhiệm vụ quản lý mọi mặt đời sống kinh tế xã hội trên địa bàn xã Để thực hiện các nhiệm vụ đó, xã là nơi trực tiếp sử dụng kinh phí
và thực hiện nhiệm vụ của một đơn vị dự toán nhằm duy trì hoạt động của bộ máy chính quyền xã, các hoạt động của Đảng, đoàn thể, các sự nghiệp y tế, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng, … thông qua hoạt động thu, chi Ngân sách xã
Việt Trì là một thành phố được Nhà nước công nhận là đô thị loại I trực thuộc Tỉnh Tuy nhiên,
vẫn
thời thực hiện chủ trương của Thành ủy đầu tư cơ sở hạ tầng cho các phường ở vị trí trung tâm thành phố và chuyển đổi cơ cấu kinh tế thực hiện từng bước hiện đại hóa, nông nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn cho các xã vùng ven Để xứng đáng với danh hiệu trên và từng bước xây dựng Việt Trì trở thành thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc, các cấp chính quyền từ thành phố đến phường, đặc biệt là các xã vùng ven hết sức quan tâm đến việc đẩy mạnh thu Ngân sách và quản lý
đầy đủ nhu cầu chi thường xuyên, chi đột xuất Tiết kiệm một phần để chi đầu tư
Trang 12XDCB các công trình phúc lợi để từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng của thành phố Việt Trì ngày một khang trang hơn góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
2 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
+ Đưa ra một số đề xuất, giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác quản lý
NS cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và những căn cứ có liên quan đến quản lý NS cấp xã
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý NS cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
- Xây dựng một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NS cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và những căn cứ có liên quan đến công tác quản lý NS cấp xã
- Thực trạng công tác quản lý NS của các xã, phường trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
- Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NS cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
Trong đó nghiên cứu các bước của chế độ kế toán
+ Lập dự toán
+ Chấp hành dự toán
Trang 13- Công tác quản lý ngân sách cấp xã các năm 2010 - 2012
4 Ý nghĩa của đề tài
Trình bày hệ thống lý luận về công tác quản lý NSNN và NSX Phân tích các yếu tố tác động đến công tác quản lý NS cấp xã Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý NS cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhằm góp phần thực hiện công tác quản lý NS cấp xã đạt kết quả tốt hơn
5 Bố cục của luận văn
Tên luận văn: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa
bàn thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ”
Nội dung của luận văn bao gồm 4 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý ngân sách
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
Chương 4: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân sách cấp
xã trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
Trang 14Xét về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành
Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của NSNN là hoạt động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia (phân phối lần đầu và tái phân phố
sách nhà nước thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối: giữa một bên là nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế - xã hội, các tầng lớp dân cư
Về tính chất xã hội: NSNN luôn luôn là một công cụ kinh tế của nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh doanh Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính sách ưu đãi, đầu tư vào các lĩnh vực mà
không muốn đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp; hoặc qua các chính sách
Trang 15thuế bằng việc đánh thuế vào những hàng hoá, dịch vụ của tư nhân có khả năng thao túng trên thị trường; đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu đãi đối với những hàng hoá mà Chính phủ khuyến dụng Nhờ đó mà có thể đảm bảo sự cân đối, công bằng trong nền kinh tế
giải quyết các vấn đề xã hội: bất công, ô nhiễm
để thiết lập lại sự công bằng xã hội: điều chỉnh thu nhập của các nhóm dân cư khác nhau bằng cách trợ cấp thu nhập cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu nhập; tác động gián tiếp đến thu nhập bằng cách tạo khả năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản thân, đây là biện pháp tích cực nhất, đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân; nói cách khác, nó làm cho một số người dân giàu lên mà không ai nghèo đi; hoặc qua chính sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao đối với người có thu nhập cao và ngược lại Như vậy, vai trò của NSNN là rất lớn Vấn đề đặt ra là việc tổ chức quy mô, cơ cấu và quản lý NSNN như thế nào để phát huy được vai trò của nó (Nguyễn Hữu Tài, 2002)
gân sách Nhà nước
Tại nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó Mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ Hệ thống NSNN bao gồm NSTW và NSĐP
* NSTW phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong
hệ thống NSNN NSTW cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước trung ương (sự nghiệp văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phòng, trật
tự an toàn xã hội, đầu tư phát triển…) Nó còn là trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách của địa phương Trên thực tế, NSTW là ngân sách của cả nước, tập trung đại
bộ phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước
* NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính quyền phù hợp với địa giới hành chính gồm có: NS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
Trang 16chung là NS tỉnh); NS huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là NS huyện); NS xã, phường, thị trấn (gọi chung là NSX)
- NS cấp tỉnh, cấp huyện phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền
- NSX có tầm quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào NSX là cấp NS cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh, trật
tự, thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn
Đối với nước ta hiện nay hệ thống chính quyền nhà nước được phân thành
chính quyền thì có một cấp NS tương ứng, do đó hệ thống NS của nước ta gồm 4 cấp được thể hiện trên sơ đồ 1.1 sau:
Trang 17Sơ đồ 1.2: Hệ thống NSNN
Năm ngân sách: Năm NS chỉ khoảng thời gian mà trong đó dự toán thu, chi
NS đã được phê chuẩn có hiệu lực thực hiện Thông thường trên thế giới, năm NS
có thời gian là 12 tháng nhưng khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc Ở Việt Nam, năm NS gồm 12 tháng, bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 (tính theo năm dương lịch), (Lê Chi Mai, 2006)
* Chu trình ngân sách: Chu trình NS gồm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Hình thành kế hoạch NSNN (lập dự toán thu, chi)
- Giai đoạn 2: Chấp hành NSNN (thực hiện dự toán thu, chi)
- Giai đoạn 3: Quyết toán NSNN
1.1.1.2
gân sách xã
Hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã quy định hệ thống tổ chức quản lý bộ máy Nhà nước bao gồm bốn cấp: Cấp trung ương - cấp tỉnh - cấp huyện
- cấp xã Cấp xã gồm: phường, xã, thị trấn gọi chung là cấp xã
Xã là đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước Chính quyền Nhà nước cấp xã
Trang 18quyền cấp xã thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng và phá ế
xã hội; Quản lý dân số, lao động, hộ tịch, hộ khẩu, sinh, tử, giá thú theo quy định hiện hành; Quản lý và thực hiện chính sách tài chính, thu thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và quản lý NS cấp xã theo đúng luật, chế độ, thể lệ của Nhà nước, theo quy định cụ thể của UBND cấp tỉnh, thành phố; Kiểm tra đôn đốc các hộ, các cá nhân và các cơ sở sản xuất kinh doanh, chấp hành tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước; Giữ gìn an ninh trật tự và
an toàn xã hội, bảo vệ tài sản XHCN và tính mạng cho nhân dân
NSX là một bộ phận của NSNN, là NS của chính quyền cấp cơ sở do UBND
xã xây dựng, tổ chức quản lý và thực hiện dưới sự giám sát của HĐND xã NSX được xây dựng từ các nguồn thu, được phân cấp và các nội dung chi để thực hiện các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
Như vậy, theo Luật NSNN (2002): “NSX là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp
cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý”
- Thu, chi NSX gắn với hoạt động của chính quyền cơ sở do vậy NSX là một cấp ngân sách đặc biệt trong hệ thống NSNN, bởi vì: Với vị trí là một cấp NS hoàn chỉnh, NSX là toàn bộ dự toán thu, chi NS một năm đã được HĐND xã quyết định
và giám sát thực hiện Mặt khác do cấp xã là cấp cơ sở, dưới đó không còn đơn vị
dự toán, các đơn vị thụ hưởng NS trực thuộc nên NSX cũng chính là đơn vị dự toán; Với tư cách là một cấp NS, NSX có chức năng và nhiệm vụ của một cấp NS; đồng thời với tư cách là một đơn vị dự toán NS, NSX có nhiệm vụ chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà nước trong quá trình chi NS Hai tư cách quản lý lại phải
Trang 19thống nhất trong một bộ máy quản lý, vì vậy nó ảnh hưởng đến nhiều nội dung quản
lý NSX như tổ chức bộ máy quản lý, chế độ kế toán NSX và công khai NSX (Sử Đình Th nh, 2006)
Bản chất của NSNN nói chung, NSX nói riêng là hệ thống những mối quan
hệ kinh tế nhà nước và xã hội trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước Các quan hệ kinh tế này bao gồm: Quan hệ kinh tế giữa chính quyền cấp xã và các tổ chức, hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn; quan hệ giữa NSX với các tổ chức tài chính trung gian với quỹ tín dụng nhân dân; quan hệ kinh tế giữa NSX và các tổ chức xã hội; quan hệ kinh tế giữa NSX và các hộ gia đình
* Với tư cách là một bộ phận của NSNN, NSX có vai trò sau:
- NSX là công cụ huy động các nguồn lực tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của chính quyền cấp xã Vai trò của NSX được xác định trên bản chất kinh tế của Nhà nước
- NSX huy động mọi nguồn thu trên địa bàn đã được phân cấp cho chính quyền cấp xã quản lý, cân đối thu, chi để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, thực hiện mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước và ngược lại, nhờ đó mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được truyền đạt và phổ biến rộng rãi đến nhân dân
* Vai trò của NSX biểu hiện thông qua quá trình thu và quá trình chi
- Thông qua thu giúp chính quyền cấp xã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác đi đúng hành lang pháp luật; Thu NSX góp phần thực hiện các chính sách xã hội như đảm bảo công bằng giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho NSX, đồng thời có sự trợ giúp cho những đối tượng nộp khi họ gặp khó khăn hoặc thuộc diện ưu đãi theo chính sách của Nhà nước thông qua xét miễn, giảm số thu; Thu tiền phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm trật tự an toàn xã hội để đưa người dân nghiêm chỉnh thực hiện tốt nghĩa vụ trước cộng đồng
Trang 20- Thông qua chi NSX mà các hoạt động của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể ở xã được duy trì phát triển một cách liên tục và ổn định, nhờ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước ở cơ sở; Chi NSX góp phần nâng cao dân trí, nâng cao sức khoẻ cho mọi người dân biểu hiện thông qua NSX chi cho sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế Chi NSX thực hiện chính sách xã hội tại địa bàn mỗi xã như NSX chi cứu tế xã hội, chi thăm hỏi, trợ cấp cho gia đình thương binh, liệt sĩ trong xã
e Trình tự lập, chấp hành và quyết toán ngân sách xã
* Trình tự lập và căn cứ lập dự toán ngân sách xã
- Lập dự toán NSX là quá trình phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm xác lập các chỉ tiêu thu, chi NSX dự kiến có thể đạt được kỳ kế hoạch Xác lập các biện pháp chủ yếu về kinh tế, tài chính và hành chính để đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đó
- Các căn cứ chủ yếu để lập dự toán ngân sách xã :
+ Căn cứ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã kỳ kế hoạch Hàng năm phải dựa vào mức tăng trưởng của mỗi ngành nghề để dự đoán mức độ gia tăng của mỗi nguồn thu cho NSX
+ Căn cứ những quy định chung về phân cấp quản lý kinh tế xã hội và phân cấp quản lý NSNN hiện đang có hiệu lực
+ Căn cứ các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu về phí, lệ phí, chế độ tiêu chuẩn, định mức chi NS do cấp có thẩm quyền quy định, các chế độ, chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi NSNN năm
+ Căn cứ vào tình hình thực hiện dự toán NSX năm báo cáo và các năm trước đó để thống kê và phát hiện ra những hiện tượng trong quá trình quản lý thu, chi NSX thường xuyên xảy ra
Trang 21* Chấp hành dự toán ngân sách xã
Chấp hành dự toán NS là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp kinh tế, tài chính, hành chính biến các chỉ tiêu đã được ghi trong dự toán trở thành hiện thực Trước hết phải căn cứ dự toán NSX và phương án phân bổ NSX cả năm đã được HĐND xã quyết định, UBND xã phân bổ chi tiết dự toán chi NSX theo mục lục NSNN, gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi
- Chấp hành thu ngân sách xã
+ Tổ chức thu NSX theo dự toán được giao theo các bước sau:
Ban tài chính xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ và thu kịp thời
Đơn vị, cá nhân có nghĩa vụ nộp NS, căn cứ vào thông báo thu của cơ quan thu hoặc của ban tài chính xã, lập giấy nộp tiền đến Kho bạc Nhà nước để nộp trực tiếp vào NSNN
+ Trường hợp đối tượng phải nộp NS không có điều kiện nộp tiền trực tiếp vào NSNN tại Kho bạc theo chế độ quy định thì:
Đối với các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của cơ quan thuế, cơ quan thuế thu, sau đó lập giấy nộp tiền vào Kho bạc nhà nước Trường hợp cơ quan thuế uỷ quyền cho Ban tài chính xã thu, thì cũng thực hiện theo quy trình trên và được hưởng phí uỷ nhiệm thu theo chế độ quy định
Đối với các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của Ban tài chính xã, Ban tài chính xã thu, sau đó lập giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào quỹ của NSX để chi theo chế độ quy định nếu là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện giao dịch với Kho bạc Nhà nước
+ Trường hợp cơ quan có thẩm quyền quyết định phải hoàn trả khoản thu NSX, Kho bạc Nhà nước xác nhận số tiền đã thu vào NSX của các đối tượng nộp trực tiếp hoặc chuyển khoản vào Kho bạc, đối với đối tượng nộp qua cơ quan thu thì
cơ quan thu xác nhận để Ban Tài chính xã làm căn cứ hoàn trả
- Chấp hành chi ngân sách xã
+ Trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc quản lý chi NSX:
Trang 22Đối với các tổ chức, đơn vị thuộc xã chi đúng dự toán giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm có hiệu quả; Lập dự toán sử dụng kinh phí hàng quý (có chia tháng) gửi Ban Tài chính xã Khi có nhu cầu chi làm thủ tục đề nghị Ban tài chính xã rút tiền tại Kho bạc Nhà nước hoặc quỹ tại xã để thanh toán; Chấp hành đúng quy định pháp luật về kế toán, thống kê và quyết toán sử dụng kinh phí với Ban Tài chính xã và công khai kết quả thu chi của
tổ chức, đơn vị
Đối với Ban Tài chính xã: Thẩm tra nhu cầu sử dụng kinh phí của các tổ chức, đơn vị, bố trí theo nguồn dự toán năm và dự toán quý để đáp ứng nhu cầu chi, trường hợp nhu cầu chi lớn hơn thu trong quý cần có biện pháp đề nghị cấp trên tăng tiến độ cấp bổ sung hoặc tạm thời sắp xếp lại nhu cầu chi phù hợp với nguồn thu, theo nguyên tắc đảm bảo chi lương, có tính chất lương đầy đủ, kịp thời; Kiểm tra giám sát thực hiện chi ngân sách, sử dụng tài sản của các tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và báo cáo đề xuất kịp thời Chủ tịch UBND xã về những vi phạm chế độ, tiêu chuẩn, định mức để có biện pháp đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và tiến độ quy định
Đối với Chủ tịch UBND xã hoặc người được uỷ quyền quyết định chi: Việc quyết định chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi trong phạm vi dự toán được phê duyệt và người ra quyết định chi phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình
+ Việc thực hiện chi ngân sách phải đảm bảo các nguyên tắc:
Đã được ghi trong dự toán được giao, trừ trường hợp dự toán và phân bổ
dự toán chưa được cấp có thẩm quyền quyết định và chi từ nguồn tăng thu, nguồn
dự phòng ngân sách
Đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức quy định
Được chủ tịch UBND xã hoặc người uỷ quyền quyết định chi
* Kiểm tra, quyết toán ngân sách xã
Quyết toán NSX là công việc cuối cùng của chu trình quản lý NSX bao gồm: Quyết toán thu và quyết toán chi NS
Trang 23- Hàng năm Ban Tài chính có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thu, chi NSX trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Tài Chính - Kế hoạch có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu, chi NSX, nếu có sai sót phải báo cáo với UBND huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh
- Ban Tài chính xã có trách nhiệm thực hiện công tác hạch toán kế toán và quyết toán NSX theo mục lục NSNN và chế độ kế toán NSX hiện hành (theo Quyết định số 94/2005/QĐ-BTC ngày 12/12/2005 của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành chế độ kế toán NS và tài chính xã; Thông tư 146/2011/TT-BTC ngày 26/10/2011 của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính về việc sửa đổi bổ sung một số điểm chế
độ kế toán NS và tài chính xã ban hành theo Quyết định 94/2005/QĐ-BTC ngày 12/12/2005)
- Thời gian chỉnh lý quyết toán NSX hết ngày 31/01 năm sau
1.1.1.3 gân sách xã
gân sách xã
* Về thu Ngân sách xã: Nguồn thu ngân sách xã gồm
- Các khoản thu NSX được hưởng 100%: Là các khoản thu dành cho xã sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên, đầu tư phát triển Căn cứ vào nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các khoản chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu HĐND cấp tỉnh xem xét dành cho NSX hưởng 100% các khoản thu dưới đây:
+ Thu về xử lý vi phạm hành chính
+ Thu về phí, lệ phí theo thẩm quyền của xã
+ Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã, phần nộp vào NSX theo quy định + Các khoản thu đóng góp của các tổ chức, các cá nhân cho xã gồm: Các khoản huy động, vận động đóng góp của tổ chức, cá nhân theo pháp luật quy định; các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý và các khoản đóng góp tự nguyện khác
Trang 24+ Thu về quản lý, sử dụng tài sản công
+ Viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp cho xã
+ Các khoản thu khác của xã theo quy định của pháp luật
+ Thu kết dư NS năm trước
- Các khoản thu ngân sách xã được hưởng, phân chia theo tỉ lệ phần trăm (%) giữa NSX với NS cấp trên: Theo quy định của Luật NSNN thì các khoản thu này gồm: Thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; tiền cấp quyền
sử dụng đất; Lệ phí trước bạ nhà, đất; thuế thu nhập cá nhân; thuế GTGT và thu nhập doanh nghiệp
Các khoản thu trên tỷ lệ NSX được hưởng tối thiểu là 70% Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã HĐND cấp tỉnh có thể quy định tỷ lệ NSX được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100% Ngoài các khoản thu phân chia như trên NSX còn được HĐND các cấp bổ sung thêm các nguồn thu phân chia sau khi các khoản thuế, phí, lệ phí phân chia theo luật NSNN đã dành 100% cho NSX và các khoản thu NSX được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối được nhiệm vụ chi
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % này được điều chỉnh theo từng giai đoạn để phù phợp cho mỗi cấp NS ở địa phương
- Thu bổ sung cân đối từ NS cấp trên cho NSX gồm: Là mức chênh lệnh giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp (gồm các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %) Số bổ sung cân đối này được xác định từ đầu thời kỳ ổn định NS và được giao từ 3 đến 5 năm; Thu bổ sung
có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
* Về chi ngân sách xã: HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX Căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, các chính sách, chế độ về hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở xã và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã khi phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX, HĐND Tỉnh xem xét cho NSX thực hiện các nhiệm vụ chi dưới đây:
- Chi thường xuyên: Là các khoản chi cho hoạt động của các cơ quan nhà nước ở xã; công tác quốc phòng an ninh; công tác xã hội; hoạt động văn hoá, thông
Trang 25tin, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình do xã quản lý; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, y tế thuộc trách nhiệm của chính quyền xã trên địa bàn xã; sự nghiệp kiến thiết kinh tế và các khoản chi thường xuyên khác ở xã theo quy định của pháp luật
- Chi đầu tư phát triển: Là khoản chi để sử dụng vào các công việc như xây dựng, cải tạo đường giao thông, công trình nước sạch, bảo vệ môi trường, các công trình phúc lợi; chi để xây dựng sửa chữa các công trình văn hoá, thể thao, khu vui chơi giải trí trên địa bàn xã Ngoài ra khoản chi này còn được sử dụng để xây dựng, sửa chữa, cải tạo trụ sở HĐND và UBND, trụ sở cấp uỷ và các tổ chức đoàn thể Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật Khoản chi này chủ yếu nhằm phục vụ các chức năng của cơ quan chính quyền ở địa phương nhằm duy trì và phát triển hoạt động bình thường tại
Theo tác giả Nguyễn Hữu Tài (2002), chức năng quản lý NSX gồm:
* Chức năng quản lý ngân sách của Hội đồng nhân dân xã
- Quyết định dự toán và phân bổ NSX, giám sát thực hiện NSNN trên địa bàn và phê chuẩn quyết toán NSX
- Quyết định điều chỉnh dự toán NSX khi cần thiết
- Đề ra các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện NSX
- Quyết định thu các khoản đóng góp của nhân dân trên địa bàn xã (theo phân cấp của cấp có thẩm quyền)
* Chức năng quản lý ngân sách của Uỷ ban nhân dân xã
- Lập dự toán NSX, lập phương án phân bổ NSX, điều chỉnh NSX trong trường hợp cần thiết trình HĐND xã quyết định và báo cáo UBND huyện và Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện
- Tổ chức thực hiện dự toán NSX đã được HĐND xã phê chuẩn
- Lập quyết toán NSX hàng năm trình HĐND xã phê chuẩn, báo cáo UBND huyện và Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện
- Chỉ đạo Ban tài chính, kế toán xã thực hiện chế độ kế toán NSX, thống kê
và tổ chức quản lý tài chính trên địa bàn xã theo quy định
Trang 26- Công khai thu, chi ngân sách, chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn đóng góp của nhân dân theo đúng quy định của quy chế dân chủ ở cơ sở
* Nguyên tắc đầy đủ: Điều 6 Luật NSNN (2003) quy định: “Tất cả các khoản thu, chi của NSNN phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ” Thực hiện nguyên tắc trên tất cả các khoản thu, chi NSX đều phải được hạch toán đầy đủ vào NS theo đúng Luật NSNN Quản lý NSX đảm bảo cho các hoạt động thu, chi đúng chính sách chế độ quy định, các khoản thu phải đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời và nộp đầy đủ vào NSNN và hạch toán đúng mục lục
NS, đúng chế độ kế toán, đồng thời khai thác triệt để mọi nguồn thu, bồi dưỡng phát triển các nguồn thu, phát triển kinh tế xã hội ở xã, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển tạo thêm nhiều nguồn thu mới cho NSX Các khoản chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức, phải có dự toán được duyệt và được kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước
* Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả: Việc sử dụng nguồn lực tài chính phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội Tăng cường kỷ luật tài chính, thực hiện tốt kiểm soát chi một cách đồng bộ từ cơ chế chính sách, dự toán, phân bổ NS đến việc cấp phát NS Thực hiện tiết kiệm triệt để trong chi tiêu NS nhất là trong quản lý hành chính và chi đầu tư XDCB
* Nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm”: Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, phải đảm bảo động viên tối đa nguồn lực trong nhân dân để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN và nâng cao trách nhiệm giám sát của nhân dân đối với chi tiêu của NSNN nhất là trong chi đầu tư XDCB để xây dựng hạ tầng
* Nguyên tắc ổn định NS và chính quyền cấp xã phải tự ch u trách nhiệm trước Pháp luật và Nhà nước về quản lý NS: Tỷ lệ điều tiết và bổ sung NS được giao ổn định từ 3 đến 5 năm (gọi là thời kỳ ổn định NS) Trong những năm này chính quyền xã phải chủ động bố trí NS, xây dựng dự toán thu, chi trên cơ sở nhiệm
vụ cấp trên giao và tiềm năng thế mạnh của xã, để khai thác hiệu quả các nguồn thu, xây dựng phương án thu NS hàng năm để đáp ứng tốt các nhu cầu chi của xã nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của xã trong năm và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về NS ở xã mình
Trang 27* Nguyên tắc công khai tài chính ngân sách: Việc công khai tài chính phải được thực hiện theo Thông tư số 01/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính: công khai dự toán, quyết toán thu, chi trên địa bàn; tỷ lệ điều tiết; số thu bổ sung NS cấp trên; công khai chi tiết kết quả của các hoạt động tài chính khác hàng năm của xã Với các hình thức công khai là niêm yết tại trụ sở UBND xã, thông báo trước kỳ họp HĐND xã, và gửi UBND huyện, Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện trực tiếp quản lý
* Bộ máy và cán bộ quản lý NSNN: Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp, các bộ phận trong tổ chức bộ máy và cán bộ quả
phận này với bộ phận khác, giữa cấp trên với cấp dưới trong quá trình phân công, phân cấp quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý NSNN Nếu việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp tỉnh không rõ ràng, cụ thể thì dễ xảy ra tình trạng thiếu trách nhiệm, hoặc lạm dụng quyền hạn trong việc quản lý NSNN Nếu bộ máy và cán bộ có năng lực trình độ thấp, đạo đức bị tha hoá thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý NSNN
Trang 28* Trình độ phát triển kinh tế và xã hội: Quản lý NS chịu ảnh hưởng của trình
độ phát triển kinh tế xã hội và mức thu nhập của người dân trên địa bàn Khi trình
độ phát triển kinh tế xã hội và mức thu nhập bình quân của ngườ
động NS
ế Khi ý thức tuân thủ pháp luật và các chính sách Nhà nước của các tổ chức, cá nhân được nâng cao, năng lực sử dụng NSNN tại các tổ chức và cá nhân thụ hưởng NSNN được cải thiện thì việc sử dụng NSNN sẽ có hiệu quả
, khi trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân trên địa bàn còn thấp, cũng như ý thức về sử dụ
ạ ỷ lại Nhà nước, lạm dụng chi NSNN… làm cho quá trình quả
về quản lý ngân sách
1.2.1.1 Phân cấp quản lý ngân sách tại Pháp
Các nguồn thu của địa phương bao gồm: thuế địa phương, trợ cấp của nhà nước, thu từ kinh doanh và các lĩnh vực khác
* Thuế địa phương: Thuế địa phương dựa trên các cơ sở tính thuế liên quan đến đất đai và các trang thiết bị hữu hình của doanh nghiệp Thuế địa phương chủ yếu là thuế trực thu với bốn loại thuế chính (thuế nghề nghiệp, thuế nhà ở, thuế thổ trạch và thuế đất), chiếm 75% tổng thu từ thuế của các địa phương Mỗi địa phương được quyền xác định thuế suất của thuế địa phương, nhưng phải tuân thủ một số quy định chung nhằm hạn chế việc tăng thuế Tuy nhiên, nếu chính quyền thi hành một số chính sách thuế quá hà khắc thì sẽ bị nhân dân truất phế thông qua bầu cử
* Trợ cấp của Trung ương: Các khoản trợ cấp của Trung ương cho các địa phương là nguồn tài chính chủ yếu của địa phương Tổng cộng các khoản hỗ trợ tài chính của nhà nước hàng năm dành cho địa phương lên đến khoảng 55 tỷ euro Các khoản trợ cấp đó được thực hiện qua nhiều kênh:
- Trợ giúp cho địa phương để hỗ trợ trang thiết bị và đầu tư Đây là khoản trợ cấp mang tính truyền thống của Nhà nước
Trang 29- Một phần trợ cấp là nhằm thực hiện nguyên tắc bù đắp tài chính cho việc chuyển giao một số chức năng của Trung ương cho địa phương
- Trợ cấp tổng thể về hoạt động: Được ấn định từng năm một theo luật tài chính, theo một tỷ lệ trích tính trước từ khoản dự định thu thuế giá trị gia tăng
* Các khoản thu từ kinh doanh và từ các tài sản công: Gồm lệ phí, phí hoặc thuế phải trả cho các dịch vụ công Trong số các dịch vụ này, một số có thể thu dưới dạng nhượng quyền, số công hoặc cho thầu Trên thực tế, phần thu từ kinh doanh trong ngân sách địa phương còn thấp
Luật pháp bắt buộc các địa phương phải thực hiện cân đối ngân sách, để thực hiện cân đối, các địa phương có thể tự do đi vay Tổng số vay nợ hàng năm phải thấp hơn tổng số chi cho trang thiết bị, vay nợ phải được dùng để đầu tư
Theo quy định của pháp luật, địa phương được tự do vay các khoản dưới 500 triệu euro Đối với các khoản vay từ 500 triệu đến 1 tỷ euro phải được Ban thư ký của Ủy ban ngân hàng phê chuẩn Nếu lớn hơn 1 tỷ euro thì phải thông qua 1 số cơ
và khống chế chặt chẽ việc thay đổi thuế suất (Lương Ngọc Tuyền, 2005)
1.2.1.2
Để có thêm kết quả hoàn thiện Dự án Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII, vừa qua Bộ Tài chính đã có Đoàn khảo sát nghiên cứu kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý chi tiêu ngân sách tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí Dưới đây là một số kết quả bước đầu
Những nguyên tắc căn bản
Tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí là nguyên tắc căn bản trong quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước của nhiều nước trên thế giới Tại Hàn Quốc, từ
Trang 30năm 1961, Luật Quản lý tài chính đã có những quy định để điều chỉnh vấn đề này Đến nay, Luật Quản lý tài chính của Hàn Quốc đã được sửa đổi, bổ sung 25 lần nhằm cụ thể hoá hơn các quy định, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng để nâng cao hiệu quả thực thi Luật
Các văn bản hướng dẫn triển khai của Chính phủ, của Bộ Tài chính Hàn Quốc đã đưa ra các quy định cụ thể nhằm kiểm soát ngay từ khâu phân bổ ngân sách đảm bảo tập trung, không dàn trải Theo đó, việc bố trí ngân sách cho hoạt động của các cơ quan nhà nước phải gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị Công tác lập dự toán kinh phí hàng năm được xác định là khâu quan trọng Các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào hệ thống định mức chi tiêu quy định tại Luật Quản lý ngân sách và các khoản trợ cấp, đồng thời được Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự toán cho cơ quan, đơn vị mình Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm tra, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí NSNN có trách nhiệm giải trình để làm rõ từng nội dung, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân trong khâu tổ chức thực hiện dự toán bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả
Đối với việc bố trí kinh phí NSNN cho các chương trình, dự án, cơ quan, đơn
vị chủ trì thực hiện phải thuyết minh làm rõ mục tiêu, lợi ích về kinh tế - xã hội và những tác động ảnh hưởng đến các vấn đề khác có liên quan để có căn cứ bố trí kinh phí thực hiện Việc giám sát thực hiện được chú trọng đến công tác giải ngân
để đảm bảo theo đúng kế hoạch, hàng năm có đánh giá kết quả của chương trình, dự
án so với mục tiêu đã đề ra Trường hợp giải ngân chậm hoặc kết quả không đạt được mục tiêu sẽ thực hiện cắt giảm kinh phí, thậm chí dừng thực hiện chương trình, dự án kém hiệu quả Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc thì nếu kiểm soát tốt việc thực hiện các chương trình, dự án như trên, ngoài ý nghĩa tiết kiệm còn chống được tình trạng lãng phí kinh phí NSNN
Ngoài ra, trong tổ chức thực hiện, việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đồng thời có chế tài xử lý triệt để các hành vi vi phạm trong thực hiện quy trình lập, phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN là giải pháp quan trọng cho việc tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí
Trang 31Các giải pháp cụ thể:
Để đạt được mục tiêu tiết kiệm, hiệu quả trong chi NSNN, Hàn Quốc đã có các giải pháp cụ thể như sau:
Một là, đưa tiết kiệm thành chế định pháp lý để đảm bảo tính hiệu quả trong
thực hiện Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể sẽ căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội để đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm khác nhau Cụ thể như trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010, do khủng hoảng tài chính thế giới, bất ổn của nền kinh tế làm cho an ninh tài khóa của Hàn Quốc bị đe dọa, chính sách tiết kiệm tập trung vào rà soát, cắt giảm những chương trình, dự án kém hiệu quả; tăng cường giám sát chi thường xuyên của cơ quan nhà nước, theo đó một số định mức về tiêu chuẩn đi công tác bằng máy bay của các cấp lãnh đạo, việc sử dụng xe
ô tô, chế độ tiếp khách được điều chỉnh thấp hơn so với mức trước đây
Hai là, Bộ Tài chính Hàn Quốc phối hợp với các cơ quan chuyên môn xây
dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định tại Luật Quản lý ngân sách và Các khoản trợ cấp Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cụ thể hoá các định mức, tiêu chuẩn, chế độ để thực hiện tại cơ quan, đơn vị mình Trường hợp chi đúng hoặc dưới định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng vẫn đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ được xem là tiết kiệm; trường hợp chi vượt hoặc chi đúng hoặc dưới định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng không đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ được xem
là lãng phí Đây chính là căn cứ để các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và giám sát việc thực hiện chi tiêu ngân sách
Ba là, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, chấm điểm các hoạt động của cơ quan
nhà nước, theo đó hàng năm sẽ đánh giá, chấm điểm đối với từng chương trình, dự
án để xem xét tính hiệu quả và việc chi tiêu kinh phí NSNN cho các hoạt động
Đối với các dự án lớn, sử dụng nhiều vốn NSNN, sẽ thành lập Ban quản lý
dự án; với những dự án có tính đặc thù về kỹ thuật, công nghệ (công nghệ thông tin, kiến trúc, xây dựng, ) sẽ có những yêu cầu về giám sát việc sử dụng vốn riêng Công tác giám sát việc quản lý, sử dụng NSNN của các dự án này căn cứ vào tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi tiêu, mức chi tiêu trước đó cũng như định mức, tiêu chuẩn, chế độ theo quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Trang 32Bốn là, xây dựng hệ thống kế toán ngân sách thực hiện trên máy tính
(DBAS) cho phép theo dõi quá trình chi tiêu ngân sách của tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách từ trung ương tới địa phương theo thời gian Như vậy, có thể quản
lý chi tiêu ngân sách một cách hiệu quả, trên cơ sở đó đưa ra các phân tích và điều hành chính sách hợp lý, tức thời
Năm là, cơ quan tài chính và cơ quan Kiểm tra và Kiểm toán quốc gia (BAI)
thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thường xuyên, liên tục Với khẩu hiệu
“Kiểm tra, kiểm toán công bằng, xã hội công bằng”, BAI có quyền lực rất lớn trong công tác kiểm tra, kiểm toán không chỉ đối với các khoản chi tiêu ngân sách mà cả đối với các hoạt động của đơn vị sử dụng NSNN Các mô hình toán kinh tế, hệ thống phần mềm quản trị và rất nhiều các kênh thông tin khác nhau, cho phép cơ quan này hoạt động thực sự hiệu quả (riêng trong năm 2011 đã phát hiện và xử lý 1.710 vụ việc vi phạm liên quan đến sử dụng NSNN không hiệu quả, gây lãng phí)
Ngoài ra, việc sử dụng NSNN ở Hàn Quốc còn bị giám sát bởi Uỷ ban Ngân sách của Nghị viện (NABO) Đây là cơ quan có chức năng tư vấn cho Nghị viện trong quá trình xem xét lập dự toán, cung cấp thông tin cho đại biểu Quốc hội để thực hiện giám sát việc sử dụng NSNN Theo quy định của pháp luật, NABO có quyền yêu cầu các thành viên Chính phủ, các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách và chính quyền các địa phương cung cấp thông tin và thực hiện giải trình việc sử dụng NSNN khi có nghi vấn về sự kém hiệu quả, lãng phí trong sử dụng kinh phí NSNN Khi phát hiện có sai phạm hoặc sự bất hợp lý trong dự toán ngân sách và chi tiêu ngân sách, cơ quan này có quyền kiến nghị việc cắt giảm hoặc dừng chi tiêu, đồng thời công khai thông tin cho dân chúng
Mặt khác, vai trò giám sát của người dân cũng được đề cao thông qua quyền
đề xuất các sáng kiến, giải pháp, kiến nghị với các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng NSNN tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí Để thực hiện được điều này, Hàn Quốc có cơ chế khen thưởng rõ ràng đối với những giải pháp được chấp thuận
Sáu là, xử lý nghiêm các vi phạm liên quan đến việc sử dụng NSNN lãng
phí Theo đó, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra vi phạm; tùy theo mức độ vi phạm
có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
Trang 331.2.2.1
Sau 10 năm thực hiện, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 hiện đang được nghiên cứu, sửa đổi để phù hợp hơn với tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới Bài viết đề cập đến một trong những nội dung được quan tâm trong quá trình sửa đổi Luật là vấn đề phân cấp ngân sách giữa Trung ương và địa phương nhằm hướng tới việc phân cấp ngân sách phù hợp để phát huy được tính tự chủ, tính công bằng giữa các địa phương và phân bổ nguồn lực công một cách tối ưu
Những kết quả đạt đƣợc
Một là, phân cấp NSNN đã làm tăng tính chủ động, tích cực của chính quyền
địa phương Chính quyền địa phương (đặc biệt là hội đồng nhân dân cấp tỉnh) đã được phân cấp NS nhiều hơn trong: i) Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương trong phạm vi được phân cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với điều kiện của từng địa phương; ii) Quyết định định mức phân bổ ngân sách, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách trên cơ sở hướng dẫn và khung quy định do Thủ tướng Chính phủ ban hành; iii) Quyết định một số nội dung trong quy trình ngân sách như quyết định phân bổ dự toán, quyết toán NSĐP… Việc quy định thời kỳ ổn định ngân sách từ 3 đến 5 năm, ổn định tỷ lệ phân chia và
số bổ sung cân đối trong thời kỳ ổn định ngân sách, trao quyền vay nợ cho chính quyền địa phương với giới hạn xác định, tăng cường phân
Hai là, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương và xóa đói
giảm nghèo Với việc quy định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi và khoản chuyển giao
từ NSTW cho NSĐP đã giúp các địa phương xác định và cân đối giữa nhu cầu với nguồn lực để thực hiện các ưu tiên đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương Số bổ sung từ NSTW cho NSĐP trong thời gian qua tăng mạnh (số
bổ sung từ NSTW cho NSĐP năm 2011 gấp hơn 4,6 lần so với năm 2004), đặc biệt là các khoản bổ sung có mục tiêu (số bổ sung có mục tiêu năm 2011 gấp 5,2
Trang 34lần so với năm 2004) đã góp phần thực hiện tốt các mục tiêu xóa đói giảm nghèo
ở địa phương
Ba là, góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, từng bước tăng tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình Việc quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách giữa Trung ương và địa phương đã góp phần lập lại trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, xóa bỏ tình trạng địa phương quy định các khoản thu trái với quy định pháp luật Việc trao quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương trong quyết định các vấn đề về ngân sách cũng đòi hỏi địa phương phải tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện ngân sách
Những hạn chế trong phân cấp ngân sách hiện nay
Một là, quyền tự chủ trong quyết định các khoản thu ngân sách của địa
phương bị hạn chế bởi các lý do sau:
Thứ nhất, các nguồn thu được phân chia 100% cho NSĐP thường là những
sắc thuế có hiệu suất thu thấp và không bền vững, chính quyền địa phương bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình ngoài các chính sách thu do Trung ương quy định Trong các nguồn thu hiện nay NSĐP được hưởng 100% thì các khoản thu
từ đất đai chiếm tỷ trọng khá lớn Tuy nhiên, các khoản thu này thường có tính chất thu một lần như thu từ giao quyền sử dụng đất
Thứ hai, địa phương chỉ có quyền quyết định một số loại phí, lệ phí theo
phân cấp của Chính phủ và được quy định mức thu một số loại phí, lệ phí trong khung pháp luật hiện hành quy định Tuy nhiên, nguồn thu từ các loại phí, lệ phí này trên thực tế là rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10% tổng thu NSĐP
Thứ ba, hiện nay khung luật pháp chưa có quy định về thuế địa phương
Toàn bộ các vấn đề về thu thuế nào, mức thuế suất bao nhiêu, cơ sở tính thuế như thế nào… đều do Trung ương quy định Mặt khác, trong những năm gần đây do kinh tế suy giảm, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Chính phủ, Quốc hội đã ban hành các chính sách miễn, giảm, giãn thời hạn nộp một số sắc thuế, khoản thu NSNN gây ảnh hưởng tới nguồn thu của NSĐP trong khi các nhiệm vụ chi không giảm
Trang 35Thứ tư, việc xếp khoản thu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của các đơn
vị hạch toán toàn ngành vào thu NSTW hưởng 100%, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng sản xuất trong nước vào khoản thu phân chia là chưa phù hợp với nguyên tắc đánh thuế và bản chất của các khoản thu này Đối với các khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP thì số thu đang được phân chia giữa Trung ương và địa phương nơi diễn ra hoạt động thu thuế, điều này làm nảy sinh những bất cập về tính công bằng, có lợi cho những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, đặc biệt
là đối với thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế TNDN
Thứ năm, đối với các khoản thu điều tiết và bổ sung, Trung ương có thể thay
đổi sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách và điều này lại làm hạn chế tính chủ động của địa phương Đặc biệt là đối với các tỉnh nhận số bổ sung lớn lại thường là các tỉnh nghèo
Thứ sáu, đối với các khoản vượt thu, chính quyền Trung ương cũng bị ràng
buộc bởi các quy định về tăng tỷ lệ điều tiết sau mỗi thời kỳ ổn định hay quy định sử dụng khoản tăng thu cho các đối tượng chi như chi làm lương, chi đầu tư, chi trả nợ…
Thứ bảy, mặc dù quy định tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có toàn
quyền quyết định việc phân cấp nguồn thu cho chính quyền cấp huyện, xã trong phạm vi được phân cấp nhưng một số nội dung phân cấp thu cụ thể lại được quy định trong Luật NSNN (2002) như: (i) Phân cấp tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất cho ngân sách xã, thị trấn; (ii) phân cấp tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ, không
kể lệ phí trước bạ nhà, đất cho NS thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Thứ tám, việc không quy định cụ thể nguồn thu ở cấp huyện và cấp xã trong
Luật NSNN (2002) mà giao cho chính quyền cấp tỉnh quy định đã tạo cho chính quyền tỉnh có được sự linh hoạt trong điều hành NS, tuy nhiên hạn chế mức độ chắc chắn và khả năng dự đoán trước về nguồn thu ngân sách của cấp huyện và cấp xã
Thứ chín, quy mô thu ngân sách trên địa bàn các tỉnh, thành phố có sự chênh
lệch rất lớn, địa phương có số thu NS năm 2010 cao nhất (TP Hồ Chí Minh) cao hơn 164 lần so với địa phương thấp nhất (Bắc Kạn) Hệ số giữa mức động viên NS
Trang 36bình quân đầu người của địa bàn cao nhất (Bà Rịa - Vũng Tàu) so với địa bàn thấp nhất (Bến Tre) là 59,5 lần, cho thấy năng lực tài khóa giữa các địa phương có sự khác biệt khá lớn
Hai là, phân định nhiệm vụ chi còn bất cập xuất phát bởi các lý do sau:
Thứ nhất, Luật NSNN (2002) cho phép các tỉnh được quyết định phân cấp
nhiệm vụ chi cho các cấp NS trực thuộc (huyện, xã), mặt khác lại phân cấp cụ thể nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng cho thị
xã, thành phố thuộc tỉnh nên đã phần nào hạn chế quyền chủ động của chính quyền cấp tỉnh Đồng thời, việc khống chế các tỷ lệ cứng đối với chi cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ… đã tạo ra sự cứng nhắc và kém linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại các tỉnh
Thứ hai, việc thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách như hiện hành cũng làm
hạn chế nguồn lực của các tỉnh do các tỉnh tăng thu thì được tăng chi trong thời kỳ
ổn định ngân sách (từ 3 đến 5 năm) song qua mỗi thời kỳ ổn định thì tỷ lệ điều tiết
về NSTW bắt buộc phải tăng lên
Thứ ba, phân cấp chi ngân sách chưa gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ
công cộng ở địa phương mà chủ yếu vẫn được phân bổ dựa trên hệ thống tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách theo yếu tố đầu vào, chưa tính đến hiệu quả đầu ra của các nhiệm vụ chi, hiệu quả phân bổ chưa cao, gây thất thoát, lãng phí
Thứ tư, mặc dù Luật NSNN (2002) quy định không được dùng ngân sách của
cấp này để chi nhiệm vụ của cấp khác (trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ) nhưng thực tế nhiều địa còn phải hỗ trợ thêm kinh phí cho các cơ quan Trung ương ở địa phương (cơ quan tư pháp, công an, quân đội) để thực hiện nhiệm
vụ chung trên địa bàn Mặt khác, mức hỗ trợ và đối tượng hỗ trợ giữa các tỉnh khác nhau đã gây áp lực cho NSĐP, đặc biệt là các tỉnh còn phải nhận hỗ trợ từ NSTW
Ba là, tương quan giữa nguồn thu được giữ lại và nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền địa phương còn chưa tương xứng Mặc dù tỷ trọng chi NSĐP trong
tổng chi NSNN đã tăng lên đáng kể từ 47,5% năm 2003 (trước thời điểm thực hiện Luật NSNN (2002)) lên 52,1% năm 2010 (bao gồm cả số bổ sung cân đối) song
Trang 37phần chi đó phần lớn lại được trang trải từ nguồn bổ sung của NSTW Số tỉnh tự cân đối được ngân sách từ nguồn thu được giữ lại cho tỉnh giảm từ 15 tỉnh năm
2005 xuống còn 13 tỉnh năm 2013 Các tỉnh còn lại đều trông chờ vào số bổ sung của NSTW
Bốn là, bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu chưa thu hẹp được bất bình đẳng giữa các địa phương Để đảm bảo công bằng giữa các địa phương, bổ sung
cân đối và bổ sung có mục tiêu đã được sử dụng nhưng quy mô chi ngân sách bình quân đầu người của các địa phương có sự khác biệt rất lớn Hệ số giữa tỉnh có mức chi cao nhất so với tỉnh có mức chi thấp nhất là 5,6 lần và có sự phân bố không đồng đều giữa các địa phương Các nguyên tắc phân bổ, thực hiện các khoản bổ sung có mục tiêu tuy đã được ban hành và hoàn thiện, song nhìn chung vẫn còn cơ chế “xin-cho” Nhiều địa phương chưa chủ động trong việc thu hút nguồn lực để đầu tư, vẫn phụ thuộc nhiều vào các khoản bổ sung mục tiêu để thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn
Năm là, bất cập trong phân cấp vay nợ đối với chính quyền địa phương
Quan hệ về nợ giữa chính quyền Trung ương và địa phương còn chưa rõ, chưa có quy định hay chế tài cụ thể đối với trường hợp địa phương không có khả năng trả
nợ Việc xác định giới hạn vay nợ dựa vào tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) trong nước hàng năm cũng bộc lộ nhiều bất cập do tổng vốn đầu tư XDCB không ổn định, phụ thuộc vào nguồn thu hàng năm của tỉnh cũng như sự biến động của thị trường bất động sản (các khoản thu từ đất) Việc quy định tỷ lệ đồng nhất về giới hạn nợ của địa phương (trừ Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) nhìn chung chưa phù hợp Giới hạn vay nợ của địa phương nên được gắn với các chỉ số phản ánh khả năng thực hiện nghĩa vụ nợ của địa phương, ví dụ như quy mô thu ngân sách Việc các tỉnh thành lập các quỹ đầu tư phát triển địa phương hay các công ty tài chính nhà nước nhằm huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển là phù hợp với thực
tế, tuy nhiên đòi hỏi việc quản lý và sử dụng quỹ phải hiệu quả bởi đây là các tổ chức tài chính nhà nước của địa phương, nếu không được kiểm soát, tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ là có thể xảy ra
Trang 381.2.2.2
Đầm Hà là một huyện nghèo, kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, với đặc điểm là huyện có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng như tài nguyên rừng, tài nguyên biển… và nguồn nhân lực dồi dào, là điều kiện tốt để huyện Đầm
Hà phát triển về các ngành nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp và dịch vụ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 03 năm là 10,66%, trong đó năm 2011 là 13,6%
* Về lập dự toán
Thứ nhất, dự toán các xã lập gửi cơ quan tài chính trước khi thảo luận dự
toán chưa sát với thực tế Dự toán thu lập chưa hết các khoản thu (thấp hơn thực tế)
Dự toán chi lập cao hơn so với định mức được giao Ví dụ như định mức chi hoạt động thường xuyên của các đơn vị lập cao hơn định mức của tỉnh giao Từ đó
số trợ cấp các xã đề nghị cao hơn số trợ cấp mà tỉnh thông báo cho huyện
Thứ hai, dự toán do UBND huyện giao cho các xã thường chậm hơn so với
quy định (theo quy định chậm nhất ngày 31/12 năm trước), do các kỳ họp HĐND
xã thường diễn ra vào cuối năm ngân sách Để có số liệu trình HĐND xã, UBND xã trình HĐND xã phê chuẩn dự toán trước khi có Quyết định của huyện giao; dẫn đến
số dự toán UBND các xã trình HĐND xã chưa sát với nhiệm vụ được giao, như số thu trợ cấp do ngân sách huyện bổ sung cao hơn số chính thức được giao Do vậy Nghị quyết của HĐND xã về phê chuẩn dự toán thường bị chênh lệch so với số thẩm định dự toán của Phòng Tài chính - Kế hoạch gửi Kho bạc Nhà nước
Thứ ba, theo quy định dự toán của các xã lập trước khi gửi Kho bạc Nhà
nước phải do phòng Tài chính - Kế hoạch thẩm tra, trong quá trình thẩm định dự toán cho các xã còn bộc lộ tồn tại đó là các xã lập dự toán thu thường xuyên cao hơn so với số thu thực tế được giao, tương ứng với số thu các xã lập dự toán chi thường xuyên; nếu quá trình kiểm soát chi không chặt chẽ Kho bạc Nhà nước cho thanh toán theo yêu cầu chi của xã, kết thúc năm thường bị xâm tiêu vào các nguồn
để chi có tính chất đầu tư, nguồn trợ cấp dành để chi các sự nghiệp kinh tế như duy
tu sửa chữa, sự nghiệp tài nguyên môi trường v.v Bởi, Kho bạc Nhà nước chỉ theo dõi được tổng số thu và tổng số chi của từng xã, không theo dõi cân đối được từng
Trang 39nguồn Nguyên nhân chính ở đây là do các xã lập dự toán không sát với tình hình thực tế của địa phương, không bám sát vào tiêu chuẩn định mức hiện hành; Mặt khác theo quy định của Luật NSNN, trong quá trình điều hành ngân sách nếu nguồn thu không đảm bảo theo dự toán chủ tài khoản phải giảm chi tương ứng với số thu, nhưng do tính chất nguồn thu theo mùa vụ, các xã không lường hết những rủi ro trong quá trình tổ chức thu, trong nhiệm vụ chi thường xuyên diễn ra
* Về điều hành ngân sách
Thứ nhất, việc giao dự toán cho các xã chưa thực sự sát với tình hình thực tế
do vậy trong năm còn phải bổ sung dự toán cho các xã (nguồn thu của các xã thừa nhiều không điều chuyển sang cho các xã bị hụt thu, trong khi đó ngân sách huyện vẫn phải bổ sung cho xã bị mất cân đối do không đảm bảo kinh phí chi hoạt động)
Thứ hai, các xã còn coi nhẹ nguồn thu có tỷ trọng nhỏ như thu phí, lệ phí
nguồn thu này thường bỏ sót Công tác phối kết hợp với các ngành liên quan trong việc tổ chức thu ở các xã chưa chặt chẽ, các xã thường không quan tâm đến nguồn thu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn, coi đây là nhiệm vụ của ngành thuế từ
đó còn bỏ sót nguồn thu, để các đơn vị trốn thuế, gian lận thuế Việc xử lý các đơn
vị trốn thuế chưa nghiêm từ đó dẫn đến nguồn thu thuế khai thác chưa triệt để
Thứ ba, nguồn thu thuế trên địa bàn chủ yếu là thu từ các doanh nghiệp của
tỉnh quản lý (từ năm 2008 được phân cấp về cho ngân sách huyện và Ngân sách xã) nhưng cơ quan quản lý các đơn vị này lại do Cục thuế quản lý, công tác phối hợp của ngành thuế chưa chặt chẽ, cho nên gặp khó khăn trong quá trình tổ chức đôn đốc thu và trong công tác thanh tra, kiểm tra
Thứ tư, điều hành chi ngân sách của chính quyền xã chưa tuân thủ đúng
nguyên tắc chế độ định mức chi Chi cho quản lý hành chính thường tăng so với dự toán
Thứ năm, điều hành chi đầu tư XDCB còn yếu, kết thúc năm còn để kết dư
ngân sách nhiều làm lãng phí Nguyên nhân là do các xã chưa chủ động điều hành trong lĩnh vực XDCB, triển khai công trình chậm, hồ sơ quyết toán chưa hoàn thiện theo quy định dẫn đến không thanh toán được Tình trạng công nợ trong xây dựng
cơ bản còn nhiều nhất là các xã nội lực không có nguồn thu để đầu tư xây dựng
Trang 40Nguyên nhân do các xã triển khai công trình không căn cứ vào nguồn thu của xã, Nhà nước có các chương trình triển khai như chương trình kiên cố hóa trường học, kiên cố hóa kênh mương, xây trụ sở các xã yêu cầu xã có vốn đối ứng song ngân sách cấp trên hỗ trợ chưa đáp ứng yêu cầu Các công trình công cộng xuống cấp chưa có nguồn đầu tư, công tác xã hội hóa còn yếu chưa kêu gọi được các tổ chức
cá nhân vào đầu tư
* Về đội ngũ cán bộ
Thứ nhất, chế độ chính sách cho cán bộ công chức, chuyên trách ở xã còn
thấp UBND tỉnh quy định chế độ cho cán bộ không chuyên trách còn thấp, đối tượng còn nhiều
Thứ hai, trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ chuyên trách, công
chức xã còn yếu chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ
Thứ ba, công tác cải cách hành chính còn chậm, các văn bản hướng dẫn còn
chồng chéo, định mức chi giao cho cấp xã còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ chi, việc quan tâm đến các xã khó khăn, các xã vùng trọng điểm còn hạn chế
Thứ tư, Ban Tài chính các xã lập quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm
theo biểu mẫu quy định trình HĐND xã phê chuẩn đồng thời gửi phòng Tài chính -
Kế hoạch huyện để tổng hợp, thời gian gửi chậm nhất trong tháng 2 năm sau, song việc lập báo cáo quyết toán thường kéo dài hết tháng 6 do liên quan đến kỳ họp của HĐND xã (HĐND xã họp mỗi năm 2 kỳ thường vào tháng 1 và tháng 7) Quyết toán chi không được lớn hơn quyết toán thu, số chênh lệch thu lớn hơn chi (sau khi
đã làm thủ tục chi chuyển nguồn theo quy định) là số kế dư ngân sách, số kết dư ngân sách năm trước chuyển thành số thu năm sau Số thu kết dư ngân sách hàng năm chiếm khoảng 10-15% trong tổng thu NSX, đây cũng thể hiện việc điều hành chi ngân sách chưa tốt
cấp xã trên địa bàn huyện Đầ
* Nguyên nhân khách quan:
Việc ban hành chế độ chính sách của Nhà nước thường chậm so với yêu cầu, còn nhiều qu ất hợp lý, thiếu tính đồng bộ, chưa phù hợp với tình hình thực