1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

con người phận vị và con người hưởng lạc trong sáng tác của nguyễn công trứ

111 749 5

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Con Người Phận Vị Và Con Người Hưởng Lạc Trong Sáng Tác Của Nguyễn Công Trứ
Tác giả Lê Thị Bích Ngọc
Người hướng dẫn PGS. TS Lê Thu Yến
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Văn Học Việt Nam
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Văn Học
Năm xuất bản 2012
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 111
Dung lượng 711,17 KB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • LỜI CÁM ƠN

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lí do chọn đề tài

    • 2. Lịch sử vấn đề

    • 3. Mục đích nghiên cứu

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

    • 6. Cấu trúc luận văn

    • 7. Đóng góp của luận văn

  • Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO

    • 1.1. Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam

      • 1.1.1 Những nội dung chính của Nho giáo

      • 1.1.2. Sơ lược về Nho giáo ở Việt Nam

      • 1.1.3. Nho giáo với văn học trung đại Việt Nam

    • 1.2. Đạo giáo và đạo giáo ở Việt Nam

      • 1.2.1. Những nội dung chính của Đạo giáo

      • 1.2.2. Sơ lược về Đạo giáo ở Việt Nam

      • 1.2.3 Đạo giáo với văn học trung đại Việt Nam

  • Chương 2 - HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI PHẬN VỊ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

    • 2.1. Con người văn võ toàn tài

    • 2.2. Con người với lý tưởng nhập thế

    • 2.3. Con người “trung quân”

  • Chương 3 - HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI HƯỞNG LẠC TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

    • 3.1. Con người đa tình

    • 3.2. Con người rong chơi

      • 3.2.1. Nhân sinh quí thích chí

      • 3.2.2 Con người với những thú chơi tao nhã

      • 3.2.3 Con người với thú chơi trần tục

      • 3.2.4. Con người tìm về với thiên nhiên

      • 3.2.5. Con người nhàn tản

    • 3.3. Con người “công thành thân thoái”

    • 3.4. Con người “an bần lạc đạo”

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

L Í DO CHọN Đề TÀI

Văn học Việt Nam thời kỳ trung đại kéo dài suốt 10 thế kỷ, được chia thành bốn giai đoạn chính, trong đó giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX nổi bật với sự phát triển rực rỡ về cả chất lượng lẫn số lượng tác phẩm và tác giả Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của nhiều kiệt tác và tác giả lớn, trong đó Nguyễn Công Trứ nổi bật với phong cách thơ độc đáo, góp phần làm phong phú thêm di sản văn học Việt Nam.

Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ nổi bật với hồn thơ phóng khoáng và kiêu hãnh, để lại khoảng 150 bài thơ có giá trị vượt thời gian Sự quan tâm và nghiên cứu về thơ văn của ông từ năm 1928 đến nay cho thấy sức hấp dẫn mạnh mẽ và vị trí quan trọng của ông trong nền văn học dân tộc Thơ văn của Nguyễn Công Trứ đã mang đến nhiều điều mới mẻ cho thi đàn văn học Việt Nam, được ví như sợi dây vũ cường tráng, làm phong phú thêm âm sắc văn chương đất nước.

Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ đã thu hút sự chú ý từ nhiều góc độ và lý thuyết khác nhau, như đạo đức, chủ nghĩa duy vật biện chứng, và tư tưởng Nho giáo Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu sâu về tư tưởng chí nam nhi và tư tưởng hưởng lạc trong thơ ông, đồng thời khai thác khía cạnh con người trong tác phẩm Thể tài hát nói của ông cũng được đánh giá cao về nghệ thuật và nội dung Tuy nhiên, hình tượng con người trong thơ Nguyễn Công Trứ vẫn chưa được đề cập một cách hệ thống và đầy đủ Hình tượng này, với hai khía cạnh chính là con người phận vị và con người hưởng lạc, phản ánh tư tưởng và triết lý sống độc đáo của nhà thơ Qua việc nghiên cứu hai hình tượng này, người viết khẳng định giá trị đặc sắc trong thơ của Nguyễn Công Trứ.

L ịCH Sử VấN Đề

Nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ và tác phẩm thơ văn của ông đã bắt đầu từ những năm 1920 và đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc Các nhà nghiên cứu hiện nay chú trọng khai thác nhiều khía cạnh khác nhau về con người cũng như sự nghiệp văn chương của ông.

- Nghiên cứu Nguyễn Công Trứ với tư cách một nhân vật lịch sử

- Nghiên cứu Nguyễn Công Trứ với tư cách một nhà thơ

- Nghiên cứu Nguyễn Công Trứ với tư cách một cá nhân văn hóa

Nguyễn Công Trứ, một nhân vật lịch sử quan trọng trong thế kỷ XIX, đã được ghi chép nhiều trong Đại Nam thực lục và Đại Nam chính biên liệt truyện Từ đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu văn học và lịch sử đã tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của ông, nêu bật cả những ưu điểm lẫn hạn chế trong các hoạt động vì dân vì nước của ông Tuy nhiên, từ những năm 80 của thế kỷ XX, cái nhìn về triều đại nhà Nguyễn và Nguyễn Công Trứ đã trở nên khách quan và chính xác hơn nhờ vào các nghiên cứu lịch sử sâu sắc.

Vũ Ngọc Khánh, một danh nhân văn hóa, đã đánh giá Nguyễn Công Trứ là “một cá nhân văn hóa rõ rệt”, khẳng định ông xứng đáng được công nhận là một danh nhân trong lịch sử dân tộc.

Nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã được nghiên cứu từ những năm 1920, bắt đầu với tác phẩm “Nam thi hợp tuyển” của Nguyễn Văn Ngọc (1927) và “Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ” của Lê Thước (1928) Đến nay, số lượng bài viết và công trình nghiên cứu về thơ văn của ông đã tăng lên đáng kể, với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau Tác phẩm của ông nhận được cả lời khen ngợi lẫn chỉ trích, thể hiện sự đa dạng trong đánh giá về giá trị nghệ thuật của ông.

Các nghiên cứu về thơ Nguyễn Công Trứ chủ yếu phân tích tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm của ông, đồng thời đánh giá vị trí của ông trong văn học dân tộc Tư tưởng trong thơ của Nguyễn Công Trứ rất phức tạp và gây ra nhiều tranh cãi, chủ yếu xoay quanh hai vấn đề chính: tư tưởng chí nam nhi và tư tưởng hành lạc.

Tư tưởng chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ từng bị phê phán nghiêm khắc, cho rằng động lực chủ yếu trong cuộc sống của ông là mong muốn khẳng định bản thân và trở thành một anh hùng, với mục tiêu cuối cùng là đạt được danh vọng.

Nguyễn Công Trứ, một kẻ sĩ nổi bật, đã thể hiện rõ tư tưởng danh lợi và ý thức bản ngã mạnh mẽ, điều này đã được ghi nhận bởi nhiều nhà nghiên cứu Tuy nhiên, ngày nay, cái nhìn về ông đã thay đổi Nguyễn Khoa Điềm nhận định rằng tư tưởng của Nguyễn Công Trứ mang tính tích cực và là nguồn cảm hứng cho giới trẻ, với khát vọng dân giàu nước mạnh và sự cống hiến cá nhân Ông đã góp phần tạo ra một bầu không khí văn hóa Việt Nam đầy rung cảm và khát vọng, phản ánh những mong muốn sâu sắc của nhân dân qua hàng ngàn năm lịch sử Một số người còn coi ông như một nhà hiền triết với triết lý sống của con người cá nhân.

Tư tưởng hành lạc trong thơ văn Nguyễn Công Trứ gây ra nhiều tranh cãi, bởi bên cạnh những thú chơi tao nhã như cầm kì thi họa, ông còn thể hiện những thú chơi phi truyền thống có yếu tố sắc dục, điều mà đạo đức Nho giáo cấm kỵ Các nhà nghiên cứu có những băn khoăn khi đánh giá tác phẩm của ông Nguyễn Bách Khoa cho rằng quan niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ là một "lợi khí chiến đấu", phản ánh sự phân biệt giữa đẳng cấp sĩ phiệt và giai cấp phú hộ Ngược lại, Nguyễn Viết Ngoạn lại nhìn nhận đây là quan niệm sống mang giá trị nhân sinh cao đẹp.

Thơ văn của Nguyễn Công Trứ được đánh giá cao, đặc biệt ở thể hát nói, với phong cách bình dân và sự gần gũi trong ngôn ngữ Trương Chính nhận xét rằng thơ Nôm của ông sử dụng tiếng nói của nhân dân, tích cực áp dụng tục ngữ, ca dao và tiếng địa phương, nhằm tạo ra cách diễn đạt sinh động, dễ đi vào lòng người.

Nghiên cứu về hình tượng con người trong thơ Nguyễn Công Trứ vẫn chưa có công trình độc lập nào Dù vậy, các tác giả trong những bài nghiên cứu của mình đã đề cập đến vấn đề này một cách nhất định.

Phận vị con người trong thơ Nguyễn Công Trứ nhận được nhiều ý kiến trái ngược Theo lập trường Nho giáo, ông được xem là một “kẻ sĩ hoàn danh” đáng trân trọng, thể hiện chí khí tích cực trong việc lo cho dân, cho nước Hà Văn Tấn nhận định rằng “suốt đời thương dân, lo nước”, Nguyễn Công Trứ đã cống hiến hết tài năng và nghị lực cho đất nước Triết lý của ông là dấn thân vì lý tưởng và sự nghiệp, khác với các nhà Nho trước đây thường có tư tưởng dung thân hoặc ở ẩn khi gặp khó khăn Vũ Ngọc Khánh nhấn mạnh rằng Nguyễn Công Trứ không bao giờ chọn con đường dung thân, mà luôn tích cực tham gia vào đời sống xã hội.

Nguyễn Khắc Hoạch nhận định rằng Nguyễn Công Trứ là người gần gũi với dân, luôn chia sẻ khó khăn với nhân dân và có tâm niệm "một mình để vì dân vì nước", thể hiện tinh thần phục vụ cao cả của kẻ sĩ.

Khiêm Đạt và Nguyễn Minh nhận thấy nỗ lực của Nguyễn Công Trứ trong việc thực hiện nghĩa vụ với vua và nước, thể hiện qua câu nói “Vua ấy, tôi ấy, cho nên dù bao nhiêu gian lao, cực khổ, ông vẫn dốc chí hoạt động cho trọn đạo ‘vi tử, vi thần’” Dù trải qua nhiều gian khổ và bị gièm pha, ông vẫn tận tâm giúp nước Phạm Thế Ngũ đánh giá cao quan niệm của Nguyễn Công Trứ về trách nhiệm với vua và dân, cho rằng ông nhìn xa hơn chữ trung một cách máy móc Để thực hiện phận vị, Nguyễn Công Trứ đã đề ra chương trình hành động cụ thể và xuất sắc, không chỉ hoàn thành nhiệm vụ mà còn tạo dựng sự nghiệp lẫy lừng, xứng đáng với danh hiệu nhà quân sự, chính trị và thơ lớn của dân tộc Tuy nhiên, từ lập trường giai cấp, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ trích ông vì tuân theo chữ Trung một cách cứng nhắc, phân chia các hành động của ông thành hai loại: có lợi cho dân như khai khẩn đất hoang và có hại như đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.

Khổng giáo là một hệ tư tưởng không thể phê phán, nhưng cũng cần nhìn nhận rằng các nhà nho yêu nước, anh hùng liệt sĩ thời Trần và Lê đã chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược phương Bắc Trong khi đó, Khổng giáo lại hướng mũi giáo vào những nông dân nghèo khổ, đấu tranh với tham quan, địa chủ và cường hào, điều này tạo ra sự mâu thuẫn trong tư tưởng của ông.

(Trương Chính)[61, 364 ] Nguyễn Nghiệp phê phán gay gắt hơn “Nguyễn Công

Nguyễn Công Trứ, mặc dù có tài năng, nhưng vẫn là người của giai cấp thống trị và chưa bao giờ đứng về phía nhân dân, thậm chí còn tham gia đàn áp các cuộc khởi nghĩa Ông bị giới hạn bởi tư tưởng “quân thần phụ tử” của Nho giáo, điều này thể hiện rõ trong thơ ca của ông với những yếu tố tôn quan, cá nhân cô độc và những sắc thái tiêu cực Theo Nguyễn Quang Phan và Nguyễn Danh Phiệt, động lực lớn lao của Nguyễn Công Trứ trong việc xây dựng sự nghiệp là mong muốn “thành danh”, và việc làm quan cho triều Nguyễn là điều kiện để đạt được điều đó Cái tôi của ông luôn là trung tâm, và để chứng tỏ tài năng kinh tế, ông phải tuân thủ nghiêm ngặt các trách nhiệm của một quan chức Khi hoàn thành công việc, ông nhận được sự ngưỡng mộ từ dân và sự công nhận từ vua, điều này khiến ông cảm thấy thỏa mãn.

M ỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Bài viết này khảo sát hình tượng con người trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, tập trung vào hai hình tượng nổi bật: con người hưởng lạc và con người phận vị Qua đó, tác giả làm nổi bật tư tưởng và giá trị nhân sinh trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ.

Đ ỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong luận văn này, người viết chỉ tập trung làm rõ vấn đề sau:

Khảo sát hình tượng con người với hai hình tượng chính: con người phận vị và con người hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ.

N GUồN TƯ LIệU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CứU

Nguồn tư liệu về thơ Nguyễn Công Trứ chủ yếu được thu thập từ các công trình nghiên cứu của Trương Chính, Lê Thước và Hoàng Ngọc Phách.

Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính – Lê Thước – Hoàng Ngọc Phách biên soạn, NXB Văn Hóa, 1983

Ngoài ra người viết có tham khảo thêm tư liệu lịch sử, lí luận văn học, các bài nghiên cứu có liên quan

Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp hệ thống giúp phân tích và đánh giá các sáng tác của Nguyễn Công Trứ trong bối cảnh hình tượng con người trong thơ văn trung đại Việt Nam Qua đó, có thể nhận diện và làm nổi bật những đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật và tư tưởng của ông, từ đó khẳng định vị trí của Nguyễn Công Trứ trong nền văn học dân tộc.

13đặc trưng riêng của thơ ông trong văn học dân tộc Nhờ đó, vấn đề nghiên cứu sẽ được soi sáng tường tận hơn

Phương pháp thống kê trong nghiên cứu thơ Nguyễn Công Trứ giúp phân tích tần suất xuất hiện của các hình tượng con người trong các bài thơ và câu thơ của ông Bằng cách thống kê, chúng ta có thể nhận diện và đánh giá mức độ phổ biến của từng hình tượng, từ đó hiểu rõ hơn về phong cách sáng tác và ý nghĩa mà tác giả muốn truyền tải.

Phương pháp phân tích được sử dụng liên tục trong luận văn để minh họa rõ nét những đặc trưng nghệ thuật và nội dung tư tưởng trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ Điều này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho những nhận định tổng quát về từng hình tượng con người trong tác phẩm của ông.

Phương pháp tổng hợp là quá trình tổng hợp các phân tích cụ thể để đưa ra những nhận định tổng quát và tập trung, nhằm làm rõ hơn cho luận điểm cần chứng minh.

C ấU TRÚC LUậN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn sẽ gồm có

3 chương với những vấn đề như sau:

Chương 1: Nho giáo và Đạo giáo với văn học Trung đại Việt Nam

1.1 Nho giáo và Nho giáo với văn học trung đại Việt Nam

1.1.1 Những nội dung chính của Nho giáo

1.1.2 Sơ lược về Nho giáo ở Việt Nam

1.1.3 Nho giáo với văn học trung đại Việt Nam

1.2 Đạo giáo và Đạo giáo với văn học trung đại Việt Nam

1.2.1 Những nội dung chính của Đạo giáo

1.2.2 Sơ lược về Đạo giáo ở Việt Nam

1.2.3 Đạo giáo với văn học trung đại Việt Nam

Chương 2: Con người phận vị trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ

2.1 Con người văn võ toàn tài

2.2 Con người với lý tưởng nhập thế

Chương 3: Con người hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ

3.2.1 Nhân sinh quí thích chí

3.2.2 Con người với thú chơi tao nhã

3.2.3 Con người với thú chơi trần thế

3.2.4 Con người tìm về với thiên nhiên

3.3 Con người “công thành thân thoái”

3.4 Con người “an bần lạc đạo”

Đ ÓNG GÓP CủA LUậN VĂN

Hình tượng con người là trung tâm trong tác phẩm văn học, nơi nhà văn truyền tải thông điệp về cuộc sống và con người Để hiểu rõ ý nghĩa của tác phẩm, người đọc cần khám phá hình tượng văn học Luận văn này nghiên cứu hai hình tượng con người phận vị và con người hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, một vấn đề đã được nghiên cứu nhưng chưa được phân tích một cách hệ thống Tác giả tập trung vào hai hình tượng này nhằm làm nổi bật sự độc đáo của chúng và qua đó, hiểu thêm giá trị nhân văn trong thơ ca của Nguyễn Công Trứ, đồng thời đóng góp ý kiến cho nghiên cứu về tác phẩm của ông.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO

N HO GIÁO VÀ N HO GIÁO ở V IệT N AM

1.1.1 Những nội dung chính của Nho giáo

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ

VI TCN và có ảnh hưởng sâu đậm đến nền chính trị của Trung Quốc và các nước lân cận suốt hơn 2000 năm

Nho giáo ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, khi đất nước rơi vào loạn lạc và đạo đức suy thoái Trong thời kỳ này, người dân chỉ chăm chăm vào công danh, quên đi nhân nghĩa, dẫn đến nỗi khổ sở cho dân chúng Khổng Tử đã tổng hợp những đạo lý của các thánh nhân trước đó để xây dựng học thuyết Nho giáo, nhằm mục đích tạo ra sự ổn định và trật tự cho xã hội.

Tư tưởng của Khổng Tử chủ yếu được thể hiện qua tác phẩm Luận ngữ, nơi ghi chép lại những lời giảng của ông do học trò thực hiện Bên cạnh đó, tư tưởng Nho giáo còn được phản ánh trong các tác phẩm quan trọng khác như Ngũ kinh: Thi, Thư, Dịch, Lễ, và Xuân Thu.

Truyện Truyện là sách để truyền kinh, thuyết minh nội dung và tinh thần, tư tưởng của các kinh

Khổng Tử có quan điểm riêng về vũ trụ quan, mặc dù ông chỉ đề cập đến nó trong Luận ngữ Trong 19 lần nhắc đến chữ “thiên”, có 3 lần chỉ về trời tự nhiên, còn lại đều mang nghĩa thần nhân cách Đối với Khổng Tử, “thiên” là một vị thần nhân cách, chủ tể của muôn loài, thể hiện sự tin tưởng và kính trọng đối với trời Ông không thảo luận về quỷ thần, nhưng luôn thực hiện các nghi lễ tế tự một cách nghiêm túc.

Thiên mệnh, hay mệnh lệnh của trời, được hiểu là sự chi phối của trời đối với mọi biến đổi trong vũ trụ Đạo Nho xác định bốn điểm cốt lõi của thuyết thiên mệnh: nhận biết, chờ đợi, phối hợp và tôn trọng mệnh trời Khổng Tử nhấn mạnh rằng không biết mệnh trời thì không phải là quân tử Trong Luận ngữ, "mệnh" có ba nghĩa: đầu tiên, nó biểu thị một cấu trúc xã hội đã được an bài; thứ hai, nó chỉ những điều không thể hiểu trong cuộc sống, nơi con người nỗ lực nhưng không kiểm soát được kết quả; và thứ ba, nó phản ánh một thái độ tiêu cực, hoàn toàn để hoàn cảnh chi phối mà không hành động.

Khổng Tử đã xây dựng tư tưởng dựa trên chế độ chính trị, xã hội, pháp điển, lễ nhạc và giáo dục của triều đại Chu, được thiết lập bởi Chu Công sau khi điều chỉnh các lễ nghi từ các triều đại Hạ và Ân.

Khổng Tử mặc dù có tư tưởng bảo thủ, nhưng ông cũng thực hiện những sửa đổi và cải cách phù hợp với thời đại Ông nhấn mạnh rằng nhà cầm quyền cần tuân theo các quy định đã có, đồng thời phải linh hoạt thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới Điều này bao gồm việc tránh cực đoan và hành động một cách vừa phải, không thái quá cũng không bất cập Từ đó, ông đề cao đức tính “trung dung” trong quản lý và lãnh đạo.

Khổng Tử đề ra thuyết chính danh với quan niệm rằng mỗi người cần thực hiện đúng vai trò của mình trong xã hội, từ vua đến tôi tớ Ông nhấn mạnh rằng để đạt được “chính danh”, con người phải có tư cách và lời nói phù hợp Nếu danh không chính, lời nói sẽ không rõ ràng, dẫn đến việc không thành công và gây rối loạn trong lễ nhạc và hình phạt Người quân tử cần phải nói và làm đúng với danh phận của mình, không thể cẩu thả trong lời nói.

Khổng Tử nhấn mạnh việc cai trị bằng đức, coi trọng tư cách và bổn phận của người cầm quyền Ông cho rằng nhà cầm quyền cần tự tu dưỡng, làm gương cho dân và giáo dục nhân dân Quan điểm của ông là không tách rời đạo đức khỏi chính trị, mà cần gắn kết chặt chẽ giữa hai yếu tố này.

Quan niệm chính trị của Khổng Tử nhấn mạnh rằng người lãnh đạo cần phải có đức và thực hiện quyền lực bằng đức Ông cho rằng việc làm chính trị cần phải dựa vào đức hạnh để cảm hóa dân chúng, giống như sao Bắc Đẩu dẫn dắt các ngôi sao khác Khổng Tử cũng đề cao gương sáng của các thánh nhân như vua Nghiêu và vua Thuấn, những người có sự nghiệp vĩ đại nhưng không cần dân khen ngợi, bởi vì lễ nhạc và chế độ của họ rất rực rỡ.

Khổng Tử nhấn mạnh rằng người lãnh đạo cần phải tự tu dưỡng và học hỏi để có thể trị dân hiệu quả Vua cần sở hữu những đức tính của người bình thường cũng như phẩm hạnh của một người lãnh đạo để giáo hóa dân chúng Ông cho rằng "đức hạnh của người quân tử như gió, còn đức của dân như cỏ; gió thổi thì cỏ rạp xuống" Khi Tử Trương hỏi về cách gánh vác việc nước, Khổng Tử khuyên rằng cần phải trọng năm điều tốt và loại bỏ bốn điều xấu Năm điều tốt bao gồm: ban ân huệ cho dân mà không hao tổn, khuyến khích dân làm việc khó nhọc mà không oán trách, có lòng muốn mà không tham lam, thư thái nhưng không kiêu ngạo, uy nghiêm nhưng không dữ tợn Ngược lại, bốn điều xấu cần tránh là: không giáo dục dân dẫn đến phạm tội rồi xử phạt, không có sự chỉ bảo trước mà chỉ mong có thành tích, ra lệnh mà không thông báo cấp bách rồi yêu cầu hoàn thành gấp, và so đo, bủn xỉn với dân, thể hiện tính nhỏ nhen của một viên chức thấp.

Xã hội lý tưởng của Khổng Tử là một xã hội phong kiến theo điển chế nhà Chu, với tôn ti trật tự rõ ràng từ thiên tử đến các chư hầu và người dân, mỗi người đều có quyền lợi và nhiệm vụ riêng Trong xã hội này, mọi người sống hòa hợp, giúp đỡ lẫn nhau và giữ chữ tín, đồng thời không xâm phạm quyền lợi của người khác Gia đình được coi là nền tảng, với sự đề cao hiếu đễ và lễ nghĩa.

Đạo làm người là một trong những giá trị cốt lõi mà Khổng Tử nhấn mạnh, tập trung vào việc rèn luyện đạo đức con người Ông đã đề xuất nhiều tiêu chuẩn đạo đức để mọi người thực hiện, trong đó đức nhân được coi là quan trọng nhất Mặc dù Khổng Tử không xác định rõ ràng khái niệm "nhân", nhưng nội dung của nó được thể hiện qua các câu trả lời của học trò ông.

“Nhân” khái quát thành những nội dung chính sau:

Nhân là trung thứ, có nghĩa là nếu bạn không muốn điều gì, đừng làm điều đó cho người khác Câu nói "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" trong Luận ngữ nhấn mạnh rằng chúng ta nên tránh làm tổn thương người khác bằng những điều mình không thích Đồng thời, "trung" còn thể hiện rằng nếu bạn mong muốn đạt được điều gì, hãy giúp người khác cũng đạt được điều đó Hãy thực hiện những gì bạn mong muốn cho bản thân và cho người khác, như câu "kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt" khẳng định.

Trong Luận ngữ, câu nói “nhân” (VI, 28) nhấn mạnh rằng “trung thứ” không chỉ là đạo lý đối với người khác mà còn là đạo lý đối với chính bản thân mình Để có thể giúp đỡ người khác lập thân và thành công, trước hết, mỗi cá nhân cần phải tự lập và đạt được thành công cho chính mình.

Nhân không chỉ là tu thân mà còn là ái nhân; theo Khổng Tử, nhân là trung tâm của đạo đức Từ đức nhân, các đức khác phát sinh và cũng quy tụ về nó.

Đ ạO GIÁO VÀ ĐạO GIÁO ở V IệT N AM

1.2.1 Những nội dung chính của Đạo giáo

Tư tưởng triết học Đạo giáo chủ yếu được thể hiện qua học thuyết của Lão Tử trong tác phẩm Đạo đức kinh và của Trang Tử trong tác phẩm Nam hoa kinh.

1.2.1.1 Tư tưởng triết học của Lão Tử

Theo Lão Tử, Đạo là nguyên lý tuyệt đối của vũ trụ, không sinh không diệt, không tăng không giảm Đạo được hiểu qua hai khía cạnh: vô (nguyên lý vô hình của trời đất) và hữu (nguyên lý hữu hình, là nguồn gốc sinh ra vạn vật) Đạo hoàn toàn siêu hình và không thể nhận biết.

Đạo vô hình, do đó, để đạt được Đạo, con người không thể chỉ dựa vào lý trí mà cần có sự hiểu biết sâu sắc Chỉ khi tự mình thực hành Đạo, con người mới có thể thực sự đạt được nó.

Theo Lão Tử, Đạo là nguồn gốc của vạn vật, là mẹ của muôn loài, thể hiện qua câu nói: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.” Vạn vật tồn tại trong sự hòa quyện giữa âm và dương, trong đó âm đại diện cho hình hài, còn dương biểu trưng cho tinh thần và năng lượng sống.

Theo Lão Tử có hai thế giới: thế giới Đạo (vô) và thế giới vạn vật (hữu)

Thế giới Vô tức Đạo mang tính vĩnh cửu, nơi Đạo vận động theo quy luật tuần hoàn Đạo tự chuyển từ vô sang hữu, từ Đạo đến vạn vật Quy luật này thể hiện hành trình bất biến từ vô sang hữu và ngược lại, cho thấy rằng Đạo càng xa thì càng trở về.

Thế giới Hữu, bao gồm trời, đất, con người và vạn vật, không tồn tại vĩnh viễn và luôn chứa đựng những đối lập như thiện/ác, nắng/mưa, dễ/khó Mọi sự vật và trạng thái đều thay đổi, và sự thay đổi này dẫn đến sự xuất hiện của cái đối lập Sự tồn tại của một điều kiện cần có sự hiện diện của cái đối lập; có tốt thì mới có cái không tốt, có đẹp thì mới có cái xấu Những khái niệm như có và không, dễ và khó, ngắn và dài luôn liên kết chặt chẽ với nhau Hai đối lập không chỉ tồn tại song song mà còn có khả năng chuyển hóa lẫn nhau; phúc và họa, ví dụ, luôn gắn bó với nhau Khi một vật đạt đến đỉnh cao, sự chuyển hóa này sẽ xảy ra một cách tự nhiên.

Lão Tử chủ trương chính trị “vô vi”, nhấn mạnh rằng người trị nước càng “làm ít” càng tốt, và “không làm gì” lại càng hay hơn Ông tin rằng sự rối ren trong cuộc sống xuất phát từ việc con người lo lắng quá nhiều Do đó, bậc thánh nhân cần dứt bỏ thành kiến và trí tuệ, để dân chúng được lợi ích tối đa Người cầm quyền nên cai trị theo nguyên tắc “cầm đầu mà không cai trị”, cho phép dân sống tự nhiên, từ đó họ sẽ tự nhận ra sự đủ đầy và thuần khiết Quan hệ giữa dân và người trị dân cần tôn trọng lẫn nhau, để mọi người cùng phát triển một cách tự nhiên mà không cần can thiệp.

Lão Tử cho rằng sự rối loạn trong xã hội xuất phát từ việc có quá nhiều lễ nghi, công cụ, vũ khí mới và sự can thiệp quá mức của trí tuệ và pháp lệnh Ông nhấn mạnh rằng "mất đức dẫn đến mất nhân, mất nhân dẫn đến mất nghĩa, và mất nghĩa dẫn đến mất lễ," cho thấy lễ nghi chỉ là biểu hiện của sự suy giảm trung tín Ông phản đối việc can thiệp quá nhiều vào đời sống của người dân, cho rằng điều này chỉ làm gia tăng sự hỗn loạn.

Xã hội lý tưởng của Lão Tử là một cộng đồng không phân biệt đẳng cấp, nơi người dân không cần có tri thức, dục vọng hay trí tuệ Trong xã hội này, con người sống cạnh nhau mà không cần đến pháp lệnh hay mối quan hệ chặt chẽ Nước lý tưởng là một quốc gia nhỏ, dân cư thưa thớt, không sử dụng vũ khí hay quân đội, và mặc dù có văn tự, nhưng chỉ cần sự gắn kết, cuộc sống an yên với những phong tục tập quán Các quốc gia láng giềng không cần thiết phải có mối quan hệ, thậm chí dân cư của hai nước nhìn thấy nhau nhưng có thể sống cả đời mà không qua lại.

Xã hội theo lí tưởng của Lão Tử từ chối văn hóa, tài sản và mọi tổ chức xã hội Con người sống giản dị, chỉ chú trọng vào nhu cầu ăn mặc và phát triển tự nhiên mà không cần quan tâm đến tổ chức hay mối quan hệ xã hội.

Lão Tử nhấn mạnh rằng con người cần trở về với Đạo, sống tự nhiên và giản dị, đúng với bản tính của mình Ông cho rằng mọi sự vật đều được sinh ra từ Đạo nhưng không bị can thiệp, và chính sự can thiệp của con người đã làm biến đổi bản tính tốt đẹp ban đầu của chúng Con người đánh mất sự thuần phác do tham muốn và hiểu biết quá mức Ông cảnh báo rằng "không biết đủ" là tai họa lớn nhất và "muốn được" là lỗi lầm nghiêm trọng Do đó, Lão Tử kêu gọi mọi người trở về với sự tự nhiên và thuần phác, tức là trở về với Đạo.

Theo Đạo, con người không nên hành động thái quá hay bất cập, vì "vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản" Cách xử thế nên hiền lành, khiêm tốn, không đòi hỏi nhiều và ít hiểu biết "Không tranh nên thiên hạ không ai tranh cùng", và ta nên "lấy đức báo oán", đối xử tốt với cả người lành và kẻ chẳng lành Bậc thánh nhân hành động mà không cầu công, không để lại dấu ấn cá nhân sau khi thành công Con người cần biết "dừng" và "đủ", vì "biết đủ thì chẳng nhục, biết dừng thì chẳng hại".

Con người theo Đạo ngày càng ít đi, dẫn đến tình trạng "vô vi" - hành động trở về cội nguồn, từ bỏ những phiền phức và giả tạo Vô vi không phải là không làm gì, mà là hành động một cách tự nhiên, không bị che lấp bởi những rối ren của cuộc sống.

Những người theo đạo thường duy trì tâm hồn thư thái và cởi mở, sống hòa hợp với thiên nhiên, đồng thời tránh xa những phiền toái từ các ràng buộc lễ nghi.

1.2.1.2 Tư tưởng triết học của Trang Tử

Trang Tử, mặc dù không phải là môn đệ trực tiếp của Lão Tử, nhưng ông đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Lão Tử đến đỉnh cao, giúp nó trở nên phổ biến trong giới trí thức.

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI PHẬN VỊ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI HƯỞNG LẠC TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

Ngày đăng: 02/12/2015, 16:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hóa sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Văn hóa
Năm: 1998
2. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1997), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn học Việt Nam
Tác giả: Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
3. Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Công Trứ
Tác giả: Trương Chính
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1983
4. Trương Chính (1973), “Ông cha ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm” , Tạp chí văn học , (2), tr.10-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ông cha ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm
Tác giả: Trương Chính
Nhà XB: Tạp chí văn học
Năm: 1973
5. Dịch giả Đoàn Trung Còn (2000), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tứ thư
Tác giả: Dịch giả Đoàn Trung Còn
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
Năm: 2000
6. Nguyễn Đình Chú (2009), “Sự lên ngôi của cái tôi cá thể”, Tạp chí nghiên cứu văn học , (3), tr.12-14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự lên ngôi của cái tôi cá thể”, "Tạp chí nghiên cứu văn học
Tác giả: Nguyễn Đình Chú
Năm: 2009
7. Nguyễn Đình Chú (2010), “Trở lại vấn đề sự ảnh hưởng của Nho giáo với nền văn học Việt Nam trung cận đại”, Tạp chí nghiên cứu văn học , (3), tr.18-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trở lại vấn đề sự ảnh hưởng của Nho giáo với nền văn học Việt Nam trung cận đại
Tác giả: Nguyễn Đình Chú
Nhà XB: Tạp chí nghiên cứu văn học
Năm: 2010
8. Phạm Vĩnh Cư (1999), “Thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ và dòng thơ an lạc thế giới”, Tạp chí văn học , (5), tr.13-14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ và dòng thơ an lạc thế giới
Tác giả: Phạm Vĩnh Cư
Nhà XB: Tạp chí văn học
Năm: 1999
9. Lê Anh Dũng, Khái lược về Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam, Tạp chí lịch sử, số (12), tr 5-10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái lược về Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam
10. Phan Đình Dũng (2008), “Con người khát khao hưởng thụ trong thơ Nguyễn Du”, Tạp chí văn nghệ trẻ, (9), tr 20-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Con người khát khao hưởng thụ trong thơ Nguyễn Du”, "Tạp chí văn nghệ trẻ
Tác giả: Phan Đình Dũng
Năm: 2008
11. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam , Nxb Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho giáo với văn hóa Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Đăng Duy
Nhà XB: Nxb Hà Nội
Năm: 1998
12. Trần Thị Hoài Dương (2005), Nguyễn Công Trứ với thể tài hát nói, Luận văn thạc sĩ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ với thể tài hát nói
Tác giả: Trần Thị Hoài Dương
Năm: 2005
13. Biện Minh Điền (2009), “Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Công Trứ”, Tạp chí nghiên cứu văn học , (3), tr. 10-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Công Trứ
Tác giả: Biện Minh Điền
Nhà XB: Tạp chí nghiên cứu văn học
Năm: 2009
14. Biện Minh Điền (2005), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học Việt Nam trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học , (4), tr.18-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học Việt Nam trung đại”, "Tạp chí Nghiên cứu Văn học
Tác giả: Biện Minh Điền
Năm: 2005
15. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam ca trù biên khảo
Tác giả: Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề
Nhà XB: Nxb Tp. HCM
Năm: 1994
16. Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch) (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb Văn hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa
Tác giả: Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch)
Nhà XB: Nxb Văn hóa
Năm: 1994
17. Vu Gia (1997), Nho tướng Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho tướng Nguyễn Công Trứ
Tác giả: Vu Gia
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1997
18. Bảo Định Giang (2002), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Trẻ TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX
Tác giả: Bảo Định Giang
Nhà XB: Nxb Trẻ TP.HCM
Năm: 2002
19. Đoàn Lê Giang (2006), “Vấn đề văn bản “Bài ca ngất ngưởng””, Tạp chí nghiên cứu văn học ,(3), tr 20-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề văn bản “Bài ca ngất ngưởng””, "Tạp chí nghiên cứu văn học
Tác giả: Đoàn Lê Giang
Năm: 2006
20. Thu Giang Nguyễn Duy Cần (1963), Trang Tử tinh hoa, Nxb Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trang Tử tinh hoa
Tác giả: Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Nhà XB: Nxb Sài Gòn
Năm: 1963

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w