1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt

95 802 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 0,9 MB

Nội dung

Tác giả đã đưa ra khái niệm “thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động với những đặc điểm và điều kiện lao động trong tập thể nhất định” và đã đưa ra chỉ số cho sự thích ứng n

Trang 1

Trong thời kỳ hiện nay, đất nước ta đang ngày càng phát triển trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống: kinh tế, văn hoá – xã hội Vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân

phải có rất nhiều những năng lực mới để thích ứng với cuộc sống đang từng ngày

một đổi thay Đặc biệt đối với sinh viên thì vấn đề này cũng đang đặt ra một cách

bức thiết Bởi vì đây là nguồn nhân lực chủ yếu để đưa đất nước phát triển Mặt

khác, tốc độ phát triển thông tin như hiện nay đòi hỏi sinh viên phải có những kỹ

năng và phương pháp học tốt để có thể tự học và tự trau dồi kiến thức cho mình

Khác với cách học ở phổ thông, học tập ở Đại học đòi hỏi ở sinh viên phải có kỹ

năng, phương pháp học tập mới để có tiếp nhận một lượng kiến thức lớn Hoạt

động học tập của sinh viên là đi sâu, tìm hiểu những môn học, những chuyên

ngành khoa học cụ thể, hoạt động này mang tính độc lập, tự chủ và tính sáng tạo

cao Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là bản thân họ phải luôn luôn tích cực và chủ

động để có thể hoà nhập và tự hoàn thiện chính bản thân

Khi bước chân vào trường Đại học họ luôn luôn phải tiếp nhận và làm

việc với lượng thông tin lớn và cường độ cao vì vậy nếu không kịp thời thích

ứng sẽ dẫn đến chỗ kết quả học tập không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng

mà xã hội đặt ra Thêm nữa, không phải sinh viên nào cũng có điều kiện thuận

lợi như nhau trong quá trình học tập và nghiên cứu Đối với những sinh viên có

nền tảng tốt từ phổ thông (được tiếp cận với các phương tiện hiện đại, với những

đội ngũ giáo viên có chất lượng cao, ) thì việc thích ứng trở nên dễ dàng hơn

rất nhiều Còn đối với sinh viên đến từ những vùng nông thôn, vùng cao, vùng

sâu thì đây thực sự là một điều hết sức khó khăn

Sinh viên Khoa CTXH & PTCĐ của Trường Đại học Đà Lạt cũng nằm

trong thực trạng đó Phần lớn họ là những người đến từ rất nhiều nơi, đặc biệt là

từ nông thôn và vùng sâu, vùng xa trên cả ba miền (Bắc – Trung – Nam) Họ là

những sinh viên học trong một ngành còn rất mới mẻ, điều này cũng là một thử

Trang 2

K IL

O B

O O

K S C O

M

thách hết sức lớn lao đối với bản thân họ Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên trong

Khoa nhiều thầy/ cô còn khá trẻ nên việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và thực

hành còn có những hạn chế nhất định Việc mời giảng các cán bộ giảng dạy từ

bên ngoài hiện nay cũng khá nhiều nên thường dẫn đến thực trạng là thiếu chủ

động trong việc tổ chức giảng dạy Tất cả những điều đó đã phần nào tác động

đến hoạt động học tập của sinh viên Từ những thực trạng trên, chúng tôi đã

nghiên cứu đề tài “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên Khoa

Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt”

2 Đối tượng nghiên cứu

Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên

3.Mục đích nghiên cứu

Làm rõ thực trạng thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên, phân

tích các nguyên nhân của thực trạng và trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị sư

phạm nhằm nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học tập cho sinh viên

4.Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1.Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu Cụ thể là làm rõ các khái

niệm sau: Sự thích ứng, hoạt động học tập, sự thích ứng với hoạt động học tập

của sinh viên

4.2.Nghiên cứu thực trạng sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên Khoa CTXH & PTCĐ thuộc Đại học Đà Lạt

4.3.Phân tích một số tác động chủ yếu và những nguyên nhân ảnh hưởng

đến sự thích ứng đó

4.4 Đề xuất một số những kiến nghị sư phạm nhằm giúp sinh viên nhanh

chóng thích ứng và thích ứng tốt với hoạt động học tập của sinh viên

5.Khách thể và phạm vi nghiên cứu

5.1.Khách thể nghiên cứu: Gồm 228 sinh viên của 3 khoá (năm thứ nhất:

82 sinh viên, năm thứ 2: 75 sinh viên, năm thứ 3: 71 sinh viên),

50 cán bộ giảng dạy và quản lý (trong đó bao gồm: Khoa CTXH & PTCĐ

và các khoa: Đông phương học, Lịch sử, Khoa sư phạm, Khoa Ngữ văn, và một

số cán bộ mời giảng dạy của Khoa CTXH & PTCĐ)

Trang 3

K IL

O B

O O

K S C O

M

5.2.Phạm vi nghiên cứu:

+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên (chứ không nghiên cứu sự thích ứng học đường trong môi trường đại học)

+ Chỉ nghiên cứu sinh viên của Khoa CTXH & PTCĐ tại Đại học Đà Lạt

6 Giả thuyết nghiên cứu

Sinh viên khoa CTXH & PTCĐ thuộc Trường Đại học Đà Lạt thích ứng

học tập ở những mức độ khác nhau Sự TƯHT có tương quan thuận với nội

dung học tập, phương pháp học tập, điều kiện học tập và quan hệ với thầy cô và

bạn bè

Có sự khác biệt về TƯHT giữa sinh viên năm I, II, III, giữa các kết quả

học tập khác nhau và giữa các địa bàn sinh sống của sinh viên trước khi vào đại

học

7.Phương pháp nghiên cứu

7.1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

Tìm đọc, phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan đến đề

tài nghiên cứu Từ đó xác định nội dung của các khái niệm cơ bản, xây dựng cơ

sở lý luận của đề tài nghiên cứu

7.2.Phương pháp quan sát:

Dự giờ tại một số lớp được nghiên cứu để quan sát việc học tập của sinh

viên ở trên lớp và phương pháp giảng dạy của giáo viên

Quan sát một số hoạt động học tập ngoài giờ của sinh viên (tại thư viện

khoa, thư viện trường), các cuộc thảo luận nhóm

Quan sát việc sinh viên gặp gỡ trao đổi với giảng viên trong giờ nghỉ giải lao

về những vấn đề có liên quan đến môn học, bài học hay việc học tập nói chung

7.3.Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Đề tài sử dụng hai bảng hỏi: một bảng hỏi dành cho sinh viên và một bảng

hỏi dành cho giáo viên

+ Bảng hỏi dành cho sinh viên: Sử dụng các câu hỏi đóng để sinh viên lựa

chọn các ý kiến phù hợp với mình, câu hỏi mở để thu thập những đánh giá, góp

ý và đề xuất của sinh viên Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng câu hỏi kết hợp

Trang 4

K IL

O B

O O

K S C O

M

(đóng và mở) để thu thập những thông tin phong phú thêm nhằm phục vụ cho

việc nghiên cứu Chúng tôi mô tả cụ thể trong chương 2

+ Bảng hỏi dành cho giáo viên: gồm có 17 câu hỏi nhằm thu thập thông

tin để so sánh với kết quả thu được từ bảng hỏi dành cho sinh viên

7.4.Phương pháp chuyên gia

Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia đã và đang nghiên cứu về vấn đề

liên quan đến sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên Ngoài ra còn

tham khảo ý kiến của những cán bộ làm quản lý về đào tạo đối với sinh viên,

những người có kinh nghiệm giảng dạy sinh viên

7.5.Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)

Lựa chọn một sinh viên có mức độ thích ứng tốt và một sinh viên có mức

độ thích ứng trung bình, và một sinh viên thích ứng ở mức độ kém để làm nghiên

cứu sâu và mô tả về quá trình thích ứng của họ từ khi vào trường Đại học

7.6.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Thu thập kết quả học tập của các năm học trước để so sánh với mức độ

thích ứng với hoạt động học tập

7.7.Phương pháp phỏng vấn sâu:

Phỏng vấn: + 20 sinh viên trong 3 khoá (chủ yếu là những sinh viên làm

cán bộ phụ trách học tập, cán bộ Đoàn, ) và 3 sinh viên có mức độ thích ứng tốt

nhất, trung bình và kém nhất (sau khi chúng tôi đã tính điểm tổng của các chỉ số

thích ứng học tập)

Phỏng vấn: Một số cán bộ giảng dạy và quản lý của Khoa CTXH &

PTCĐ và một số cán bộ giảng dạy kiêm nghiệm nhằm thu thập những thông tin

bổ sung cho kết quả thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

7.8.Phương pháp thống kê toán học

Phương pháp này được sử dụng để xử lý, phân tích, đánh giá các kết quả

thu thập được bằng các phương pháp nêu trên Chúng tôi sử dụng chương trình

SPSS 12.0 để xử lí kết quả thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Cụ thể là để:

Trang 5

K IL

O B

O O

K S C O

M

- Tính tần suất, phần trăm kết quả thu được

- Tính Giá trị trung bình, Độ lệch chuẩn và Hệ số tương quan Pearson (r)

(nhằm chỉ rõ mức độ có liên hệ hay không liên hệ của 2 hay nhóm đại lượng nào

đó theo kiểu tuyến tính)

Trang 6

K IL

O B

O O

K S C O

M

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Năm 1968, một số tác giả Liên xô (cũ) N.D Carsev, L.N.Khadecva,

K.D.Pavlov đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp trong

đó họ đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học sinh với

chế độ học tập và rèn luyện trong nhà trường Những phản ứng sinh lý, những

biến đổi của các hệ số tương quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh được

tác giả quan tâm và đã chỉ ra những biến đổi cụ thể

Năm 1969, E.A.Ermolaeva, nghiên cứu “Đặc điểm thích ứng xã hội và

nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm” Tác giả đã đưa ra khái

niệm “thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động với những đặc điểm

và điều kiện lao động trong tập thể nhất định” và đã đưa ra chỉ số cho sự thích

ứng nghề nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm

Năm 1971, X.A.Kughen và O.N Nhicandov, đã nghiên cứu sự thích ứng

với hoạt động lao động của các kỹ sư trẻ Các tác giả này đã đưa ra nhiều mức

độ thích ứng khác nhau

Năm 1972, D.A.Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng

Tác giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học,

đặc biệt bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện đại

để nghiên cứu vấn đề thích ứng Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc biệt của

cá nhân với điều kiện, hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những điều kiện mới

một cách không gượng ép Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa về thích ứng: “là một

quá trình tạo ra một chế độ hoạt động tối ưu có mục đích của nhân cách, tức là

con người vừa thích nghi với điều kiện mới, vừa phải chủ động thâm nhập vào

những điều kiện đó để xây dựng một chế độ hoạt động mới, phù hợp và đáp ứng

những yêu cầu của điều kiện mới”

Ngoài ra, trong cuốn “Con người và xã hội”, Andreeva đã so sánh khái

niệm “thích ứng và xã hội hóa” Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự khác biệt

Trang 7

K IL

O B

O O

K S C O

M

nhau về nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của con

người Thích ứng nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trường mới

Còn “xã hội hóa”, về cơ bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân

Từ đây, vấn đề thích ứng luôn được gắn liền với hoạt động có đối tượng

cụ thể Hai quá trình này diễn ra đồng thời trong đó thích ứng là tiền đề để cho

hoạt động có hiệu quả của nhân cách với vai trò xã hội này hay khác

A.I.Serbacov và A.B.Mudric đã nghiên cứu “sự thích ứng nghề nghiệp của

người thầy giáo” và đã nêu lên quan niệm chung về sự thích ứng của người thầy

giáo Những yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến hiệu quả của sự

thích ứng đó”

Năm 1980, trong tạp chí “Những vấn đề tâm lý học” số 4, A.A.Krintreva đã

trình bày những nghiên cứu của mình về những đặc điểm tâm lý của sự thích ứng

đối với sản xuất ở những học sinh mới ra trường, ở các trường trung cấp, kỹ thuật

chuyên nghiệp và các trường phổ thông trung học Tác giả cho rằng: thích ứng là

quá trình làm quen với sản xuất, là quá trình gia nhập dần vào sản xuất Krintreva

cũng đưa ra một số chỉ số đặc trưng của sự thích ứng nghề nghiệp là:

+ Sự thích ứng nhanh chóng nắm vững chuyên ngành sản xuất, các chuẩn

mực kỹ thuật

+ Sự phát triển tay nghề

+ Vị trí xã hội trong tập thể

+ Sự hài lòng đối với công việc và vị thế của mình trong tập thể

Năm 1925, Harvey Carr cho rằng học tập là một công cụ quan trọng được

con người sử dụng để thích nghi với môi trường Ông đã tập trung nghiên cứu

hành vi thích nghi Theo ông, hành vi thích nghi gồm 3 thành phần: 1/Một động

lực dùng như một kích thích cho hành vi (ví dụ: đói, khát); 2/Một khung cảnh

môi trường hay hoàn cảnh mà sinh vật ở trong đó; 3/Một phản ứng thoả mãn

động lực kia (ví dụ: ăn, uống)

Do tầm quan trọng của nó, vấn đề thích ứng của sinh viên với hoạt động

học tập đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình ở nước ngoài cũng như ở

trong nước Chẳng hạn, năm 1971, V.I.Alaudie và A.L.Meseracov, trên cơ sở

Trang 8

K IL

O B

O O

K S C O

M

nghiên cứu quá trình hình thành hoạt động học tập của các sinh viên thuộc Khoa

Tâm lý học - Đại học tổng hợp Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích ứng của

sinh viên đại học với hoạt động học tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình

phát triển của người học, tiếp cận được với hệ thống tri thức và kinh nghiệm lịch

sử xã hội Như vậy, thích ứng ở đây được hiểu là khả năng tự tổ chức học tập

của người học

Năm 1986, A.V.Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề thích

ứng học tập của sinh viên Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên là một

quá trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt như: 1/Thích nghi với hệ thống học tập

mới; 2/Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/Thích nghi với các mối

quan hệ mới Các nội dung này đã được chúng tôi sử dụng và cụ thể hoá trong

nghiên cứu

Năm 1990, ở Mỹ, B.P Allen đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của sinh

viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở trường

đại học Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập của sinh

viên là hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Sử dụng quỹ thời gian cá nhân;

2/Kỹ năng hình thành các hành động học tập và các phẩm chất khác (như tâm

thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập; 3/kỹ năng làm chủ các cảm xúc

tiêu cực; 4/kỹ năng chủ động luyện tập và hình thành các thói quen hành vi

mang tính nghề nghiệp Theo cách hiểu này, sự thích ứng (hay không thích ứng

của sinh viên được giải thích chủ yếu do sinh viên có (hay thiếu) một số kỹ năng

nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức trong hệ thống giáo dục của nhà

trường đại học

Ở trong nước đã có một số nghiên cứu bước đầu về những vấn đề cụ thể

của thích ứng học tập ở sinh viên đại học của GS.TS.Nguyễn Quang Uẩn,

PGS.TS.Nguyễn Thạc, PGS.TS Hà Nhật Thăng; GS.TS.Nguyễn Ngọc Phú

Ngoài ra có một số các đề tài Luận văn Thạc sỹ và Tiến sỹ về vấn đề thích ứng

được tiến hành nghiên cứu trong những năm gần đây Cụ thể là:

Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ mang tên

“Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục”

Trang 9

K IL

O B

O O

K S C O

M

Tác giả đã đưa ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp

của giáo viên tâm lý – giáo dục

Nguyễn Thị Trang (1982), trường Đại học Sư phạm Hà Nội với đề tài “Bước

đầu tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý học giáo dục”

Hoàng Trần Doãn (1983), với luận văn Thạc sỹ: “Sự thích ứng với hoạt động

học tập của sinh viên khoa văn và toán trường Đại học Sư phạm Hà Nội I”

Trịnh Ngọc Tân (1986) với đề tài “Bước đầu tìm hiểu kết quả của một số

biện pháp nâng cao tốc độ thích ứng học tập của sinh viên năm thứ nhất”

Từ năm 1994 – 1996 đã triển khai công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ

với đề tài “Sự thích nghi với hoạt động học tập của học sinh tiểu học” của tập

thể cán bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Tâm – Sinh lý học lứa tuổi, thuộc Viện

khoa học giáo dục do TS Vũ Thị Nho làm chủ nhiệm

Lê Thị Hương (1998), với luận văn Thạc sỹ “Nghiên cứu sự thích ứng với hoạt

động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng Sư phạm Thanh Hoá”

Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: “Sự thích ứng của sinh viên đối với học

tập và rèn luyện của học viên các trường Sỹ quan quân đội”

Năm 2000, Phan Quốc Lâm với Luận án Tiến sỹ “Sự thích ứng với hoạt

động học tập của học sinh lớp I”

Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề

tài “Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất Đại học quốc gia Hà

Nội với môi trường Đại học” do PGS.TS Trần Thị Minh Đức là Chủ nhiệm đề

tài v.v

Có thể nói rằng hiện nay cũng đã có nhiều đề tài quan tâm nghiên cứu vấn

đề thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên Tuy nhiên, vấn đề này chưa

bao giờ được quan tâm nghiên cứu ở trường Đại học Đà Lạt Vì vậy, chúng tôi

đã chọn để nghiên cứu với mong muốn góp phần nhỏ bé làm rõ thực trạng thích

ứng của sinh viên với hoạt động học tập trong trường, qua đó tìm ra các biện

pháp nhằm giúp họ thích ứng tốt nhất để nâng cao chất lượng học tập

Trang 10

K IL

O B

O O

K S C O

Tâm lý học hành vi do J Watson khởi xướng với luận điểm cơ bản: tâm lý

học đích thực phải lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu chứ không phải là ý

thức Theo quan điểm của những người theo dòng phái này, về nguyên tắc, các

quy luật và cơ chế thích ứng ở người giống động vật, chỉ có khác là môi trường

sống của con người có thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc xã

hội Sự thích ứng người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng không có sự

khác biệt về chất so với động vật Do đó, khi nghiên cứu sự thích ứng của con

người vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản của tiến hoá sinh học: thích nghi

với môi trường và sống còn, liên kết và phân hoá các chức năng của chúng, kinh

nghiệm loài và cá thể Sự thích ứng của con người chỉ phức tạp hơn của động

vật về mặt số lượng

Thừa kế quan điểm của các nhà tâm lý học động vật, J Watson cho rằng

để tồn tại, cá nhân có một hệ thống hành vi, ứng xử có được do học tập Trong

đó từng hành vi cụ thể có cơ sở là các kinh nghiệm, hành vi cũ và động lực là sự

thích ứng Đó là quá trình cá nhân học được những hành vi mới cho phép nó giải

quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của cuộc sống Sự kém thích ứng là không

học được hoặc hành vi học được không đáp ứng được yêu cầu của môi trường

Việc học tập được J Watson xem xét dưới góc độ hình thành kinh nghiệm và

hành vi cá thể (tập nhiễm ) Với lý luận hành vi, ông coi con người là một cơ

thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học, đáp ứng với những đòi hỏi của

môi trường xung quanh

Sau này các tác giả: E.C Tolman, K Hull đã bổ xung một số khái niệm

mới: hành vi học tập xã hội, hành vi học theo quan sát, và tự thưởng, tự phạt

để hình thành một trường phái mới Chủ nghĩa hành vi mới với đặc trưng là đã

đưa các yếu tố xã hội vào để giải thích sự thích ứng tâm lý ở người Về bản chất

vấn đề cũng không thay đổi, cả hai đều đồng nhất các quy luật của sự thích ứng

con người và động vật

Trang 11

K IL

O B

O O

K S C O

M

Sau này lý thuyết hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý

học hành vi nhận thức mà tiêu biểu là W.Mischel Trường phái này chú trọng

vai trò của nhận thức con người trong quá trình thích ứng Ông đã nhìn nhận

hành vi thích ứng một cách đầy đủ toàn diện hơn Cùng với việc chú ý đến vai

trò của yếu tố bên trong, Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể thích

ứng

Mặc dù chưa vạch ra được bản chất đích thực của sự thích ứng tâm lý ở

người, chủ nghĩa hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải quyết

vấn đề

* Tâm lý học nhân văn và vấn đề thích ứng

Tâm lý học nhân văn đại diện là A.Maslow Ngược lại với chủ nghĩa hành

vi, trường phái này lấy nhân cách là đối tượng nghiên cứu, xem nhân cách là

một hiện tượng chỉ có ở người, là một hệ thống mở nhưng trọn vẹn và tự thể

hiện Đó là năng lực bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tin vào bản thân và tương lai

Động lực thực sự của hành vi thích ứng là nhu cầu hướng thiện, vị tha, vì xã hội

Thích ứng là những ứng xử tích cực của cá nhân với tư cách là chủ thể với thế

giới xung quanh và với chính mình

A.Maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những cái vốn có của cá nhân

trong những điều kiện sống nhất định Sự không thích ứng chính là sự không

được tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách

Tiền đề để tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách, được sắp

xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu bẩm sinh

nhưng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp được thoả

mãn [33] Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng (của phân

tâm học) hay quá trình học tập (của chủ nghĩa hành vi), nhưng Maslow có quan

niệm khác về yếu tố quy định sự thích ứng Theo ông, nhu cầu “tự thể hiện”

mong muốn phát triển hết mức khả năng vốn có của bản thân và năng lực lựa

chọn một cách có ý thức những mục tiêu hành động của nhân cách là yếu tố

quyết định sự thích ứng của con người

Trang 12

K IL

O B

O O

K S C O

M

Tâm lý học nhân văn đã coi trọng tính tích cực, trọn vẹn và phẩm chất tự

đánh giá của nhân cách trong quan hệ cá nhân – xã hội Điều này có ý nghĩa

quan trọng trong việc xây dựng biện pháp tác động đến sự thích ứng tâm lý nói

chung và thích ứng với hoạt động học tập nói riêng Đó là tư tưởng tiến bộ của

dòng phái này

* Tâm lý học phát sinh và vấn đề thích ứng

Đại diện trường phái này là J.Piaget Trong cuộc sống con người, theo

J.Piaget có hai loại hoạt động gắn liền với nhau: hoạt động tâm lý và hoạt động

sinh học Trong đó, hoạt động tâm lý có nguồn gốc sinh học Cá thể chỉ tồn tại

và phát triển trong mối tương tác giữa cơ thể và môi trường từ đó tạo ra sự cân

bằng giữa cơ thể và môi trường, và cuối cùng cơ thể thích ứng với môi trường

[19].Theo tác giả, thích ứng có 3 cấp độ:

+ Thích ứng sinh học (thích ứng vật chất) làm cho cơ thể bằng xương bằng

thịt tồn tại và phát triển có thể nhận thức trực tiếp qua các giác quan

+ Thích ứng tâm lý (thích ứng chức năng), nó có nguồn gốc sinh học

+ Thích ứng trí tuệ, theo Piaget, trí tuệ không phải là cái có ngay từ đầu

khi đứa trẻ mới sinh Nó là kết quả của sự tương tác giữa cơ thể và môi trường

Trí tuệ không phải là bẩm sinh Trong quá trình tương tác giữa cơ thể và môi

trường, con người tự tạo ra trí tuệ của mình Mỗi người tương tác như thế nào thì

tạo nên trí tuệ theo hướng đó Trí tuệ được hình thành và phát triển Tuy nhiên,

Piaget luôn khẳng định, trí tuệ có nguồn gốc sinh học, cái sinh học nó tương tác

với môi trường tạo nên sự cân bằng, thích ứng Trí tuệ là sản phẩm của quá trình

thích nghi của cơ thể với môi trường Để giải thích cơ chế hình thành trí tuệ,

Piaget đã dùng 4 khái niệm có nguồn gốc sinh học để mô tả, đó là: đồng hoá,

điều ứng, sơ đồ, cân bằng

Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lý luận về sự thích ứng tâm

lý ở con người và cơ chế phát triển của thích ứng nhận thức, về những yếu tố

ảnh hưởng đến nó Tuy nhiên, Piaget đã nhìn nhận sự phát triển tâm lý dưới góc

độ thích nghi sinh học, ông chủ yếu chú ý tới mặt hình thức của sự thích ứng mà

chưa quan tâm đúng mức đến bản chất, nội dung xã hội – lịch sử của sự thích

Trang 13

K IL

O B

O O

K S C O

M

ứng tâm lý người Ông đã đánh giá quá cao yếu tố thành thục trong sự thích ứng

và sự thích ứng diễn ra như thế nào chứ chưa coi trọng vấn đề làm thế nào để

phát triển sự thích ứng ở trẻ em cũng như các giai đoạn lứa tuổi khác

* Phân tâm học và vấn đề thích ứng

Người khởi xướng là S.Freud (người Áo) xuất phát từ cách nhìn sinh vật

học đối với nhân cách, theo đó, nhân cách là một cấu trúc tổng thể trọn vẹn với 3

thành tố “cái nó” (Id), “cái tôi” (ego), và cái “siêu tôi” (superego) có vai trò và

chức năng khác nhau đối với đời sống của con người Theo S.Freud, hành vi

sống của con người có hình thức căn bản và được thúc đẩy bởi bản năng mà

quyết định là bản năng tính dục và bản năng xâm chiếm Tuy nhiên, cái bản

năng này luôn bị cấm đoán bởi cái xã hội (cái siêu tôi) Để tồn tại, con người

phải đạt được sự cân bằng, sự hài hoà giữa hai cái đối lập “cái nó” và cái “siêu

tôi” – đó chính là sự thích ứng Sự thích ứng là sự thoả mãn hợp lý trong những

điều kiện xã hội nhất định của các bản năng tình dục Sự phát triển “cái tôi”

nhân cách là kết quả của sự thích ứng qua các giai đoạn khác nhau của đời sống

cá thể Lý thuyết phân tâm cổ điển của S.Freud xuất phát từ quan điểm sinh vật

luận nên không phát hiện được bản chất xã hội - lịch sử của sự thích ứng ở con

người

Sau này, một số những người kế tục S.Freud đã xây dựng nên trường phái

phân tâm hiện đại như: C Jung, E Fromm và E Erikson Các ông cho rằng lý

thuyết S.Freud quá đề cao “cái nó”, cái bản năng trong hành vi con người Theo

họ, “cái tôi” có vai trò quan trọng trong sự thích ứng cá nhân, là chủ thể của

hành vi chứ không chỉ là phương thức thoả mãn “cái nó” Khác với Freud, các

nhà phân tâm học hiện đại đã coi trọng vai trò của quan hệ xã hội đối với các

hành vi thích ứng của cá nhân E Fromm cho rằng: “cần phải xem xét hành vi

thích ứng của cá nhân từ tính chất xã hội của môi trường” và E Erikson thì nhấn

mạnh thêm “sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan hệ xã hội của cá nhân

với những người xung quanh”. [35].

Ứng dụng lý thuyết phân tâm cũ và mới, các nhà tâm thần học theo Freud

chú ý tới giải thích bản chất và cơ chế của sự thích ứng tâm lý Con người không

Trang 14

K IL

O B

O O

K S C O

M

phải là một ngoại lệ sinh học Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa bé tự nhận ra là nó

đối lập với các đòi hỏi do xã hội đặt ra, đồng thời cũng là sản phẩm của những

đòi hỏi đó Sự lớn lên của đứa trẻ một mặt vừa là quá trình thích nghi về mặt

sinh học và thích ứng về mặt tâm lý Ví dụ điển hình được đưa ra là một đứa trẻ

đói thoả mãn cơn đói bằng phương thức bú sữa mẹ Sau đó người lớn (mẹ) bắt

nó phải ăn các thức ăn với phương thức mà nó chưa có Đầu tiên nó chống lại vì

không phù hợp Sau đó, sự trưởng thành về cơ thể cho phép nó ăn được thức ăn

đặc, mặt khác, mẹ nó đòi hỏi nó phải ăn những thức ăn mới này Với đứa bé, mẹ

là hình thái đặc trưng của xã hội đối với nó, ứng xử mới của trẻ (ăn) là kết quả

của sự thích nghi và thích ứng để sống còn và phát triển an toàn Theo đó, quá

trình thành thục và phát triển của trẻ em là một quá trình xảy ra các thích ứng và

thích nghi để hình thành những ứng xử mới, giúp nó xử lý thích hợp mâu thuẫn

giữa cái đã có với những yêu cầu, đòi hỏi của môi trường và thoả mãn nhu cầu

bản thân Nhân cách là tổng thể tất cả các ứng xử của một cá nhân Thích ứng

của con người là khả năng duy trì quan hệ giữa cá nhân với môi trường sống của

mình; được xác định bằng mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản và tính có thể

chấp nhận được về mặt xã hội của hệ thống ứng xử của người đó Vì vậy, thực

chất quá trình hình thành nhân cách là quá trình cá nhân thích ứng với xã hội

Động lực của sự thích ứng là “lo hãi” bản năng của cá nhân trước các tình

huống mới lạ, cái mà con người thường xuyên gặp phải và “lo hãi” là cái không

thể loại trừ Vấn đề là con người thường xuyên phải đối phó với “lo hãi” bằng sự

thích nghi và thích ứng để có hành vi phù hợp với tình huống Để có chúng, bên

cạnh sự thích nghi, ở cá nhân phải có sự thích ứng mà thực chất là sự đối phó

với tình huống bằng các phương thức tâm lý khác nhau gồm có: phóng chiếu,

chuyển dịch, huyễn tưởng, thoái lui, cắm chốt, thăng hoa, Nhờ các phương

thức này, con người làm giảm nhẹ lo hãi, tạo thế cân bằng động với môi trường

và tạo ra sự hài hoà trong quan hệ giữa bản thân với người khác Mỗi một hành

vi ứng xử đặc thù của cá nhân trước một tình huống mới là kết quả tổng hoà của

cuộc sống và thoả mãn các nhu cầu của chính mình Sự không thích ứng sẽ tạo

ra những stress và là căn nguyên của đa số các trường hợp bệnh lý tâm căn

Trang 15

K IL

O B

O O

K S C O

M

Mặc dù chưa giải thích được bản chất của sự thích ứng của con người,

phân tâm học chứa đựng những điểm hợp lý cần được chú ý về mặt lý luận và

thực tiễn của vấn đề Đó là vai trò của vô thức, bản năng xung đột tâm lý trong

quá trình thích ứng, hậu quả của việc thích ứng và cách thức giải toả hậu quả

này

* Tâm lý học Mác xít và vấn đề thích ứng

Cùng với việc phê phán cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học Macxít giải

quyết vấn đề theo một hướng hoàn toàn khác Một mặt, thừa nhận con người

phải thích nghi với môi trường sống như là một sinh vật “vì con người là một

tồn tại tự nhiên, nên đương nhiên nó không thể đứng ngoài sự tác động của môi

trường” Mặt khác, khẳng định con người là một thực thể xã hội nên “phải đặt

vấn đề” một cách khác: khi nói về con người, tức là vấn đề quan hệ “người xã

hội” trở thành vấn đề chủ yếu, thì cái gì là nội dung mới của vấn đề “cơ thể -

môi trường”

L.X Vygotxki đã chỉ rõ “Quá trình một đứa trẻ bình thường ăn nhập nền

văn minh thường quyện thống nhất với các quá trình cơ thể chín muồi Hai bình

diện phát triển - tự nhiên và văn hoá - nhập vào nhau, tạo nên một sự hình thành

thống nhất xã hội – sinh vật của nhân cách trẻ”[6; tr.131] Từ quan niệm về sự

thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn hoá trong sự phát triển của

trẻ em, L.X.Vygotxki đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất của sự thích nghi

của con người Ông khẳng định: “Con người có một hình thức thích nghi mới và

đây là cơ chế cân bằng chủ yếu của cơ thể với môi trường, dạng thức hành vi

này nảy sinh trên cơ sở các tiền đề sinh vật nhất định, nhưng đã vượt ra ngoài

phạm trù sinh vật, tạo nên một hệ thống hành vi có chất lượng khác và theo một

tổ chức mới” L.X.Vygotxki gọi dạng thức hành vi chuyên biệt người này là

“hành vi cấp cao” [6; tr.130] Hệ thống hành vi cấp cao này khác biệt về chất

lượng so với hành vi sinh vật Trước hết là ở các kích thích tạo ra chúng Con

người, khác với các động vật khác, tự tạo ra các kích thích tác động vào bản thân

mình Hơn thế nữa, con người còn dùng các kích thích tự tạo này để làm chủ

hành vi của chính mình: “Con người tự kiểm soát hành vi của chính mình bằng

Trang 16

K IL

O B

O O

K S C O

M

các kích thích – phương tiện tự tạo”[6; tr.134] Các kích thích – phương tiện được

Vygotxki coi là chìa khoá để giải quyết bản chất vấn đề thích ứng tâm lý ở

người; là vấn đề có tính nguyên tắc phân biệt phương thức thích ứng ở động vật

và người Theo ông, thích ứng theo nguyên tắc tín hiệu (phản xạ có điều kiện) là

loại thích ứng chung cho cả người và động vật Nhưng ở người, đây không phải

là phương thức thích ứng đóng vai trò chủ đạo Phương thức thích ứng đóng vai

trò chủ đạo ở người có nguyên tắc khác hẳn, không có ở động vật, đó là nguyên

tắc dấu hiệu Quá trình tín hiệu hoá phản ánh các mối quan hệ tự nhiên đảm bảo

cho cơ thể đáp ứng kích thích của môi trường Việc dấu hiệu hoá cho phép con

người có khả năng tạo ra một loại cân bằng mới với môi trường - biến đổi chính

môi trường và biến đổi hành vi của chính mình với tư cách là một chủ thể tích

cực Dấu hiệu là công cụ tâm lý để chủ thể điều chỉnh hành vi Dấu hiệu cũng

như công cụ vật chất là khí quan xã hội, được hình thành trong lịch sử loài

người Cùng với dấu hiệu, “cuộc sống xã hội tạo ra tất yếu buộc hành vi cá thể

phải tuân thủ các yêu cầu xã hội”[6; tr.138] Đó là loại hành vi đặc thù được quy

định bởi xã hội Để có chúng, cá nhân cần phải lĩnh hội từ xã hội Mặt khác, để

điều khiển những hành vi này cần có những nguyên tắc chuyên biệt người, đó là

nguyên tắc tự kích thích và làm chủ bản thân Nguyên tắc này có được ở cá nhân

cũng nhờ sự chuyển hoá từ tác động xã hội bên ngoài thành tác động xã hội ở

bên trong con người L.X Vygôtxki viết: “Mọi chức năng trong phát triển văn

hoá của trẻ xuất hiện trên vũ đài hai lần, trong hai bình diện – lúc đầu trong bình

diện xã hội rồi sau đó trong bình diện tâm lý, lúc đầu giữa con người với con

người, rồi sau ở bản thân trẻ, tức là có sự chuyển hoá từ ngoài vào trong, dần

dần thay đổi cấu trúc và chức năng”[6; tr.156] Với việc phát hiện ra dạng thức

cấp cao của hành vi người, cơ chế của sự hình thành và điều khiển nó ở cá nhân

L.X.Vygôtxki đã thấy sự khác biệt cơ bản của sự thích ứng tâm lý – xã hội ở

người và sự thích nghi sinh học ở động vật Theo đó, sự thích ứng của trẻ em

trong môi trường xã hội một quá trình kép Một mặt trẻ hình thành các dạng

thức cấp cao của hành vi, mặt khác, hình thành các chức năng tâm lý cấp cao để

trở thành chủ thể của các hành vi đó Cả hai mặt của quá trình này đều được

Trang 17

K IL

O B

O O

K S C O

M

thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hoá – xã hội Những tư tưởng đúng đắn,

biện chứng của Vygôtxki đã được các nhà tâm lý học Xôviết kế thừa, phát triển

và cụ thể hoá Quan điểm của ông cũng là kim chỉ nam cho việc giải quyết các

vấn đề lý luận và thực tiễn của luận văn này

Xuất phát từ những luận điểm cơ bản của tâm lý học Macxit được khởi

xưởng bởi Vygôtxki, A N.Leonchiep đã phân tích sự khác biệt cơ bản giữa phát

triển của con người với sự thích nghi của cá thể sinh học về nội dung và cơ chế

Ông viết “Phải nhấn mạnh riêng về sự khác biệt giữa quá trình ấy (tiếp thu, lĩnh

hội ) với quá trình cá thể thích nghi với môi trường tự nhiên, vì gần như mọi

người chấp nhận rằng, có thể đem khái niệm thích nghi, cân bằng với môi

trường dùng nguyên vẹn vào cho sự phát triển cá thể người Nhưng dùng khái

niệm ấy vào cho người mà không có sự phân tích cần thiết, thì chỉ làm lu mờ sự

phát triển thực sự của người”[8; tr.94] A.N Leonchiev chỉ rõ “Sự khác biệt cơ

bản giữa các quá trình thích nghi theo đúng nghĩa của nó và các quá trình lĩnh

hội, tiếp thu là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là quá trình thay đổi các thuộc

tính của loài và năng lực của cơ thể và hành vi của cơ thể Quá trình lĩnh hội hay

tiếp thu thì khác Đó là quá trình mang lại kết quả: cá thể tái tạo lại được những

năng lực và chức năng người đã hình thành trong quá trình lịch sử”[8; tr.95] Và,

“những năng lực và chức năng hình thành ở con người trong quá trình ấy là các

cấu tạo tâm lý mới Đối với những cấu tạo này, các cơ chế và quá trình bẩm

sinh, di truyền chỉ là điều kiện cần thiết bên trong (tiền đề) giúp cho các cấu tạo

tâm lý mới có thể xuất hiện” [8; tr.96] Ông thừa nhận: “sự phát triển của con

người cũng mang tính chất môi trường (tức là phụ thuộc vào những điều kiện

bên ngoài), nhưng khác với tiến hoá động vật, sự phát triển của con người không

phải là quá trình thích nghi hiểu theo nghĩa của từ này”[8; tr.99] Như vậy, bản

chất và nội dung của sự thích ứng của người và sự thích nghi sinh vật có sự khác

biệt về chất A.N.Leonchiev cũng vạch ra sự khác biệt về cơ chế của sự hình

thành hành vi động vật và người Ở động vật, hành vi được hình thành bởi kinh

nghiệm loài và cá thể, trong đó sự hình thành kinh nghiệm cá thể là đem hành vi

loài thích nghi với những yếu tố biến động của môi trường bên ngoài Còn ở

Trang 18

K IL

O B

O O

K S C O

M

người, hành vi được hình thành bằng cơ chế lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội -

lịch sử Tất nhiên, cơ chế lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội quan hệ chặt chẽ

với cơ chế kinh nghiệm cá thể

Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa thích nghi sinh vật với thích ứng

xã hội – tâm lý của con người, A.N.Leonchiev đã đặt nền móng cho việc nghiên

cứu hiện tượng này về phương diện lý luận lẫn thực tiễn

Với các phạm trù cơ bản: Hoạt động, ý thức và nhân cách, tâm lý học Mác

xít đã giải quyết lý luận vấn đề lý luận về sự thích ứng tâm lý một cách khoa học

và toàn diện

Quá trình thích ứng tâm lý của con người gắn liền với quá trình hình thành

nhân cách Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành hai mặt chủ

thể của thích ứng tâm lý Nhờ nhân cách, sự thích ứng tâm lý trở thành một quá

trình tích cực Trong đó, con người không chỉ đáp ứng tác động của môi trường

mà còn cải tiến nó một cách tích cực Tuy nhiên, sự thích ứng không đồng nhất

với sự hình thành nhân cách Đó là quá trình tương tác biện chứng giữa nhân

cách và môi trường xã hội mà cả hai phía đều có sự thay đổi để trở nên phù hợp

với nhau, đặc biệt là phía nhân cách Vì vậy, sự hình thành nhân cách và mức độ

của nó không tất yếu quyết định mức độ thích ứng của cá nhân Nhưng sẽ không

có sự thích ứng nếu không có sự hình thành nhân cách ở trình độ nhất định Vì

vậy, có những người có nhân cách cao nhưng không thích ứng được trong những

điều kiện môi trường xã hội nhất định hay người nhân cách mang bản chất của

xã hội này nhưng có thể thích ứng với môi trường xã hội có bản chất khác

Sau này một số các nhà Tâm lý học mác xít cũng tiếp tục nghiên cứu vấn

đề này, tiêu biểu như: E.A Ermolaeva, A.I.Serbacov, A.V.Mudric,

D.A.Andreeva, E.A.Golomstooc,

E.A Ermolaeva đã định nghĩa và đưa ra những chỉ số đặc trưng cho sự

thích ứng nghề nghiệp gồm: 1/Những chỉ số khách quan: chất lượng lao động,

trình độ nghề nghiệp, mức độ kỷ luật, địa vị xã hội; 2/Những chỉ số chủ quan:

mức độ hài lòng về công việc, điều kiện trong công việc Bà còn chỉ ra được thời

Trang 19

K IL

O B

O O

K S C O

M

điểm mà sự thích ứng xuất hiện, đó là: “Khi làm quen với điều kiện mới đó kéo

theo những sự tiêu tốn sức lực nhất định” Mặc dù chỉ nghiên cứu lĩnh vực thích

ứng lao động, nhưng ý kiến của E.A Ermolaeva góp phần làm sáng tỏ thêm lý

luận về sự thích ứng, nhất là vấn đề chỉ số của sự thích ứng [12; tr.47]

D.A.Andreeva phân biệt rõ các khái niệm thích ứng và thích nghi sinh học

Bà nhấn mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhưng cần chú ý phân biệt chúng

Nếu đem khái niệm thích ứng với ý nghĩa thích nghi sinh học vào giải thích các

hiện tượng xã hội thì dĩ nhiên sẽ sai lầm vì thích nghi sinh học chỉ sự đồng hoá

của cơ thể đối với những tác động từ bên ngoài và là sự xây dựng lại trạng thái

của cơ thể do những tác động đó để tồn tại trong điều kiện môi trường thay đổi,

còn thích ứng tâm lý ở người có ý nghĩa khác biệt về chất Cần hiểu “thích ứng”

là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới, là sự thâm nhập

của nó vào điều kiện đó một cách không gượng ép Bà chỉ rõ: “Sự thích ứng của

con người phải làm sao góp phần cho con người thoát khỏi sự phụ thuộc có tính

chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khỏi vòng tù hãm trực tiếp của

cơ thể”[13; tr.47] D.A.Andreeva cho rằng: “Có thể xem thích ứng là một quá

trình xây dựng chế độ hoạt động tối ưu và có mục đích của nhân cách”[12; tr.47]

Như vậy ta thấy, bà đã phân biệt rõ thích ứng tâm lý người với thích nghi sinh

học, đưa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập trường thích nghi sinh học, xem xét

nó dưới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn toàn vào địa hạt của tâm lý học người

Tóm lại, bằng cách tiếp cận khoa học về vấn đề thích ứng, các nhà tâm lý

học mác xít đã chỉ ra được bản chất hoạt động, nội dung xã hội - lịch sử, tính

tích cực và các chỉ số của hiện tượng thích ứng ở con người Theo nghĩa đó, lý

luận tâm lý học mác xít về bản chất hoạt động của sự thích ứng tâm lý là cơ sở

lý luận và phương pháp luận cơ bản của chúng tôi khi tiếp cận, nghiên cứu vấn

đề thích ứng học tập của sinh viên

* Tiếp cận hệ thống về sự thích ứng của con người

Tiếp cận hệ thống là hướng tiếp cận giúp chúng ta gắn kết những tiêu chí

có thể dùng để giải thích sự thích ứng và không thích ứng của con người Quan

điểm hệ thống nhấn mạnh về những tương tác giữa các yếu tố cấu thành hơn là

Trang 20

K IL

O B

O O

K S C O

M

tập trung vào mỗi yếu tố riêng biệt Dưới đây là sơ đồ tiếp cận hệ thống sự thích

ứng của con người với môi trường nói chung của Tremblay.[4.tr16]

Những yếu tố gắn với cá nhân:

Di truyền học: Việc xem xét yếu tố di truyền thường cũng có rất nhiều

cách quan niệm khác nhau Sự thích ứng dễ dàng hay khó khăn của một người

với môi trường có liên hệ với yếu tố di truyền, kiểu khí chất bẩm sinh của người

đó

Sự phát triển của cá nhân: Theo Tremblay, sự phát triển của một cá nhân

được định nghĩa là “Tập hợp những quyết định được đưa ra bởi một người” Các

quyết định hạnh phúc hay bất hạnh được nhóm lại và hướng một người về sự

với môi trường

Sự phát

triển của cá

nhân

Sự tự do của cá nhân

Những điều kiện

xã hội

Những điều kiện

xã hội vĩ mô

Trang 21

K IL

O B

O O

K S C O

M

Sự tự do cá nhân: Theo Tremblay, sự tự do – đó là “làm chủ một số những

ứng xử của mình, bất chấp những quyết định luận và những nguồn lực bẩm sinh,

di truyền, bất chấp những yếu tố gây ra cản trở và những bó buộc của môi

trường” Tự do được giả thiết là một khả năng lựa chọn, nó được thực hiện trong

một “bối cảnh thực tế của hành động, của quyết định” Phần tự do của một cá

nhân trong một hoàn cảnh cụ thể phản ánh “những khả năng của hành động một

giới hạn thực tiễn và một giới hạn lý tưởng, tuyệt đối”

Các yếu tố cấu thành gắn với môi trường

Các điều kiện tự nhiên: Là môi trường mà trong đó cá nhân phát triển Đó

là thế giới của những quy luật tự nhiên của sinh học, hoá học và những tiến bộ

công nghệ riêng của loài người Những khác biệt không chỉ giữa các vùng trên

thế giới mà còn ở từng vùng trong mỗi quốc gia và mỗi cá nhân cần phải thích

ứng với những khác biệt đó Những tiến bộ kỹ thuật, sự phát triển vật chất (đô

thị hoá, máy tính, tệ nạn xã hội, ) là những vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có sự

thích ứng

Các điều kiện xã hội vĩ mô: Là những hình thức mà xã hội sử dụng để

đảm bảo trật tự, ổn định, sự gắn bó của xã hội Mục đích tự nó mang lại tính tích

cực, nhưng các phương tiện của nó tự biến đổi thành những tiêu chuẩn của sự

không thích ứng (hay kém thích ứng) Những chuẩn mực xã hội, những khuôn

mẫu, những giá trị thống trị, phong tục, những luật thành văn hay không tất cả

tạo ra những khó khăn trong sự thích ứng của con người

Các điều kiện xã hội vi mô: Là những quan hệ giữa các cá nhân trong một

nhóm nhỏ như gia đình, trường học, những người bạn, những nhóm giải trí, thể

thao, Đó là “cái vòng bao bọc trực tiếp một cá nhân, tuỳ vào những nhóm khác

nhau mà anh ta ở trong đó” Mỗi nhóm này có cấu trúc đặc trưng của nó, những

luật, những thói quen, những quy tắc điều kiện để “hoà nhập” đối với các thành

viên Do số lượng lớn những vai trò mà các nhóm yêu cầu thành viên phải thực

hiện nên sự thích ứng cũng là vấn đề lớn đặt ra cho mỗi cá nhân

1.2.1.2 Định nghĩa khái niệm thích ứng

Trang 22

K IL

O B

O O

K S C O

M

Để làm rõ khái niệm thích ứng, chúng ta cần phân biệt khái niệm này với

khái niệm thích nghi Trong các khoa học nói chung và trong tâm lý học nói

riêng, hai khái niệm này nhiều khi được hay sử dụng đồng nhất với nhau Chẳng

hạn như, trong cuốn từ điển Tâm lý học bằng Tiếng Anh khái niệm thích ứng và

thích nghi được hiểu là “để đáp ứng với môi trường mới”. [34]

Trong từ điển Tiếng Việt của trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), thích

nghi được hiểu là: có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh môi

trường mới Thích ứng có hai nghĩa: 1/Như thích nghi; 2/là có những thay đổi

cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện mới.[23]

Trong Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội, Hà nội 1994), khái

niệm “thích nghi” được giải thích là “có những biến đổi nhất định cho phù hợp

với hoàn cảnh mới, môi trường mới”, còn “thích ứng” là “những thay đổi cho

phù hợp với các điều kiện mới, yêu cầu mới Hoặc trong Đại từ điển Tiếng Việt

(Nguyễn Như Ý chủ biên) thì khái niệm “thích nghi là quen dần, phù hợp với

điều kiện mới nhờ sự biến đổi, điều chỉnh nhất định”, “còn thích ứng là phù hợp

với điều kiện mới nhờ những thay đổi, điều chỉnh nhất định”[31]

Trong từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên,

thích nghi xã hội là: 1/quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều

kiện của môi trường xã hội mới; 2/kết quả của quá trình trên [2] Như vậy, theo

chúng tôi khái niệm thích nghi xã hội và khái niệm thích ứng có thể được hiểu

như nhau

Trong Từ điển tâm lý (do Nguyễn Khắc Viện chủ biên), thích ứng và thích

nghi được dùng chung một mục, đó là: “bước đầu là điều chỉnh những phản ứng

sinh lý (thích nghi với nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm), sau là

thay đổi cách ứng xử, đây là thích nghi tâm lý”[29]

“Thích nghi xã hội là khả năng một cá nhân tiếp nhận các giá trị của một

xã hội, hoà nhập được vào xã hội ấy Không thích nghi biểu hiện qua những

hành vì “gàn dở”, trái với tập tục, sống ngoài “rìa”, có thể dẫn đến hành động

phạm pháp” [29]

Trang 23

K IL

O B

O O

K S C O

M

Theo PGS.TS Trần Thị Minh Đức, “Thích ứng là một quá trình hoà nhập

tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về

mặt tâm lý”[4]

Hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn cảnh

trong sự hài hoà nhất định Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, liên hệ

kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh cho phù

hợp với bản thân

Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong kinh

nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá nhân phải

huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng

Sự trưởng thành về mặt tâm lý xã hội: là sự thoải mái bên trong của mỗi cá

nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội

“Quá trình thích nghi diễn ra theo 3 mức độ:

Mức độ 1: Cá nhân hoà đồng với nhóm, tổ chức bằng cách điều chỉnh các

nhu cầu, suy nghĩ, hành vi, của mình theo các chuẩn mực

Mức độ 2: Cá nhân có những sáng kiến từng bước góp phần thay đổi

chuẩn mực

Mức độ 3: Là mức độ cao nhất và cũng là mục tiêu cuối cùng của quá trình

thích ứng cần đạt tới đó là cá nhân làm thay đổi hệ thống chuẩn mực, xây dựng

hệ thống chuẩn mực mới và có những biện pháp để duy trì chuẩn mực” (Lê Nam

Trà) [26]

Để làm rõ hai khái niệm Thích nghi và Thích ứng, chúng ta cần tìm hiểu rõ

về cơ chế của việc hình thành của chúng

Thuật ngữ “thích nghi” được dùng trước tiên và phổ biến trong sinh vật

học Thích nghi là một trong những phạm trù cơ bản của sinh vật học do S Đác

uyn đưa ra dùng để chỉ các quá trình biến đổi về cấu trúc và chức năng của cơ

thể sinh vật để duy trì sự cân bằng của quan hệ cơ thể - môi trường trong điều

kiện môi trường thay đổi Sự thích nghi diễn ra trong sự tác động qua lại giữa cơ

Trang 24

K IL

O B

O O

K S C O

M

thể sinh vật và môi trường xung quanh bằng các cơ chế di truyền, biến dị và

chọn lọc tự nhiên của thế giới sinh vật trước sự biến đổi của môi trường

Sự thích nghi của giới sinh vật được thực hiện với nhiều trình độ khác

nhau: đầu tiên và thấp nhất là sự thích nghi sinh học, có tính vật chất, cơ thể tác

động qua lại với môi trường một cách trực tiếp về mặt lý hoá, mà sự thay đổi

của nó chậm chạp, tạo ra những đáp ứng ổn định của cơ thể sinh học gọi là tính

chịu kích thích Sự thích nghi này đảm bảo cho các cá thể sinh vật tồn tại trong

môi trường tương đối ổn định được nối tiếp bằng con đường sinh học, đảm bảo

một sự cân bằng trực tiếp và hạn chế giữa sinh thể với môi trường trong thời

hiện tại Thích nghi kiểu này có ở mọi loài cá thể sinh học

Trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh chóng, tính biến động cao do

di chuyển, thay đổi thời tiết, khí hậu, thức ăn, ở động vật bậc cao kể cả con

người đã hình thành một trình độ thích nghi mới cả về nội dung và hình thức,

mà biểu hiện là tính cảm ứng Ở trình độ này, cơ thể động vật không chỉ thụ

động đáp ứng kích thích của môi trường mà còn có những phản ứng đáp lại

những kích thích đó Trong cơ thể động vật bậc cao, hình thành một tổ chức mới

cho phép nó đáp ứng được những biến đổi loại này – đó là hệ thần kinh

Hệ thần kinh phát triển cho phép cơ thể sinh vật có khả năng đáp ứng với

những kích thích gián tiếp, hoặc đón trước, hoặc tái tạo gần kề Một hình thức

thích ứng cao hơn xuất hiện – thích ứng tâm lý

Đặc trưng thích ứng tâm lý là cơ thể động vật thích ứng không chỉ với

những tác động trực tiếp mà còn với những kích thích gián tiếp có tính tín hiệu

của môi trường Thích ứng có chung ở người, động vật và nó phát triển cùng với

sự phát triển của hệ thần kinh Lúc đầu, nó chỉ là sự phụ thêm, động vật càng phát

triển nó càng có vai trò cơ bản, quyết định sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường

“Ở những động vật khác, hệ thần kinh chỉ là phụ thêm, còn ở đây nó là nền tảng

của toàn bộ tổ chức cơ thể có thể quản lý được toàn bộ cơ thể” [12].

Khi nghiên cứu hiện tượng Thích ứng tâm lý con người, người ta đã phát

hiện được một trình độ cao nhất của nó: sự thích ứng tâm lý ở người Hình thức

mới này có sự phát triển cả về chất trong sự phát triển tâm lý nói chung - cả về

Trang 25

K IL

O B

O O

K S C O

M

cơ chế tâm – sinh lý (hệ thống tín hiệu thứ 2) cả về mặt cơ chế xã hội Xuất phát

từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chúng ta phân tích một cách

khoa học nội dung và cơ chế của sự thích ứng của con người

Với lao động, con người đã tạo ra một loại môi trường mới – môi trường

xã hội với hai đặc trưng hoạt động và giao tiếp Để tồn tại và phát triển, con

người phải thích ứng với những yêu cầu của môi trường này - phải tham gia

được các hoạt động và quan hệ Chủ nghĩa Mác cũng chỉ ra nội dung của sự

thích ứng mới này là bằng hoạt động tích cực, con người lĩnh hội nền văn hoá

(nội dung phương thức hoạt động và quan hệ) để hình thành những ứng xử mới,

điều chỉnh những hành vi cũ phù hợp với những yêu cầu, điều kiện hoạt động và

quan hệ xã hội mới Thích ứng này có thể gọi là thích ứng tâm lý người, là hình

thức cân bằng giữa con người với môi trường xã hội thay đổi

Để có trình độ thích ứng mới này, con người cần phải trở thành một chủ

thể với những cấu tạo tâm lý đặc trưng và nắm được phương tiện tác động bằng

cơ chế lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người Sự lĩnh hội

này được thực hiện bằng phương thức hoạt động và giao tiếp Thông qua việc

phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận:

- Sự thích ứng tâm lý của con người hình thành thông qua hoạt động và

giao tiếp, dưới sự tác động của các yếu tố bên trong: trình độ phát triển, lịch sử

cá thể, vốn kinh nghiệm, nhu cầu, động cơ và những yếu tố bên ngoài: loại

hoạt động và giao tiếp, những điều kiện sống mà cá nhân tham gia Thích ứng là

quá trình diễn ra sự điều chỉnh nội dung và phương thức hoạt động và giao tiếp

của cá nhân để phù hợp với điều kiện môi trường xã hội và hoạt động mới nhằm

tồn tại và phát triển

- Sự thích ứng là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý và hệ thống hành

vi cá nhân Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm 2 thành tố cơ

bản: 1/hình thành được những phương thức hành vi thích hợp, đáp ứng được yêu

cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới, như là phương tiện của sự

thích ứng; 2/hình thành những cấu tạo tâm lý mới tạo nên tính chủ thể của hành

vi, ứng xử thích ứng Nhờ nó con người định hướng, điều khiển, điều chỉnh các

hành vi, ứng xử đã lĩnh hội đáp ứng, thậm chí tác động cải biến chính môi

Trang 26

K IL

O B

O O

K S C O

M

trường sống Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ để tạo nên sự thích ứng của con

người, nhờ chúng mà con người điều chỉnh được hệ thống hành vi hiện có hoặc

hình thành được những hệ thống hành vi mới phù hợp Vì vậy, mức độ phù hợp

của hành vi ứng xử cá nhân với điều kiện sống và hoạt động mới là tiêu chí

khách quan để đánh giá mức độ thích ứng tâm lý Chỉ có thể nghiên cứu một

cách khách quan mặt tâm lý của sự thích ứng thông qua hệ thống hành vi thích

ứng của cá nhân trong các tình huống nhất định của cuộc sống và hoạt động

Sự thích ứng xuất hiện do tác động của những điều kiện sống và hoạt động

mới Việc hệ thống ứng xử hiện có không đáp ứng được những yêu cầu của điều

kiện mới là động lực của quá trình này Tuy nhiên, con người không thụ động

mà tạo ra sự thích ứng của mình với tư cách là chủ thể tích cực

Sự thích ứng bắt đầu ở thời điểm con người làm quen với điều kiện sống

và hoạt động mới và kết thúc ở sự hình thành được hệ thống ứng xử phù hợp

đảm bảo cho cá nhân hoạt động và giao tiếp có hiệu quả Vì vậy, các ứng xử đặc

trưng phù hợp với yêu cầu, điều kiện sống mới và kết quả hành động cá nhân là

chỉ số khách quan, cơ bản để đánh giá trình độ thích ứng của cá nhân Các ứng

xử, hành vi cá nhân trong các tình huống của hoạt động và môi trường sống mới

là phương tiện để con người đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của chúng Nhờ đó,

cá nhân cân bằng được quan hệ với những điều kiện sống mới Trình độ đáp ứng

của các cá nhân với tình huống thể hiện trình độ lĩnh hội phương tiện sống và

hoạt động cũng như trình độ làm chủ chúng của cá nhân đó.[12]

Cơ chế của sự thích ứng là sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử

theo nguyên tắc chuyển từ ngoài vào trong, để hình thành những cấu tạo tâm lý

mới cho phép cá nhân có những hành vi, ứng xử đáp ứng được đòi hỏi của điều

kiện sống và hoạt động mới [12]

Sự thích ứng tâm lý có vai trò rất to lớn đối với con người Nó là điều kiện

cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con người với môi trường xã hội, cho sự

thành công trong điều kiện sống và hoạt động mới Mặt khác, những ứng xử

thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách mới Để thích

ứng, cá nhân phải hình thành được những cấu tạo tâm lý mới Vì vậy, thích ứng

Trang 27

K IL

O B

O O

K S C O

M

như là điều kiện của sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, đảm bảo cho nhân

cách đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống và hoạt động thay đổi Việc cá

nhân không thích ứng với những đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới sẽ

làm cho anh ta hoạt động kém hiệu quả, không phát triển tâm lý và không hoà

nhập được cuộc sống xã hội Thích ứng là điều kiện của việc tiếp thu hoạt động

mới, phát triển tâm lý cá nhân trong điều kiện cuộc sống thay đổi

Tóm lại, theo chúng tôi, thích ứng tâm lý là một quá trình con người luôn

tích cực, chủ động hoà nhập, lĩnh hội các điều kiện, các yêu cầu, phương thức

mới của hoạt động nhằm đạt được mục đích của hoạt động đã đề ra Thông qua

đó, chủ thể của hoạt động liên tục phát triển và hoàn thiện về mặt nhân cách,

đáp ứng được những yêu cầu của xã hội

1.2.2 Khái niệm hoạt động học tập và một số đặc điểm hoạt động học

tập của sinh viên

Để làm rõ khái niệm hoạt động học, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái

niệm hoạt động dạy Bởi vì hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

1.2.2.1 Hoạt động dạy

Hoạt động dạy là hoạt động của người lớn tổ chức và điều khiển hoạt động

của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hoá xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý,

hình thành nhân cách của chúng. [7]

Tuy nhiên, cần phân biệt việc dạy trong đời sống hàng ngày với “hoạt

động dạy”do thầy giáo thực hiện theo phương thức nhà trường Việc dạy trong

cuộc sống đời thường (ông bà dạy cho cháu, bố mẹ dạy cho con, ) mang lại

cho trẻ nhiều hiểu biết, nhưng những hiểu biết đó mang tính chất kinh nghiệm

chủ nghĩa không đủ để trẻ thích nghi với cuộc sống ngày càng phát triển Còn

việc dạy cho trẻ những tri thức khoa học, những năng lực người ở trình độ cao

thì xã hội đã giao cho thầy giáo (những người được đào tạo để dạy với tư cách

là một nghề), tiến hành theo phương thức chuyên biệt (ta gọi phương thức đó là

phương thức nhà trường), việc dạy được tâm lý học sư phạm gọi là “hoạt động

dạy” Vì vậy, khi xem xét khái niệm hoạt động dạy, chúng ta chỉ xem xét nó

dưới góc độ hoạt động dạy theo phương thức nhà trường

Trang 28

K IL

O B

O O

K S C O

M

Trong thực tế hiện nay, một số trường Đại học, Cao đẳng vẫn còn lối dạy

học truyền thụ một chiều, tạo nên sự thụ động trong cách học của sinh viên, không

đáp ứng được mục tiêu đào tạo mà xã hội yêu cầu Do yêu cầu của sự phát triển xã

hội, việc dạy cũng có rất nhiều thay đổi khác nhau Ngoài việc giúp người học

chiếm lĩnh tri thức, việc dạy còn giúp người học có thể tự hình thành cho họ

phương pháp học để có thể học suốt đời (tức là dạy cho người học cách học)

Theo PGS TS Lê Đức Ngọc, nội dung của dạy cách học ở Đại học là:

Dạy cách lập kế hoạch học tập:

Dạy cách lập kế hoạch phấn đấu trong học tập với mục tiêu cụ thể: để có

mục tiêu phấn đấu, để phân biệt được việc chính với việc phụ, việc làm ngay với

việc sẽ phải làm và đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu phấn đấu để từng bước

tích luỹ kết qủa học tập. [17.tr28]

Dạy cách lập kế hoạch sử dụng thời gian: để làm chủ được quỹ thời gian

và không quên các việc sẽ làm, không bị động trước rất nhiều các tư liệu cần

phải đọc và công việc phải hoàn thành đúng hạn. [17]

Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp

Dạy nguyên tắc chính của nghe – ghi: Nghe ghi đầy đủ, tỷ mỉ để có khả

năng kết hợp cao nhất đồng thời thính giác, thị giác và tri giác, nhờ đó hiểu và

tái hiện thông tin – tri thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất

Dạy các thủ thuật nghe – ghi: Tuỳ theo đặc điểm của từng môn học, dạy

cách viết tắt, viết gạch chân để nhấn mạnh và dễ nhớ

Dạy cách theo dõi, đọc tài liệu: Có hiệu quả và hiệu suất cao. [17.tr29]

Dạy cách học bài

Dạy cách tự học: học theo các bậc nhận thức cao của Bloom (học vận

dụng, học phân tích, học tổng hợp và học bình luận đánh giá từng kiến thức),

học tư duy trừu tượng, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo trong mối quan hệ, hệ

thống của các kiến thức

Dạy cách học nhóm: để học cách giao tiếp, học cách trình bầy diễn giảng

bằng lời, học cách thuyết phục đồng nghiệp, học cách quản lý và tổ chức từ một

Trang 29

K IL

O B

O O

K S C O

M

nhóm nhỏ học tập đến một hội thảo đông đảo, học cách tham khảo trí tuệ của

bạn học và đồng nghiệp. [17]

Dạy cách đọc sách

Dạy cách chọn lọc sách đọc: Chọn sách cho phù hợp với mục tiêu môn học,

chọn sách cho phù hợp với trình độ người học, chọn sách để đào sâu, học rộng

Dạy cách đọc sách và ghi chép: Để lưu giữ thông tin, để bổ sung bài

giảng và đề tự học nâng cao tri thức, năng lực. [17]

Dạy cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề

+ Dạy cách chọn vấn đề

+ Dạy cách nghiên cứu vấn đề

+ Dạy cách giải quyết vấn đề

Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu phát

triển của khoa học công nghệ, yêu cầu của sự hội nhập giáo dục đại học trong

khu vực và trên thể giới nhất thiết phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy và

học ở đại học. [17.tr30]

1.2.2.2 Hoạt động học

Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học,

dưới sự điều khiển sư phạm của thầy. [14.tr65]

Học là hoạt động có đối tượng, trong đó người học là chủ thể, khái niệm

khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh

Học về bản chất là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao tác

trí tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó có được tri thức,

kỹ năng, thái độ mới “Bản chất của hoạt động học ở đại học là đi sâu, tìm hiểu

những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để

nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các khoa học đó, với

mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định”. [21] Có thể nêu

ra một số đặc điểm trong hoạt động học tập của sinh viên như sau:

- Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa

học, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách

Trang 30

K IL

O B

O O

K S C O

M

của người chuyên gia tương lai Hoạt động học tập của họ vừa gắn liền với hoạt

động nghiên cứu khoa học, vừa không thể tách rời hoạt động nghề nghiệp của

người chuyên gia. [21]

- Hoạt động học của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích,

nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một

cách chặt chẽ nhưng đồng thời không quá bị khép kín, quá câu nệ mà lại có tính

chất mở rộng theo năng lực, sở trường để họ có thể phát huy được tối đa năng

lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực

- Phương tiện học tập của sinh viên được mở rộng và phong phú với các

thư viện, phòng đọc, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa

học cần thiết của từng ngành đào tạo

- Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo

cao Điều rất quan trọng là sinh viên phải tìm ra phương pháp học tập mới ở bậc

Đại học Phương pháp đó phải phù hợp với những chuyên ngành khoa học mà

họ theo đuổi Không tìm ra được cách học khoa học, sinh viên không thể đạt

được kết quả học tập tốt vì khối lượng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, mà họ phải lĩnh

hội là rất lớn, rất đa dạng

Quá trình thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên là quá trình thể

hiện tính tích cực đối với hoạt động này, cụ thể là:

Về nhận thức:

Người học tích cực ghi nhớ sự kiện, tiến trình một cách có ý nghĩa: lưu

trữ các dữ kiện, quan niệm bằng cách làm việc dựa theo trật tự logic của vấn đề

mà bài tập đề ra, tạo lập những mối liên hệ trong vòng các đơn vị kiến thức; hiểu

các phương diện của bài tập và liên kết chúng hợp thành một tổng thể liền mạch,

chặt chẽ trong đó mỗi phần đóng góp cho một chủ đề chung

Người học tích cực không chỉ tiếp nhận tri thức vào đầu, giữ chúng lại để

rồi viết chúng ra trong các bài thi và kiểm tra mà còn nỗ lực rút ra những hiểu

biết cho bản thân trong tiến trình học tập

Người học tích cực suy nghĩ, cân nhắc kỹ lưỡng về một hành động, việc

làm nào đó với quan điểm muốn cải tiến nó

Trang 31

K IL

O B

O O

K S C O

M

Người học luôn cố gắng tìm cơ hội chuyển giao kiến thức đã học sang

những kiến thức hay tình huống khác để giải quyết những vấn đề do chính họ

cũng như người khác đặt ra Hoạt động này thể hiện tính vận dụng sáng tạo

Về thái độ: người học tích cực thường hình thành cho mình một kiểu nền

nếp học tập ổn định, tính ngăn nắp như nghiên cứu tài liệu học tập, đọc mở rộng,

chọn ra những tri thức chủ yếu, sắp xếp chúng lại theo trình tự và hệ thống, xây

dựng góc học tập Có ý thức về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bản thân và các cá

nhân khác trong cộng đồng học tập, nên người học biết vận dụng kỹ năng sống

hợp tác để đạt mục đích học tập, lĩnh hội và kiến tạo kiến thức Họ chia sẻ, lắng

nghe ý kiến người khác, cởi mở, tin tưởng và sẵn sàng giúp đỡ nhau

Như vậy, có thể hiểu “Hoạt động học tập” là hoạt động trong đó diễn ra

quá trình người học tích cực, tự giác chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều

khiển sư phạm của thầy

1.2.3 Khái niệm Sinh viên

Định nghĩa:

Theo hai cuốn: Đại Từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý) và Từ điển Tiếng

Việt (Hoàng Phê chủ biên), sinh viên được hiểu là “Người đang học ở bậc đại

học”, [31], [23]

Sinh viên là một nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội

ngũ tri thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xã hội Họ sẽ là

nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác

nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội

Đặc điểm:

-Về thể chất: Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương,

cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên Các tố chất về thể lực: sức

mạnh, sức bền, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định

của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng trưởng các hoóc môn nam và nữ

Về nhận thức: Bản chất hoạt động nhận thức của sinh viên là đi sâu, tìm

hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu

để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các khoa học đó,

Trang 32

K IL

O B

O O

K S C O

M

với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định Hoạt động

nhận thức của họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu

đã có, mặt khác phải tiệm cận những thành tựu của khoa học đương đại và có

tính cập nhật, thời sự Chính vì thế mà nét đặc trưng cho hoạt động học tập của

sinh viên là sự căng thẳng về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như

phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá

1.2.4 Khái niệm “Thích ứng với hoạt động học tập”

Hoạt động học tập là một trong những hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan

trọng trong sự hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân

Hoạt động học tập có quá trình phát triển cao về yêu cầu và nhiệm vụ học tập

Nhiệm vụ học tập luôn luôn đổi mới theo chiều hướng ngày càng nâng cao, ngày

càng phức tạp về nội dung và hình thức Vì vậy, quá trình thích ứng với hoạt

động học tập phải diễn ra liên tục trong suốt thời kỳ học tập của con người và

mức độ ngày càng cao

Mặt khác, sự thích ứng với hoạt động học tập phụ thuộc rất lớn vào tính

chủ động, tích cực hoạt động của mỗi chủ thể, do đó, kết quả học tập và chất

lượng học tập cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào việc người học có thực sự tích

cực hay không tích cực trong học tập của mình

Theo Hoàng Trần Doãn, “Thích ứng học tập là một quá trình thích nghi

đặc biệt của cá nhân đối với điều kiện mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào

điều kiện mới một cách thuần thục và chính trong quá trình đó, con người không

thụ động mà được bộc lộ trong quá trình hoạt động có đối tượng như một chủ

thể động” [3]

Trong bài viết: Giáo dục gia đình – nhân tố quyết định hình thành nhân

cách trẻ em, có viết: “Thích nghi với hoạt động học tập là quá trình làm quen,

thâm nhập liên tục chủ động tích cực của người học vào môi trường hoạt động

mới nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử được tích luỹ trong học

tập, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các quy tắc chuẩn mực của lối sống, hành vi,

Nhờ đó, chủ thể tồn tại, phát triển như một nhân cách có ý thức của xã hội”.[10]

Trang 33

K IL

O B

O O

K S C O

M

Như vậy, các tác giả trên đã nhấn mạnh vào tính tích cực và chủ động của

người học Đây cũng là yêu cầu hết sức quan trọng trong việc đổi mới phương

pháp học tập hiện nay

Theo chúng tôi, Thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên là một quá

trình người sinh viên tích cực, chủ động, hoà nhập vào các điều kiện học tập,

nội dung và phương pháp học tập và các mối quan hệ mới (khác về chất) so với

hoạt động học tập ở phổ thông nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân

cách đáp ứng những yêu cầu của xã hội

*Các chỉ số của sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên:

Qua phân tích cơ sở lý luận về vấn đề thích ứng và đưa ra cách hiểu về

“Thích ứng với hoạt động học tập” của sinh viên trong đề tài này, có thể thao tác

hoá khái niệm đó để dễ dàng cho việc triển khai nghiên cứu thực tiễn, đặc biệt

để đánh giá thực trạng thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên hiện nay

Theo chúng tôi, việc thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên sẽ được đánh

giá theo các chỉ số sau đây:

- Tích cực hoà nhập để lĩnh hội nội dung học tập mới

- Tích cực hoà nhập để lĩnh hội phương pháp học tập mới

- Tích cực, chủ động khắc phục các điều kiện học tập sẵn có, tạo ra các

điều kiện học tập mới cho bản thân

- Tích cực lĩnh hội các mối quan hệ trong môi trường học tập mới

Một cách cụ thể, đó là:

Đối với chỉ số thứ nhất, đó là khi sinh viên đáp ứng đầy đủ và có hiệu quả

những yêu cầu học tập mới, khác về chất so với ở trường phổ thông (cả về khối

lượng kiến thức lẫn độ sâu và độ khó của nội dung kiến thức); hiểu được nội

dung bài học; giải quyết được các nhiệm vụ bài tập của các môn học;… [10]

Phương pháp học tập mới: là những phương thức chiếm lĩnh tri thức và

những cách học mới cao hơn ở mỗi người Sự thích ứng với phương pháp học

tập của sinh viên được biểu hiện qua:

+ Biết cách lập kế hoạch, tổ chức công việc học tập của bản thân

+ Biết cách ghi chép bài giảng một cách đầy đủ, khoa học

Trang 34

K IL

O B

O O

K S C O

M

+ Biết cách học bài sao cho nhanh hiểu, ghi nhớ tốt

+ Biết cách lựa chọn, đọc những cuốn sách tham khảo phục vụ cho việc

học tập [10]

+ Biết cách tổ chức thảo luận nhóm đạt hiệu quả cao, phát huy được tinh

thần làm việc của tất cả các thành viên, thông qua đó có thể hợp tác và học hỏi

lẫn nhau

Các điều kiện học tập mới: được biểu hiện qua việc biết sử dụng các

phương tiện kỹ thuật mới, hiện đại, phục vụ cho việc học tập (biết dùng phòng

nghe để luyện phát âm cho các môn ngoại ngữ, sử dụng tốt máy vi tính khi học

tin học, khi thuyết trình bài thảo luận, ) Biết sử dụng hợp lý các cơ sở vật chất

đã có của trường phục vụ cho việc học tập (biết tận dụng các loại sách tham

khảo, phòng đọc sách ở thư viện nhà trường), biết khắc phục những điều khó

khăn để phục vụ cho việc học của bản thân

Đối với chỉ số thứ tư, đó là sự làm quen, thâm nhập tích cực, chủ động vào

các mối quan hệ bạn bè, thầy cô ở trong lớp, trong trường để hoà nhập tốt hơn

và tự tin hơn

Việc thiết lập các mối quan hệ mới ở sinh viên khi vào học trong nhà

trường là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện giúp sinh viên

nhanh chóng thích ứng với hoạt động học tập trong những điều kiện mới Các

quan hệ xã hội cơ bản nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của sinh viên đó

là:

+ Quan hệ giữa sinh viên với sinh viên,

+ Quan hệ sinh viên với tập thể, lớp học, tập thể khoa

+ Quan hệ giữa sinh viên và giảng viên

Các mối quan hệ này luôn biểu hiện trong quá trình học tập dưới nhiều

hình thức khác nhau: sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập, sự

ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, cùng thảo luận, trao đổi để giải quyết các yêu cầu và

nhiệm vụ của môn học, thái độ tự giác, chủ động học thầy, học bạn để ngày càng

tốt hơn Đặc biệt là trong quan hệ giữa sinh viên và thầy cô, việc quan tâm, động

Trang 35

K IL

O B

O O

K S C O

M

viên nhiệt tình của thầy/ cô góp phần tạo nên sự hứng thú học tập của sinh viên

[10]

Tóm lại, qua việc phân tích, tìm hiểu và làm rõ các khái niệm cơ bản trên

làm cơ sở lý luận để định hướng tổ chức nghiên cứu và phân tích, đánh giá kết

quả thu được ở các phần tiếp theo

Trang 36

K IL

O B

O O

K S C O

M

CHƯƠNG 2

TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Mẫu nghiên cứu

2.1.1 Vài nét về Trường Đại học Đà Lạt và Khoa CTXH & PTCĐ

Trường Đại học Đà Lạt được thành lập theo quyết định số 426/TTg ngày

27/10/1976 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở cũ của Viện Đại học Đà Lạt

Trong quá trình hoạt động, trường Đại học Đà Lạt đã có những đóng góp thiết

thực vào việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho địa phương Tính đến

nay, Trường Đại học Đà Lạt đã góp phần đào tạo cho địa phương trên 10.000 cử

nhân ở nhiều chuyên ngành khác nhau Nhiều thế hệ sinh viên tốt nghiệp từ

trường Đại học Đà Lạt đang có mặt ở nhiều vùng đất khác nhau của Tây Nguyên

và duyên hải Nam Trung Bộ Nhiều gương mặt thuộc những thế hệ sinh viên ấy

đã trưởng thành và có những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp xây dựng và phát

triển kinh tế - xã hội địa phương, trở thành những cán bộ quản lý và cán bộ khoa

học chủ chốt của địa phương Đặc biệt, trong vai trò của một trường đại học hoạt

động trên địa bàn các tỉnh vùng cao Tây Nguyên, Trường đã đào tạo nhiều cán

bộ khoa học là người dân tộc thiểu số và góp phần tích cực vào sự nghiệp nâng

cao dân trí cho cư dân trên địa bàn

Về công tác đào tạo, Trường đã tích cực phấn đấu để mở các ngành học

mới có tính thích ứng cao với nhu cầu của xã hội hiện nay, đặc biệt là nhu cầu

của địa phương Đà Lạt – Lâm đồng Thời gian vừa qua, Trường kiên trì phấn

đấu để mở rộng ngành nghề mới, mở rộng cơ hội cho người đi học trong việc

lựa chọn ngành nghề và tăng cường chất lượng nguồn nhân lực cung ứng cho xã

hội Sự ra đời của một số ngành mới ở trường như: Công nghệ thông tin, Công

nghệ sinh học, Công nghệ sau thu hoạch, Môi trường, Luật học, Du lịch, Nông

học, Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng, Đông phương học…

Về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, trong thời gian vừa

qua, Trường đã tăng cường triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học mang tính

Trang 37

K IL

O B

O O

K S C O

M

phối hợp và mang tính thực tiễn cao Hàng năm, trường thực hiện nhiều đề tài

khoa học cấp Bộ, cấp Trường, tham gia thực hiện nhiều dự án lớn về xoá đói

giảm nghèo

Về quan hệ quốc tế, Trường có quan hệ với nhiều đơn vị giáo dục và đào

tạo của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Úc, Mỹ,…Nhiều chương

trình hợp tác quốc tế của Trường đã tạo ra các cơ hội trao đổi học giả, gửi cán bộ

đi đào tạo, tiếp nhận tài trợ cho Trường

Về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, trường hiện có 400 cán bộ viên

chức, trong đó 280 là cán bộ giảng dạy Đội ngũ cán bộ trường đã có nhiều năm

kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, là hậu thuẫn vững chắc

cho nhiều hoạt động chuyên môn của nhà trường Trong 2004 -2005, Trường

cũng đã chính thức tổ chức nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng

QMS theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 với mong muốn sẽ chuẩn hoá quá trình

quản lý của các đơn vị, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo

Đội ngũ sinh viên của Trường phần lớn xuất thân từ những vùng quê

nghèo của miền Trung và Tây Nguyên, có tinh thần hiếu học và vượt khó, luôn

phấn đấu vươn lên trong học tập, có nếp sống và sinh hoạt lành mạnh, tỷ lệ sinh

viên vi phạm kỷ luật rất thấp và hầu như không có tình trạng sinh viên sa vào tệ

nạn xã hội Nhiều thế hệ sinh viên tốt nghiệp của Trường đã trưởng thành ở

những vị trí công tác công tác quan trọng tại các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy,

trường học của miền Trung và Tây Nguyên Trường cũng luôn có chính sách

quan tâm đặc biệt đến các sinh viên nghèo, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn

Về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo, Trường có một khuôn

viên rộng rãi (40ha), khang trang, có thể tổ chức đào tạo trên quy mô lớn và tập

trung Hệ thống trang thiết bị phục vụ đào tạo được đầu tư mạnh trong những

năm qua Hàng năm, Trường đã dành nhiều tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị

cho các phòng thí nghiệm, phòng máy tính, sách và tạp chí cho thư viện Hệ

thống các giảng đường được nâng cấp thường xuyên Khuôn viên và hạ tầng của

Trường được tập trung chỉnh trang để chuẩn bị cho những đầu tư lớn trong giai

đoạn 2001 –2010

Trang 38

K IL

O B

O O

K S C O

M

Trải qua các chặng đường phát triển từ năm 1976 đến nay, Trường Đại

học Đà Lạt đã được vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba (năm

1986), Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 1996), Huân chương Lao động

hạng Nhất (năm 2001) của Nhà nước trao tặng ghi nhận những đóng góp tích

cực của nhà trường đối với sự nghiệp phát triển đất nước và phát triển địa

phương

Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng thuộc trường Đại học Đà

Lạt được thành lập từ năm 2001 Đến nay, Khoa đã có 4 khoá sinh viên hiện

đang theo học Cán bộ của Khoa hiện nay có 11 người, trong đó Ban chủ nhiệm

khoa gồm 2 người: 01 Trưởng Khoa và 01 Phó trưởng Khoa Số lượng sinh viên

của Khoa hiện nay lên tới 600 sinh viên Phần lớn sinh viên đến từ các tỉnh miền

Trung và Tây Nguyên

Về công tác đào tạo, hiện nay khoa tập trung vào 3 lĩnh vực chính là:

Công tác xã hội, Phát triển Cộng đồng và Tham vấn Để đảm bảo chất lượng đào

tạo cho sinh viên, hiện nay khoa đã mời những chuyên gia có trình độ cao và

kinh nghiệm để giảng dạy và trao đổi học thuật, nghiên cứu và tập huấn các kỹ

năng xã hội cho sinh viên

Mục tiêu đào tạo, ngành Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng nhằm

đào tạo các sinh viên có phẩm chất chính trị và đạo đức, có ý thức phục vụ nhân

dân, có sức khoẻ, có tinh thần say mê yêu nghề, nắm vững hệ thống kiến thức

chuyên môn, thành thạo các kỹ năng thực hành nghề nghiệp, có khả năng giải

quyết những vấn đề xã hội nhằm nâng cao năng lực con người cũng như năng

lực cộng đồng

Các sinh viên ngành Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng sau khi tốt

nghiệp có khả năng:

+ Làm công tác xã hội chuyên nghiệp tại các cơ sở và tổ chức thuộc lĩnh

vực an sinh xã hội, cung ứng dịch vụ xã hội, các tổ chức đoàn thể và tổ chức xã

hội

+ Làm công tác xã hội chuyên nghiệp trong các lĩnh vực liên quan như sức

khoẻ, giáo dục, pháp luật, kinh tế, truyền thông, xã hội, văn hoá, môi trường

Trang 39

K IL

O B

O O

K S C O

M

+ Tham gia cùng các tổ chức đoàn thể và tổ chức xã hội, xây dựng, quản

lý và đánh giá các dự án phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và phát triển

2.1.2 Mẫu nghiên cứu

Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 228 sinh viên thuộc 3 Khoá (từ năm thứ nhất

đến năm thứ ba) của Khoa CTXH & PTCĐ thuộc trường Đại học Đà Lạt

Năm thứ nhất : 82 sinh viên

Năm thứ hai : 75 sinh viên

Năm thứ ba : 71 sinh viên

Biểu đồ 1: Cơ cấu khách thể nghiên cứu trên sinh viên

0 15 30 45 60 75 90

Sè sinh viªn

N¨m thø nhÊt N¨m thø hai N¨m thø ba

Ngoài ra, chúng tôi nghiên cứu trên 50 giáo viên (trong đó có 10 cán bộ

giảng dạy của Khoa, một số cán bộ đang được mời giảng cho sinh viên của Khoa

và các cán bộ giảng dạy của khoa: Đông Phương học, Du lịch, Ngữ văn, Khoa sư

phạm, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Lịch sử, Bộ môn Mác – Lênin

2.2 Các bước nghiên cứu

- Tìm đọc các tài liệu, sách tham khảo liên quan đến đề tài nghiên cứu và

xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu

- Xây dựng các phiếu điều tra, mẫu quan sát,…Xin ý kiến chuyên gia về

các phương pháp cụ thể sẽ được sử dụng Xác định mẫu nghiên cứu Tiến hành

điều tra thử

Trang 40

K IL

O B

O O

K S C O

M

- Chỉnh sửa, bổ sung để hoàn thiện các phiếu điều tra Tiến hành điều tra

chính thức

- Tiến hành phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu Viết báo cáo luận văn

2.3 Phương pháp nghiên cứu

2.3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Tìm đọc, phân tích và khái quát các công trình liên quan đến đề tài nghiên

cứu Qua đó xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu

2.3.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài này

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng để thu thập thông tin trên

sinh viên và cán bộ giảng dạy

*Đối với bảng hỏi dành cho sinh viên, chúng tôi xây dựng 29 câu hỏi,

trong đó có các câu hỏi đóng (đưa ra các phương án trả lời sẵn để người được

hỏi lựa chọn), câu hỏi mở (để cho người được hỏi tự đưa ra quan điểm của mình

về vấn đề nghiên cứu) và câu hỏi kết hợp (bao gồm các phương án lựa chọn sẵn

và các phương án do người được hỏi đưa ra) nhằm thu thập thêm thông tin

Nội dung của Phiếu điều tra gồm 5 phần:

Phần 1: Tìm hiểu về sự tích cực hoà nhập với nội dung học tập mới

- Các môn học mới (câu số 8)

- Các khái niệm mới (câu số 8)

- Các công thức mới (câu số 8)

- Khối lượng kiến thức của các môn học (câu số 7)

- Quá trình vận dụng kiến thức làm bài tập, giải quyết tình huống (câu số 9)

Phần 2: Tìm hiểu về việc tích cực hoà nhập với các điều kiện và phương

tiện dạy - học mới

- Việc sử dụng máy tính khi soạn thảo văn bản phục vụ cho bài kiểm tra,

tiểu luận… (câu số 18)

- Việc sử dụng máy tính, máy chiếu khi thuyết trình báo cáo trước lớp

(câu số 18)

Ngày đăng: 02/12/2015, 08:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Nguyễn Thị Coỏng (2003), Tính tích cực học tập và vấn đề tích cực hoá . hoạt động của sinh viên, Tạp chí Tâm lý học – Số 6/2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tính tích c"ự"c h"ọ"c t"ậ"p và v"ấ"n "đề" tích c"ự"c hoá . ho"ạ"t "độ"ng c"ủ"a sinh viên
Tác giả: Nguyễn Thị Coỏng
Năm: 2003
[2] Vũ Dũng (chủ biên), (2000), Từ điển Tâm lý học, Viện Tâm lý học Sách, tạp chí
Tiêu đề: T"ừ đ"i"ể"n Tâm lý h"ọ"c
Tác giả: Vũ Dũng (chủ biên)
Năm: 2000
[3] Hoàng Trần Doãn (1983), Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên Khoa Văn và Toán trường Đại học sư phạm I - Luận văn thạc sỹ Sách, tạp chí
Tiêu đề: S"ự" thích "ứ"ng v"ớ"i ho"ạ"t "độ"ng h"ọ"c t"ậ"p c"ủ"a sinh viên Khoa V"ă"n và Toán tr"ườ"ng "Đạ"i h"ọ"c s"ư" ph"ạ"m I
Tác giả: Hoàng Trần Doãn
Năm: 1983
[4] Trần Thị Minh Đức (2004), Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất - Đại học Quốc gia Hà Nội với môi trường đại học, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp Đại học Quốc gia. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên c"ứ"u s"ự" thích "ứ"ng c"ủ"a sinh viên n"ă"m th"ứ" nh"ấ"t - "Đạ"i h"ọ"c Qu"ố"c gia Hà N"ộ"i v"ớ"i môi tr"ườ"ng "đạ"i h"ọ"c
Tác giả: Trần Thị Minh Đức
Năm: 2004
[5] Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2002), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Giáo dục [ 6 ] Phạm Minh Hạc (1998), Tâm lý học Vư - gốt – xki, NXB Giáo dục[ 7 ] Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ (1989); Tâm lý học Tập I, II.NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuy"ể"n t"ậ"p Tâm lý h"ọ"c", NXB Giáo dục [6] Phạm Minh Hạc (1998), Tâm lý học Vư - gốt – xki, NXB Giáo dục [7] Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ (1989); "Tâm lý h"ọ"c T"ậ"p I, II
Tác giả: Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2002), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Giáo dục [ 6 ] Phạm Minh Hạc
Nhà XB: NXB Giáo dục [6] Phạm Minh Hạc (1998)
Năm: 1998

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Mức độ thích ứng học tập của sinh viên - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 1 Mức độ thích ứng học tập của sinh viên (Trang 47)
Bảng 2: Điểm trung bình của các chỉ số thích ứng học tập - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 2 Điểm trung bình của các chỉ số thích ứng học tập (Trang 48)
Bảng 4: Mức độ thích ứng với nội dung học tập mới - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 4 Mức độ thích ứng với nội dung học tập mới (Trang 51)
Bảng 5: Mức độ thích ứng với phương pháp học tập của sinh viên - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 5 Mức độ thích ứng với phương pháp học tập của sinh viên (Trang 55)
Bảng 6: Mức độ thích ứng với mối quan hệ bạn bè, thầy cô - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 6 Mức độ thích ứng với mối quan hệ bạn bè, thầy cô (Trang 57)
Bảng 7: Tình hình khắc phục khó khăn của sinh viên - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 7 Tình hình khắc phục khó khăn của sinh viên (Trang 59)
Bảng 9: Mối tương quan giữa các chỉ số của sự TƯHT với  sự TƯHT - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 9 Mối tương quan giữa các chỉ số của sự TƯHT với sự TƯHT (Trang 61)
Bảng 10: Điểm trung bình và sự khác biệt của sự thích ứng học tập của - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 10 Điểm trung bình và sự khác biệt của sự thích ứng học tập của (Trang 63)
Bảng 11: Sự khác biệt theo NSSTKHĐH và sự TƯHT của sinh viên - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 11 Sự khác biệt theo NSSTKHĐH và sự TƯHT của sinh viên (Trang 65)
Bảng 12: Sự khác biệt giữa KQHT và sự TƯHT của sinh viên - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 12 Sự khác biệt giữa KQHT và sự TƯHT của sinh viên (Trang 67)
Bảng 14 : Điểm số trung bình về sự TƯHT của 3 sinh viên sẽ được phân - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 14 Điểm số trung bình về sự TƯHT của 3 sinh viên sẽ được phân (Trang 69)
Bảng 17: Mối quan hệ giữa cách dạy và sự thích ứng học tập - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 17 Mối quan hệ giữa cách dạy và sự thích ứng học tập (Trang 74)
Bảng 18: Sự tìm hiểu về ngành học của sinh viên trước khi chọn ngành học - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 18 Sự tìm hiểu về ngành học của sinh viên trước khi chọn ngành học (Trang 76)
Bảng 19: Nhận thức về những yêu cầu mới của việc giảng dạy - học tập ở - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 19 Nhận thức về những yêu cầu mới của việc giảng dạy - học tập ở (Trang 78)
Bảng 20: Nguyên nhân chủ quan - Sự  thích  ứng  với  hoạt  động  học  tập  của  sinh  viên  Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt
Bảng 20 Nguyên nhân chủ quan (Trang 79)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w