CƠ SỞ LÝ LUẬN
TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI CHIM CÚT
Trên thế giới, sản lượng thịt chim cút tuy khiêm tốn so với thịt gia cầm nhưng đang phát triển nhanh chóng, chủ yếu phục vụ cho việc nuôi chim cút lấy trứng Trung Quốc, theo T.S Lin Qilu từ trường Đại học Nông nghiệp Nam Kinh, là quốc gia dẫn đầu trong chăn nuôi chim cút, với khoảng 1.040-1.360 triệu con được giết mổ mỗi năm sau 4 tuần nuôi, khi đạt trọng lượng khoảng 200g Trung Quốc sản xuất từ 146.000-190.000 tấn thịt chim cút hàng năm, chiếm 85% sản lượng toàn cầu Nếu tính cả số chim cút "thanh lý" sau 10 tháng đẻ, sản lượng thịt chim cút của Trung Quốc còn cao hơn nữa, với khoảng 315-350 triệu con.
Tây Ban Nha là một trong những nước xuất khẩu chim cút lớn, với sản lượng đạt 9.300 tấn vào năm 2004 và giữ nguyên con số này đến năm 2007, trong đó 75% sản phẩm được xuất khẩu Đối thủ chính của Tây Ban Nha trong lĩnh vực này là Pháp và Trung Quốc Cụ thể, Pháp sản xuất 8.938 tấn vào năm 2005, giảm xuống 8.197 tấn năm 2006 và đạt 8.200 tấn năm 2007, với lượng xuất khẩu khoảng 2.000 tấn mỗi năm; riêng năm 2007, Pháp đã xuất khẩu tới 3.782 tấn.
EU nhƣ Bỉ và Đức là những nhà nhập khẩu chủ yếu của Pháp và Tây Ban Nha
Trong 6 năm qua, mỗi năm nước Ý giết thịt 20-24 triệu con (3.300- 3.600 tấn thân thịt chim cút), xuất khẩu đƣợc khoảng 600-650 tấn / năm.
Năm 2002, Mỹ có 1.907 trang trại nuôi chim cút với hơn 19 triệu con, sản xuất từ 2.674 đến 4.011 tấn thịt Bang Georgia dẫn đầu về sản lượng, tiếp theo là Bắc Carolina, Texas và Alabama Ngoài ra, Mỹ cũng nhập khẩu chim cút thịt, chủ yếu từ Canada, với 628 tấn được xuất khẩu vào Hoa Kỳ trong năm 2007.
Bra-xin là một đối thủ cạnh tranh mạnh trong ngành gia cầm, đặc biệt là trong lĩnh vực chim cút Năm 2007, sản lượng chim cút đạt 1.200 tấn, với tốc độ phát triển 10% mỗi năm Hầu hết sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang thị trường Trung Đông.
Thịt chim cút có nhiều lợi ích sức khỏe, tương tự như thịt gà nhưng tốt hơn nhờ hàm lượng protein cao và chất béo thấp, giảm tới 60%-80% khi bỏ da Ngoài ra, thịt chim cút chứa mỡ không no và axit béo không bão hòa, cùng với khoáng chất phong phú như phospho, sắt, đồng, kẽm và selenium, mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho người tiêu dùng.
3 giàu Vitamin niacin (vitamin B3) và pyridoxine (vitamin B6) hơn một cách đáng kể so với thịt gà
Nghề nuôi chim cút tại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây nhờ vào thịt và trứng chim cút được ưa chuộng Chim cút có thời gian thu hoạch ngắn, chỉ từ 40-45 ngày, và chim mái bắt đầu đẻ trứng sau 45 ngày nuôi Đặc biệt, chim cút có năng suất đẻ trứng cao, với tỷ lệ trứng so với trọng lượng cơ thể vượt trội so với các loại gia cầm khác như gà và đà điểu Mức tiêu thụ thức ăn cho mỗi gram trứng của chim cút chỉ là 2g, thấp hơn so với gà Ngoài ra, chim cút dễ nuôi, ít bệnh tật, yêu cầu chuồng trại đơn giản và đầu tư ban đầu thấp, làm cho nghề này thu hút nhiều hộ nông dân.
Bảng 2.1: Sản lượng thịt chim cút năm 2007 tại một số nước cao nhất thế giới (tấn/năm)
Nguồn: Worldpoultry, Vol 25 số 2; WWW //: Quail meat – an undiscovered alternative, 01 tháng 2 năm
Năm 1971, miền Bắc Việt Nam đã nhập trứng cút từ Pháp để phục vụ cho việc nhân giống tại Viện Chăn nuôi Hiện nay, đàn cút giống nuôi ở nước ta đều có nguồn gốc từ đàn cút này.
Màu sắc vỏ trứng là yếu tố quan trọng để phân biệt các giống chim cút, trong đó trứng cút Pharaoh có nền trắng với đốm đen lớn, trứng cút Pháp có nền trắng với đốm đen nhỏ như đầu đinh ghim, và trứng cút Anh có nền nâu nhạt với đốm đen lớn Hiện tại, việc nhập giống chim mới đã ngừng lại, khiến các giống chim cút thuần trở nên hiếm hoi, trong khi thị trường chủ yếu cung cấp chim lai tạp, dẫn đến chất lượng con giống không cao và vỏ trứng có màu sắc lẫn lộn Để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi, vào tháng 4/1997, Viện Chăn nuôi đã nhập thêm chim cút Nhật Bản và chim cút Mỹ.
Thịt và trứng chim cút ngày càng trở nên phổ biến trên thị trường, với chăn nuôi chim cút trở thành một nghề ưa chuộng của nhiều hộ nông dân, quy mô từ vài trăm đến hàng chục ngàn con Hiện nay, tổng đàn chim cút trong cả nước đã đạt hàng chục triệu con, cho thấy tốc độ phát triển mạnh mẽ nhờ vào kỹ thuật chăn nuôi đơn giản và ít rủi ro hơn so với các loại gia cầm khác.
Hiện nay, trên thị trường, thịt chim cút rất được ưa chuộng vì chúng có giá trị dinh dƣỡng rất cao.
NGUỒN GỐC CHIM CệT
Chim cun cút, hay còn gọi là chim cút, có nguồn gốc từ Châu Á và thích nghi tốt với khí hậu ấm áp Chúng thuộc nhóm chim bay (carinatae) với 25 bộ, trong đó có Bộ gà (Galliformes) bao gồm các loài như gà, gà lôi, công, trĩ và chim cút Đặc điểm của chim cút là cánh ngắn, tròn, khả năng bay kém, chân to khỏe và móng cùn, cùng với mỏ ngắn giúp chúng bới đất tìm kiếm thức ăn.
Chim cút Nhật Bản (Coturnix coturnix japonica) lần đầu tiên được thuần hóa ở Nhật Bản vào thế kỷ XI, ban đầu được nuôi làm chim cảnh và chim hót Đến năm 1900, chúng bắt đầu được nuôi để lấy thịt và trứng, và nhanh chóng lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Chim cút có nhiều giống khác nhau, bao gồm những giống chuyên nuôi để lấy thịt, lấy trứng, phục vụ săn bắn như giống cút Bobwhite, và những giống nuôi làm cảnh như cút Singing quail với âm thanh hót đặc trưng.
NHU CẦU DINH DƢỠNG
Protein là thành phần cấu trúc quan trọng nhất trong cơ thể chim, đóng vai trò như "chất mang sự sống" Những đặc tính này đảm bảo chức năng thiết yếu của protein trong việc duy trì sự sống và phát triển của các loài chim.
5 rất to lớn và đa dạng Trong cơ thể chim, protein không đƣợc tổng hợp từ gluxit hay lipit mà nó chỉ đƣợc tổng hợp từ các axit amin
Nhu cầu protein của chim bao gồm hai phần: duy trì và sản xuất, được tính bằng số gam protein thô mỗi ngày cho mỗi con Trong khẩu phần ăn, nhu cầu protein thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm (%) protein thô Để xác định tỷ lệ protein phù hợp trong từng loại thức ăn, cần biết nhu cầu protein hàng ngày (gam/con/ngày) cho từng loại chim, dựa trên khả năng thu nhận thức ăn hàng ngày của chúng.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein của chim
Nhu cầu protein của chim bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng Tuy nhiên, nhu cầu này chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố như độ tuổi, giống loài, mức độ hoạt động và điều kiện môi trường sống.
Mỗi loài, giống hay dòng chim sở hữu kiểu di truyền riêng, dẫn đến sự khác biệt về ngoại hình, kích thước, năng suất và cách trao đổi chất Do đó, nhu cầu về protein của chúng cũng khác nhau.
Khả năng sinh trưởng càng nhanh, khả năng đẻ trứng càng cao, khối lƣợng trứng càng lớn thì nhu cầu protein cũng càng cao
Nhiệt độ môi trường cao, chim sẽ ăn ít đi và ngược lại
Mức năng lượng của khẩu phần
Chim ăn thức ăn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu năng lượng Khi đã đạt đủ năng lượng cần thiết, chúng sẽ ngừng ăn, mặc dù vẫn còn thiếu các chất dinh dưỡng khác.
Một con chim cần 83 kcal năng lượng và 6,18g protein mỗi ngày Để đáp ứng nhu cầu này, nếu khẩu phần có nồng độ năng lượng trao đổi là 3200 kcal/kg, chim cần tiêu thụ 26g thức ăn mỗi ngày Đồng thời, nồng độ protein trong khẩu phần phải đạt 23,8% để cung cấp đủ 6,18g protein cần thiết.
Nếu ta dùng khẩu phần khác, có nồng độ ME là 2900 kcal/kg, để đảm bảo 83 kcal, chim phải ăn 28,6g thức ăn, khi đó trong khẩu phần chỉ cần
21,6% protein đã đủ nhu cầu 6,17g Nhƣ vậy, năng lƣợng là “chìa khóa chính” để lập khẩu phần
Lượng thức ăn thu nhận
Nhu cầu protein của chim được xác định bằng lượng protein thô (CP) cần thiết cho mỗi con trong một ngày Chim không thể hấp thụ protein một cách riêng lẻ mà cần phải tiêu thụ protein cùng với các chất dinh dưỡng khác theo tỷ lệ hợp lý Trong khẩu phần ăn, protein thường được biểu thị dưới dạng phần trăm (%) của protein thô, vì vậy lượng thức ăn mà chim tiêu thụ có tác động lớn đến nhu cầu protein trong khẩu phần ăn của chúng.
Dinh dưỡng protein thực chất là dinh dưỡng axit amin, vì axit amin là thành phần cấu tạo cơ bản của protein Dựa vào nhu cầu dinh dưỡng của động vật, axit amin được chia thành hai loại: axit amin thay thế được và không thay thế được Trong số đó, có 10 axit amin không thay thế được gồm valine, leucine, izoleucine, lysine, histidine, threonine, methionine, phenylalanine, tryptophan và arginine.
2.3.2.1 Phương pháp biểu thị nhu cầu axit amin trong khẩu phần
Trong dinh dưỡng, nhu cầu axit amin chủ yếu là axit amin không thay thế, vì sự thiếu hụt bất kỳ axit amin nào trong khẩu phần ăn có thể gây rối loạn quá trình tổng hợp protein và phá hủy trao đổi chất của cơ thể Điều này dẫn đến sự giảm sút khả năng sinh trưởng và sức sản xuất Do đó, việc cung cấp đầy đủ các axit amin không thay thế theo nhu cầu của từng loại là rất cần thiết.
Có 4 cách thông thường biểu thị nhu cầu axit amin là số gam axit amin cho một con /ngày; số gam axit amin cho 1000 kcal năng lƣợng trao đổi của khẩu phần; tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo khẩu phần; tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo protein
Hiện nay cách biểu thị nhu cầu axit amin phổ biến nhất cách thứ ba: tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo khẩu phần
2.3.2.2 Xác định nhu cầu axit amin
Theo Fisher (1994), khi xác định nhu cầu axit amin cho chim, cần chú ý đến các yếu tố như nhu cầu cho khối lượng tối đa, hiệu quả chuyển hóa thức ăn tối ưu, tỷ lệ thịt xẻ tối đa, thành phần hóa học của thịt tối ưu và tỷ lệ thịt lườn cao nhất.
Nhu cầu axit amin là rất quan trọng để tối ưu hóa hiệu quả chuyển hóa thức ăn và nâng cao năng suất thịt lườn, đặc biệt là đối với các loài gia cầm khác ngoài đà điểu, thường cao hơn nhu cầu cho khối lượng tối đa.
Khi xác định nhu cầu axit amin không thay thế cho chim, lysine thường được chọn làm axit amin tham chiếu Cân bằng lý tưởng axit amin trong khẩu phần ăn cho chim thay đổi tùy thuộc vào mục đích sản xuất Để tối ưu hóa sự tích lũy thịt nạc, cần cung cấp mức lysine cao trong khẩu phần ăn của chúng.
Một yếu tố quan trọng trong dinh dưỡng là sự cân bằng axit amin Tất cả các axit amin cần thiết đều phải được cung cấp qua chế độ ăn uống, vì cơ thể không có khả năng dự trữ chúng Thiếu một axit amin không thay thế có thể cản trở việc tổng hợp protein từ các axit amin khác, dẫn đến việc chúng được sử dụng như nguồn năng lượng và gây lãng phí Hơn nữa, tình trạng này cũng có thể làm giảm cảm giác thèm ăn, ảnh hưởng đến sự phát triển và gây mất cân bằng nitơ trong cơ thể.
Phân loại axit amin thành hai nhóm thay thế và không thay thế đối với chim chỉ mang tính tương đối Điều quan trọng nhất trong dinh dưỡng axit amin là sự hiện diện đồng thời của các axit amin trong tế bào theo yêu cầu Việc thiếu hụt bất kỳ axit amin nào, dù là thay thế hay không thay thế, đều có thể dẫn đến những hậu quả tương tự.
KỸ THUẬT NUÔI
Giai đoạn chim cút non (0-3 tuần tuổi)
Chim con có thân nhiệt chưa ổn định và sức đề kháng yếu, trong khi các cơ quan bộ phận chưa hoàn thiện Do đó, để đạt kết quả tốt trong quá trình nuôi dưỡng, cần áp dụng qui trình chăm sóc phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của chúng.
Thực hiện quy trình úm chim non
Khi thả chim vào quây, hãy cho chúng uống nước ngay lập tức, pha 50g đường glucoz và 1g vitamin C vào 1 lít nước cùng với chất điện giải theo hướng dẫn của nhà sản xuất để chim con uống trong 2 giờ đầu tiên Sau đó, bạn có thể bắt đầu cho chim ăn tự do Nếu biết rõ thời gian chim nở, cần đợi ít nhất 6 giờ trước khi cho ăn, vì việc cho ăn quá sớm hoặc quá muộn có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh trưởng và sức khỏe của đàn chim.
Trong tuần lễ đầu, nên cho ăn tự do để đảm bảo sự phát triển Nếu cho ăn theo bữa, hãy đổ và lắc thức ăn 6 lần mỗi ngày Số bữa ăn hàng ngày sẽ giảm dần theo từng tuần tuổi, bắt đầu từ tuần thứ hai với 4-3 lần đổ và lắc thức ăn mỗi ngày.
Yêu cầu về nhiệt độ và độ ẩm
Khả năng điều tiết nhiệt của cơ thể chim con còn rất kém, nhất là trong
Trong 10 ngày tuổi, chim cút non rất nhạy cảm với nhiệt độ môi trường; trong 4 ngày đầu, nếu nhiệt độ chỉ từ 1-10°C, tỷ lệ chết có thể lên tới 40-50% Sau 10 ngày, tỷ lệ chết có thể đạt 60%, và những con còn lại thường sinh trưởng kém, còi cọc, ảnh hưởng đến năng suất sau này Do chim cút non yếu hơn gà con, việc chăm sóc cần được thực hiện cẩn thận để đảm bảo tỷ lệ nuôi sống cao Ngoài việc kiểm soát nhiệt độ trong chuồng nuôi, cần chú ý đến nhiệt độ trên sàn và lớp độn chuồng để đảm bảo sự phát triển tốt cho chim con.
Bảng 2.2: Nhiệt độ thích hợp cho cút
Nhiệt độ dưới chụp sưởi
Để đảm bảo sưởi ấm cho chim con, trong giai đoạn đầu, cần nuôi chúng trong quây cao 45cm và đường kính 2m, có thể chứa từ 600-1000 chim con 1 ngày tuổi Vào mùa đông, quây nên được nới rộng sau tuần thứ hai và bỏ quây sau tuần thứ ba, trong khi mùa hè có thể bỏ quây sau tuần thứ hai Thời gian bỏ quây phụ thuộc vào sức khỏe của đàn chim và nhiệt độ chuồng nuôi Mỗi quây cần sử dụng một chụp sưởi 50W treo cao 50cm Sau khoảng 2 tuần tuổi, chim có thể được chuyển sang lồng sắt có độ cao vừa phải để tránh chấn thương khi bay dựng ngược lên.
Quan sát trạng thái đàn chim trong quá trình nuôi úm là phương pháp hiệu quả nhất để xác định xem nhiệt độ có phù hợp hay không, thay vì chỉ dựa vào nhiệt kế.
Nếu đàn chim tập trung lại thành đám dưới chụp sưởi là hiện tượng bị lạnh (thiếu nhiệt), phải hạ thấp chụp sưởi hoặc bổ sung thêm chụp sưởi.
Khi đàn chim tản ra xa chụp sưởi, điều này cho thấy nhiệt độ trong môi trường quá cao, cần nâng chụp sưởi lên hoặc giảm bớt đèn sưởi Ngược lại, nếu đàn chim phân bố đều trong quây hoặc lồng nuôi, đi lại và ăn uống bình thường, thì đó là dấu hiệu cho thấy nhiệt độ đang ở mức thích hợp.
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
PHƯƠNG TIỆN THÍ NGHIỆM
Thí nghiệm đƣợc thực hiện từ tháng 8 dến tháng 10 năm 2014 Địa điểm
Thí nghiệm đƣợc thực hiện tại trại thực nghiệm Đại học Trà Vinh, Thành phố Trà Vinh, Tỉnh Trà Vinh Động vật thí nghiệm
Chim cút đƣợc lấy lúc 1 ngày tuổi từ lò ấp trứng Nguyễn Minh Triết, ấp
8, xã Tân An Luông, Vũng Liêm-Vĩnh Long và đƣợc đƣa vào thí nghiệm lúc
Hình 3.1 Chim cút thí nghiệm
Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là hỗn hợp thức ăn cho cút từ 1-40 ngày tuổi, đảm bảo còn mới, có mùi thơm và không bị nấm mốc hay vón cục Để duy trì chất lượng, thức ăn được bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng mát.
Khi cho các nghiệm thức ăn thì trộn thức ăn hỗn hợp với các khoáng với tỉ lệ đã cho
Nghiệm thức đối chứng: đƣợc cho ăn thức ăn hỗn hợp của trại Thành phần dinh dƣỡng của thức ăn của trại đƣợc thể hiện qua Bảng 3.1
Bảng 3.1: Thành phần dinh dƣỡng thức ăn của trại
Thành phần Đơn vị Hàm lƣợng
Năng lƣợng trao đổi Kcal/kg 2950
Nguồn: Thức ăn của trại
Nghiệm thức Plastin: thức ăn hỗn hợp của trại + 0,33% chế phẩm Plastin Chế phẩm Plastin đƣợc mua tại công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Bảng 3.2: Thành phần chế phẩm Plastin
Thành phần Đơn vị Hàm lƣợng
Nguồn: Công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Hình 3.2 Chế phẩm Plasin bổ sung vào thức ăn
Nguồn: Công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Nghiệm thức Mƣợt lông (ML): thức ăn hỗn hợp của trại + 0,5% chế phẩm ML Chế phẩm ML đƣợc mua tại công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Bảng 3.3: Chỉ tiêu chất lƣợng ML
Chỉ tiêu Đơn vị Hàm lƣợng Ẩm độ (max) % 12
Chất mang vừa đủ Kg 1
Nguồn: Công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Hình 3.3 Chế phẩm Mƣợt lông bổ sung vào thức ăn
Nguồn: công ty TNHH thuốc thú y Á Châu
Thí nghiệm đƣợc bố trí vào 2 chuồng nuôi Mỗi chuồng nuôi có 3 tầng, mỗi tầng cách nhau 15cm, tầng thấp nhất cách mặt đất 50cm Mỗi tầng gồm có
20 ô thí nghiệm Mỗi ô thí nghiệm có kích thước 10 x 10 x 15cm
Khung chuồng được thiết kế bằng gỗ chắc chắn và được bao bọc bằng lưới kẽm Trên nóc có hai tầng, bên dưới được lót một tấm nhựa để hứng phân hiệu quả Để ngăn chặn chim cút di chuyển giữa các ô thí nghiệm, giữa các ô được phân chia bằng lưới nhựa.
Chuồng thí nghiệm được lắp đặt hệ thống nước uống tự động bằng núm uống, nước được lấy từ nguồn nước của trại
Hệ thống máng ăn được thiết kế bằng ống nhựa kéo dài theo chiều dài chuồng nuôi, với các tấm nhựa cứng ngăn cách giữa các ô thí nghiệm thức ăn, giúp đảm bảo tính hiệu quả và vệ sinh trong quá trình cho ăn.
Để thực hiện thí nghiệm, cần chuẩn bị các dụng cụ như cân điện tử để đo khối lượng cút và thức ăn, bao nilon để đựng thức ăn đã cân, xô để pha trộn thức ăn, cùng với sổ ghi chép số liệu.
PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
Trong nghiên cứu này, tổng cộng 90 chim cút 11 ngày tuổi được đưa vào thí nghiệm và theo dõi đến 39 ngày tuổi Thí nghiệm được thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức và 3 lần lặp lại, mỗi đơn vị thí nghiệm gồm 10 chim cút được bố trí chung trống mái Tất cả chim cút trong thí nghiệm đều được cho ăn cùng một loại thức ăn hỗn hợp từ trại, nhưng khác nhau về hàm lượng bổ sung chế phẩm trong khẩu phần.
Các nghiệm thức thí nghiệm gồm:
Nghiệm thức đối chứng: 100% thức ăn hỗn hợp của trại
Nghiệm thức Plastin: thức ăn hỗn hợp của trại + 0,33% chế phẩm Plastin Nghiệm thức ML: thức ăn hỗn hợp của trại + 0,5% chế phẩm Mƣợt lông
3.2.2 Các chỉ tiêu theo dõi
3.2.2.1 Sự tăng trưởng của chim cút Đƣợc xác định bằng cách cân khối lƣợng chim cút ban đầu khi bắt đầu thí nghiệm và theo dõi khối lƣợng của chim cút ở từng ô thí nghiệm
Hình 3.5 Hệ thống máng ăn và nước uống
Chim cút sau 4 ngày sẽ đƣợc cân một lần vào buổi sáng cho đến hết thời gian thí nghiệm Tăng trọng của chim cút đƣợc tính theo công thức:
Tăng trọng của chim cút sau 4 ngày = khối lƣợng chim cút 4 ngày sau – khối lượng chim cút lần cân trước đó
Tăng trọng bình quân mỗi ngày
3.2.2.2 Tiêu tốn thức ăn của chim cút
Cân lƣợng thức ăn cho chim cút vào mỗi buổi sáng và cho vào máng ăn, sau đó tiến hành cân thức ăn dƣ sau 4 ngày cho từng ô thí nghiệm Quá trình này được thực hiện đồng thời với việc cân trọng lƣợng của chim cút.
Tiêu tốn thức ăn trong mỗi đơn vị thí nghiệm là hiệu số của thức ăn cho vào và lƣợng thức ăn thừa sau 4 ngày/lần
Tiêu tốn thức ăn mỗi ngày (g/con/ngày)
3.2.2.3 Hệ số chuyển hóa thức ăn (HSCHTA)
3.2.2.4 Các chỉ tiêu mổ khảo sát
Sau khi thí nghiệm kết thúc, các con vật sẽ được mổ khảo sát để theo dõi các chỉ tiêu như khối lượng sau khi nhổ lông, khối lượng thân thịt, tỷ lệ sau nhổ lông và tỷ lệ thân thịt.
3.2.2.5 Theo dõi quá trình mọc lông và thay lông
Trong suốt thời gian nuôi thí nghiệm ghi nhận quá trình phát triển của chim cút nhƣ thời điểm mọc lông, thời điểm thay lông
3.2.2.6 Theo dõi tình trạng chim cút và tỉ lệ nuôi sống
Hàng ngày, việc kiểm tra nước, thức ăn và các bệnh lý của chim cút thí nghiệm được thực hiện hai lần, vào buổi sáng và chiều tối Chim cút chết sẽ được ghi nhận và mổ khám để xác định nguyên nhân tử vong, từ đó tính toán tỷ lệ sống sót.
3.3 CHĂM SÓC VỆ SINH VÀ PHÒNG BỆNH
Trước khi cho chim cút nhập chuồng, cần sát trùng vệ sinh chuồng trại và các dụng cụ chăn nuôi từ 3 đến 5 ngày Để đảm bảo sức khỏe cho cút con, hãy sưởi ấm lồng trước khi cho chúng vào Đồng thời, điều chỉnh nhiệt độ lồng úm phù hợp với sự thay đổi của thời tiết Mỗi ngày, hãy thay bao lót chuồng và quét dọn chuồng để giữ vệ sinh.
Vào ngày đầu tiên sau khi bắt cút, cần cho chim cút uống vitamin C và hạn chế lượng thức ăn Đến ngày thứ 11, hãy chuyển chim cút vào lồng chuồng thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn nước uống.
Trong thí nghiệm, các loại thuốc được sử dụng bao gồm vitamin, kháng sinh và thuốc sát trùng chuồng trại Trong giai đoạn úm, cút con được cho uống đường Glucose và vitamin C Để phòng và trị bệnh tiêu chảy, cầu trùng, các kháng sinh như Anticoc và Viacox được áp dụng trong giai đoạn thí nghiệm Tất cả cút đều được tiêm vaccine theo lịch trước khi bắt đầu thí nghiệm.
3.4 PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Dữ liệu được phân tích bằng mô hình tuyến tính tổng quát (General Linear Model) thông qua phần mềm Minitab (phiên bản 16.2) Sự khác biệt có ý nghĩa giữa các giá trị trung bình trong và giữa các nghiệm thức được xác định theo phương pháp Tukey với mức ý nghĩa alpha < 0,05.
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Dữ liệu được phân tích bằng mô hình tuyến tính tổng quát (General Linear Model) thông qua phần mềm Minitab (Minitab Release 16.2) Sự khác biệt có ý nghĩa giữa các giá trị trung bình trong và giữa các nghiệm thức được xác định theo phương pháp Tukey với mức ý nghĩa alpha < 0,05.
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
TĂNG TRỌNG QUA CÁC GIAI ĐOẠN
Bảng 4.2: Tăng trọng của chim cút ở 3 thí nghiệm qua các giai đoạn (g/con/ngày)
SEM P Đối chứng ML Plastin
Tăng trọng toàn thí nghiệm 112,65 b 120,24 a 115,80 ab 1,17 0,01 Tăng trọng trung bình (g/con/ngày) 3,52 b 3,76 a 3,62 ab 0,04 0,01
Theo Bảng 4.2, trong giai đoạn 23-27 ngày tuổi, chim cút thí nghiệm có mức tăng trọng cao nhất là 4,96; 5,16; và 4,82 g/con/ngày Tuy nhiên, từ 27 ngày tuổi trở đi, mức tăng trọng của chim cút bắt đầu giảm so với giai đoạn trước.
Kết quả thí nghiệm cho thấy chim cút 27 ngày tuổi có sự tăng trọng không đồng đều qua các tuần tuổi, tương tự như nghiên cứu của Bùi Hữu Đoàn Tăng trọng đạt đỉnh cao nhất ở giai đoạn 21-28 ngày tuổi với mức tăng 4,93 g/con/ngày, sau đó giảm dần trong các ngày tuổi tiếp theo.
Trong nghiên cứu về tăng trọng của chim cút qua các giai đoạn của ba nghiệm thức không đồng đều nhau, nghiệm thức Plastin cho thấy tăng trọng cao nhất ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối Trong khi đó, nghiệm thức ML lại có tăng trọng cao nhất ở các giai đoạn còn lại Mặc dù sự khác biệt giữa các nghiệm thức trong từng giai đoạn không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa ở tăng trọng toàn thí nghiệm và tăng trọng trung bình, với nghiệm thức ML đạt mức cao nhất và nghiệm thức đối chứng đạt mức thấp nhất Sự chênh lệch này có thể được giải thích bởi thời gian thí nghiệm dài, dẫn đến sự khác biệt lớn hơn giữa các nghiệm thức.
TIÊU TỐN THỨC ĂN
Trong quá trình thí nghiệm số liệu thức ăn chim cút ăn đƣợc thu thập và trình bày trong Bảng 4.3
Bảng 4.3: Lƣợng thức ăn chim cút tiêu thụ (g/con/ngày)
SEM P Đối chứng ML Plastin 11-15 ngày tuổi 7,62 7,39 6,95 0,38 0,49
Ghi chú: a,b các giá trị cùng hàng mang ít nhất một chữ ký hiệu chung không sai khác nhau ở P = 0,05
Theo Bảng 4.3, không có sự khác biệt đáng kể về lượng thức ăn tiêu thụ giữa các nghiệm thức trong suốt thời gian thí nghiệm, với lượng thức ăn trung bình mỗi ngày cũng không khác biệt (P>0,05) Sự tương đồng này có thể được giải thích bởi các thức ăn bổ sung không kích thích thèm ăn của chim cút, do đó, lượng thức ăn tiêu thụ chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên của chúng và thời gian thí nghiệm ngắn.
HỆ SỐ CHUYỂN HÓA THỨC ĂN
Dựa trên số liệu từ Bảng 4.1 và Bảng 4.2, kết quả về hệ số chuyển hóa thức ăn (HSCHTA) của các nghiệm thức được ghi nhận cách nhau 4 ngày trong suốt giai đoạn thí nghiệm Thông tin chi tiết về HSCHTA qua các ngày tuổi và toàn bộ giai đoạn của chim cút thí nghiệm được trình bày trong Bảng 4.4.
Bảng 4.4: Hệ số chuyển hóa thức ăn của chim cút (kg thức ăn/kg tăng trọng)
SEM P Đối chứng ML Plastin 11-15 ngày tuổi 0,1516 0,1424 0,1305 109,04 0,44 15-19 ngày tuổi 0,3171 0,2732 0,3089 153,22 0,18 19-23 ngày tuổi 0,3693 0,3268 0,3508 129,69 0,15 23-27 ngày tuổi 0,3348 0,3042 0,3358 134,55 0,25 27-31 ngày tuổi 0,5089 0,4342 0,4376 380,28 0,36 31-35 ngày tuổi 0,5856 0,4653 0,5894 583,51 0,30 35-39 ngày tuổi 0,6512 0,6541 0,5536 565,84 0,42 HSCHTA Trung bình 0,3825 a 0,3452 b 0,3615 ab 74,91 0,03
Ghi chú: a,b các giá trị cùng hàng mang ít nhất một chữ ký hiệu chung không sai khác nhau ở P = 0,05
Theo Bảng 4.4, hệ số chuyển hóa thức ăn ở các ngày tuổi không có sự khác biệt đáng kể (P>0,05) Mặc dù vậy, hệ số chuyển hóa thức ăn trung bình lại có sự khác biệt do khối lượng và lượng thức ăn mà chim cút tiêu thụ giữa các ngày tuổi không lớn, dẫn đến hệ số chuyển hóa thức ăn chưa có sự khác biệt rõ rệt.
ML là thấp nhất do khả năng hấp thu tốt chất dinh dƣỡng của chim cút nghiệm thức ML có thành phần là các vitamin và ion kẽm
Theo Bùi Hữu Đoàn (2009), từ 35 ngày tuổi trở đi, HSCHTA sẽ tăng cao hơn so với giai đoạn đầu Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lã Thị Thu Minh (2000), cho thấy việc chiếu sáng vào ban đêm kích thích gia cầm ăn nhiều hơn Tuy nhiên, nếu thời gian chiếu sáng kéo dài, sẽ làm tăng nhu cầu về thức ăn và kích thích sự phát triển của cơ thể, nhưng đồng thời cũng giảm hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm tăng trọng.
Hình 4.2 Hệ số chuyển hóa thức ăn trung bình
MỔ KHẢO SÁT
Sau 39 ngày tuổi, cút sẽ được mổ khảo sát để đánh giá khối lượng và tỷ lệ thịt Kết quả thu được sẽ được trình bày trong Bảng 4.5.
Bảng 4.5: số liệu mổ khảo sát
Khối lƣợng sống 137,23 ab 142,93 a 131 b 1,54 0,005 Khối lƣợng sau nhổ lông 128,23 b 134,43 a 123,13 b 1,29 0,002 Khối lƣợng thân thịt 93,42 b 100,43 a 90,05 b 1,09 0,001
Tỉ lệ sau nhổ lông 93,44 94,07 94 0,68 0,80
Ghi chú: a,b các giá trị cùng hàng mang ít nhất một chữ ký hiệu chung không sai khác nhau ở P = 0,05
Theo số liệu từ Bảng 4.5, khối lượng sau nhổ lông, khối lượng thân thịt và tỷ lệ thân thịt có sự khác biệt có ý nghĩa (P