Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; với việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi chức năng k
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HOÀN
KIÓM S¸T VIÖC TU¢N THEO PH¸P LUËT CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TRONG Tè TôNG D¢N Sù -
QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Hoàn
Trang 3MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 4
1.1 Vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước 4
1.2 Nhận thức chung về tố tụng dân sự 12
1.3 Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 15
1.3.1 Chức năng 15
1.3.2 Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 17
1.3.3 Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 38
1.4 Vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân đối với công cuộc cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân 39
1.5 Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 48
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 52
2.1 Thực trạng chung của công tác kiểm sát trong tố tụng dân sự 52
2.1.1 Kết quả đạt được 53
2.1.2 Hạn chế tồn tại 53
2.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế nhược điểm trên 55
Trang 42.2 Công tác thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong
giai đoạn hiện nay 58
2.2.1 Công tác kiểm sát việc thụ lý giải quyết các vụ, việc dân sự 62
2.2.2 Kết quả đạt được và những ưu điểm 63
2.2.3 Những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân 69
2.3 Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa 72
2.3.1 Trong năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa thực hiện công tác kháng nghị trong tố tụng dân sự 75
2.3.2 Những đóng góp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa trong công tác xây dựng ngành 90
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 95
3.1 Những giải pháp cơ bản về đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 95
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tư pháp phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp 95
3.1.2 Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát dân sự nhận thức đúng đắn về chức năng nhiệm vụ 96
3.1.3 Về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 97
3.2 Một số kiến nghị cụ thể về đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 98
KẾT LUẬN 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
Trang 5MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao
Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ 01/01/2005 Sau 6 năm thực hiện đã phát sinh một số vấn
đề vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp Để khắc phục những vướng mắc, bất cập của đạo luật này, ngày 29/3/2011, Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012
Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; với việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh; thẩm quyền phạm vi tham gia tố tụng của Viện kiểm sát được xác định cụ thể và rộng hơn so với trước, đặc biệt mở rộng phạm vi tham gia các phiên toà xét xử dân sự sơ thẩm, phúc thẩm
Một trong những điểm sửa đổi bổ sung lớn nhất của Bộ luật tố tụng dân sự lần này là mở rộng phạm vi trách nhiệm tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát, theo đó Viện kiểm sát có trách nhiệm phải tham gia phiên toà sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự trong 4 trường hợp: những vụ án dân sự
do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ; những vụ án dân sự có đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng; quyền sử dụng đất, nhà ở; đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự
Trang 6Từ những lý do đã phân tích trên, học viên xin chọn đề tài “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài Luận văn thạc sĩ
2 Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, luận án thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự …
Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung có hiệu lực ngày 01/01/2012 đã mở rộng phạm vi, thẩm quyền tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân Vì vậy, có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ về nội dung mới sửa đổi bổ sung này
3 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, khái quát về việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ, việc dân sự qua làm cơ sở thực tiễn của nghiên cứu đề tài
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự trong ngành Kiểm sát đáp ứng yêu cầu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong chiến lược cải cách tư pháp
- Hệ thống những lý luận cơ bản về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự trong ngành Kiểm sát
- Đánh giá kết quả đã đạt được của công tác này trong ngành Kiểm sát khi
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung về chức năng nhiệm vụ
- Đưa ra một số vướng mắc và giải pháp mang tính kiến nghị của Viện kiểm sát trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành trên công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của ngành Kiểm sát nhân dân
- Phạm vi nghiên cứu: trong ngành Kiểm sát nhân dân
- Thời gian từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi có hiệu lực 01/01/2012 đến 30/12/2013
Trang 75 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra, tổng kết thực tiễn
6 Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm
2011, có hiệu lực 01/01/2012, đến nay hơn 2 năm thực hiện chắc chắn có rất nhiều điểm mới so với các đề tài nghiên cứu trước Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự
- Thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát có sự thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự Bước đầu, tuy còn nhiều khó khăn nhưng Viện kiểm sát
đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hi vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu cho các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, giảng dạy
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 3: Giải pháp đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Trang 81992, Hiến pháp sửa đổi lần này đã đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực; trong
đó tư tưởng về con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân được xác định là tư tưởng đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là mục tiêu hướng đến của các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Những yêu cầu của Hiến pháp về dân chủ, pháp quyền, đề cao con người có ý nghĩa tác động trực tiếp đến các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, đòi hỏi các thiết chế này phải thực sự đổi mới trong nhận thức, tổ chức và hoạt động
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp; bổ sung một số nguyên tắc tiến bộ của hoạt động tố tụng tư pháp như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, tiếp tục khẳng định và ghi nhận mới một số quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp v.v
Những điều chỉnh nêu ở trên của Hiến pháp đó đặt trách nhiệm rất cao với các cơ quan tư pháp, yêu cầu phải tổ chức công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo tinh thần mới Hoạt động tư pháp không chỉ dừng lại ở mục tiêu phát hiện, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật mà còn phải tôn trọng
Trang 9con người, vì sự phát triển của con người, đề cao dân chủ và phải đứng trên quan điểm đó để chứng minh tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân phải trở thanh mục tiêu và động lực hướng tới của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân Đây chính
là thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chính là nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội
Thực hành quyền công tố hiểu một các khái quát là hoạt động nhằm phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tư pháp nói riêng ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực đó được khẳng định trong Hiến pháp Chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh
Hiến pháp khẳng định trong điều kiện cụ thể của nước ta cần thiết phải duy trì Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp đúng theo
nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước "Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [8] Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một thiết chế
Trang 10giám sát độc lập, hoạt động trực tiếp, thường xuyên, có hiệu quả cao như Viện kiểm sát Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Hiến pháp và pháp luật Trên cơ sở đó, Hiến pháp
sửa đổi tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp" [8, Điều 107]
Triển khai thi hành Hiến pháp trong thời gian tới, mỗi cán bộ, Kiểm sát viên
và từng cấp kiểm sát phải thấm nhuần và thực thi đầy đủ Hiến pháp Tập trung kiện toàn cả về tổ chức bộ máy và cán bộ, xây dựng cho được bộ máy làm việc khoa học với đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên thực sự vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Hiến pháp đã bổ
sung quy định "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân" [8] Quy định này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho Kiểm
sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi công vụ của Kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với toàn hệ thống
Triển khai thi hành Hiến pháp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn
bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong năm 2014 và các năm tiếp theo Chúng ta tin tưởng rằng, với sự vào cuộc tích cực và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân, Hiến pháp chắc chắn sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực và tạo sự chuyển biến sâu rộng trên các lĩnh vực đời sống xã hội, là cơ sở quan trọng để sự nghiệp cải cách tư pháp nhà nước tiếp tục thu được những kết quả lớn hơn nữa
Hiến pháp năm 2013 của nước Việt Nam sửa đổi Hiến pháp 1992 có hiệu lực thi hành 01/01/2014, Viện kiểm sát nhân dân được quy định:
Trang 11Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [8, Điều 107] Như vậy, tiếp tục duy trì Viện kiểm sát nhân dân với tính cách là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước với hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đồng thời có các cơ chế pháp lý để tăng cường hiệu lực, hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hoạt động tư pháp chính là biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta
Tuy nhiên để Đảng, Nhà nước, Quốc hội và nhân dân tiếp tục ghi nhận chức năng, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp sửa đổi thì toàn ngành và mỗi cán bộ, kiểm sát viên cần thấy rõ hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và có các biện pháp cụ thể để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp và mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước và các quyền, lợi ích chính đáng của công dân Một trong những biện pháp trước mắt cũng như lâu dài là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm Đó cũng là mục tiêu mà cán bộ, kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân cần quyết tâm phấn đấu để đạt được
Để có sự ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 như hiện nay, chúng ta nên xem lại quá trình hình thành và phát triển của ngành Kiểm sát nhân dân với tiến trình lịch sử như sau:
Trang 12Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa họp lần thứ 8 ngày 29/4/1958 đã quyết định thành lập Tòa án tối cao và hệ thống Tòa án, lập Viện Công tố Trung ương và hệ thống cơ quan Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp Viện Công tố Trung ương có quyền hạn và trách nhiệm ngang một Bộ và trực thuộc Hội đồng Chính phủ Hình thành một Viện Công tố độc lập thuộc Hội đồng Chính phủ quản lý ngành dọc là một ưu điểm lớn để tạo ra sự độc lập trong hoạt động truy
tố tội phạm và đây là một bước quá độ để hình thành hệ thống cơ quan Viện kiểm sát sau này
Nhiệm vụ chung của Viện Công tố là: Giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo Xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi
Hiến pháp năm 1959 ra đời với chế định mới về Viện kiểm sát nhân dân đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong tổ chức bộ máy Nhà nước của Việt Nam Lần đầu tiên trong lịch sử bộ máy Nhà nước ta, Viện kiểm sát được quy định thành một
cơ quan Nhà nước độc lập Hiến pháp năm 1959 quy định về Viện kiểm sát nhân dân như sau:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
có quyền kiểm sát các phạm vi do luật định
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 5 năm
Tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định
Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Trang 13Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội [8, Điều 105-108] Như vậy, theo Hiến pháp năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân có một chức năng hoàn toàn mới, khác hẳn với Viện Công tố trước kia là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân, mở ra một trang mới trong
sự phát triển hệ thống tư pháp nước ta nói chung và Viện kiểm sát nói riêng
Hiến pháp năm 1980 quy định về Viện kiểm sát như sau:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các Cơ quan ngang Bộ, các Cơ quan khác thuộc Chính phủ, các Cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm do luật định [8, Điều 138]
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định về Viện kiểm sát:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm do luật định [8, Điều 137]
Cụm từ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, xuất hiện lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980; đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) được giữ nguyên và cụ thể hơn "kiểm sát các hoạt động tư pháp"
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, năm 2002, quy định: "Viện
Trang 14kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [9, Điều 1]
Ở Việt Nam, kiểm sát là hoạt động riêng có của cơ quan kiểm sát, một loại
cơ quan hiến định Viện kiểm sát nhân dân là một loại cơ quan quyền lực, do cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước - Quốc Hội- lập ra để kiểm soát quyền lực Theo các Hiến pháp trước đây, chỉ duy nhất có cơ quan Viện kiểm sát nhân dân mới
có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân Khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân trước đây, theo mô hình các nước Xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước - cơ quan hành pháp Tuy nhiên đến năm 2001, với Nghị quyết của Quốc Hội khóa X sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân bị thu hẹp đáng kể Lúc này, Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực - quyền nhân danh nhà nước xét xử và tuyên án, do đó hoạt động tư pháp cũng cần được kiểm sát chặt chẽ
để tránh lạm dụng quyền lực Kiểm sát hoạt động tư pháp mà thực chất là kiểm sát hoạt động xét xử - một loại hình của kiểm sát quyền lực, điều này phù hợp với thể chế nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về Quốc hội Về nguyên tắc, chính Quốc hội mới là cơ quan toàn quyền kiểm sát, giám sát hoạt động xét xử Để thực hiện quyền hạn của mình, Quốc hội, ngoài mình tự mình tiến hành các hoạt động kiểm sát, còn lập ra và giao nhiệm vụ kiểm sát quyền lực cho một số thiết chế độc lập, trong đó có Viện kiểm sát Viện kiểm sát giúp Quốc hội thực hiện hoạt động kiểm sát tư pháp
Kiểm sát xét xử là việc thực hiện kiểm sát quyền lực tư pháp từ bên ngoài,
do cơ quan có thẩm quyền được Quốc hội lập ra thực hiện Do đó, hoạt động kiểm sát xét xử là nhân danh Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và kết quả của hoạt động này là phải báo cáo Quốc hội Quyền kiểm sát hoạt động xét xử được giao cho Viện kiểm sát nhân dân
Trang 15Xét về khía cạnh lịch sử lập pháp: Hiến pháp năm 1946, Cơ quan Công tố được tổ chức theo sắc lệnh của Chính phủ, theo Sắc lệnh nói trên thì Cơ quan Công
tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do bộ Tư pháp quản lý Ngay trong cơ cấu này thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng được thể hiện đó là các Công tố viên có quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp cảnh sát, kiểm soát công việc quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người đứng đầu Viện Công tố của Tòa Thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ giám sát việc thi hành các đạo luật, Sắc lệnh và quy tắc hiện hành trong quản hạt của mình Tại kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khóa I, Quốc hội đã quyết định Viện Công tố Trung ương trực thuộc Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận Công tố trực thuộc Tòa án Tuy nhiên ngay cả mô hình này thì Viện Công tố cũng đã có những nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật như giám sát việc chấp hành pháp luật của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án hình
sự, dân sự và trong hoạt động của các Cơ quan giam giữ, cải tạo, khởi tố và tham gia tố tụng những vụ án dân sự Như vậy, ngay từ khi mới hình thành, Cơ quan công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động Chức năng không chỉ giới hạn ở thực hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt động điều tra, giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, kháng cáo bản án hình sự, dân sự Sau đó, Hiến pháp năm 1959- Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm sát, tại điều
105 Hiến pháp năm 1959 Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện Công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất, điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới Xét bối cảnh lịch sử ra đời của Viện kiểm sát thì thấy việc lựa chọn mô hình này ở nước ta, Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu quyết định chuyển Viện Công tố thành Viện kiểm sát bao gồm cả chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là hoàn toàn có sự cân nhắc,
Trang 16tính toán và thể hiện tính khách quan chứ không phải là sự sao chép máy móc mô hình Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới Đến Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát
1.2 Nhận thức chung về tố tụng dân sự
Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi một cá nhân hay một cơ quan, tổ chức phải sử dụng quyền khởi kiện đến Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Khi đó sẽ phát sinh một quy trình tố tụng mà trong đó Tòa án là cơ quan đại diện cho Nhà nước có trách nhiệm giải quyết vụ việc Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện (nguyên đơn dân sự), cơ quan, tổ chức, cá nhân bị kiện (bị đơn dân sự), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người phiên dịch, người làm chứng, người giám định, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự… là những chủ thể tham gia tố tụng Trong trường hợp này chúng ta có một tố tụng dân sự theo nghĩa hẹp: một Tòa
án cụ thể, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng cụ thể, những hành vi tố tụng cụ thể…ví dụ: hành vi nộp đơn khởi kiện và thụ lý đơn khởi kiện, hành vi thu thập, xuất trình chứng cứ, hành vi khiếu nại, kháng cáo phúc thẩm của đương sự… những quan hệ pháp luật tố tụng cụ thể, một thời gian giải quyết được ấn định cụ thể, tức là có một trình tự thủ tục để giải quyết một vụ án cụ thể Thông thường, có bao nhiêu vụ án dân sự có bấy nhiêu "tố tụng dân sự", đó cũng là quan niệm đơn giản nhất về tố tụng dân sự được nhiều luật gia chia sẻ
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định:
Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ
Trang 17việc dân sự) tại Tòa án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ; quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị
xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ, việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật [11, Điều 1]
Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết những tranh chấp dân sự sau
Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1 Tranh chấp giữa cá nhân với các nhân về quốc tịch Việt Nam
2 Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
3 Tranh chấp về hợp đồng dân sự
4 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này
5 Tranh chấp về thừa kế tài sản
6 Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
7 Tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai
8 Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật
9 Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
Trang 1812 Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định [11, Điều 25] Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1 Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự
2 Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó
3 Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên
bố một người mất tích… [11, Điều 26]
Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
1 Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
2 Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
3 Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
4 Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ
… [11, Điều 27]
Những yêu cầu về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1 Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
2 Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
3 Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
4 Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn… [11, Điều 28]
Như vậy, khi có một quan hệ pháp luật dân sự nảy sinh trong thực tế, người dân có quyền đề nghị các cơ quan pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Tòa án là một trong các cơ quan pháp luật được nhà nước quy định có trách nhiệm cùng với Viện kiểm sát và các cơ quan nhà nước khác tiến hành giải quyết
Trang 19các quan hệ pháp luật có tranh chấp, hoặc yêu cầu theo một quy trình tố tụng chặt chẽ tại Bộ luật tố tụng dân sự
1.3 Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hoạt động tư pháp chính là biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta
Mỗi cán bộ, kiểm sát viên cần thấy rõ hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và có các biện pháp cụ thể để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp và mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước và các quyền, lợi ích chính đáng của công dân
Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Trang 20Việt Nam Hiến pháp sửa đổi lần này đó đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực; trong đó tư tưởng về con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân được xác định là tư tưởng đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là mục tiêu hướng đến của các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tuyệt đối tránh việc lạm dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân thay cho các biện pháp thu thập chứng cứ khách quan Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân phải trở thanh mục tiêu và động lực hướng tới của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân Đây chính là thước đo sự tiến
bộ của nền tư pháp
Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chính là nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội
Thực hành quyền công tố hiểu một các khái quát là hoạt động nhằm phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tư pháp nói riêng ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực đó được khẳng định trong Hiến pháp Chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh
Trang 21Quốc hội về Hiến pháp đều khẳng định trong điều kiện cụ thể của nước ta cần thiết phải duy trì Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp đúng
theo nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước "Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [8] Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một
thiết chế giám sát độc lập, hoạt động trực tiếp, thường xuyên, có hiệu quả cao như Viện kiểm sát Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Hiến pháp và pháp luật Trên cơ sở đó,
Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [8, Điều 107]
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Hiến pháp đã bổ
sung quy định "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân" [8] Quy định này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho Kiểm
sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi công vụ của Kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với toàn hệ thống Để cụ thể hóa yêu cầu mới của Hiến pháp, cần mạnh dạn thực hiện cơ chế phân cấp thẩm quyền tố tụng nhằm tăng sự chủ động và đề cao trách nhiệm cho Kiểm sát viên khi thực thi công
vụ, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án Đồng thời, xem đây là bước tiến quan trọng, tạo cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung trong Dự án Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Dự án Bộ luật tố tụng hình sự
1.3.2 Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Trang 22Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân quy định về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật [9, Điều 1-2]
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây:
…
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động, và những việc khác theo quy định của pháp luật
… Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó…
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời [9, Điều 3,6, 20]
Luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định tại:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1 Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
Trang 23định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ kiện dân sự kịp thời, đúng pháp luật
2 Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các vụ việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thầm
3 Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm… [11, Điều 21]
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát
1 Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự;
b) Quyết định phân công Kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân
sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; c) Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên;
d) Quyết định tha đổi Kiểm sát viên;
đ) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy đinh của Bộ luật này [11, Điều 44] Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án;
2 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
3 Kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án;
Trang 244 Tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;
5 Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát [11, Điều 45] Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1 Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Toà án
2 Tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
3 Tham gia hỏi đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại các phiên toà, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự
4 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà, phiên họp của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng
5 Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án
6 Yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị
7 Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị
8 Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự
9 Yêu cầu hoãn thi hành án; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi thực hiện kháng nghị theo thẩm quyền theo quy định tại Điều 286, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự
10 Thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Toà
án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật
11 Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường công tác phát hiện vi phạm về pháp luật nội dung, luật tố
Trang 25tụng để thường xuyên thực hiện kiến nghị với cơ quan xét xử qua từng vụ việc; định
kỳ sáu tháng, một năm phải có kiến nghị tổng hợp vi phạm đối với cơ quan xét xử ngang cấp
Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án
- Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án [11, Điều 174]
- Căn cứ Quy chế Kiểm sát dân sự thì Khi nhận được thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải vào sổ thụ lý theo dõi, kiểm tra văn bản thông báo thụ lý theo những nội dung được quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng dân sự; lập phiếu kiểm sát theo dõi vi phạm để tổng hợp kiến nghị với Toà án các vi phạm
về thời hạn gửi thông báo, nội dung, hình thức thông báo; theo dõi quyết định chuyển vụ án của Toà án [22, Điều 6]
Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp sơ thẩm:
- Tham gia phiên toà sơ thẩm:
Theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự thì việc tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự;
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần
+ Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm [11, Điều 21, Khoản 2, 3]
Trang 26+ Theo Bộ luật tố tụng dân sự thì trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm, Tòa án phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án [11, Điều 195, Khoản 2];
- Tham gia phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự:
+ Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự của Toà án [11, Điều 21, Khoản 2] + Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án gửi hồ sơ việc dân sự cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà
án ra quyết định mở phiên họp Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp [11, Điều 313, Khoản 1]
- Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp phúc thẩm
Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự, sau khi ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn
đó, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa án [11, Điều 262]
Căn cứ quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm; nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì phải hoãn phiên tòa [11, Điều 264,266, Khoản 2] Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị [11, Điều 280, Khoản 2]
- Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở cấp giám đốc
thẩm, tái thẩm Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự, “Viện kiểm sát tham gia phiên toà
giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án do Chánh án Toà án và Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị” [11, Điều 292, 310, Khoản 1]
Trang 27- Về việc phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
+ Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì tại phiên tòa sơ thẩm,
để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Kiểm sát viên
có quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ việc dân sự, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án [11, Điều 197, 234]
+ Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm [11, Điều 273a]
+ Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, sau khi các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án [11, Điều 295, 310, Khoản 3]
Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án
- Kiểm sát viên kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự bao gồm:
+ Quyết định nhập hoặc tách vụ án;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; + Thông báo thụ lý vụ việc dân sự;
+ Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
+ Quyết định tạm đình chỉ và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm;
+ Quyết định hoãn phiên toà sơ thẩm;
Trang 28+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
- Khi tiến hành kiểm sát, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật nếu phát hiện có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc
Yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị
Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự,
cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm [11, Điều 85, Khoản 4] Các hồ sơ, tài liệu, vật chứng mà đương sự, cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp cho Viện kiểm sát theo yêu cầu của Viện kiểm sát trong trường hợp này phải được chuyển cho Toà án để đưa vào hồ sơ vụ việc và bảo quản tại Toà án theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự [11, Điều 95, Khoản 1]
Yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để tham gia phiên toà, phiên họp hoặc để xem xét, quyết định việc kháng nghị
Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để tham gia phiên toà, phiên họp
- Căn cứ của Thông tư liên tịch số 04/2012 thì Toà án phải chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp trong các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà, phiên họp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, trừ các trường hợp sau đây:
+ Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm;
Trang 29+ Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm [21, Điều 2]
- Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
+ Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm, Toà
án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát theo quy định định tại
+ Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ
án ra xét xử cho Viện kiểm sát theo quy định tại
+ Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự, Toà án gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho Viện kiểm sát theo quy định tại + Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự, Toà án gửi hồ sơ việc dân sự cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện kiểm sát theo quy định tại [21, Điều 195, 262, 290, 310, 313]
+ Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp phúc thẩm đối với các quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện kiểm sát [21, Điều 2, Khoản 1]
Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
- Căn cứ Thông tư liên tịch số 04/2012 thì việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như sau:
+ Sau khi nhận được bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát cùng cấp (trong trường hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự) hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xét thấy cần phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét việc kháng nghị phúc thẩm, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu
Trang 30cầu Toà án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát
+ Ngay sau khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án chuyển
hồ sơ vụ án việc dân sự cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Chậm nhất là ngay sau khi hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm qui định tại Điều 252 và khoản 2 Điều 317 Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã xét xử hoặc giải quyết sơ thẩm cùng với quyết định kháng nghị (nếu Viện kiểm sát có kháng nghị) [21, Điều 2, Khoản 2]
Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm
- Căn cứ Thông tư liên tịch số 04/1012 thì việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm như sau:
+ Khi Viện kiểm sát xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Viện kiểm sát
có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự đó cho Viện kiểm sát
+ Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ, Toà án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân sự, nếu Viện kiểm sát không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Viện kiểm sát phải chuyển trả lại hồ sơ vụ việc cho Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm, thì Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo qui định tại Điều 290 và Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự
+ Trong trường hợp Viện kiểm sát và Toà án cùng có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ
Trang 31vụ việc dân sự để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho cơ quan có văn bản yêu cầu trước và thông báo bằng văn bản cho cơ quan kia biết về việc đã chuyển hồ sơ đó
+ Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân
sự, nếu cơ quan đã được nhận hồ sơ vụ việc dân sự không có kháng nghị, thì thông báo cho cơ quan đã có yêu cầu mà chưa được nhận hồ sơ biết Nếu cơ quan đó vẫn có đề nghị chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, thì cơ quan đã được nhận hồ sơ mà không có kháng nghị phải chuyển hồ sơ cho cơ quan đã có yêu cầu chuyển hồ sơ mà chưa được nhận hồ sơ
+ Trong trường hợp cơ quan chưa được nhận hồ sơ không có đề nghị chuyển hồ sơ nữa, thì cơ quan đã nhận hồ sơ chuyển trả hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã gửi hồ sơ cho mình [21, Điều 2, Khoản 3]
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:
- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; Bộ luật tố tụng dân
sự thì thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát như sau:
+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm [11, Điều 21]
+ Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ủy quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật [11, Điều 44, 250, 316, Khoản 1] Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự thì việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị như sau:
Trang 32+ Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm Nếu thời hạn kháng nghị vẫn còn thì việc thay đổi phạm vi kháng nghị được chấp nhận, nếu thời hạn kháng nghị đã hết thì việc thay đổi phạm vi kháng nghị không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban dầu
+ Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định việc rút kháng nghị trước khi bắt đầu phiên tòa Tại phiên tòa phúc thẩm, việc rút kháng nghị thuộc thẩm quyền của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa [11, Điều 256]
Kháng nghị bản án, quyết định của tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
- Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền kháng nghị, thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát như sau:
+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện
+ Người đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu (nếu chưa hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm)
+ Việc rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước khi bắt đầu phiên tòa do người đã ra quyết định kháng nghị quyết định, còn tại phiên tòa, nếu thấy cần thiết phải rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị thì Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên tòa và báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét, quyết định [11, Điều 285, 307, 289]
Yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
Trang 33án và quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án khi thực hiện kháng nghị theo thẩm quyền
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án và quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án [11, Điều 286, 307, 310]
Thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
- Căn cứ Quy chế Kiểm sát dân sự tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật [22, Điều 4, Khoản 10]
- Khi thực hiện quyền này, Kiểm sát viên cần chú ý đưa ra các yêu cầu phải sát với thực tiễn, cụ thể, rõ ràng, theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và cần tập hợp, phân loại các vi phạm chung để kiến nghị
Bộ luật tố tụng dân sự quy định Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đối với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án dựa trên quan điểm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tố tụng dân sự Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự trong thời gian qua cho thấy quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện đẩy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Trong điều kiện trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án Trong khi thu nhập của đa số người dân còn thấp nên chưa thể mời Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình khi có tranh chấp Mặt khác, số lượng Luật sư hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa thì cần thiết mở
Trang 34rộng thẩm quyền của Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa dân sự tạo điều kiện đảm bảo để Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình Thực tiễn xét xử dân sự thời gian qua cho thấy nhiều vụ việc được giải quyết thiếu khách quan,
vi phạm nghiêm trọng tố tụng nhưng Viện kiểm sát không kịp thời phát hiện để kháng nghị theo thẩm quyền trong khi đó tỷ lệ bản án, quyết định dân sự của Tòa án
bị hủy, bị sửa do có sai sót hàng năm không giảm Theo Thông báo Kết luận của Bộ chính trị về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đánh giá "Tiến độ giải quyết các vụ việc
còn chậm, chất lượng xét xử các vụ án dân sự còn thấp trong đó có nguyên nhân là chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát có hiệu quả việc giải quyết các vụ án dân sự" [2]
Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ Viện kiếm sát nhân dân tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay [3] Vì vậy, việc quy định mở rộng thẩm quyền đối với một số vụ án nhất định để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm của mình là cần thiết
Dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự là Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 21 tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát để Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa dân sự Theo đó, ngoài việc thực hiện các quyền yêu cẩu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, các phiên tòa sơ thẩm đối với các vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị xác
định nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới là:
Trang 35Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định [2]
Luật bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận tại như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự [11, Điều 23a] Nguyên tắc này còn được thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng tại Tòa án, từ giai đoạn thụ
lý vụ án dân sự đến giai đoạn thu thập chứng cứ và xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn nhằm quán triệt các Thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh luận của đương sự để ra bản án, quyết định đúng pháp luật
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án trong năm năm qua cho thấy, việc bỏ quy định này đã làm cho Tòa án trong quá trình xét xử vụ án dân sự phát hiện có quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Tòa có trách nhiệm giải quyết nhưng Tòa án không có thẩm quyền tuyên hủy quyết đó mà chỉ kiến nghị cơ quan bản hành văn bản tự hủy bỏ dẫn đến mất nhiều thời gian của Nhà nước và không đảm bảo kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự Do đó, Luật này đã bổ sung quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định của cơ quan,
tổ chức khác, cụ thể như sau:
Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của
Trang 36cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết [11, Điều 32a]
Cơ chế hòa giải tại Tòa án là biện pháp hữu hiệu để giúp các bên đương sự giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình và lao động Việc hòa giải thành không chỉ đem lại lợi ích cho các đương sự cả về mặt tinh thần lẫn lợi ích kinh tế,
mà còn giảm tải việc phải xét xử vụ án dân sự của Tòa án.Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành chưa có quy định về phương thức và trình tự hòa giải dẫn đến khi thực hiện thủ tục hòa giải tại Tòa án, nhiều Thẩm phán còn gặp nhiều lúng túng khi thực hiện việc hòa giải dẫn đến hiệu quả việc hòa giải chưa cao, do đó cần bổ sung các quy định này
Bổ sung quy định về trình tự hòa giải theo hướng trước khi tiến hành hòa giải Thư ký ghi biên bản hòa giải phải thực hiện báo cáo về người vắng mặt, có mặt tham gia cuộc hòa giải; Thẩm phán giải thích rõ quyền nghĩa vụ của các bên và giá trị pháp lý của quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự; Khi tiến hành hòa giải các bên đương sự trình bày nội dung tranh chấp và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung những phần chưa rõ, xác định những vấn đề các bên đã thống nhất
và những vấn đề chưa thống nhất; Kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hoà giải thành và vấn đề chưa thống nhất [11, Điều 185a]
Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định thẩm quyền Tòa
án giải quyết đối với trường hợp tranh chấp lao động mà các bên đã hòa giải thành nhưng đương sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng Việc không quy định thẩm quyền của Tòa án đối với loại việc này dẫn đến khi đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án thụ lý để giải quyết thì Tòa
án không thụ lý vì cho rằng Bộ luật tố tụng dân sự không quy định Tòa
án có thẩm quyền giải quyết Do đó, điều 31 của Bộ luật này bổ sung quy định về thẩm quyền của Tòa án giải quyết đối với trường hợp đã hòa giải thành nhưng đương sự không thực hiện [11, Điều 31]
Theo quy định tại của Luật Trợ giúp pháp lý có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Trang 37trong vụ việc dân sự; Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành chưa quy định Trợ giúp viên pháp lý là người được Tòa án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Do đó điều 63 của Bộ luật này bổ sung quy định Trợ giúp viên pháp lý có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự [10]
Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định hình thức văn bản đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm dẫn đến việc khiếu nại tùy tiện, không nêu rõ yêu cầu hoặc có những vụ án đã giải quyết đúng pháp luật và đảm bảo quyền, lợi ích của đương sự nhưng họ vẫn khiếu nại nhằm kéo dài thời gian phải thi hành án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, việc khiếu nại ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng quá tải, trong khi đó phía Tòa án vẫn phải xem xét đơn theo trình
tự, thủ tục chặt chẽ Do đó, điều 284a Luật này bổ sung quy định cụ thể về việc gửi văn bản đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và các tài liệu kèm theo để đương sự có trách nhiệm nhất định với khiếu nại của mình
Hiện nay, việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về Hội đồng định giá do Tòa án quyết định thành lập để định giá tài sản ở nhiều Tòa án địa phương rất khó khăn, phức tạp, mất nhiều thời gian, đặc biệt ở một số địa phương các thành viên của Cơ quan chuyên môn được cử là thành viên Hội đồng định giá không tham gia Hội đồng định giá, Cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá, từ chối làm Chủ tịch Hội đồng định giá theo quy định tại khoản
3, điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành Đây là một trong những nguyên nhân gây chậm trễ trong việc giải quyết vụ án của Tòa án
Luật sửa đổi quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng: các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá Tòa án
ra quyết định định giá tài sản đang có tranh chấp trong các trường hợp: theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự Các bên thỏa thuận theo mức giá thấp nhằm mực đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí; Tổ chức thẩm định giá có vi phạm pháp luật hoặc không khách quan trong việc định giá Hội đồng định giá do Tòa án thành
Trang 38lập gồm Chủ tịch Hội đồng định giá là đại diện cơ quan tài chính và thành viên là đại diện các cơ quan chuyên môn có liên quan Trong các trường hợp Cơ quan chuyên môn có liên quan không cử người tham gia hoặc từ chối không tham gia thì phải có văn bản trả lời Cơ quan trực tiếp quản lý thành viên được cử tham gia Hội đồng định giá hoặc cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp nêu rõ lý do của việc không tham gia Trong trường hợp không tham gia mà không có ký do chính đáng thì tùy theo mức độ vi phạm mà xử lý theo quy định của pháp luật [11, Điều 92]
Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn trong việc thực hiện yêu cầu của Tòa án theo quy định của pháp luật, đồng thời nhằm khắc phục khó khăn, vướng mắc khi thành lập Hội đồng định giá và nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án được kịp thời, hiệu quả và đúng pháp luật Ngoài ra, quy định đại diện cơ quan tài chính được làm Chủ tịch Hội đồng định giá, để đảm bảo tính khách quan khi tiến hành định giá [11, Điều 92]
Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm,
kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu [11, Điều 159, Khoản 3]
Quy định nêu trên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phần lớn những vụ việc dân sự không thể áp dụng thời hiệu được như: yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
Mặt khác, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định việc tính thời hiệu khởi kiện kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là không hợp lý, ví dụ: Trường hợp vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc môi trường nhưng đương
sự không biết được thời điểm xảy ra vi phạm để khởi kiện đúng thời hiệu Do đó,
Trang 39cần phải xác định thời điểm các bên biết phải biết quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định tại điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự nêu trên cho phù hợp
Như vậy, dù việc Bộ luật tố tụng dân sự quy định thời hiệu là cần thiết nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy ngoài những vấn đề nêu trên thì vẫn có một số quan hệ pháp luật như: yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu tuyên bố một người là đã chết hoặc các tranh chấp về tài sản, về thuê tài sản là các quan hệ pháp luật có tính đặc thù không thể quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự như các quan hệ pháp luật khác, trong khi đó, điều 159 Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định theo hướng bổ sung quy định loại trừ về thời hiệu đối với các quan hệ pháp luật đặc thù nêu trên
Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Người có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật" [11, Điều 288]
Theo quy định này thì thời hạn gửi đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thời hạn xem xét đơn đề kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là ba năm; nhiều trường hợp gần hết hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì Tòa án mới nhận được đơn khiếu nại dẫn đến không kịp thời giải quyết đơn Bên cạnh đó, có trường hợp đương sự khiếu nại trong thời hạn ba năm nhưng Tòa án đã không giải quyết hoặc đã có giải quyết nhưng không kháng nghị đến khi phát hiện có sai lầm của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Do đó, cần thiết phải có cơ chế mở để giải quyết những trường hợp này nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự
Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định thời hạn cho đương sự gửi đơn khiếu nại giám đốc thẩm mà chỉ quy định thời hạn cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm 03 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian qua cho thấy, có nhiều trường hợp
Trang 40gần hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét; có trường hợp đương sự gửi đơn trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng không được người có thẩm quyền xem xét hoặc không kịp thời phát hiện các sai sót, do đó khi phát hiện có sai lầm của bản án, quyết định của Tòa án thì đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự Tình trạng này đã tồn tại từ nhiều năm nay nhưng không có cơ chế để giải quyết Do vậy, để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, khoản 1, điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật Giữ nguyên quy định tại khoản 1, điều 288 Bộ luật
tố tụng dân sự về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của người có thẩm quyền là 03 năm Trường hợp đương sự đã gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm trong thời hạn quy định (1 năm) nếu người có thẩm quyền không xem xét hoặc đã xem xét nhưng không phát hiện được vi phạm, đến khi hết thời hạn kháng nghị mới phát hiện bản án, quyết định có sai phạm thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm đối với các trường hợp này được thực hiện theo khoản 2, điều 288 Bộ luật tố tụng dân
sự (là 5 năm) Ngoài ra khoản 2, điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự cũng bổ sung trường hợp được kéo dài thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 5 năm đối với bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật tố tụng dân sự, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó
Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thời gian qua cho thấy có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định nhưng theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự hiện hành thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện