Đề tài: Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự đối với một số đối tượng đặc biệt
Trang 1BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Trang 3MỤC LỤC
T rang
dụng các biện pháp ngăn chặn
111.2 Các quy định của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an
liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với các đối tượng đặc biệt
261.3 Nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
các đối tượng đặc biệt
371.4 Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với các đối tượng đặc biệt
41
Ch
ương 2
Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
52.1 Các yếu tố tác động đến việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn với các đối tượng đặc biệt
552.2 Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
các đối tượng đặc biệt
662.3 Những nguyên nhân dẫn đến những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với các đối tượng đặc biệt
89
Ch
ương 3
Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc
biệt
963.1 Dự báo các yếu tố tác động đến việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc biệt
96
Trang 43.2 Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc biệt
107
1 Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định rất quan trọngcủa luật tố tụng hình sự Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất lớntrong quá trình giải quyết các vụ án hình sự Nhưng khi áp dụng với mộtngười sẽ tác động, ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích cơ bản của họ và môitrường chính trị, xã hội xung quanh, đặc biệt, đối với những người là đại biểu
cơ quan dân cử, đảng viên, cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân, văn nghệ sĩ,nhà báo nổi tiếng, người có quy tín trong các tôn giáo, dân tộc thiểu số, ngườinước ngoài Đối với các đối tượng nêu trên, việc áp dụng các biện pháp ngănchặn đối với họ không chỉ đơn thuần là hạn chế một số quyền tự do của họ đểbảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự mà còn liên quan đến nhiềuchủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đến việc đảm bảo các yêu cầuchính trị, nghiệp vụ trong công tác điều tra Do địa vị pháp lý và đặc điểmnhân thân của họ, nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thường tác động ảnhhưởng đến các vấn đề nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền lànhững vấn đề dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng hoặc dễ gây tác động mạnhđến dư luận và phản ứng của số đông quần chúng có liên quan
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua chothấy, tình hình tội phạm do các đối tượng đặc biệt gây ra ngày càng phổ biến
Trang 5đã đặt ra những yêu cầu mới cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạmnói chung và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói riêng trong quá trình giảiquyết vụ án hình sự Kết quả đấu tranh đã đem lại nhiều kết quả tốt, kinhnghiệm hay cần được tổng kết bổ sung cho lý luận để nhân rộng, nhưng bêncạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại, thiếu sót ảnh hưởng không nhỏ đến kết quảđiều tra tội phạm, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, gây dư luận xấutrong nhân dân ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và ngành Công an
và tạo sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc chống phá Nhà nướcta
Để rút ra những kinh nghiệm hay từ thực tiễn đấu tranh và khắc phụcnhững hạn chế trong lý luận góp phần thực hiện tốt việc áp dụng biện phápngăn chặn trong thời gian tới, việc nghiên cứu vấn đề áp dụng biện pháp ngănchặn đối với các đối tượng đặc biệt một cách đầy đủ, hệ thống về mặt lý luận,đánh giá một cách toàn diện, chính xác khác quan về thực tiễn áp dụng tronggiai đoạn hiện nay là rất cần thiết
Trong thời gian qua có một số công trình khoa học đã nghiên cứu đếnviệc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong quá tình giải quyết vụ án hình sự.Nhìn chung, các công trình khoa học trên chủ yếu tập trung phân tích phươngdiện lí luận quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn và những vướngmắc trong thực tế Nhưng các vấn đề đó chỉ mang tính chung chung mà chưa
đi sâu vào một nhóm đối tượng cụ thể nào
Với góc độ nghiên cứu lý luận về các biện pháp ngăn chặn đã có, một
số tác giả đề cập đến trong các tác phẩm " Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét " của Phạm Quang Mỹ, Phạm Hữu Kỳ - Nhà xuất bản CAND
(1983) Đây là một trong những tác phẩm đấu tiên luận giải các vấn đề liênquan đến các biện pháp ngăn chặn Tuy nhiên trong đó tập trung vào các biệnpháp có tính cưỡng chế cao như bắt, giữ người Trong giai đoạn này BLTTHS
Trang 6chưa ra đời vì vậy việc phân tích chúng chỉ ở bước đầu tìm hiểu các vấn đề
liên quan Cuốn " Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam " của
Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên - Nhà xuất bản Pháp lý 1993 Đây làtác phẩm ra đời sau khi BLTTHS 1988 có hiệu lực được bốn năm Các tác giảtập trung phân tích làm rõ những quy định của BLTTHS về các biện pháp bắtngười, tạm giữ, tạm giam Bên cạnh đó tác phẩm cũng đã phân tích một sốvấn đề thực tiễn phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp bắt người,
tạm giữ, tạm giam Cuốn " Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của Nguyễn Mai Bộ - Nhà xuất bản CAND 1997 Tác phẩm này
lần đầu tiên đề cập đến tất cả các biện pháp ngăn chặn được quy định trongBLTTHS Trong đó tác gia phân tích tương đối chi tiết các quy định của phápluật về các biện pháp ngăn chặn, luận giải và nêu ra các ý kiến xung quanhviệc áp dụng biện pháp ngăn chặn Ngoài ra còn có các tài liệu đơn lẻ, một sốbài viết trên các tạp chí Trật tự an toàn xã hội, tạp chí Toà án nhân dân, tạpchí Dân chủ và pháp luật, tạp chí Kiểm sát… Các tài liệu này cũng chỉ mớikhai thác được một số vấn đề về cách thức phương pháp áp dụng các biệnpháp ngăn chặn
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gần đây cũng đã nghiên cứu cácvấn đề liên quan đến biện pháp ngăn chặn Trong đó có một luận án tiến sĩnghiên cứu chung về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ ánhình sự của lực lượng Cảnh sát nhân dân Một số luận văn thác sĩ khác nghiêncứu về tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn ở một số địa phương hoặc đốivới đối tượng là người chưa thành niên Trong một số tài liệu có tính chấthướng dẫn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như cuốn "Sổ tay điều trahình sự" - Nhà xuất bản CAND 1986, "Giáo trình chiến thuật điều tra hìnhsự" của Trường Đại học CSND đã nêu rõ hơn về việc chỉ dẫn trong thực tế.Song việc vận dụng đa dạng ở từng địa phương còn tuỳ thuộc nhiều vào các
Trang 7hướng dẫn cụ thể, ý kiến chỉ đạo, các tài liệu trong các cuộc họp rút kinhnghiệm của công tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn cụ thể qua điều tra vụ
án Tuy nhiên trong đó vẫn chưa đề cập đến những vướng mắc, khó khăncũng như đưa ra giải pháp cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với cácđối tượng đặc biệt
Xuất phát từ tình hình đó cho nên tôi dã lựa chọn đề tài:" Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự đối với một số đối tượng đặc biệt"
nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết nói trên
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thựctiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với một số đối tượng đặc biệt, đưa ranhững giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn,trong đó chú trọng các yêu cầu về chính trị và nghiệp vụ đối các đối tượng
sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với một số đối tượngđặc biệt
- Đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đốitượng đặc biệt ở nước ta trong khoảng từ năm 2000 đến nay nhằm tìm ra
Trang 8những kinh nghiệm hay, những khó khăn vướng mắc, những điều bất hợp lýkhi áp dụng trên thực tế các biện pháp ngăn chăn đối với các đối tượng đặcbiệt cũng như những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến những vấn đề còn tồntại đó.
- Đưa ra các dự báo về tình hình tội phạm do các đối tượng đặc biệtthực hiện trong thời gian tới và những yếu tố tác động đến việc áp dụng biệnpháp ngăn chặn Từ đó, đưa ra các giải pháp trên các phương diện pháp lý,các chỉ dẫn nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngănchặn nói riêng và quá trình giải quyết các vụ án hình sự nói chung liên quanđến các đối tượng đặc biệt
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận vàthực tiễn của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với loại đối tượng đặc thù
là đại biểu cơ quan dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; cácchức sắc tôn giáo, văn nghệ sĩ, nhà báo nổi tiếng, người có quy tín trong cácdân tộc thiểu số, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam trong qua trình giảiquyết vụ án hình sự
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu việc áp dụng biện phápngăn chặn đối với người nước ngoài trong phạm vi cả nước trong đó chútrọng một số địa phương trọng điểm từ năm 2000 đến nay
4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương phápluận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh và quan điểm củaĐảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đấu tranh phòngchống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phương pháp phân tích,
so sánh, tổng hợp, sử dụng tiền sử áp dụng biện pháp ngăn chặn để đối chiếu,
Trang 9kết hợp việc khảo sát thực tế; phương pháp chuyên gia, phỏng vấn bằng cáchtọa đàm, trao đổi ý kiến với lãnh đạo chủ chốt và các cán bộ làm công tácnghiên cứu, các đồng nghiệp hoạt động thực tế trong lĩnh vực điều tra tộiphạm.
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một đóng góp tích cựccho việc hoàn thiện việc áp dụng biện pháp ngăn chặn Đồng thời góp phầnxây dựng cách thức, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với cácđối tượng đặc biệt bên cạnh những thủ tục pháp lý tố tụng
Về thực tiễn, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sửdụng khai thác trong quá trình biên soạn giáo trình, nghiên cứu khoa học, dạy
và học trong các trường Công an nhân dân; là tài liệu tham khảo cho các cơquan, cán bộ đang làm nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với loại tội phạm này từ
đó chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ Công
an về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng trên trong thực tế
6 Cấu trúc của đề tài
- Phần mở đầu
- Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung các đối tượng đặc biệt và các quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc biệt
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc biệt
Chương 3: Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng đặc biệt
- Phần kết luận
Trang 101.1.1 Khái niệm đối tượng đặc biệt
Xuất phát từ góc độ địa vị pháp lý của công dân thì mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật [19] Trong hoạt động tố tụng hình sự, mọi công dân
có vị trí tố tụng hình sự như nhau thì có quyền và nghĩa vụ như nhau, khôngphân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xãhội Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo quy định của pháp luật Ngườiphạm tội thì bị xử lý theo quy định của pháp luật đúng với tính chất, mức độ củahành vi phạm tội Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, tính chất, mức độ phạmtội như nhau thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, các biện pháp ngăn chặngiống nhau Trong phiên toà, những người tham gia tố tụng hình sự đều bìnhđẳng trong việc đưa ra chứng cứ và các yêu cầu, tranh luận trước Tòa án
Nhưng trong mỗi lĩnh vực, tùy thuộc vào vị thế và vai trò của mỗi người,những hành vi của họ hoặc các hoạt động liên quan đến họ có những tác động,ảnh hưởng khác nhau đến đời sống chính trị, kinh tế và tình hình xã hội xungquanh
Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là một trong nhữngbiện pháp cưỡng chế có tính nghiêm khắc, tác động ảnh hưởng đến các quyền
và lợi ích cơ bản của người bị áp dụng Ngoài mục đích ngăn chặn tội phạm,ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội hoặc có những hành động cản trở quá trình điềutra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
Trang 11với một người còn thể hiện thái độ, sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vicủa họ Mặc dù chưa bị coi là có tội, nhưng khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn,
uy tín, danh dự cá nhân bị tổn thương và tùy thuộc và vị thế, vai trò xã hội, côngtác của họ mà nó ảnh hưởng đến ngành, nghề họ làm việc; uy tín, danh dự tổchức mà họ tham gia; đến cuộc sống cộng đồng nơi họ sinh hoạt và thậm chíảnh hưởng đến uy tín, danh dự của một quốc gia trên trường quốc tế
Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và việc áp dụngbiện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng suy chocùng đều nhằm mục đích bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.Chính vì vậy, khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, ngoài việc đảm bảocác mục đích và yêu cầu của pháp luật còn phải đảm bảo các yêu cầu về chínhtrị và nghiệp vụ Xuất phát từ yêu cầu này, Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đã
có những hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động cưỡng chế liên quan đến các đốitượng có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Các đối tượng đóđược gọi là các đối tượng đặc biệt
Thuật ngữ các đối tượng đặc biệt đã được sử dụng trong một số văn bảncủa Đảng và văn bản của Bộ Công an chỉ đạo công tác áp dụng các biện phápngăn chặn như: Bản chế độ công tác bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét người, đồvật, nhà ở, thư tín, của người phạm pháp ban hành kèm theo quyết định số 435/
QĐ ngày 06/6/1969 của Bộ trưởng Bộ Công an; Công văn Số BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc báo cáoxin ý kiến trước khi bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt Gần đây trong Chỉthị số 52 - CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm,quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng Việnkiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân trong công tác bảo vệ
Trang 12318/CVĐảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên và Hướng dẫn số 05 HD/NCTW ngày 15/01/2001 của Ban Nội chính trung ương về sự lãnh đạo củaĐảng đối với công tác xử lý tội phạm theo tinh thần Chỉ thị số 52-CT/TW ngày16/3/2000 của Bộ Chính trị cũng nói về các đối tượng đặc biệt Trong các vănbản này không đưa ra định nghĩa các đối tượng đặc biệt, nhưng trong đó xácđịnh cụ thể các đối tượng đặc biệt và các vấn đề có liên quan đến việc xác định
-đó là các đối tượng đặc biệt
Trong Bản chế độ bắt, tạm giữ, tạm giam và khám xét người, đồ vật, chỗ
ở, thư tín của người phạm pháp, các đối tượng đặc biệt được quy định từ Điều
18 đến Điều 25 bao gồm: cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước; đảng viênĐảng lao động Việt Nam; giám mục, linh mục, tu sĩ, hòa thượng, mục sự, giáo
sư đạo Cao Đài, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo có tiếng, tầng lớp trên củacác dân tộc ít người; người phạm pháp thuộc loại gián điệp hoặc các vụ án phảnđộng có liên quan đến nhiều địa phương, liên quan đến tôn giáo, liên quan đếnvấn đề dân tộc ít người; người phạm pháp là người nước ngoài [8]
Trong Công văn 318/CV - BNV, các đối tượng đặc biệt được xác địnhbao gồm: người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danhtiếng, có vai vế uy tín lớn, tri thức có tên tuổi trong các dân tộc ít người; tri thức,nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ýtới và người nước ngoài
Trong chỉ thị 52 - CT/TW ngày 16/3/2000 các đối tượng đặc biệt đượcxác định bao gồm: người phạm tội là cán bộ, đảng viên; đối tượng trong các vụ
án gián điệp, đảng phái phản động; người phạm tội là chức sắc tôn giáo, là cán
bộ có uy tín trong các dân tộc ít người; là tri thức, văn nghệ sĩ, nhân sĩ có danhtiếng; người phạm tội là người nước ngoài hoạt động chính trị phản động hoặc
Trang 13phạm pháp về kinh tế, nhưng việc xét xử có ảnh hưởng đến chính trị.
Từ những quy định đó ta thấy, đối tượng đặc biệt trong áp dụng các biệnpháp ngăn chặn được xác định là các đối tượng mà khi tiến hành áp dụng biệnpháp ngăn chặn đối với họ thường tạo ra các luồng dư luận, gây nên sự giaođộng về tâm lý của một bộ phận quần chúng nhân dân hoặc xuất hiện sự xungđột về mặt pháp lý làm tác động, ảnh hưởng đến các vấn đề nhạy cảm về chínhtrị, kinh tế dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, tuyên truyền nhằm làmgiảm uy tín của Đảng, của Nhà nước; chia rẽ sắc tộc, tôn giáo để chống phá Nhànước ta
Với cơ sở để xác định các đối tượng đặc biệt như vậy, ta có thể thấynhững văn bản nêu trên đều đã liệt kê tương đối đầy đủ các đối tượng đặc biệt.Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ do tình hình địa chính trị, chính sáchphá hoại của các thế lực thù địch cũng như tình hình kinh tế, xã hội trong nướcthay đổi thì tính nhạy cảm về chính trị của các đối tượng cũng thay đổi NhưBản chế độ công tác bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét quy định, thì trong giaiđoạn đó tất cả cán bộ, công nhân viên chức trong mọi lĩnh vực đều được xácđịnh là đối tượng đặc biệt Nhưng đến giai đoạn sau này, khi nền công nghiệp đãtương đối phát triển thì đây không còn là lực lượng cá biệt mà là một bộ phậnđông đảo trong cộng đồng, cho nên không phải mọi cán bộ, công nhân viênchức đều được xác định là đối tượng đặc biệt mà chỉ là một bộ phận trong đó.Các văn bản sau này đã có sự chắt lọc thu hẹp lại diện các đối tượng đặc biệt.Tuy nhiên trong đó vẫn có những đối tượng tuy khi áp dụng biện pháp ngănchặn đối với họ phải tuân thủ những thủ tục đặc biệt nhưng vẫn không được xácđịnh là đối tượng đặc biệt, như cán bộ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công annhân dân; cán bộ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân Đối với sĩ
Trang 14quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân và công nhân viên quốc phòngmặc dù không quy định là đối tượng đặc biệt nhưng các trình tự thủ tục giảiquyết các vụ án liên quan đến họ đã có một hệ thống quân pháp tiến hành Vìvậy việc không đưa họ vào diện các đối tượng đặc biệt cũng được Nhưng đốivới cán bộ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, xuất phát từ công tácquản lý cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ trong ngành Công an, từ đặcđiểm của đối tượng phạm tội được nhìn nhận là người đại diện cho kỷ cươngphép nước, có hiểu biết nhất định về pháp luật và nghiệp vụ Công an, có mốiquan hệ với cán bộ, chiến sĩ trong ngành nên cũng cần có những quy định riêng,nhưng hiện nay vẫn chưa có các văn bản cụ thể hướng dẫn.
Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở nghiên cứucác văn bản quy định về các đối tượng đặc biệt có thể xác định: Các đối tượngđặc biệt trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn là các đối tượng mà xuất phát từđặc điểm nhân thân của họ, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn, bên cạnh việctuân thủ các thủ tục chung còn phải thực hiện các thủ tục đặc biệt nhằm đảmbảo các yêu cầu về chính trị và nghiệp vụ
Trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đánh giá sự tác động về mặt chínhtrị, tính chất ngành nghề, tính đại diện, mức độ ảnh hưởng xã hội, có thể xácđịnh các đối tượng sau là các đối tượng đặc biệt: Đại biểu dân cử; đảng viên;Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; người có chức sắc trong các tôn giáo; ngườithủ lĩnh, người có danh tiếng, có vai vế uy tín lớn, tri thức có tên tuổi trong cácdân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm đượctrong nước và thế giới chú ý tới và người nước ngoài
1.1.2 Địa vị của các đối tượng đặc biệt
1.1.2.1 Đại biểu các cơ quan dân cử
Trang 15Với thể chế chính trị của Nhà nước ta hiện nay, tất cả quyền lực Nhànước thuộc về nhân dân Để thực hiện quyền lực của mình, nhân dân bầu ra các
cơ quan đại biểu để thay mặt mình sử dụng quyền lực Nhà nước Các cơ quan
đó gọi là cơ quan quyền lực Nhà nước Ở nước ta, các cơ quan này bao gồmQuốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp Thành viên của các cơ quan này là cácđại biểu của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra theo chế độ phổ thông đầuphiếu trực tiếp và bỏ phiếu kín
Đại biểu quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt độngcủa Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổngtuyển cử tự do Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân Họ được bầu ra
để thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực cao nhất
Đại biểu quốc hội có địa vị pháp lý đặc biệt Họ là người đại diện chonhân dân, đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất vớinhân dân Đại biểu quốc hội là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,không chỉ ở đơn vị bầu cử mình mà còn là đại diện cho nhân dân cả nước; làngười thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước
Đại biểu Hội đồng nhân là những đại biểu ưu tú ở địa phương được nhândân tín nhiệm bầu ra, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địaphương Đại biểu Hội đồng nhân dân là cầu nối giữa nhân dân địa phương với
cơ quan quyền lực ở địa phương
Vì vậy, những động thái, tác động ảnh hưởng đến việc thực hiện chứcnăng và nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân là tácđộng, ảnh hưởng đến tính đại diện của nhân dân, ảnh hưởng đến việc chuyển tải
ý chí nguyện vọng của một bộ phận rộng lớn nhân dân đến cơ quan quyền lực
Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng nêu trên, mặc dùvới mục đích để xử lý trách nhiệm cá nhân của họ đối với hành vi nguy hiểm
Trang 16cho xã hội mà họ đã gây ra, nhưng đồng thời nó cũng tác động đến vị trí đạidiện cho nhân dân của họ Khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, họ sẽ bị hạn chếmột số quyền, ảnh hưởng đến việc tiếp thu ý kiến của nhân dân, trả lời yêu cầucủa nhân dân và chuyến tải ý chí, nguyện vọng của nhân dân đến cơ quan quyềnlực Việc bắt họ cũng sẽ ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan quyền lực đạidiện cho nhân dân Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Đạibiểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, đồngthời phải tuân thủ một số thủ tục đặc biệt nhằm đảm bảo giải quyết tốt mối quan
hệ giữa trách nhiệm cá nhân của bản thân họ và vị trí đại diện cho nhân dân mà
họ đang nắm giữ
1.1.2.2 Đảng viên Đảng công sản Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiênphong của giai cấp công nhân Việt Nam, [16,Tr.6] là thành tố hợp thành ĐảngCộng sản - tổ chức chính trị cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và toàn bộ hệ thốngchính trị dưới sự giám sát của nhân dân [16, Tr.5]
Đảng viên là người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân và các tầng lớpnhân dân lao động Họ là tinh hoa, là hạt nhân của quần chúng nhân dân Tưcách đạo đức của họ được coi là gương mẫu, hành động của họ được coi làthước đo để quần chúng nhân dân noi theo Vì vậy, họ có ảnh hưởng nhất địnhđến cộng đồng xung quanh Đồng thời, họ là đại diện của giai cấp vô sản tiến bộđang nung nấu tiến hành cuộc cách mạng vô sản để xóa bỏ áp bức bóc lột, xâydựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Cho nên mọi hành động, lời nói của
họ đều bị các thế lực thù địch mổ xẻ để phát hiện ra những sơ hở thiếu sót từ đóxuyên tạc, tuyên truyền để làm mất uy tín của Đảng, làm giảm lòng tin của nhândân đối với Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là lật đổ sự lãnh đạo củaĐảng đối với Nhà nước và toàn xã hội
Đặc biệt, đối với những trường hợp có đảng viên không vững vàng về lập
Trang 17trường tư tưởng, không vượt qua sự cám dỗ của đồng tiền hoặc do hạn chế vềmặt chuyên môn dẫn tới thực hiện hành vi phạm tội rất dễ bị lợi dụng để tấncông vào uy tín của Đảng Nếu chúng ta xử lý không kiên quyết sẽ bị tuyêntruyền là thiên vị, bao che cho đảng viên phạm tội, nếu xử lý không đúng cáchthức sẽ bị khuếch đại thành sự lụn bại về đạo đức của đảng viên ngày nay.Những yếu tố đó đòi hỏi trong quá trình xử lý các vụ án có đảng viên phạm tội,chúng ta phải linh hoạt, khôn khéo bảo đảm vừa xử lý đúng người đúng tội vừabảo vệ được uy tín cho Đảng.
1.1.2.3 Cán bộ1, chiến sĩ Công an nhân dân
Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân là những người thuộc lực lượng nòngcốt của Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xãhội Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranhchống tội phạm và các vi phạm pháp luật xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổquốc, bảo vệ chế độ chính trị, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, bảo vệ cuộcsống tự do, hạnh phúc, lao động hoà bình của nhân dân, tính mạng, tài sản, cácquyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm hoạt động bình thường củacác cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; bảo vệ chế độ kinh tế, sở hữu xã hội chủnghĩa, góp phần xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc củacuộc sống xã hội chủ nghĩa, nếp sống văn minh, lành mạnh trong nhân dân.[25,26]
Trong xã hội, cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân được nhìn nhận là nhữngngười có phẩm chất cách mạng, lập trường chính trị, có trình độ văn hoá, hiểubiết pháp luật, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ Công an nhân dân vàtính tổ chức kỷ luật cao Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giữgìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cán bộ chiến sĩ Công an nhân dânchính là sự hiện diện của quyền lực Nhà nước, quyền lực nhân dân Hành vi của
Trang 18họ chính là sự thể hiện thái độ của Nhà nước, là sự hiện diện của pháp luật trong
xử lý sự việc xảy ra
Trong cơ chế hiện nay, các hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xãhội ngày càng đa dạng và phức tạp, hành vi của bọn tội phạm ngày càng tinh vi,xảo quyệt đang đặt cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vào tình thế không chỉđấu tranh trực diện về trí và lực mà còn là cuộc đấu tranh tư tưởng trước nhữngcám dỗ của cuộc sống hưởng thụ, của đồng tiền Cuộc đấu tranh cam go đó đãlàm cho một số cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân bị giao động về lập trường tưtưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức cách mạng để trở thành người phạm tội
Chính những đặc điểm nêu trên của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đãlàm cho các trường hợp phạm tội của họ trở nên đặc biệt, đòi hỏi quá trình đấutranh, giải quyết nói chung và quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn nói riêngphải tuân thủ những yêu cầu riêng biệt Tính đặc biệt của những trường hợp này
thể hiện trên hai góc độ Thứ nhất, họ là những người có chức năng, nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm, là sự hiện diện của Nhà nước, của thể chếpháp luật trong việc bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và quyền, lợiích hợp pháp của công dân nhưng chính họ lại xâm phạm các lợi ích cần đượcbảo vệ đó sẽ làm mất uy tín của lực lượng Công an nhân dân Nếu các vụ việc
đó không được giải quyết thấu đáo, để đánh mất niềm tin yêu ở nhân dân, chắcchắn đến một lúc nào đó từ chỗ là lực lượng bảo vệ nhân dân, sát cánh cùngnhân dân bảo vệ bình yêu của cuộc sống sẽ trở thành lực lượng đối đầu với một
bộ phận nhân dân Thứ hai, Đây là đối tượng phạm tội có hiểu biết nhất định về
pháp luật và nghiệp vụ Công an, vì vậy họ luôn có những thủ đoạn để đối phólại với lực lượng có thẩm quyền giải quyết Hơn nữa, họ công tác trong cùng lựclượng, vì vậy nếu không có các biện pháp để ngăn chặn kịp thời họ có thể thuthập các tin tức có liên quan để đưa ra các đối sách nhằm xóa dấu vết, tiêu hủychứng cứ để che giấu hành vi phạm tội của mình
Trang 191.1.2.4 Người nước ngoài
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, khái niệm ngườinước ngoài được hiểu là người cư trú ở một nước nhưng không phải công dâncủa nước đó; người nước ngoài ở Việt Nam là người không có quốc tịch ViệtNam [36] Người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịchnước ngoài và người không có quốc tịch Người có quốc tịch nước ngoài làngười có quốc tịch một hoặc nhiều nước khác không phải là Cộng hoà xã hộichủ nghĩa Việt Nam Người không quốc tịch là người không có quốc tịch ViệtNam và cũng không có quốc tịch nước ngoài Để phân loại người nước ngoài,tùy vào tiêu chí và yêu cầu nghiệp vụ mà có cách phân loại khác nhau
Để xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam chúng taphân loại người nước ngoài theo hình thức cư trú Theo tiêu chí này người nướcngoài được phân thành hai loại: Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và
người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam Người nước ngoài thường trú là người
nước ngoài cứ trú không thời hạn tại Việt Nam Đây là những người nước ngoàiđược phép cư trú lâu dài tại Việt Nam chưa xác định thời điểm xuất cảnh Họchỉ xuất cảnh khi muốn hồi hương và được Nhà nước ta và Nhà nước mà người
đó là công dân chấp nhận hoặc đến một nước thứ ba làm ăn, sinh sống hoặc bịNhà nước Việt Nam trục xuất Loại người này đến Việt Nam có thể bằng việcnhập cảnh để làm ăn sinh sống, đoàn tụ gia đình, nhập cảnh với mục đích tạmtrú nhưng sau đó xin thường trú tại Việt Nam do kết hôn với công dân ViệtNam, là tù binh, hàng binh khi kết thúc chiến tranh không muốn trở về nước
Người nước ngoài tạm trú là người nước ngoài cư trú có thời hạn tại Việt Nam.
Đây là những người được phép nhập cảnh vào Việt Nam tạm trú trong một thờigian nhất định mà hết thời hạn đó họ phải xuất cảnh khỏi Việt Nam Ngườinước ngoài thuộc loại này bao gồm nhân viên thuộc cơ quan đại diện ngoạigiao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện các tổ chức quốc tế và thành viên gia
Trang 20đình họ; nhân viên và thành viên gia đình của họ thuộc các cơ quan đại diện tổchức, doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Nhữngngười được cử đến thăm hữu nghị, đàm phán ký kết, hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hoá xã hội; những người là chuyên gia, công tác viên, nghiên cứu sinh,thực tập sinh, học sinh; những người đến thăm thân nhân, bạn bè, dưỡng bệnh,
an dưỡng; khách du lịch, thuỷ thủ đoàn, phi hành đoàn nước ngoài Hiện nay ởnước ta, người nước ngoài tạm trú chiếm số lượng rất lớn còn người nước ngoàithường trú chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp
Pháp luật xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài tuỳ vào loạingười nước ngoài và tư cách của họ ở Việt Nam Quyền và nghĩa vụ pháp lý củangười nước ngoài được quy định trong cả pháp luật Việt Nam và các điều ướcquốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
Tùy thuộc vào địa vị pháp lý, người nước ngoài ở Việt Nam được hưởng
các chế độ pháp lý là chế độ đãi ngộ như công dân (National treatment), chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (Most the Favoured nation treatment), chế độ đãi ngộ đặc
biệt, chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc [39]
Căn cứ vào các cơ sở xây dựng quy chế pháp lý cho người nước ngoàinêu trên, địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam được chia thành bốnloại:
Địa vị pháp lý của những người nước ngoài không thường trú và được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao, miễn trừ lãnh sự Địa vị pháp lý
của những người này thường gắn liền với địa vị pháp lý của cơ quan, tổ chức
đại diện nước ngoài tại Việt Nam Địa vị pháp lý của người nước ngoài thường trú tại Việt Nam (ngoại kiều) về cơ bản được hưởng các quyền và gánh chịu các
nghĩa vụ pháp lý như công dân Việt Nam trừ một số quyền về bầu cử, ứng cử,
thực hiện nghĩa vụ quân sự, và thực hiện một số ngành nghề nhất định Địa vị pháp lý của những người tạm trú ở Việt Nam, họ đến Việt Nam với mục đích
Trang 21đầu tư, kinh doanh, học tập, giải quyết các việc riêng hoặc tiến hành các hoạtđộng khác Những đối tượng này được hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc Điềunày đồng nghĩa với việc những người nước ngoài này được hưởng các quyền và
nghĩa vụ như công dân của một nước thứ ba nào khác ở Việt Nam Địa vị pháp
lý của người tị nạn, người không quốc tịch Quyền và nghĩa vụ của những người
này được viện dẫn từ công ước NewYork về quy chế người không quốc tịchnăm 1954 và Công ước Giơnevơ về quy chế người tị nạn, Công ước về vị thếngười tị nạn năm 1951 Theo đó, những đối tượng này chỉ được hưởng cácquyền về xuất nhập cảnh, các quyền về dân sự
Khi người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, các hoạt động giải quyết vụ
án liên quan đến họ phải chịu sự chi phối đồng thời của hệ thống pháp luật trongnước và hệ thống pháp luật quốc tế Bên cạnh đó, cơ quan ngoại giao, lãnh sựcủa quốc gia mà người phạm tội đó là công dân thường sử dụng quyền bảo hộcông dân để can thiệp vào quá trình giải quyết vụ án Đây cũng là đối tượng màcác thế lực thù địch thường lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi của họ, việc thămgặp để dò xét phát hiện những sơ hở thiếu sót của ta trong quá trình tạm giữ,tạm giam để khuếch đại, xuyên tạc thành vấn đề nhân quyền, dân chủ nhằm gâysức ép, đưa ra các yêu sách để chống phá Nhà nước ta Do đối tượng ngườinước ngoài phạm tội ở nước ta hiện nay đa dạng về quốc tịch nên dẫn tới sự đadạng về ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục tập quán Điều này cũng gây không ítkhó khăn cho chúng ta trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ
Những đặc điểm trên của người nước ngoài đòi hỏi khi áp dụng biệnpháp ngăn chặn đối với người nước ngoài phải vừa đảm bảo tính nghiêm minhcủa pháp luật quốc giaN, vừa phải phù hợp với pháp luật quốc tế đồng thờikhông tác động xấu đến quan hệ bang giao giữa nước ta với các quốc gia kháccũng như hình ảnh và môi trường đầu tư Việt Nam
1.1.2.5 Các đối tượng đặc biệt khác
Trang 22Ngoài các đối tượng nêu trên các đối tượng khác thuộc diện đối tượngđặc biệt trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn bao gồm: người có chức sắctrong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có vai vế uy tín lớn, trithức có tên tuổi trong các dân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ
sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới
- Người có chức sắc trong tôn giáo: Theo quy định tại khoản 10 Điều 3Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, chức sắc tôn giáo là người có chức vụ phẩm sắctrong tôn giáo [28] Theo quy định trong bản chế độ công tác bắt, tạm giữ, tạmgiam, khám xét thì các đối tượng đặc biệt bao gồm: Giám mục, linh mục, tu sĩ,hòa thượng; mục sư, giáo sư trong đạo Cao Đài Còn theo quy định tại Côngvăn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 thì người có chức sắc trong tôn giáobao gồm: giám mục, linh mục trong đạo Thiên Chúa; hòa thượng, thượng tọa,đại đức trong đạo Phật; mục sư, giáo sư trong đạo tin Lành và người cầm đầucác tôn giáo khác Từ những quy định trên chúng ta thấy cần thống nhất về cácđối tượng được xác định là chức sắc tôn giáo
Trước hết, để có chức sắc thì tôn giáo đó phải có tổ chức tôn giáo với một
hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định đượcNhà nước công nhận Các tổ chức tôn giáo hiện nay ở nước ta gồm có Giáo hộiCông giáo Việt Nam; Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Hội thánh Tin Lành ViệtNam -Miền Bắc, Hội thánh Tín Lành Việt Nam - Miền Nam; Hội Thánh CaoĐài Tây Ninh, Ban Chỉnh, Tiên Thiên, Cầu Kho, Truyền Giáo, Chiếu MinhLong Châu, Minh Chơn Đạo, Bạch Y và Minh Chơn Lý; Ban đại diện Phậtgiáo Hòa Hảo; Uỷ ban đoàn kết những người Công giáo Việt Nam yêu tổ quốc,yêu hòa bình; Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Khơme Nam bộ và các Tôn giáokhác có mặt ở một số địa phương như: Hồi giáo; B’hai; Ấn Độ giáo; Bửu Sơn
Trang 23Kỳ Hương; Tứ Ấn Hiếu Nghĩa… [44, Tr.45].
Trong Công giáo, các chức sắc gồm có: Giám mục là người đứng đầu
một giáo phận [43, Tr.389] Linh mục là chức sắc thấp hơn Giám mục và làngười cai quản một giáo xứ [43, Tr.571] Linh mục còn được gọi là Cha xứ phụtrách một xứ đạo trên một vùng lãnh thổ do giám mục quy định ranh giới để
lãnh đạo các tín đồ công giáo Tu sĩ là người tu hành trong các tu viện công
giáo Thực chất tu sĩ không phải là chức sắc tôn giáo, nhưng họ sống trong cácdòng tu, tu viện Trong Bản chế độ bắt, khám xét có quy định tu sĩ là đối tượngđặc biệt nhưng trong Công văn số 318/CV-BNV lại không quy định vấn đề này.Nhưng tham khảo thêm quy định của Bộ Công an về các đối tượng phải theodõi nghiệp vụ, kiểm tra nghiệp vụ và căn cứ vào tầm ảnh hưởng của họ trongcông đồng công giáo cho nên khi cần áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họcũng phải tuân thủ những yêu cầu riêng để tránh kích động giáo dân và tránh bịlợi dụng để phóng đại thành vấn đề nhân quyền, đàn áp tôn giáo
Trong Phật giáo, các chức sắc bao gồm: Hòa thượng, Thượng tọa, Đạiđức Trong đó, Hòa thượng là chức sắc cao nhất của phật giáo [43, Tr 446]
Trong đạo Tin Lành, các chức sắc bao gồm mục sư, giảng sư Thực chấtchức sắc trong Đạo Tin Lành chỉ có mục sư, còn giảng sư (hay giáo sư, truyềnđạo, truyền đạo sinh) là thuật ngữ dùng để chỉ những người đã được đào tạo để
đi truyền đạo nhưng chưa được phong phẩm sắc mục sư Tuy nhiên do đã đượcđào tạo đồng thời tham gia truyền đạo cho các tín đồ vì vậy họ có tầm ảnhhưởng nhất định đối với tín đồ đạo Tin Lành và được coi là một bộ phận cốt cáncủa các giáo phái Chính vì vậy mọi động thái liên quan đến họ đều được các tín
đồ chú ý và các thế lực bên ngoài quan tâm Điều đó đòi hỏi chúng ta cũng phảithận trọng khi xử lý hành vi phạm tội của họ
Để xác định một người là chức sắc tôn giáo, trước hết người đó phảithuộc tổ chức tôn giáo hợp pháp được Nhà nước công nhận và họ được tổ chức
Trang 24phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử hoặc suy cử theo đúng hiếnchương, điều lệ của tổ chức và đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩmquyền Đối với những tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh thìphải đăng ký với Chính phủ, Còn tổ chức tôn giáo hoạt động trong phạm vị mộttỉnh thì đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Đối với tu sĩ tu trong các dòng
tu, tu viện đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi dòng tu, tu viện đó đóng
Còn đối với những cái gọi là đạo Vàng Chứ, đạo Thìn Hùng đều lànhững tà đạo hoạt động mang nặng màu sắc mê tín dị đoan và các mục sư hoạtđộng không hẳn mục đích vì đạo Hay như cái gọi là Tín Lành Đêga chỉ là mộtthực thể chỉ thấy qua đài phát thanh nước ngoài mà không thấy trong thực tế.Đây là những hoạt động truyền đạo trái phép, nhằm phục vụ ý đồ chính trị rõ rệtcủa các thế lực thù địch, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và sự nghiệpxây dựng đất nước theo định hướng XHCN của dân tộc ta Chúng ta cần phải cóthái độ và biện pháp rõ ràng, nhất quán để loại bỏ
Tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong đời sống chính trị của mỗiquốc gia Vấn đề tôn giáo thường bị các thế lực thù địch lợi dụng phục vụ chomục đích chống phá Nhà nước ta Con bài tôn giáo là hết sức lợi hại và đượcnhiều quốc gia phương Tây coi là nhân tố trong đường lối đối ngoại Để gây sức
ép trên trường quốc tế, ủng hộ các thế lực thù địch, phản động chống phá Nhànước ta, chúng ráo riết hoạt động thu thập các tin tức, tài liệu mà chúng chorằng Nhà nước ta vi phạm tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo để xuyên tạc, phóngđại thành vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo nhằm quốc tế hóa vấn đềtôn giáo ở Việt Nam Chính vì vậy, chỉ cần trong chính sách hoặc trọng việc giảiquyết các vụ việc cụ thể, nếu chúng ta sơ hở, mất cảnh giác lập tức sẽ bị thổiphồng sự việc tạo cớ can thiệp vào vấn đề nội bộ đất nước ta
- Người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có vai vế uy tín lớn, tri thức có têntuổi trong các dân tộc ít người: Theo từ điển bách khoa Công an nhân dân,
Trang 25người có uy tín trong các dân tộc thiểu số là người có ảnh hưởng nhất định trongcộng đồng không phải bằng quyền lực hành chính mà bằng sự tín nhiệm ở cácvùng dân tộc thiểu số Họ có thể là già làng; trưởng thôn, buôn, làng, bản; người
có học vấn cao trong dân tộc thiểu số, người thành công trong hoạt động kinh tế,
có công trong hoạt động từ thiện xã hội ở địa phương… Những đối tượng nàykhông được xác định ổn định mà tùy thuộc và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể vàyêu cầu chính trị, xã hội đặt ra Các đối tượng này do được tín nhiệm trong cộngđồng hoặc các lợi ích của cộng đồng gắn liền với các hoạt động của họ cho nên
họ được cộng đồng bảo vệ, tôn sùng Khi các đối tượng này thực hiện hành viphạm tội, nếu chúng ta không có các cách thức, biện pháp hợp lý có thể kíchđộng cho cả cộng đồng dẫn tới những hành động ảnh hưởng đến trật tự, an toàn
xã hội hoặc có thái độ bất hợp tác với các cơ quan chức năng gây khó khăn rấtlớn cho quá trình giải quyết vụ án
Ngoài những đối tượng trên còn một nhóm đối tượng nữa đó là, nhân sĩ,trí thức, văn nghệ sĩ có tiếng trong nước và thế giới Đây là những người cótrình độ học vấn, những quan điểm, công trình nghiên cứu, những sản phẩm của
họ có tầm ảnh hưởng nhất định ở trong nước và quốc tế hoặc là những ngườihoạt động văn hóa nghệ thuật thu hút được sự chú ý của công chúng trong nướccũng như ở nước ngoài Do tầm ảnh hưởng, và uy tín của họ cho nên, trongtrường hợp họ thực hiện hành vi phạm tội cần phải áp dụng các biện pháp ngănchặn, chúng ta phải thận trọng, lựa chọn biện pháp hợp lý và tuân thủ nhữngtrình tự, thủ tục thích hợp để tránh gây dự luận xấu trong xã hội, tác động tiêucực đến các đối tượng khác trong giới nhân sĩ, tri thức, văn nghệ sĩ ảnh hưởngđến đường lối chính sách của Đảng và dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng đểxuyên tạc vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí
Tóm lại, trên đây là các đối tượng có nhân thân đặc biệt Việc áp dụng
Trang 26biện pháp ngăn chặn đối với họ không chỉ đơn thuần là hạn chế một số quyềncủa họ để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án mà nó còn liên quan đến nhiềuchủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, liên quan đến cácvấn đề nhạy cảm Những sơ hở, thiếu sót trong quá trình áp dụng biện phápngăn chặn đối với các đối tượng này có thể gây ảnh hưởng về chính trị, xã hội,
dễ gây dư luận trong quần chúng nhân dân, đồng thời cũng là những vấn đề dễ
bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kính động chống phá Nhà nước ta.Chính vì vậy, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn với các đối tượng này, một mặtphải tuân thủ đầy đủ và chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thờihạn theo đúng quy định của luật tố tụng hình sự đồng thời phải tiến hành mộtcách rất thận trọng, có sự cân nhắc, lựa chọn biện pháp áp dụng, có chế độ kiểmtra, thỉnh thị, báo cáo chặt chẽ
Trang 27phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động rasao? Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tộiphạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội Kết quả củaquá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiệntượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tộiphạm
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòngchống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ Bước đầu được phản ánh tảnmạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâusắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoahọc xã hội Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theohướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranhchống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lậpchuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tộiphạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tộiphạm đã ra đời và phát triển
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) vàLogos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp) Vậy tộiphạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu vềtội phạm” Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngànhkhoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhànghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học đượcgiới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
Trang 28- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
- Nhân thân người phạm tội
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta,Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệvững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh kiên quyết
và triệt để chống các loại tội phạm hình sự Điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong nghiên cứu tộiphạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách có hiệu quả vớichúng Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội phạm là vấn đề có ýnghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, giữvững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình Đó lànhững quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiêncứu Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đốitượng nghiên cứu riêng Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạtđộng tội phạm và phòng ngừa tội phạm
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã đượcxác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
Trang 29cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhânthân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đóphản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theomột trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luậthoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tộiphạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đisâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhânthân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòibiện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm Cách xác định như trên còn chothấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệthống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiêncứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không chophép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiêncứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bảnhoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa họctội phạm
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học baogồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn
ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định Nhưvậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chấtcủa nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hộinày
Trang 30Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bảnsau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động tháicủa Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trongphạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư Những nội dung này phản ánh sốlượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụthể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tộiphạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suythoái về đạo đức, tệ nạn xã hội )
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượngnghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạngtội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồngthời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòngngừa ngăn chặn tội phạm
1.2.2 Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo thuậnlợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất yếucủa sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiệntượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội Vì vậycần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điềukiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong,bên ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và
sử dụng biện pháp phòng ngừa chúng
Trang 31- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên nhân
và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong quátrình tác động đến hành vi phạm tội
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tộiphạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quátrình đãn đến việc phạm tội)
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưađược phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm Chẳng hạn còn có sựnhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giávấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau Từ đó chothấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạmtrong khoa học Tội phạm học ở nước ta
1.2.3 Nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tộiphạm học Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặcđiểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội” Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng độngvất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tìnhtrạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dungsau:
Trang 32- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giớitính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội Ơđây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổchức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối vớicác giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tìnhcảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trongquá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xãhội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụthể khác, các cơ quan, đơn vị khác
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật hình
sự Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động cánhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng ngừangăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện bảnchất xã hội của con người phạm tội Nghiên cứu những vấn đề trên có ý nghĩaquan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung
và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể Mặt khác nghiên cứu nhânthân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và nângcao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm cụthể
1.2.4 Phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hộihướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn ngừakịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội Ơ nhiềunước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã và
Trang 33đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ quamnnhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân Hoạt động này cần thiết phải đượcxem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng hoàn thiệnhơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao chất lượng củacông tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm đượcphân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm
- Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể
- Nôi dung phòng ngừa tội phạm
- Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm
- Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòngngừa tội phạm
- Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòngngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạnnhn
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu củakhoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫnnhau Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tộiphạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụthể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong mộttổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như Tìnhtrạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người phạmtội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm Còn đối tượngnghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với tội
Trang 34phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiệntượng này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa họcTội phạm học.
1.3 Hệ thống Tội phạm học
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm phổ biến được sửdụng trong khoa học Ý nghĩa tác dụng của nó đối với nghiên cứu là giúp chochúng ta nghiên cứu và nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống,lôgíc về nội dung và hình thức của vấn đề, qua đó phát hiện, bổ sung và làmsáng tỏ những vấn đề trong nội dung nghiên cứu Tội phạm học, giúp chúng tanhận thức có hệ thống về môn học này
Hệ thống khoa học tội phạm được xây dựng trên hai cơ sở chính: Theođối tượng nghiên cứu và heo mức độ tổng quát các thông tin tư liệu khoa học
+ Nhân thân người phạm tội
+ Phòng ngừa tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể
Tổng hợp các kiến thức về các mặt nói trên tạo thành môn khoa họchoàn chỉnh – Tội phạm học
b Theo mức độ tổng hợp các thông tin, tài liệu đã được nghiên cứu thuthập, tích luỹ trong quá trình nghiên cứu, người ta chia toàn bộ môn khoa họcthành 2 phần: Phương pháp lý luận chung (phần chung) và phần lý luận vềcác loại tội phạm cụ thể (phần cụ thể)
Trang 35- Trong phần chung được trình bày các quan điểm, quan niệm, kháiniệm và các vấn đề có liên quan đến Tội phạm học Ở phần này bao gồn cócác nội dung sau:
+ Khái niệm, đối tượng, hệ thống Tội phạm học
+ Phương pháp luận trong nghiên cứu Tội phạm học và nhiệm vụ củanó
+ Mối quan hệ giữa Tội phạm học và các ngành khoa học khác
+ Tình hình nghiên cứu và phát triển của Tội phạm học ở Việt nam vàtrên thế giới
+ sự khác nhau giữa Tội phạm học XHCN và Tội phạm học tư sản.+ Lý luận chung về tình trạng, cấu trúc, động thái tội phạm
+ Lý luận chung về nhân thân người phạm tội
+ Lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của Tình trạng tội phạm
và tội phạm cụ thể
+ Vấn đề phòng ngừa tội phạm
+ Dự báo tội phạm
+ Thông tin Tội phạm học
Những vấn đề trên dược trình bày một cách khái quát đi sâu về mặt lýluận cơ bản có tính hướng dẫn cho việc nghiên cứu cụ thể Điều đó giúpchúnh ta nhận thức một cách tổng quát về toàn bộ nội dung môn học trong đó
có các quan điểm, khái niệm cơ bản về các sự vật hiện tượng và quá trình xãhội liên quan đến Tội phạm học
Trong phần cụ thể đượch đi sâu nghiên cứu đặc điểm và các biện phápphòng ngừa từng loại tội phạm cụ thể Việc phân chia ra các loại tội phạm cụthể để đi sâu nghiên cứu là cần thiết, tuy nhiên các loại tội phạm cụ thể rất đadạng Nếu phân tích chúng để nghiên cứu trong các tài liệu Tội phạm học thìrất rộng và phức tạp, mặt khác có thể dẫn đến trùng lặp các nội dung nghiên
Trang 36cứu như đặc điểm tính chất và biện pháp phòng ngừa tội phạm Vì vậy, cầnthiết phải tập hợp các loại tội phạm theo từng nhóm có tính chất, mức độ,hành vi, chủ thể hoặc khách thể xâm hại tương tự giống nhau để nghiên cứu
và soạn thảo biện pháp phòng ngừa cụ thể
Việc phân chia các nhóm tội phạm để nghiên cứu trong Tội phạm học
có nhiều cách khác nhau
+ Theo mục tiêu cuộc đấu tranh chống tội phạm đã được đề cập trongcác văn bản tài liệu ở Việt nam, có thể phân chia các nhóm tội phạm: tộiphạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội,tội phạm kinh tế, tội phạm về ma tuý…
+ Theo mức độ về lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội có: tộiphạm cố ý và tội phạm vô ý
+ Theo tính chất phạm tội có nhóm phạm tội lần đầu và tái phạm
+ Căn cứ vào đặc điểm nhân thân người phạm tội chia ra: tội phạmthanh niên, tội phạm phụ nữ, tội phạm vị thành niên, tội phạm chức vụ…
+ Căn cứ vào khách thể xâm hại, đối tượng bị tội phạm tấn côngcó thểchia ra các nhóm sau:
Tội phạm xâm phạm sở hữu (tài sản XHCN, tài sản riêng công dân); tộiphạm xâm phạm tính mạng sớc khoả, nhân phẩm, danh dự con người; tộiphạm xâm phạm trật tự công cộng…
Như vậy, có nhiều cách chia nhóm các loại tội phạm để nghiên cứu cònphụ thuộc các nhu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, từng thời gian, từng địaphương, quá trình đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa ngăn chặn chúng.Đối với lực lượng cảnh sát nhân dân, với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là đấutranh chống tội phạm hình sự, thì cần thiết phải đi sâu nghiên cứu theo cácnhóm tội phạm sau đây:
Trang 371 Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và danh dự, nhân phảmcủa con người.
2 Các tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
3 Các tội phạm xâm phạm sở hữu
4 Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
5 Các tội phạm về ma tuý
6 Các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng
7 Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính
8 Các tội phạm về chức vụ
Ngoài ra, trong tình hình hiện nay đòi hỏi tập ttrung nghiên cứu vàomột số loạ tội phạm nổi lên như: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra,tội phạm bạo lực, tội phạm có tổ chức, tội phạm quốc tế…
Trong mỗi loại, nhóm tội phạm đặt ra nghiên cứu cần thiết phải đề cậpđược các nội dung cơ bản là:
+ Tình trạng cấu trúc, diễn biến tội phạm trong phạm vi nhất định vềkhông gian và thời gian
+ Đặc điểm nhân thân người phạm tội
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
+ Biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm
Xem xét lý luận Tội phạm học một cách có hệ thống như trên là cầnthiết Đối chiếu với trình độ phát triển lý luận Tội phạm học ở nước ta nóichung, so với các khoa học xã hội khác có thể nhận thấy rằng: Việc nghiêncứu của chúng ta còn chưa theo một hệ thống hoàn chỉnh, còn coi nhẹ việcnghiên cứu hoàn thiện lý luận chung, chưa tổng kết đầy đủ các kinh nghiệm
về nghiên cứu và các kiến thức trong lĩnh vực này Chúng ta thường chỉ chú ýtập trung vào các đối tượng cụ thể trong từng lĩnh vực, từng địa phương vìvậy dẫn đến tình trạng nghiên cứu phiến diện, tài liệu tản mạn, chưa tích luỹ
Trang 38để khái quát những vấn đề về lý luận có tính bao quát Trên cơ sở xem xét hệthống Tội phạm học cần phải suy nghĩ mở ra phương hướng nghiên cứu đúngđắn, toàn diện trong lính vực khoa học này
1.4 Nhiệm vụ của Tội phạm học
Là một môn khoa học cụ thể, độc lập Tội phạm học phải có nhiệm vụriêng của mình Xác định đúng đắn phạm vi nhiệm vụ của Tội phạm học là cơ
sở để nghiên cứu, phát hiện, tích luỹ và hệ thống những kiến thức khoa học cóliên quan đên tội phạm, xác định đúng vị trí phương hướng hoạt động của các
cơ quan Nhà nước và xã hội, đội ngũ cán bộ lý luận và nhân viên thực tếtrong việc tham gia vào lĩnh vực khoa học này
Nhiệm vụ của Tội phạm học là những công việc cần phải tiến hành,trong hoạt động nghiên cứu khoa học Tội phạm học để đạt mục đích pháttriển và hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về tội phạm, tác động 1 cách cóhiệu quả với thực tế cuộc đấu tranh chống các loại tội phạm, tích cực phòngngừa không để tội phạm xảy ra, xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội trong
xã hội của chúng ta
Xuất phát từ nhiệm vụ của một ngành khoa học, từ thực tế đấu tranhphòng ngừa tội phạm và tình hình phát triển Tội phạm học Việt nam hiện nay,nhiệm vụ của Tội phạm học ở Việt nam được đặt ra như sau:
- Một là, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về Tình trạng tộiphạm xảy ra ở Việt nam, xác định rõ bản chất của nó, làm rõ nguyên nhân,điều kiện tội phạm và các vụ việc phạm tội cụ thể, dự báo Tình trạng tội phạm
và đề xuất biện pháp phòng ngừa, không để tội phạm nảy sinh và phát triển
- Hai là, trên cơ sở nghiên cứu nắm vững bản chất hiện tượng tội phạm,nguyên nhân và điều kiện của nó, mối quan hệ của hiện tượng tội phạm vứicác hiện tượng xã hội khác xây dựng các luận cứ khoa học vững chắc cho cácđường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KT – XH nói chung
Trang 39và chính sách trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm hình sự trong mỗi giaiđoạn phát triển xã hội.
- Ba là, hoàn thiện hệ thống lý luận Tội phạm học, xây dựng Tội phạmhọc trở thành môn khoa học độc lập phong phú, phù hợp với điều kiện ở Việtnam tiếp thu đầy đủ các thành tựu tiến tiến nhất của tội phạm học các nướctrên thế giới, tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, quan điểm
Tư sản trong lĩnh vực nghiên cứu tội phạm
- Bốn là, đảm bảo sử dụng và ứng dụng các kiến thức thành tựu khoahọc vào thực tế công tác đấu trang phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, giáo dụccảm hoá người phạm tội, nâng cao hiệu quả của các biện pháp, phương tiệnphòng ngừa tội phạm trong mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội
Như vậy có thể thấy rằng: trong điều kiện nước ta hiện nay nhiệm vụTội phạm học rất nặng nề để thực hiện được các nhiêm vụ đã đặt ra, trước hếtđòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vị trí quan trọng của môn khoa họcnày, phải có phương hướng hoạt động rõ ràng, phù hợp, phải có sự tham giađông đảo của đội ngũ cán bộ khoa học và các nhân viên thực hành đang lànnhiệm vụ phòng ngừa, điều tra, xử lý tội phạm, có sự quan tâm của các tổchức Đảng, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội trong quá trình thựchiện nhiệm vụ Tội phạm học hiện nay của nước ta
1.5 Mối qun hệ của Tội phạm học với các lĩnh vực khoa học khác.
Mỗi khoa học được phát triển như một quá trình Trong quá trình đó có
sự tiếp thu, sử dụng và phát triển thành tựu của các lĩnh vực khoa học khác
Vì vậy cáclĩnh vực khoa học trong chừng mực nào đó đều có liên quan vớinhau Tội phạm học cũng vậy, nó cdó liên quan đến những lĩnh vực khoa họckhác
Trang 40Tuy nhiên có thể thấy rằng: Tội phạm học nghiên cứu về hiện tượng tộiphạm có tính xã hội; các nguyên nhân điều kiện tội phạm được chứng minh lànhững hiện tương xã hội tiêu cực tác động đến hành vi của con người phạmtội Những biện pháp được soạn thảo để sử dụng trong phòng ngừa tội phạmphải phù hợp với điều kiện xã hội và suy đến cùng do chính con người tổchức thực hiện trong thức tế hoạt động trong xã hội Vì vậy khi xem xét mốiquan hệ của Tội phạm học với các khoa học khác trước hết cần phải xác định
nó là một khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, có quan hệ một cáhc chặtchẽ và trực tiếp với các ngành khoa học thuộc lĩnh vực xã hội như Triết học,Kinh tế học, Xã hội học và các lĩnh vực của khoa học luật…dưới đây chỉ đềcập đến mối quan hệ của Tội phạm học với một số lĩnh vực khoa học có quan
hệ gần gũi thiết thực nhất
1.5.1.Tội phạm học với xã hội học
Xã hội học là một khoa học nghiên scứu xã hội Mác và Angghel đãsáng tạo ra một khoa chân chính nghiên cứu xã hội và quy luật phát triển của
xã hội mà chúng ta gọi là xã hội Macxit Theo quan điểm này phương thứcsản xuất của cải vật chất quyết định sự phát triển của xã hội, các quan hệ sảnxuất, quan hệ kinh tế tạo thành nền tảng của đời sống chính trị và tinh thầncủa xã hội Mỗi thời kỳ lịch sử phát triển của xã hội có quy luật riêng của nó
mà trong đó các quá trình xã hội, các yếu tố cấu thành của nó cũng có nhữngquy luật phụ thuộc nhất định trong một hình thái kinh tế xã hội Xã hội họcnghiên cứu các hiện tượng xã hội như cấu trúc xã hội trình đô lao động, trình
độ nhận thức văn hoá, nhu cầu sinh hoạt, nghỉ ngơi, phong tục, tập quán, điềukiện cuộc sống của nhân dân, nghiên cứu các hiện tượng tiêu cực phổ biếnnhư: nghiện rượu, cờ bạc, mại dâm… nhằm phát hiện những sơ hở thiếu sótcủa cơ chế hoạt động xã hội, nhược điểm trong tính cách con người, từ đó đềxuất với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng và ban hành các chính