1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

đặc điểm thơ quang dũng

100 6,7K 9

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 1,83 MB

Nội dung

Thơ ca tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng những ước mơ, khát vọng cháy bỏng; những sắc thái tình cảm cao cả t

Trang 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN 

PHAN THỊ KIM THOA MSSV: 6116155

Cán bộ hướng dẫn: LÊ THỊ NHIÊN

Cần Thơ, năm 2014

Trang 2

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT LUẬN VĂN

A MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài

2 Lịch sử vấn đề

3 Mục đích nghiên cứu

4 Phạm vi nghiên cứu

5 Phương pháp nghiên cứu

1.2 Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954

1.3 Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng

1.3.1 Cuộc đời

1.3.2 Sự nghiệp văn học

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ QUANG DŨNG

2.1 Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Quang Dũng

2.1.1 Ngợi ca cảnh sắc quê hương

2.1.2 Thể hiện tình cảm gắn bó sâu đậm đối với quê hương

2.2 Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thơ Quang Dũng

2.2.1 Vẻ đẹp của người lính

2.2.2 Vẻ đẹp của người phụ nữ

Trang 3

2.3 Tình yêu lứa đôi trong thơ Quang Dũng

2.4 “Mộng giang hồ” trong thơ Quang Dũng

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ QUANG DŨNG

3.1.Không gian và thời gian nghệ thuật

3.1.1 Không gian nghệ thuật

3.1.1.1 Không gian bối cảnh thiên nhiên

3.1.1.2 Không gian bối cảnh xã hội

3.1.2 Thời gian nghệ thuật

3.2 Các thể thơ quen thuộc trong thơ Quang Dũng

Trang 4

A MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài

Văn học Việt Nam mỗi thời kì, mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm nổi bật và những thành tựu đáng kể Đối với tôi, văn học Cách mạng là nền văn học để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất vì nó ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt - hoàn cảnh đất nước đang chìm trong khói lửa của chiến tranh, con người phải chiến đấu hàng ngày, hàng giờ với kẻ thù để giành sự sống nhưng tâm hồn họ vẫn dạt dào tình cảm, dạt dào cảm hứng văn chương

Quang Dũng, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp (1945-1954), cùng với một số các tác giả khác như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Nông Quốc Chấn… đã đóng vai trò quan trọng trong

sự phát triển của thơ ca dân tộc Có thể nói, Quang Dũng là người nghệ sĩ đặc biệt, có

sở trường viết về người lính, sáng tác về chân dung anh bộ đội, bởi vì ông cũng là một nhà thơ mặc áo lính, sống trong cuộc chiến tranh, đi cùng những chặng đường hành quân Bằng tài năng, nhiệt huyết, trái tim giàu yêu thương, nhà thơ Quang Dũng đã để lại cho nền văn học Viêt Nam nói chung và giai đoạn văn học chống Pháp nói riêng những tác phẩm giàu giá trị

Ông là một nghệ sĩ đa tài, ông am hiểu và sáng tác nhiều lĩnh vực nghệ thuật như: làm thơ, viết văn, viết báo, soạn nhạc, vẽ tranh Ở lĩnh vực nào ông cũng có những thành tựu đáng kể, thế nhưng thành công nhất vẫn là thơ Thơ ca có vị trí đặc biệt quan trọng trong hành trình nghệ thuật của Quang Dũng Mặc dù ông để lại không nhiều tác phẩm, chỉ khoảng trên dưới năm mươi bài thơ, nhưng đến với thơ Quang Dũng ta bắt gặp cái đẹp kì diệu của tình yêu, của những khát khao và thương nhớ qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo Tên tuổi Quang Dũng gắn liền với một số bài

thơ tiêu biểu như: Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây và tập thơ Mây đầu ô (1970)

Mỗi tác phẩm là một cung bậc góp vào bản hòa âm thơ phong phú của Quang Dũng

Hiện nay, thơ Quang Dũng đã được đưa vào học chính thức trong chương trình trung học phổ thông (Ngữ văn 12) Điều đó chứng tỏ Quang Dũng có một vị trí quan trọng trong nền thơ ca cách mạng, đặc biệt thơ kháng chiến chống Pháp 1945-1954 Chính vì những điều trên mà thơ của Quang Dũng ngày càng chiếm được rất nhiều

Trang 5

tình cảm của đông đảo độc giả cũng như sự đánh giá nhận xét cao của các nhà nghiên cứu văn học

Với sự tài hoa của một nhà thơ hiền lành chân chính, luôn nhìn đời bằng đôi mắt trẻ trung, sôi nổi, thơ Quang Dũng như rót vào lòng người những cung bậc trầm bổng, du dương, ngọt ngào, tươi trẻ Ngòi bút của ông như có ma lực thần kì, thu hút, khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc Sự bình dị, gần gũi, quen thuộc đã làm cho những thi phẩm của Quang Dũng không những mang đặc sắc về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật

Để có một cái nhìn bao quát hơn về thơ của Quang Dũng, chúng tôi quyết định

chọn vấn đề “Đặc điểm thơ Quang Dũng” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn tốt

nghiệp của mình Chúng tôi nhận thấy đây là việc làm giúp chúng tôi tiếp cận với thơ Quang Dũng sâu sắc hơn Từ đó có thể phát hiện ra những giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật trong thơ ông Chúng tôi cũng mong muốn rằng đây là dịp giúp chúng tôi có thể hiểu rõ hơn con người và sự nghiệp thơ văn Quang Dũng, đồng thời

có cái nhìn hệ thống, sâu sắc và toàn vẹn hơn Bên cạnh đó, việc thực hiện đề tài còn là dịp cho chúng tôi bước đầu làm quen, tập nghiên cứu độc lập một vấn đề văn học, từ

đó giúp chúng tôi nâng cao kiến thức cũng như kinh nghiệm cho việc học tập và nghiên cứu sau này

2 Lịch sử vấn đề

Khi đề cập đến thơ ca Cách mạng với đề tài người chiến sĩ, thì chúng ta sẽ không quên nhắc đến Quang Dũng Đến với thơ Quang Dũng chúng ta bắt gặp một giọng điệu riêng, không trộn lẫn với bất cứ nhà thơ nào, đó là giọng trữ tình lai láng, hào hùng sôi nổi với những hình ảnh đặc tả, sắc nét, âm thanh nhịp nhàng, đường nét uyển chuyển mang dáng dấp cụ thể sinh động của làng cảnh Việt Nam Điều đó đã làm nên phong cách thơ Quang Dũng, tạo cho thơ ông có những đặc điểm rất riêng, giúp ông luôn đứng vững trên thi đàn Việt Nam qua mấy chục năm và hẳn sẽ không ngừng gây hứng thú đối với người đọc mãi về sau

Có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm của Quang Dũng Mỗi bài viết đề cập một khía cạnh trong cuộc đời cũng như trong thơ ca, văn xuôi của ông,

có thể kể đến một số công trình tiêu biểu:

Trang 6

Trong bài Nghĩ về thơ bạn đăng trong Đến với thơ Quang Dũng, tác giả Trần Lê Văn - người bạn thân của Quang Dũng đã viết: “Quang Dũng vào "làng" thơ cách

mạng với bài Tây Tiến Như có mối duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến Tây Tiến và ngược lại… [2, tr 89] "Quang Dũng là người tài hoa “pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm”"

[2, tr 95] , "Quang Dũng yêu thiên nhiên, và trước hết là yêu sức người, tình người ở

khắp nơi vun xới, chăm sóc thiên nhiên" [2, tr 101] Bên cạnh đó, ông còn rất cảm

phục khi nói về người bạn chí thân của mình - nhà thơ Quang Dũng: “Ở Quang Dũng,

ngoài cái tính tài tử hào hoa của người Hà Nội có pha tạp địa phương tính của “nhiều quê hương”.[…] Đó là cái tài gây cười Những ai quen Quang Dũng đều biết anh là người vui tính, giỏi hài hước, một thứ hài hước thông minh và đôn hậu Anh đến đâu

là vui đấy, chuyện cười rôm rã, tiếng cười trong trẻo, ấm áp nổi lên, người lớn trẻ con đều khoái” [2, tr 101] Tác giả Trần Lê Văn đã đưa ra những lời nhận xét chân thành

nhưng khá sâu sắc khi nhắc đến người bạn của mình bằng những từ ngữ mộc mạc, giản đơn nhưng rất đượm nghĩa tình Qua bài viết này, Trần Lê Văn đã cho người đọc càng thấy rõ hơn những tài hoa cũng như đức tính hài hước, tốt bụng của nhà thơ Quang Dũng

Bài viết Quang Dũng, con người hồn hậu, ngòi bút tài hoa cũng đăng trong

Tuyển tập Quang Dũng của tác giả Ngô Quân Miện là một cái nhìn đầy sâu sắc về

Quang Dũng Theo ông, Quang Dũng luôn “là một tâm hồn nghệ sĩ thuần hậu, đầy

tính dân dã Đi bộ đội, đi công tác, đi sơ tán, đi viết văn, đến đâu Quang Dũng cũng hòa hợp ngay với những chòm xóm, với người quê, cảnh quê, say sưa hít thở cái không khí thôn dã, sống cái tính đồng ruộng chân mộc" [13, tr 369], "Quang Dũng sống hồn hậu, và rất giản dị Với bạn bè, anh rất thật và cởi mở, mong được trao đổi tâm sự vui buồn Tình bạn với anh cần như khí trời" [13, tr 373] Bài viết còn nhận xét rằng:

“Bên cạnh cái đẹp dân dã, thơ văn Quang Dũng còn có cái đẹp tài hoa Cái tài hoa

trong thơ thể hiện rất rõ ở những bài Đôi mắt người Sơn Tây, Những làng đi qua, Tây Tiến, trong đó cảm xúc tinh tế, lời thơ thanh thú mà không bóng bẩy, không để lại dấu vết gia công: nhạc điệu đẹp” [13, tr 370] Ở đây, tác giả không chỉ nghiên cứu về con

người nhà thơ Quang Dũng mà ông còn đi sâu vào khai thác những điểm đặc sắc trong thơ Quang Dũng Bài viết của ông còn cho chúng ta biết thêm một Quang Dũng có

"máu giang hồ" bên cạnh cái tài hoa, lãng tử

Trang 7

Trong bài Người thơ Quang Dũng đăng trong Tuyển tập Quang Dũng, tác giả

Thanh Châu đã giúp chúng ta nhận biết nhà thơ Quang Dũng vốn là người có thú ngao

du, có máu giang hồ nghệ sĩ Quang Dũng là “người suốt đời ưa ngao du sơn thủy,

luôn bực tức phố nhà chật hẹp, hễ có dịp rỗi rãi, công tác là rủ bạn đi bất cứ nơi đâu [ ] Đi chơi với Quang Dũng là một cái thú, [ ] miễn là thoát ra khỏi thành phố [ ] Đến địa phương nào, Quang Dũng cũng hồ như đã có người quen từ trước, hoặc mới làm quen thoải mái” [13, tr 366] Thanh Châu cũng rất nể trọng nhà thơ Quang

Dũng khi cả bản thân “Quang Dũng xuất thân từ một gia đình khá giả nhưng cốt cách

lại là một kẻ bình dân chẳng tham thanh chuộc lạ Gặp anh bao giờ cũng giày vải, mũ nan, y phục chả có gì nổi bật giữa mọi người” [13, tr 366] Bài viết đã có cái nhìn bao

quát về người thơ Quang Dũng

Năm 1988, trong bài viết Tình người của Quang Dũng đăng trong Tuyển tập

Quang Dũng, Hoàng Như Mai đã nhận định rất thấu đáo về con người Quang Dũng:

“Tôi cho là anh có một tình yêu đời, yêu người lớn lao, có thái độ sống trượng phu” [2,

tr 386]

Hoài Việt trong quyển Nhà văn trong nhà trường - Quang Dũng có viết:

“Quang Dũng yêu con sông Đáy “ngàn dâu xanh ngắt một màu” yêu núi Ba Vì mờ

cao, yêu cánh đồng vàng Bương Cấn, yêu rặng Sài Sơn gắn với Hoàng Xá, đẹp như tranh Từ đó mà yêu biển, yêu rừng, yêu nên tìm đến, tìm đến mà hội nhập Gót chân

“giang hồ xê dịch” của anh kể cũng đã đặt tới nhiều nơi Ở những nơi đó, anh nhập với trời đất, với con người, [ ] Trời đất “tự nó”, con người “tự nó” nên trong trang thơ, trong tranh vẽ của anh không thấy cảnh cao sang quyền quý, không thấy bàn tay

“trau lục chuốt hồng” - Rất dân dã nên rất Việt Nam!” [24, tr 8] Hoài Việt đã cho ta

thấy vẻ đẹp tự nhiên, bình dị trong thơ Quang Dũng xuất phát từ phẩm chất và tâm hồn giản dị của ông

Trần Minh Nguyệt trong quyển Văn học và tuổi trẻ nhận xét về Quang Dũng:

“Quang Dũng đã khẳng định một vị trí không thể nào thay thế trong lòng đông đảo

độc giả” [16, tr 3] và tác giả đặt tên cho bài viết của mình là Quang Dũng - Nhà thơ giữ trọn tình người Thật vậy, ngày nay vị trí nhà thơ Quang Dũng càng được khẳng

định sâu sắc hơn đối với độc giả khi bài Tây Tiến đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông (Ngữ văn 12) Đặc biệt, ông còn được xếp vào

Trang 8

những nhà thơ tiêu biểu thời kì kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Trong bài viết này, tác giả Trần Minh Nguyệt đã góp thêm một tiếng nói trong việc nhận xét về vị trí của Quang Dũng trong lòng độc giả

Về nội dung thơ Quang Dũng, Lê Bảo trong quyển Nhà văn và tác phẩm trong

nhà trường - Quang Dũng, Chính Hữu đã nhận xét: “Về nội dung, thơ Quang Dũng hội tụ được hai dòng thi cảm Đất nước, quê hương cùng với khát vọng lên đường là cốt cách của một hồn thơ, một đời thơ ấy” [1, tr 7], “Thơ Quang Dũng, trong nhiều trường hợp như ống kính lướt nhanh để kịp ghi lấy những cảnh, những người, cả những điều chỉ là cảm nghĩ” [1, tr 13] Tuy tác giả Lê Bảo đã dành khá nhiều nhận

định nói về nội dung thơ Quang Dũng nhưng những nhận định đó đã góp phần thêm trong việc cho chúng ta thấy rõ được những nét đặc sắc trong nội dung thơ Quang Dũng

Trong bài Người thơ Quang Dũng đăng trong Tuyển tập Quang Dũng, tác giả

Thanh Châu đã cho độc giả thấy được sự bình dị, mộc mạc trong nội dung thơ Quang

Dũng: “Thơ văn anh “thoảng mùi thơm quê mùa […] Đó là văn phong một con người

còn nhiều dây mơ rễ má gắn mình với gốc rễ ông cha nông nghiệp và dù đi đến đâu, lòng anh bao giờ cũng quay về nỗi nhớ nhưng vùng đất đá ong cằn cõi Sơn Tây, với cánh đồng Bương Cấn, với núi Sài Sơn, mây trắng xứ Đoài bay ngang đỉnh núi Ba Vì”

[13, tr 366] Đây là một bài nhận xét khá chi tiết và sâu sắc về nội dung thơ Quang

Dũng, điều đó làm nổi bật lên hồn thơ lãng mạn của ông

Giới nghiên cứu không chỉ đề cập đến con người và điểm đặc sắc về nội dung thơ Quang Dũng mà còn đề cập đến hình thức nghệ thuật Có bài nghiên cứu một cách

cụ thể và sâu sắc một tác phẩm nào đó như Tây Tiến, Mây đầu ô, nhưng cũng có bài

đưa ra những nhận định khái quát về toàn bộ sự nghiệp thơ Quang Dũng

Nguyễn Đăng Mạnh trong quyển Những bài giảng về tác gia văn học trong tiến

trình văn học Việt Nam nhận xét rất thấu đáo về thơ Quang Dũng: “Thơ Quang Dũng

có những bài thật hay, cảm hứng lãng mạn cuốn bốc dạt dào Thơ đầy chất họa, chất nhạc Nhiều chữ dùng rất thật và rất bạo” [10, tr 162] Quả thật như nhận xét của

Nguyễn Đăng Mạnh, thơ Quang Dũng có nhiều bài thật hay có thể kể đến như Tây

Tiến, Không đề, Đôi mắt người Sơn Tây, Mây đầu ô, Cảm hứng dạt dào trong thơ của

ông là cảm hứng lãng mạn, không xa rời hiện thực mà luôn gắn với cuộc chiến đấu

Trang 9

gian khổ của quân và dân ta

Anh Ngọc trong quyển Từ thơ đến thơ đã dành nhiều nhận định về tài năng nghệ thuật rất điêu luyện của Quang Dũng Anh Ngọc cho rằng ở bài Tây Tiến, Quang Dũng là: “Một khả năng điều khiển chữ nghĩa bậc thầy” [14, tr 287] “Quang Dũng đã

để mặc cho hồn thơ trào lên đầu ngọn bút khi cố gắng tái hiện lại cảnh trí và đời sống vốn thực ra là vô cùng gian lao, đầy nguy hiểm bất trắc của đoàn quân “Tây Tiến” bằng cách cảm, cách nhìn, cách nói mang đầy dấu ấn sách vở của một cậu học trò lãng mạn Có thể nói Tây Tiến chính là bức tranh đầy ấn tượng về một thế giới ác liệt,

dữ dội được vẽ bởi biện pháp lãng mạn truyền thống còn trinh trắng đến ngây thơ” [14,

tr 288] Nhận xét của Anh Ngọc xung quanh bài Tây Tiến đã khái quát được tài năng

sử dụng ngôn từ bậc thầy của Quang Dũng, đồng thời cũng nói lên được khả năng cảm thụ cuộc sống dạt dào của nhà thơ

Tài năng của nhà thơ còn được khẳng định trong bài Tây Tiến qua nhận xét của Hữu Đạt trong quyển Ngôn ngữ thơ Việt Nam: “Một mặt ông khai thác được các ưu

việt của các thứ tiếng giàu thanh điệu, mặt khác kết hợp nhuần nhuyễn thủ pháp nhân hóa và khoa trương làm cho bút lực ông vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển Thơ ông vừa thực vừa ảo” [4, tr 243]

Trong quyển Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX của Viện văn học có nhận định: “Những cách tân thi ca kiểu “Nhớ máu” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu

Loan, “Đêm mít tinh” của Nguyễn Đình Thi, “Bài ca vỡ đất” của Hoàng Trung Thông,

“Tây Tiến” của Quang Dũng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, là những mẫu mực của nền thi ca Cách mạng” [23, tr 906]

Lê Bảo trong quyển Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường - Quang Dũng,

Chính Hữu thì nhận định: “Về nghệ thuật thơ Quang Dũng kết hợp được cốt cách cổ điển, hiện đại với sự cách tân, nghĩa là vừa kế thừa, vừa đổi mới Nhiều câu thơ như kí họa đời Tống, đời Đường Có khi là những bức tranh thuốc nước màu sắc mờ nhờ, cổ kính” [1, tr 16] Lê Bảo đã nhận ra cái màu sắc cổ kính của thơ Quang Dũng, bên cạnh

chất lãng mạn tài hoa mà nhiều người đã nhận ra “Thơ Quang Dũng có thể hiện ra ở

đầu đối cực: Ở trạng thái động nhiều khi đến chóng mặt, nhưng ở trạng thái tĩnh: Tất

cả mọi chuyển động dường như bất động Chúng đứng yên, tự ngắm mình, ở cả những

âm thanh mà bình thường không ai nhận thấy Những thủ pháp của văn chương,

Trang 10

những liên tưởng nhiều chiều như một thứ ăng ten đa hệ được đặt vào mọi lúc, mọi nơi đều vô cùng đúng chỗ” [1, tr 25] Ông cũng cho rằng thơ Quang Dũng “không phải bài nào cũng hay, có sự khá kém đồng đều, cái mạnh và cái yếu đan cài, xen kẽ” Với

ông cái “đáng quý của tập thơ Mây đầu ô là ở mảng chất liệu quê hương mà nhà thơ

đã tắm mình trong đó Đây là một thứ ánh sáng kì diệu, từ một sự bắt đầu nào đó, đã lan tỏa, đã lung linh” [1, tr 22]

Lê Bảo còn nhận xét khá tỉ mỉ về giọng điệu thơ Quang Dũng: “Thơ Quang

Dũng có một giọng điệu, một sự hòa âm khá đặc sắc Ấy là sự vận dụng những thanh bằng, thanh trắc trong từng đoạn thơ, kể cả những tiếng gieo vần Nhà thơ đã khéo léo

sử dụng một bút pháp hòa âm táo bạo” [1, tr 26]

Nhìn chung, các ý kiến đánh giá hay những bài viết về con người cũng như về thơ ca của ông cũng đã cung cấp cho chúng ta những nhận định xác thực về thơ Quang Dũng ở cả phương diện nội dung lẫn về hình thức nghệ thuật Các tác giả cũng đã phát hiện được những đóng góp của nhà thơ cho thi đàn văn học Việt Nam hiện đại Tuy nhiên, nhìn chung trong quá trình khảo sát những công trình nghiên cứu về thơ Quang Dũng, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đều có một tiếng nói chung là thống nhất với nhau trên những vấn đề cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của nhà thơ Tuy nhiên, vấn đề về đặc điểm thơ Quang Dũng chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống Hầu như nó chỉ được lồng vào các vấn đề khác mà ít khi

được khai thác một cách trọn vẹn Chính vì thế, đề tài “Đặc điểm thơ Quang Dũng” sẽ

đóng góp, bổ sung thêm những cái nhìn mới mẻ, riêng biệt về đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Quang Dũng

3 Mục đích nghiên cứu

Như chúng ta đã biết Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Cách mạng Quang Dũng với phong cách thơ độc đáo cùng bút pháp nghệ thuật thật đặc sắc đã để lại những bài thơ đầy hương sắc, đồng thời còn góp phần làm phong phú thêm vườn hoa văn học Việt Nam, đặc biệt là nền văn học thời kì kháng

chiến chống Pháp Do đó, nghiên cứu đề tài "Đặc điểm thơ Quang Dũng" người viết

nhằm làm rõ đặc sắc thơ Quang Dũng ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật

Trên cơ sở cảm nhận, phân tích các sáng tác thơ Quang Dũng, chúng tôi có cơ hội tiếp xúc, đi sâu tìm hiểu các bình diện đề tài, cảm hứng chủ đạo và thế giới hình

Trang 11

tượng trong thơ ông Bên cạnh đó, chúng tôi còn muốn khai thác sâu hơn phương diện nghệ thuật thông qua các mặt như không gian và thời gian nghệ thuật, sự độc đáo về thể thơ, giọng điệu trong thơ của ông

4 Phạm vi nghiên cứu

Quang Dũng là người nghệ sĩ tài hoa, ông thành công trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật Ở luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung về toàn bộ tác phẩm thơ của ông Đồng thời, chúng tôi cũng tìm hiểu một số nhà thơ trước và cùng thời kì với ông để có sự so sánh khi cần thiết Tất cả đều phục vụ cho việc làm sáng tỏ yêu cầu của đề tài

5 Phương pháp nghiên cứu

Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp:

Phương pháp lịch sử: Trong quá tình tìm hiểu thơ Quang Dũng trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945 để thấy được sự chuyển biến, sự khác nhau về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật trong từng thời kì, từng giai đoạn Chúng tôi còn kết hợp việc tìm hiểu hoàn cảnh và cuộc đời của tác giả Quang Dũng để hỗ trợ cho việc nghiên cứu và nhìn nhận vấn đề

Phương pháp so sánh: So sánh nét đặc sắc thơ Quang Dũng với đặc điểm thơ của một số nhà thơ khác để nhận ra nét riêng và độc đáo của ông

Phương pháp phân tích - tổng hợp: Dựa trên những tư liệu được cung cấp từ phương pháp lịch sử, chúng tôi tiến hành thao tác phân tích Việc phân tích từng câu thơ, từng đoạn thơ, từng bài thơ cũng như việc lí giải mối quan hệ giữa câu thơ này với câu thơ khác, giữa đoạn thơ này với đoạn thơ khác, giữa bài thơ này với bài thơ khác được tiến hành đồng thời với quá trình tổng hợp nhằm mục đích rút ra nhận xét, những kết luận có tính chất khái quát, tổng quát về vấn đề mà luận văn nghiên cứu, tìm hiểu

Cùng với các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các thao tác: chứng minh, bình luận, giải thích để rút ra đặc điểm của thơ Quang Dũng

Trang 12

B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Thể loại thơ

1.1.1 Khái niệm

Thơ là thể loại có lịch sử phát triển lâu đời nhất trong văn chương nghệ thuật Vì thế có rất nhiều định nghĩa về thơ và việc định nghĩa thơ rất phức tạp và chưa có kết luận sau cùng Một số nhà thơ phương Đông cũng như phương Tây đã có những quan niệm rất riêng về thơ Hà Minh Đức đã dẫn lời một số tác giả phương Tây và phương

Đông quan niệm về thơ Như nhà thơ cách mạng Tố Hữu nhấn mạnh: "Thơ là tiếng

nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước trời đất" Lê Quý

Đôn thì cho rằng: "Thơ phát khởi từ trong lòng người ta" Hà Minh Đức thì quan niệm: Thơ là sự kết tinh cái đẹp của tâm hồn và tạo vật, và bài thơ hay là sự kết tinh

của kết tinh Còn các nhà thơ phương Tây cũng có nhiều ý kiến gần gũi: "Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim" (Đuy Belây - Pháp); "thơ là nhiệt tình kết tinh lại" (Anphret đơ Vinhi - Pháp); "thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm" (Gorki -

Nga) [5, tr 168]

Từ những quan niệm trên, ta thấy thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ, dùng chữ trong ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức logic nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mĩ cho người đọc, người nghe

1.1.2 Đặc điểm thơ

Về nội dung, thơ thường tập trung thể hiện thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con người một cách trực tiếp Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thơ không phản ánh thế giới khách quan Các sự kiện được gián tiếp tái hiện

thông qua tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình

Nhân vật trữ tình không có diện mạo, tiểu sử, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể,

nhưng được thể hiện qua giọng điệu, cảm xúc, cách cảm, cách nghĩ và có khi là "biểu

hiện trực tiếp cái tôi thứ hai của tác giả, nhưng nhiều khi chỉ là cái tôi "nhập vai" trữ tình" [21, tr 272] Chẳng hạn anh bộ đội trong bài Bầm ơi, bà mẹ trong bài Bà mẹ Việt

Trang 13

Bắc của Tố Hữu Nhân vật trữ tình nhập vai đã có từ xưa Đặng Trần Côn trong Chinh phụ ngâm, Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc, Hồ Xuân Hương trong Tự tình, đều xuất hiện với nhân vật trữ tình nhập vai Nhân vật trữ tình là người trực tiếp

thổ lộ những suy nghĩ và cảm xúc của tác giả

Còn nhân vật trong thơ trữ tình là "đối tượng mà tác giả muốn gởi gắm tình cảm,

là nguyên nhân trực tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả" [21, tr 272] Qua thơ,

ta có thể biết những chi tiết thoáng qua về lịch sử cuộc đời họ, như biết về: quê hương,

kỉ niệm tuổi thơ, đường đời, sự từng trải, tài năng, khát vọng Ví dụ sau đây là hình ảnh một tuổi thơ chân đất ở làng quê của Nguyễn Duy:

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá Níu váy bà đi chợ Bình Lâm Bắt chim sẻ ở vành tai tượng phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

(Đò lèn)

Không gian nghệ thuật trong thơ là nơi tác giả - cái tôi trữ tình hoặc nhân vật trữ tình xuất hiện để thổ lộ tấm lòng của mình Không gian ấy có khi rất mênh mông, có khi eo hẹp, có khi gần, khi xa, khi cao, khi thấp, có lúc mang tính cụ thể nhưng cũng

có lúc chỉ là một hiện tượng ước lệ thể hiện cảm xúc Có khi không gian mênh mông:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà

(Qua đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan)

Không gian trong bài thơ trên là một không gian bao la rộng lớn nơi đèo Ngang, dưới

núi, bên sông

Trang 14

Hay đôi khi là không gian vô cùng ngột ngạt, tù túng nơi góc phố phường:

Ôi! Chật làm sao Góc phố phường

(Mây đầu ô - Quang Dũng)

Thời gian nghệ thuật trong thơ ca là thời gian được tác giả tái tạo lại trong tác phẩm mang quan niệm, cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh có tính chủ quan Thời gian trong thơ được cảm nhận bằng tâm lí và mang ý nghĩa thẩm mĩ nên nó có thể diễn tiến theo mọi chiều hướng Thời gian trong thơ có thể có tính liên tục, diễn biến theo trật tự tuyến tính Các sự kiện được thể hiện mang tính chất nhân quả, sự việc này dẫn đến sự việc kia, không bị đảo lộn thời gian Sự việc nào xảy ra trước thì kể trước, sự việc nào

xảy ra sau thì kể sau Thời gian trong bài thơ Quê hương của Giang Nam là thời gian tuyến tính, thời gian sự kiện diễn ra theo một trật tự từ xưa đến nay “Thưở còn thơ hai

buổi đến trường” rồi đến “Cách mạng bùng lên rồi kháng chiến trường kì” và cuối

cùng “Hòa bình tôi trở về đây” Hay trong bài ca dao:

Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lòng như cá mắc câu

Nhưng đôi khi trình tự thời gian có thể bị đảo lộn Sự việc được trình bày theo dòng hồi tưởng Kiểu thời gian đó thường là thời gian tâm lí:

Nhất nhật bách kiến như tam thu huề

Hay:

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thời gian trong câu thơ trên là thời gian tâm lí, nó không diễn tiến theo một trình tự tuyến tính, mà nó diễn tiến theo tâm trạng của nhân vật trữ tình Nỗi niềm của nhân vật trữ tình trong thơ là tâm trạng chờ đợi người yêu, nhân vật trữ tình xem thời gian một ngày dài như ba mùa thu tức dài như ba năm Thời gian nghệ thuật ở đây đã được tác

Trang 15

giả Nguyễn Du tái tạo lại để làm nổi bật thêm tâm trạng chờ đợi người yêu mòn mỏi của nhân vật trữ tình

"Ngôn từ thơ không có tính liên tục và tính phân tích như ngôn từ văn xuôi, ngược lại nó có tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu ý nghĩa"

[21, tr 267] Ví dụ:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con

(Tự tình III - Hồ Xuân Hương)

Câu ba, bốn hầu như không gắn trực tiếp với câu một, hai Câu năm, sáu lại càng không gắn với hai câu ba, bốn Câu bảy, tám cũng không gắn với câu năm, sáu Các câu thơ gắn với nhau theo mạch liên tưởng ở chiều sâu Câu ba gợi ra cái ý cô đơn trơ trọi giữa cõi đời Mà cuộc đời trơ trọi cần được giải khuây, giải tỏa Câu ba, bốn là sự giải khuây bằng rượu nhưng vô hiệu trước cuộc đời xế bóng, trống trải mênh mông

Câu năm, sáu đột ngột như một thoáng khát vọng phá phách (xiên ngang, đâm toạc) để

thay đổi hiện trạng Nhưng rồi chẳng có gì xảy ra, cuộc sống vẫn trôi theo cái nhịp buồn tẻ của nó, để lại niềm khát khao khôn nguôi

Thứ hai, ngôn từ thơ giàu nhạc tính Nhạc tính trong thơ được tạo nên từ nhiều yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh,… và nhạc trong thơ đó là nhạc của cảm xúc và tâm hồn:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá

Trang 16

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

(Từ ấy - Tố Hữu)

Đó là một nhịp thơ đầy rạo rực đắm say của một người vừa bắt gặp được ánh sáng cách mạng Cảm xúc của nhà thơ như một bản nhạc đầy tươi vui, náo nức

Ngôn từ trong thơ cũng giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) Nhà thơ Tố Hữu viết

về bốn mùa đông, xuân, hè, thu ở Việt Bắc bằng ngôn ngữ giàu tính họa (có người gọi đây là bức tranh tứ bình):

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

(Việt Bắc)

Giọng điệu thơ thường mang tính chủ quan do thể hiện trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập trường của tác giả Mỗi giai đoạn văn học có giọng điệu thơ khác nhau Mỗi nhà thơ lại có giọng điệu thơ riêng Như nhà thơ Xuân Diệu với giọng trầm lắng, thiết tha:

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

(Vội vàng)

Tố Hữu với giọng thơ tâm tình, ngọt ngào:

Trang 17

Thể thất ngôn bát cú là thể thơ Đường luật du nhập từ Trung Hoa Về hình thức,

một bài thơ Đường luật phải theo đúng các quy định về vần, đối, luật, niêm, bố cục Trong bài thơ tám dòng, có năm vần gieo ở cuối các dòng một, hai, bốn, sáu, tám Đối

là đặt hai dòng sóng đôi sao cho ý cân xứng hoặc đối chọi Dòng ba, bốn và năm, sáu bắt buộc phải là đối nhau Luật là sắp xếp các thanh bằng trắc cố định trong các dòng, phụ thuộc vào thanh điệu của từ thứ hai trong đầu dòng: nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh Niêm là sự phối hợp cùng thanh điệu bằng trắc của từ thứ hai trong các cặp câu một và tám, hai và ba, bốn và năm, sáu và bảy Bố cục thường chia thành các phần: đề, thuật, luận, kết" [21, tr 276] Ví dụ:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hẳn ở tù

Đã khách không nhà trong bốn bể Lại người có tội giữa năm châu Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế

Mở miệng cười tan cuộc oán thù Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu

(Vào ngục Quảng Đông cảm tác - Phan Bội Châu)

"Thể tứ tuyệt cũng có hai loại: cổ tuyệt là thể tứ tuyệt không theo luật và luật tuyệt tuân theo luật Thơ tứ tuyệt cũng thể hiện các yêu cầu về luật như bài thất luật (thất ngôn bát cú)" [21, tr 277]:

Canh cá tràu mẹ thường nấu khế Khế trong vườn thêm một chút rau thơm

Trang 18

Ừ, mới thế đó mà một đời xa cách mẹ

Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm

(Canh cá tràu - Chế Lan Viên)

"Thể lục bát là thể thơ lâu đời của dân tộc, vốn là hình thức thơ ca truyền miệng

dân gian Lục bát có thể dùng trữ tình hoặc tự sự" [21, tr 278] Nhịp thơ là cái được

nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kì, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ Nhịp thơ giúp người nghe, người đọc cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2)

hoặc 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2, 4/2/2), nhưng cũng có thể có cách ngắt nhịp 3/3, 5/1, 1/5,

Câu thơ lục bát rất thuận tiện cho việc sử dụng các phép sóng đôi, đối ngẫu" [21, tr

278]

Bầm ơi có rét không bầm!

Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần

Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!

(Bầm ơi! - Tố Hữu)

Thể song thất lục bát cũng là một thể thơ đặc biệt của dân tộc, thơ song thất lục

bát ra đời trên cơ sở kết hợp từ thể thơ lục bát và thơ bảy chữ vốn có trong thơ ca dân

gian "Thể thơ này mang tính nhạc cao, do sử dụng nhiều tiểu đối, bình đối, đối cách

đoạn, ngôn ngữ sóng đôi, láy đi láy lại làm lời thơ réo rắt, tầng tầng lớp lớp, mạch cảm xúc xoắn quýt, tuôn trào như thác đổ Thể thơ này thường dùng nhiều thi liệu Trung Hoa, do đó tính bác học, trang nhã, cao quý của thể loại được nâng cao" [21,

tr 279] Cách hiệp vần trong thơ song thất lục bát tương đối khó hơn so với các thể thơ khác, chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ hai

Trang 19

Hai chữ hiệp vần đều thuộc thanh trắc Chữ thứ bảy của dòng bảy thứ hai hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng lục tiếp theo(đều thuộc thanh bằng) Chữ thứ sáu của dòng lục hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng bát (thuộc thanh bằng) Câu song thất thường dùng

nhịp 3/4 và hai câu lục bát thường sử dụng nhịp đôi 2/2 Về phối thanh:

Chữ thứ năm và chữ thứ bảy của dòng thất đầu tiên là bằng và trắc, dòng thất ở dưới thì ngược lại Thanh bằng trắc trong câu sáu - tám giống như trong thơ lục bát

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

(Chinh phụ ngâm - bản dịch Đoàn Thị Điểm)

"Thơ tự do là loại thơ không có quy định bắt buộc về số câu, về vần, bằng trắc và nhịp điệu Tất cả các yếu tố hình thức này đều có thể thay đổi tùy thuộc vào cảm xúc của tác giả" [21, tr 280] Cho nên nhịp thơ và số lượng chữ trong câu biến hóa rất linh

hoạt, vần không cố định:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Tóm lại, với những đặc điểm của thơ đã giúp cho người viết có thể trải lòng mình, bộc bạch tình cảm một cách chân thành nhất, tự nhiên nhất, và đặc biệt là phản ánh được thế giới khách quan qua lăng kính của nhà thơ, góp phần làm nên âm vang

cho bài thơ

1.2 Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một chân trời mới cho sự sáng tạo thơ ca Thời kì này, thơ ca phát triển thành cao trào, mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật Truyền thống yêu thơ của dân tộc và đặc điểm lịch sử cụ thể của chín năm

Trang 20

kháng chiến đã quyết định thực tế ấy Thơ ca tiếp tục gắn bó với đời sống buồn vui, lúc hạnh phúc cũng như khi gian lao, vất vả của con người Việt Nam Nhà phê bình Hoài

Thanh đã có nhận xét xác đáng: “Hầu hết những người mang ba lô lặng lẽ đi trên các

nẻo đường kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó thế nào cũng có ít bài thơ [ ] Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu” (Nói chuyện thơ kháng chiến) [12, tr 203]

Thơ ca giai đoạn 1945 - 1954 ra đời và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh nên mang những đặc điểm riêng Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ ca giai đoạn này, trước hết, là lực lượng sáng tác Lực lượng sáng tác được tập hợp đông đảo, có sự góp mặt đầy đủ và bổ sung lẫn nhau giữa các thế hệ Mặc dù còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vướng mắc về lập trường, quan điểm, về tư tưởng nghệ thuật nhưng nhìn chung ngay từ buổi đầu, đa số lớp tác giả trước Cách mạng đều phát huy tinh thần dân tộc, hăng hái đi theo kháng chiến bằng lương tâm và trách nhiệm cao nhất của người nghệ

sĩ chân chính Đội ngũ nhà thơ thời kì này ngày càng đông đảo với hai thế hệ:

Thế hệ nhà văn thơ trước Cách mạng tháng Tám, với kinh nghiệm và tài năng đã được khẳng định, đóng góp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Huy Cận, tuy chưa thật sự là hơi thở mãnh liệt của thời đại nhưng vẫn có ý nghĩa sâu sắc là khơi gợi lòng yêu nước, hào khí đấu tranh và niềm tự hào dân tộc

Thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Sáng tác của

họ đậm hơi thở thời đại, tạo nên sức trẻ cho nền văn học, có sức động viên, khích lệ tinh thần nhân dân rất mạnh mẽ Các nhà thơ trẻ không ngừng tự khẳng định bằng sáng

tác có giá trị Những tác phẩm tiêu biểu thời kì này có thể kể đến: Việt Bắc (Tố Hữu);

Nhớ, Ðất nước (Nguyễn Ðình Thi); Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hoàng Trung

Thông); Ðồng chí (Chính Hữu); Nhớ (Hồng Nguyên); Thăm lúa (Trần Hữu Thung);

Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ); Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Nhớ máu (Trần

Trang 21

Thứ hai là về nội dung tư tưởng, thơ ca luôn phục vụ cách mạng và cổ vũ chiến đấu, luôn gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng Qua những trang thơ, người ta có thể thấy lại từng chặng đường lịch sử

của dân tộc Chẳng hạn như qua các tập thơ của Tố Hữu: Từ ấy (1937 - 1946), Việt

Bắc (1947 - 1954), Gió lộng (1955 - 1961), Ra trận (1962 -1971), Máu và hoa (1972 -

1977) ta có thể nhận ra từng bước thăng trầm của đất nước và dân tộc trong suốt hơn nửa thế kỉ qua sự miêu tả tỉ mỉ của ông Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng chiến phát triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân Từ chỗ thơ Mới chỉ bộc lộc cái Ðẹp trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờ đây được mở rộng, phạm vi phản ánh cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng bao la của

cả đất nước, dân tộc

Thơ ca giai đoạn này chủ yếu hướng về đại chúng: nghĩa là xem quần chúng nhân dân vừa là đối tượng phản ánh, vừa là đối tượng phục vụ Trực tiếp ca ngợi quần chúng hoặc xây dựng hình tượng đám đông, nhân vật anh hùng mà kết tinh là nhân dân, dân tộc với phẩm chất tốt đẹp

Thơ ca chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn Khuynh hướng sử thi thể hiện ở ba phương diện: đề tài, nhân vật và giọng điệu

Đề tài bao giờ cũng là những vấn đề lớn có liên quan đến cộng đồng dân tộc Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ ca tập trung thể hiện niềm vui lớn của dân tộc, ca ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới Nổi bật nhất phải kể đến Tố Hữu

với Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt, Xuân Diệu với hai trường ca Ngọn quốc kỳ và Hội

nghị non sông Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ

Thơ ca tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng những ước mơ, khát vọng cháy bỏng; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó nhưng vô cùng anh dũng Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công dân nên ít nói tới con người trong đời sống riêng tư Tình yêu lứa đôi cũng như mọi cung bậc tình cảm khác đều được cảm nhận thông qua tình đồng chí Do đó, trong khi mặt chói sáng của hiện thực được phản ánh sinh động thì chiều sâu đời sống, ở đó có nỗi buồn mất mát, chia lìa lại ít được đề cập đến Tuy nhiên, sự phiến diện ở đây là tự giác và cần thiết Hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết hi sinh cái riêng tư, vì vận mệnh đất nước Thơ ca

Trang 22

không thể đứng ngoài sự hi sinh vĩ đại ấy Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là

một ví dụ cụ thể:

Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Tây Tiến - Quang Dũng) Các anh đi bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong

(Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông) Ðặc biệt, hình tượng nhân vật đó còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính

yêu Chủ Tịch Hồ Chí Minh Rất nhiều bài thơ hay về Bác ra đời như: Sáng tháng Năm (Tố Hữu); Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu); Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn);

Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ) Tất cả góp phần xây dựng hình tượng cao đẹp về

vị lãnh tụ vĩ đại, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn

Giọng điệu trong thơ luôn là giọng anh hùng ca bi tráng chứ không phải là bi lụy:

Trang 23

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Tây Tiến - Quang Dũng)

Cảm hứng lãng mạn trong thơ ca giai đoạn này cũng được chú ý đến Tuy khó khăn gian khổ, mất mát đau thương nhưng tâm hồn của những người nghệ sĩ cũng như nhân dân luôn hướng về tương lai, lí tưởng độc lập tự do Chính tâm hồn lãng mạn này giúp quân dân ta được tiếp thêm sức mạnh, nghị lực để vượt qua gian khổ, khó khăn hướng tới ngày chiến thắng với tinh thần lạc quan nhất để thực hiện khát vọng tự do:

Tiếng hát lừng vang trong gió núi

Bộ đội cười lên tươi như hoa

(Lên Cấm Sơn - Thôi Hữu) Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Tây Tiến - Quang Dũng)

Thứ ba, nghệ thuật biểu hiện của thơ ca giai đoạn 1945-1954 cũng có những sự vận động, biến chuyển mới trên cơ sở phát huy thành tựu của thời kì trước, để tương ứng với nội dung tư tưởng, tình cảm mới Dưới ánh sáng của quan niệm nghệ thuật cách mạng, yêu cầu về tính đại chúng, tính dân tộc được đặc biệt chú trọng Cụ thể: Thể thơ ngày càng đa dạng và phong phú, xuất hiện nhiều thể thơ mới như: thơ không vần, phá thể, hợp thể, thơ tự do

Hình tượng thơ, cảm hứng thơ không còn màu sắc yên hùng, lãng mạn của những năm đầu kháng chiến, mà trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người anh hùng thời đại mới

Ngôn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mĩ, cầu kì, tượng trưng, ước lệ sang đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng Lời ăn tiếng nói của quần chúng hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, nhưng không vì thế mà

Trang 24

kém đi sự tinh tế, sâu sắc Biểu hiện cụ thể qua một số câu thơ sau:

Nông trường ta rộng mênh mông

Trăng lên, trăng lặn, vẫn không ra ngoài

(Nông trường cà phê - Tế Hanh) Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán uớt mồ hôi

(Đồng chí - Chính Hữu)

Nhìn chung, đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn này đã có nhiều sự đổi mới về cả nội dung lẫn hình thức Thơ ca giai đoạn này ra đời và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh nên mang những đặc điểm riêng mà văn học giai đoạn trước đó không thể có được Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954, đặc biệt mảng thơ ca đã có những bước tiến vượt bậc và có những đóng góp thật đáng kể cho thành tựu văn học nước nhà giai đoạn này

1.3 Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng

1.3.1 Cuộc đời

Quang Dũng có tên khai sinh là Bùi Đình Dậu Về sau bố đổi tên Dậu thành

Diệm vì Dậu trùng tên với một người trong họ "Sở dĩ khi mới sinh ông được đặt tên là

Dậu vì ông sinh năm Dậu (Tân Dậu - 1921)" [2, tr.15], quê quán ở Phượng Trì (làng

Phượng Trì trước kia thuộc tổng Phùng), tổng Đại Hoàng, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội)

Thuở nhỏ Quang Dũng học trường làng rồi theo học ông cậu ruột làm giáo học ở

Ngã ba Thá Đến cấp thành chung, ông học ở trường sư phạm Hà Nội "Ra trường

không làm công chức mà cái “máu giang hồ” bắt đầu nổi lên, ông đi đánh đàn kéo nhị cho một gánh hát Rồi làm nghề dạy học tư, nay đây mai đó trong thành phố Hà Nội nhưng rồi không thoải mái, gò bó nên bỏ" [13, tr 17]

Ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam vào ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu Năm 1947, ông được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây Sau khoá học, ông làm Đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến Ông tham gia chiến dịch Tây

Trang 25

Tiến đợt hai, mở đường qua đất Tây Bắc Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt.Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như

đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các hoạ sĩ nổi danh Ông sáng tác nhạc, bài Ba Vì

của ông đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến Ông làm bài thơ Tây Tiến năm 1948 khi

dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh (Hà Nam)

Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ Đây là khoảng thời gian để lại nhiều kí ức nhất trong cuộc đời Quang Dũng và là thời gian xuất hiện những tác phẩm xuất sắc góp phần đánh dấu tên tuổi nhà thơ trong nền thơ Cách mạng Việt Nam

Sau 1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học

Nói về con người, trong cuộc sống Quang Dũng là người sống hồn hậu, giản dị, trọng tình nghĩa bạn bè và đặc biệt luôn luôn lạc quan yêu đời Tuy nhiên, ông cũng là người có nhiều lận đận, là thi sĩ có tài được dùng mà không được tin cũng bởi lí lịch

“đen” một thời sang Tàu và cái mác “tiểu tư sản” lãng mạn khi viết Tây Tiến Thơ của

ông khi đó bị phê bình trên báo chí miền Bắc là mang hơi hướng “tiểu tư sản”, thiếu tính chiến đấu, còn ở miền Nam thì được xuất bản, phổ biến rộng rãi được nhiều người yêu thích Lúc ấy ông bị gửi đi chỉnh huấn sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm Về sau, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, tài năng của ông bị mai một và mất đi trong âm thầm Sau sóng gió ấy, ông cùng gia đình lui về ẩn thân trong nghèo nàn Cuộc sống của gia đình ông khá khó khăn, Quang Dũng đông con, con lại hay đau

ốm, vợ yếu, đồng lương ít ỏi, dù cố gắng nhiều nhưng vẫn không cải thiện được tình hình Tuy nghèo nhưng bản chất con người Quang Dũng vẫn không hề thay đổi, anh vẫn luôn đặt niềm tin yêu vào cuộc đời, vẫn sống với nghĩa khí của một đại trương phu Trong khi bạn bè của anh đã thành danh, có người làm đến tổng cục trưởng, thứ trưởng thì Quang Dũng vẫn bằng lòng với đồng lương cán sự không một lời ca thán

Những năm 1983, 1984 Quang Dũng bị bệnh tai biến mạch máu não Năm 1986, bệnh đến thời kì nặng, bạn bè thân thiết có ý định xuất bản một tập thơ dành tặng nhưng cũng không đơn giản vì vốn Quang Dũng ít khi lưu lại những tác phẩm của

Trang 26

mình, cứ để vương vãi tận đâu Tập thơ Mây đầu ô là tập thơ đầu tiên của ông được

xuất bản trong hoàn cảnh đặc biệt như thế Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 sau một thời gian dài đau ốm tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội

Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa, vẽ đẹp, hát giỏi, thơ hay Bài thơ Tây

Tiến của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn được chọn vào giảng

dạy trong giáo trình trung học phổ thông Một số bài thơ của ông đã được phổ nhạc

như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ

từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Kẻ ở (Cung Tiến phổ nhạc) Đặc biệt bài thơ Em mãi là 20 tuổi được ba nhạc sĩ phổ nhạc khác nhau (Việt Dzũng, Phạm

Trước Cách mạng tháng Tám, Quang Dũng sáng tác rất ít, và trước khi được người đương thời biết đến một thi sĩ Quang Dũng hào hoa, lãng mạn với cái ngang tàng hùng tâm tráng khí ông đã từng sáng tác hai bài thơ được xem là những tác phẩm

đầu tay: Chiêu Quân (1937) và Cố quận (1940) Thơ ông lúc này mang một nỗi buồn

da diết, nỗi buồn trong sự xa cách, nỗi nhớ quê như cào xé tâm hồn thi sĩ, đồng thời cũng nói lên tâm sự yêu nước sâu kín của thi sĩ

Cách mạng tháng Tám thành công, Quang Dũng tình nguyện dấn thân vào kháng chiến theo tiếng gọi của quê hương để góp phần xây dựng Tổ quốc Nhà thơ sáng tác nhiều hơn và phạm vi đề tài cũng được mở rộng Nếu như trước Cách mạng thơ Quang Dũng mang một nỗi buồn xa xứ thì nay thơ ông trở nên lạc quan hơn, sôi động hơn Hình ảnh anh bộ đội, anh chiến sĩ hiện lên rất hào hùng, lãng mạn Tuy thơ ông vẫn

Trang 27

man mác nỗi buồn nhưng đó là nỗi buồn mang tính chất bi tráng của một con người mang trái tim nhiệt thành Cách mạng chứ không phải là nỗi buồn mang tính bi lụy Nỗi buồn ấy như tiếp thêm sức mạnh cho con người có đủ niềm tin và nghị lực để họ đứng lên tiếp tục vì con đường kháng chiến đầy chông gai và thử thách, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc

Những năm kháng chiến, Quang Dũng sáng tác khá nhiều và vẫn là những đề tài quen thuộc: chiến tranh và quê hương, đất nước Một số bài thơ đã gây được tiếng

vang lớn, đánh dấu tên tuổi Quang Dũng trên thi đàn như Những làng đi qua (1947),

Tây Tiến (1948), Đôi bờ (1948), Mây đầu ô (1970) Đây là giai đoạn Quang Dũng đạt

được thành tựu xuất sắc, xây dựng thành công hình tượng người lính tiêu biểu cho

cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt tác phẩm Tây Tiến được xem là “một tượng đài

người lính bằng thơ”, đánh dấu tên tuổi của Quang Dũng trong nền thơ ca Cách mạng

"Tây Tiến được in trong tập Thơ do nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III ấn hành

năm 1949 với nhan đề là Nhớ Tây Tiến Năm 1957 khi đưa bài thơ này vào tập Rừng biển quê hương tác giả Quang Dũng đã bỏ từ "Nhớ" và chỉ giữ hai từ "Tây Tiến" mà thôi" [2, tr 263] Tây Tiến là bài thơ tạo những bước ngoặc lớn trong sự nghiệp thơ ca

của Quang Dũng Bài thơ này sau khi sáng tác được chính Quang Dũng đọc lần đầu tiên trong một buổi liên hoan và được đa phần anh em chiến sĩ chép tay lưu truyền

Sau này trong bài nói chuyện Nhớ về Tây Tiến do chính Quang Dũng kể, Vũ Văn Sỹ

ghi, Quang Dũng đã nói rất thật về nỗi sợ hãi của người lính trong chiến đấu khi trải qua những cuộc hành quân gian khổ

Bên cạnh những đóng góp về thơ, ông còn đóng góp cho vườn hoa văn học Việt Nam một mảng văn xuôi đặc sắc với sức sống lâu bền Tác phẩm văn xuôi của ông chất chứa nhiều ân tình, tràn ngập tình yêu thương Đặc biệt là ông viết nhiều về thú thưởng ngoạn Đọc văn của Quang Dũng, người đọc như có cảm giác được ông dẫn dắt đi tìm cái thật, cái đẹp của làng cảnh Việt Nam đầy thú vị Thú thưởng ngoạn của nhà thơ diễn ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh Thưởng ngoạn với nhiều giác quan, tiêu biểu

như: Hoa lại vàng tháng chạp, Vào mùa chim ngói dưới chân Ba Vì, Kỉ niệm núi rừng

Vũ Lễ,

Ngoài ra ông còn sáng tác các thể loại khác như: Mùa hoa gạo - truyện ngắn (NXB Minh Đức, 1950), Đường lên Châu Thuận - kí (NXB Văn học, 1964), Rừng về

Trang 28

xuôi - truyện kí (NXB Văn học, 1968), Nhà đồi - truyện kí (NXB Văn học, 1970), Gương mặt Hồ Tây - kí (in chung với Trần Lê Văn và Ngô Quân Miện) (NXB Hà Nội,

1984)

Quang Dũng đã để lại cho nền thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị Trong tất cả các sáng tác của mình, thơ Quang Dũng đã định hình cho ông một phong cách rất riêng, một nét riêng độc đáo hấp dẫn Chính vì điều đó đã giúp cho thơ Quang Dũng có một chỗ đứng vững chắc trong lòng người đọc cũng như trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại

CHƯƠNG 2:

ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ QUANG DŨNG

Trang 29

2.1 Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Quang Dũng

Quê hương, đất nước luôn là nguồn đề tài, nguồn thơ không bao giờ vơi cạn trong lòng mỗi tác giả Viết về đề tài này, mỗi thi sĩ đều có một cách thể hiện riêng biệt của mình Qua cách thể hiện đó, cảnh sắc Việt Nam hiện lên đầy đủ màu sắc với những vẻ đẹp khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một điểm, đó là tình cảm chan chứa với quê hương đất nước

2.1.1 Ngợi ca cảnh sắc quê hương

Vẻ đẹp cảnh sắc quê hương Việt Nam đã được nhà thơ Quang Dũng khám phá một cách khá sâu sắc với nhiều phương diện, nhiều góc độ khác nhau Bức tranh quê hương Việt Nam hiện lên trong thơ ông không bàng bạc, không phải là cảnh khô cứng

mà nó có sức sống cuồn cuộn ở bên trong, như có thần thái, sinh động trong sự hòa hợp nhuần nhuyễn của âm thanh với sắc màu, của tình với cảnh Qua những trang thơ viết về những vẻ đẹp đó, nhà thơ còn bày tỏ tình yêu da diết và niềm tự hào mãnh liệt khi ngợi ca đất nước của mình Cho nên khi đọc thơ của ông ta sẽ dễ dàng bắt gặp nhiều hình ảnh của những cảnh quê thật mộc mạc nhưng tươi đẹp đầy sức sống và được thể hiện bằng nhiều tình cảm, cảm hứng khác nhau

Trên khắp các nẻo đường sát cánh cùng đồng đội chinh chiến, trong gian lao, vất

vả của cuộc kháng chiến khi thì băng qua mọi núi cao dốc thẳm, khi thì mắc phải bệnh tật triền miên, thiếu thốn trăm bề vậy mà người chiến sĩ – thi sĩ Quang Dũng cũng không bao giờ bỏ qua việc ghi lại vẻ đẹp cảnh sắc của non nước ta, tác giả luôn chú ý đến từng vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của quê hương:

Là những đường quân qua bến làng Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang [ ]

Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng

(Đường trăng) Chum nước, gáo dừa, nhà xoan, gốc mít

Đỏ, nâu, mít chín trĩu cành

(Thu quê ai)

Trang 30

Nhiều hình ảnh rất đỗi thân thuộc xuất hiện nơi làng quê Việt Nam như hoa nhài,

chum nước, gáo dừa, nhà xoan, gốc mít,… được tác giả đưa vào trong thơ mà không

làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên, chân thật Là một người yêu quê hương đất nước, nhà thơ Quang Dũng yêu mến mọi vẻ đẹp giản dị của quê hương Đôi khi, những hình ảnh quen thuộc vào trong thơ ông lại rất sâu sắc và tinh tế Tất cả điều đó đã được hòa nguyện một cách hết sức hài hòa và hợp lí qua lăng kính của tác giả Dường như mọi thứ đều được nhà thơ khám phá bằng đủ mọi giác quan của mình

Quang Dũng đã dành những tình cảm đặc biệt, sâu sắc, những vần thơ trong sáng

lung linh nhất khi viết về nơi “xứ Đoài mây trắng” thân yêu Trong đáy sâu tâm hồn

của trái tim ông, quê hương đã trở thành máu thịt hiện lên với những gì đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất:

Trăng sáng sân vờn đôi bóng cau Gió mát long lanh vầng Bắc đẩu Tiết hè ếch nhái rộn bờ ao […]

Ngõ trúc quanh quanh sầu bóng lá Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa

(Cố quận) Vẫn sáng vầng trăng ru tiếng sáo Diều khuya trầm bổng giọng quê hương Đất đá ong trong lòng giếng mát

Ôi Sơn Tây, Sài Sơn yêu thương

(Nhớ một bóng núi)

Hình ảnh quê hương trong thơ Quang Dũng luôn hàm chứa những hình ảnh cụ thể bình dị như thế Nó không gợi cảm giác cao xa, chói lọi Nó cứ bình dị, mộc mạc đơn

sơ Trong thơ Quang Dũng người đọc có thể bắt gặp những hình ảnh rất đỗi quen thuộc

như: bờ ao, bóng cau, ngõ trúc, tiếng sáo, diều khuya, giếng mát… cùng với tiếng ếch

kêu - âm thanh quen thuộc không thể lẫn, gợi nhắc về miền quê hương thân thương,

Trang 31

gắn liền với những kỉ niệm về những ngày tháng từng gắn bó trong cuộc đời của thi sĩ Một bức tranh quê hương nên thơ, giàu màu sắc trong những ngày hè hòa với âm thanh râm ran, hòa với ánh sáng của những đêm trăng thơ mộng đã gợi những cảm giác về một miền quê đẹp, thơ mộng và yên bình Tất cả đó là những hình ảnh mà ông gắn bó tha thiết với quê hương xứ sở, với những kí ức luôn khắc khoải không bao giờ nguôi suốt cả thời gian hành quân gian khổ

Qua những trang thơ miêu tả vẻ đẹp quê hương Việt Nam của Quang Dũng, chúng ta càng nhìn thấy được rõ nét hơn về bức tranh quê hương đất nước Việt Nam – một đất nước thật tươi đẹp và bình dị Dù là những hình ảnh đơn sơ nhất trong cuộc sống nhưng bằng sự tài hoa với cảm hứng ngợi ca, tự hào mà tác giả Quang Dũng đã

vẽ nên một bức tranh thật đẹp về cảnh xứ làng quê Việt Nam, đặc biệt là không gian làng quê Bắc Bộ

Trong những trang thơ Quang Dũng, ông luôn khẳng định vẻ đẹp vĩnh hằng, trường cửu cùng với thời gian của quê hương đất nước Khi miêu tả vẻ đẹp cảnh sắc quê hương đất nước, bao giờ ông cũng viết với cảm hứng ngợi ca Nhà thơ ngợi ca những vẻ đẹp bình dị, thân thương, những hình ảnh thân quen Dù trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng đất nước Việt Nam vẫn luôn hiện lên hiền hòa thanh bình, vững bền, tươi đẹp đầy sức sống:

Đồng quê sẽ mãi thơm mùa lúa Phưng phức hương mùa thoảng ấm no Xanh ngát xanh rờn hơi gió chạy Thanh bình đôi điệu hát câu thơ

(Một mùa thu tới) Mãi mãi xanh tươi nguồn Đáy chậm Ngô khoai dâu mía dệt đôi bờ

Quê hương trường cửu cùng non nước

Ba chục năm trời vẹn ý thơ

(Nhớ một bóng núi) Những bãi ngô dài trên bãi cát

Trang 32

mãi (Một mùa thu tới) hay cụm từ mãi mãi (Nhớ một bóng núi) như một lời khẳng định

mạnh mẽ sự vĩnh hằng, sự trường tồn của cánh đồng quê hay con sông Việt Nam Là nhân chứng và cũng là nạn nhân của chiến tranh, đáng lẽ ra những cánh đồng, những con sông ấy sẽ trở nên rất hoang tàn, xơ xác, nhưng trái lại nó rất tươi mới và thanh bình Hơn nữa, cuộc sống của người dân Việt Nam trong chiến tranh chắc hẳn sẽ gặp nhiều cảnh đói nghèo, thiếu thốn, nhưng với nhà thơ cuộc sống của họ lúc nào cũng

phưng phức cái mùi hương no ấm, cũng đầy đủ qua ngày với ngô khoai dâu mía dệt

khắp đôi bờ, với những bãi ngôdài trên bãi cát Đọc những vần thơ đó, người đọc như

nhận ra được sức mạnh tiềm tàng của quê hương Việt Nam

Đất nước Việt Nam ngoài những vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, đẹp đẽ và yên bình thì trong thơ Quang Dũng còn vẽ nên những bức tranh thiên nhiên kì vĩ:

Hãy nghe êm ả tiếng mùa xuân Thở nhẹ cành non đang nảy lộc […]

Ở đây Đất nước gấm hoa sao!

Sông Đà đổ nước vào sông Thao Hội với sông Lô đầu Bạch Hạc Mỏm dốc Trung Hà nhìn bát ngát Những bãi ngô dài trên bãi cát

(Ba Vì đón Bác)

Những dòng thơ đó làm cho ta như đang được lắng nghe cái náo nức, tươi vui, niềm tự hào về một nước non hùng vĩ đang chuyển mình, nó thiêng liêng như tự ngàn đời, mang vẻ đẹp như trong thần thoại, truyền thuyết hòa trong tiếng mùa xuân êm ả của

những lộc non và chồi biếc Đất nước ta thật tươi đẹp, hùng vĩ với những sông Đà,

Trang 33

sông Thao, sông Lô cùng nhau hội tụ nơi đầu Bạch Hạc, hay là mỏm dốc Trung Hà nhìn bát ngát, lại giàu có trù phú với một Đất nước đầy gấm hoa, những bãi ngô trải dài trên bãi cát Đất nước Việt Nam qua cách miêu tả của nhà thơ mang nhiều vẻ đẹp

hùng vĩ nhưng lại rất thơ mộng trữ tình

Hay đó là một Pha Đin hùng vĩ “đẹp như sơn thủy tranh đời Tống:

Đẹp như sơn thủy tranh đời Tống […]

Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được Giang sơn gấm vóc một miền Tây Mới thấy thương sao là Đất Nước Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây

(Pha Đin)

Câu thơ: "Đẹp như sơn thủy tranh đời Tống" như một lời khẳng định vẻ đẹp tuyệt mĩ

của non sông đất nước ta Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong đó có cả nhà

thơ Quang Dũng mang trong mình niềm tự hào về vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương - Pha

Đin giàu có với Giang sơn đầy gấm vóc Chỉ với vài dòng thơ ngắn, nhà thơ Quang

Dũng đã bộc lộ tình cảm của mình một cách trực tiếp, chân thành và mãnh liệt khiến cho ai nhìn vào cũng thấy tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ của đất nước mình

Quê hương, đất nước Việt Nam trong chiến tranh tuy còn nghèo khó nhưng luôn hiện lên với vẻ đẹp riêng của nó Nhà thơ Quang Dũng đã quan sát tinh tế và miêu tả tỉ

mỉ vẻ đẹp của non sông, đặc biệt là vẻ đẹp của làng quê Bắc Bộ Vẻ đẹp đó có sự hài hòa, đồng điệu giữa con người và thiên nhiên Con người đi giữa thiên nhiên cao đẹp, bên cạnh con người, thiên nhiên càng thêm hữu tình hơn Do đó, Quang Dũng đã đặc biệt thành công khi vẽ nên một bức tranh quê hương đầy màu sắc sinh động Bức tranh

về quê hương đất nước được ông điểm tô nên thật mang đậm bản sắc của người Việt

2.1.2 Thể hiện tình cảm gắn bó sâu đậm đối với quê hương

Tình cảm đối với quê hương trong thơ Quang Dũng thể hiện ở nhiều phương diện, có thể là nơi ông sinh ra và lớn lên, đó cũng có thể là nơi ông hành quân qua

Trang 34

Trước hết, nỗi nhớ quê hương Sơn Tây cứ da diết bám ríu theo chân người lính trẻ Quang Dũng Dọc theo đường trường chiến đấu gian khổ, người chiến sĩ Quang Dũng không nguôi hướng lòng mình về quê hương Quang Dũng viết về quê hương của mình với tất cả tấm lòng của một người con xa xứ, bằng mọi giác quan, khi tỉnh

cũng như trong mơ, hình tượng quê hương “xứ Đoài mây trắng” vẫn hiện ra trong đầu

ông

Nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ về mảnh đất Sơn Tây trong thơ Quang Dũng như một dòng chảy xiết vì dù đi đâu, ở đâu, hễ gặp bất cứ cái gì có chút gợi nhớ về quê hương thì nhà thơ lập tức nghĩ đến quê mình – một xứ Đoài giàu có:

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

(Đôi mắt người Sơn Tây)

Ngồi đây vời tưởng đường quê hương

Lúa đã xanh xanh mấy nẻo làng Cốm đã thơm mùi, hồng đã chín

Ao sau vườn cũ nước xanh trong

(I, Thu)

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

(Đôi mắt người Sơn Tây)

Trong thơ Quang Dũng ta thường bắt gặp những từ: nhớ, vời tưởng, bao giờ trở lại, về

Những từ đó càng làm tăng thêm nỗi nhớ thương quê hương da diết của chính người chiến sĩ - thi sĩ ấy Đọc thơ ông, người đọc có thể nhận ra cái hồn dân tộc tha thiết, sâu lắng trong con người Quang Dũng Đằng sau cái bình dị thân thương đó là một tâm hồn yêu tha thiết quê hương xứ sở, một tâm hồn nồng hậu say mê những vẻ đẹp tinh khôi, say mê những gì thuộc về đất nước

Bên cạnh nỗi nhớ thường trực về mảnh đất xứ Đoài thì trong lòng người chiến sĩ Quang Dũng vẫn luôn thổn thức những kỉ niệm sâu sắc về những miền đất nước mà

Trang 35

ông đã từng dừng quân chiến đấu:

Nhớ mẹ già tiền cơm chẳng lấy Nhớ em khó nghèo giữa vườn hoang dại Nhớ bát muối vừng

Nồi cơm trộn sắn (Nhớ)

Những làng trung đoàn ta đi qua

(Những làng đi qua) Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

[ ]

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

(Tây Tiến)

Những từ nhớ xuất hiện nhiều lần trong các bài thơ trên như làm dâng thêm nỗi nhớ

thường trực của tác giả, đồng thời còn khắc ghi sâu đậm hơn về những kỉ niệm mà người chiến sĩ đã có với người dân khắp các bản mường Đó là những kỉ niệm khó quên trên chặng đường hành quân của người chiến sĩ Quang Dũng Đi đến mọi bản làng, các anh đều được các mẹ, em gái hậu phương tiếp đãi nồng hậu bằng những món

ăn giản dị nhưng mang nặng nghĩa tình: bát muối vừng, nồi cơm trộn sắn, buồng

chuối, nếp xôi Dù gia cảnh còn nghèo khó nhưng họ vẫn tận tình chu đáo hết mực với

Trang 36

anh bộ đội cụ Hồ Chính vì thế khi ra đi, tình nghĩa quân dân ấm áp, hình ảnh những

mẹ già, em gái đã trở thành kí ức đẹp trong lòng người chiến sĩ, là vấn vương của tình người chân thành

Thi sĩ Quang Dũng luôn dành những tình cảm đặc biệt, những vần thơ trong sáng

và đẹp nhất khi viết về nơi quê hương xứ xở của mình và khi viết về những kỉ niệm đáng nhớ trong hành trình hành quân của ông Những hình ảnh của một xứ Đoài bình dị, thân thiết, sâu lắng nhưng cũng rất thơ mộng, hay những hình ảnh mang đậm tình sâu nghĩa nặng luôn gắn liền trong kí ức của ông Cho dù đang đi đâu hay làm gì thì những nơi quê hương ấy có một vị trí vô cùng đặc biệt trong tâm hồn, trong thơ ca của ông Đó là tấm lòng của một người con luôn nặng tình với mọi miền xứ sở của quê hương đất nước

2.2 Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thơ Quang Dũng

Bên cạnh những trang thơ miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương Việt Nam, vẻ đẹp của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Quang Dũng miêu tả rất ấn tượng Trong thơ ông, con người Việt Nam hiện lên với nhiều hình tượng khác nhau nhưng nổi bật là vẻ đẹp của người lính và vẻ đẹp của những người phụ nữ trong kháng chiến

2.2.1 Vẻ đẹp của người lính

Trong văn học giai đoạn này, hầu hết các sáng tác thường tập trung thể hiện, làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng của người lính Hình tượng ấy xuất hiện nhiều trong thơ Tố

Hữu, Đồng chí (Chính Hữu), Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Bao giờ trở lại (Hoàng

Trung Thông),… Từ sau Cách mạng tháng Tám, hình tượng người lính đã trở thành hình tượng trung tâm trong đời sống xã hội cũng như trong văn học cách mạng Chính

vì vậy, việc khám phá vẻ đẹp của người lính luôn thôi thúc nhiều người cầm bút Mỗi thời, mỗi nhà thơ Bằng cách riêng của mình đều cố gắng thể hiện được hết vẻ đẹp của những anh bộ đội cụ Hồ Quang Dũng cũng vậy, khi xây dựng hình tượng người lính, ông đã tạo nên một chất lính mang màu sắc riêng của mình

Người lính trong thơ Quang Dũng chính là biểu tượng của tình yêu, nỗi đau, niềm

tự hào và ý chí, khát vọng của dân tộc Ông viết về người lính ở cả hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám, tuy nhiên nổi bật hơn cả là hình ảnh người lính sau Cách

Trang 37

mạng, đặc biệt là trong thời kì kháng chiến chống Pháp Ở thời kì này, hình tượng người lính trong thơ ông hiện lên với vẻ đẹp giản dị từ hình thức bên ngoài đến phẩm chất bên trong

Trước hết, người lính trong thơ ông là là những người có xuất thân đặc biệt, tiêu biểu là người lính trong đoàn binh Tây Tiến Các chiến sĩ ấy phần lớn là những thanh niên, học sinh, sinh viên trí thức, những chàng trai Hà thành xếp bút nghiên theo việc đạo cung Quanh năm họ vốn chỉ biết gắn bó với sách vở mà chưa hề trực tiếp cầm súng, dù chỉ là một lần

Cũng xây dựng hình tượng người lính có xuất thân đặc biệt - người nông dân mặc

áo lính, nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí cũng đã thể hiện một cách khá sâu

Hãy nghỉ tay chèo và gấp lưới Bữa riêu thơm khói bếp nhà chài […]

Hãy tạm biệt những bếp hồng lửa sưởi Trao súng săn nỏ cứng gửi người già […]

Nước gọi ta rồi Trai Mán đi xa

Trang 38

(Bất Bạt đêm giao quân)

Họ là những người chỉ quen với công việc kéo chài, săn bắt nhưng khi đất nước kêu gọi thì sẵn sàng bỏ hết tất cả chỉ vì việc nước Họ nguyện gát mọi công ăn việc làm

của gia đình: "Hãy nghỉ tay chèo và gấp lưới, hãy tạm biệt / Trao súng săn nỏ cứng",

gác bỏ những chuyện riêng tư trong đời sống để dấn thân vào cuộc chiến

Người lính trong thơ Quang Dũng được phản chiếu một cách chân thực và sinh động qua các nẻo đường hành quân Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà các chiến sĩ không bao giờ khuất phục, dám đương đầu trực tiếp với giặc, với hiểm nguy gian khổ Họ đúng là những người hết sức phi thường và luôn mang trong mình dòng máu của anh hùng có dáng dấp của một tráng sĩ đúng nghĩa Nhắc đến điều

ấy, ta sẽ không thể không nhắc tới đoàn quân Tây Tiến Tây Tiến là bài thơ hay nhất

của Quang Dũng và cũng là một trong những bài thơ đặc sắc khi viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong chín năm kháng chiến chống Pháp:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

(Tây Tiến)

Đó là chặng đường trung đoàn luồn rừng đi trong biển sương mù, trong những màn mây, màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm Cả câu thơ có giá trị tạo hình thật đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội

phải vượt qua trong những tháng ngày “áo vải chân không đi lùng giặc đánh ” (Hồng

Nguyên) Ngày nối ngày, đêm nối đêm, núi tiếp núi, đèo tiếp đèo, hết lên cao, lại xuống thấp…, đoàn quân trải qua biết bao gian truân vậy mà họ không nản chí sờn lòng trái lại ý chí chiến đấu của họ lúc nào cũng vẫn sục sôi, khí phách của họ vẫn hào hùng, oai phong lẫm liệt và sẵn sàng quên mình hi sinh vì nghĩa lớn Đỉnh núi mù sương cao vút Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh:

"súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị

Hình ảnh này đã làm cho tư thế của người chiến sĩ càng dũng mảnh hơn khi họ vượt lên trên hết những khó khăn để đến được đỉnh đèo Điều đó khẳng định chí khí và

quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà họ đi tới: “Khó khăn nào

Trang 39

cũng vượt qua / Kẻ thù nào cũng đánh thắng!” (Hồ Chí Minh)

Ý chí chiến đấu kiên cường không chịu khuất phục trước những khó khăn gian

khổ của các anh chiến sĩ còn được tác giả Quang Dũng thể hiện trong bài Đường Mười

hai:

Có những đêm gió bão Giông rừng đổ mưa ngàn [ ]

Đường Mười hai đêm đêm hành quân Bóng bộ đội chính quy

Bước vào chiến dịch

Lù lù pháo nặng

Dù ở nơi đâu, họ cũng luôn tỏa sáng một cách kiên cường và tinh thần thì bao giờ cũng được giữ vững Trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh như thế ta mới thấy được sức mạnh thể lực và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt là người chiến sĩ Hành quân triền miên những tháng ngày dài qua những địa hình đầy gian nguy hiểm

trở dưới những sự khắc nghiệt của thời tiết: giông, gió bão, mưa ngàn lại mang trên người hàng trăm thứ nặng nề: súng, pháo, tư trang,… để phục vụ cho cuộc chiến

nhưng lúc nào họ cũng tiến thẳng về phía trước

Lạc quan trở thành điểm nổi bật của thơ ca cách mạng khi viết về đề tài chiến

tranh Trong Đồng chí của Chính Hữu là tiếng cười: "Miệng cười buốt giá/

Chân không giày"; trong Nhớ của Hồng Nguyên là: "Cả lũ cười vang bên ruộng bắp"; Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu là: "Tiếng hát lừng vang trong gió núi / Bộ đội cười lên tươi như hoa" Những câu thơ trên đã thể hiện được tinh thần lạc quan của người lính

nhưng gắn với những nét thực tế

Người lính trong thơ Quang Dũng ngoài việc mang vẻ đẹp về hoàn cảnh, về xuất thân đặc biệt, họ còn là những người lính mang đậm vẻ đẹp tâm hồn Người lính ấy là những chàng trai đa sầu, đa cảm, lãng mạn, lạc quan Dù hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật,… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng tâm hồn họ

Trang 40

rất lạc quan và lãng mạn, luôn biết tự an ủi mình bằng những giấc mơ, giấc mộng rất

đẹp Tây Tiến của Quang Dũng cũng tô đậm tinh thần lạc quan đó nhưng lại kết hợp với bút pháp lãng mạn vì thế người lính Tây Tiến lại mang nét riêng nhất, không tinh

nghịch như một số bài thơ khác mà trở nên kiêu hùng và phi thường:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Tây Tiến) Mộng và mơ gửi về biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc “Mắt trừng” – hình

ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính

trong khói lửa ác liệt “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên

cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến Vậy mà giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt lại có những giấc mơ thật đẹp

Có lẽ vì phần lớn chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai

Hà thành chưa "trắng nợ anh hùng" nên trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ ấy còn luôn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời Nhớ về phố cũ trường xưa,

mơ về một tà áo đẹp, một “dáng kiều thơm” nơi Hà Nội thân yêu Vẻ đẹp hào hoa, trẻ

trung, lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng miêu tả rất sắc qua từng câu chữ của mình Ông đã rất thành công trong việc ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội

Dẫu cuộc sống có gian lao và vất vả nhưng nhiều người lính trong thơ Quang Dũng vẫn lạc quan tin yêu cuộc sống và biết tạo cho mình niềm vui riêng Đó là những

người chiến sĩ trong bài "Lính râu ria":

Một người kêu cà phê Một anh gọi thuốc lá Một người nhìn sau trước…

- Chị ơi! Li rượu nhỏ!

Rượu nhỏ một li thôi Một li cho đỏ mặt Cho lên hương cuộc đời

Ngày đăng: 03/10/2015, 23:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lê Bảo (Tuyển chọn và giới thiệu) (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường Quang Dũng - Chính Hữu, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường Quang Dũng - Chính Hữu
Tác giả: Lê Bảo (Tuyển chọn và giới thiệu)
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1999
2. Ngô Viết Dinh (chọn thơ và biên tập) (2003), Đến với thơ Quang Dũng, NXB Thanh Niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đến với thơ Quang Dũng
Tác giả: Ngô Viết Dinh (chọn thơ và biên tập)
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2003
3. Lê Duyên (biên tập) (1997), Thơ Đường (phê bình bình luận văn học), NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ Đường
Tác giả: Lê Duyên (biên tập)
Nhà XB: NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 1997
4. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ thơ Việt Nam
Tác giả: Hữu Đạt
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1996
5. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học
Tác giả: Hà Minh Đức (chủ biên)
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1995
6. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1997
7. Lê Giảng (biên soạn) (2011), Đến với tinh hoa thơ Đường, NXB Thanh Niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đến với tinh hoa thơ Đường
Tác giả: Lê Giảng (biên soạn)
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2011
8. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ đường, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp thơ đường
Tác giả: Nguyễn Thị Bích Hải
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1995
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1999
10. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác gia văn học (tập 3), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bài giảng về tác gia văn học
Tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1999
11. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (2004), Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên)
Nhà XB: NXB Đại học Sư phạm
Năm: 2004
12. Đặng Ngọc Minh (biên tập) (1999), Hoài Thanh toàn tập (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoài Thanh toàn tập (tập 2
Tác giả: Đặng Ngọc Minh (biên tập)
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 1999
13. Đặng Ngọc Minh (biên tập) (1999), Tuyển tập Quang Dũng, NXB Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập Quang Dũng
Tác giả: Đặng Ngọc Minh (biên tập)
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 1999
14. Anh Ngọc (2000), Từ thơ đến thơ (Tiểu luận phê bình), NXB Thanh Niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ thơ đến thơ
Tác giả: Anh Ngọc
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2000
15. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại
Tác giả: Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia
Năm: 2006
16. Trần Minh Nguyệt (2003), Văn học và tuổi trẻ (tạp chí ra hàng tháng, số 2, tháng 2), NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học và tuổi trẻ
Tác giả: Trần Minh Nguyệt
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2003
17. Lê Thị Nhiên (2012), Giáo trình thi pháp học, NXB Đại học Cần Thơ, Cần Thơ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình thi pháp học
Tác giả: Lê Thị Nhiên
Nhà XB: NXB Đại học Cần Thơ
Năm: 2012
18. Nguyễn Đình Phức (2013), Thi pháp thơ Đường, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp thơ Đường
Tác giả: Nguyễn Đình Phức
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2013
19. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại (Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1992 - 1996 cho giáo viên văn cấp 2), Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo viên, NXB Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề thi pháp học hiện đại
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: NXB Hà Nội
Năm: 1993
26. Nguyễn Kim Dung (2010), Nhân kỉ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8 - 3, http://violet.vn/Dungankhanh70/entry/show/entry_id/3059092 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình ảnh mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông kết hợp đan xen với các cụm từ có gốc  Hán Việt cổ: Nhạn môn quan, trường thành, chiên bạch, chiên nhung, viễn xứ, áo bào, - đặc điểm thơ quang dũng
nh ảnh mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông kết hợp đan xen với các cụm từ có gốc Hán Việt cổ: Nhạn môn quan, trường thành, chiên bạch, chiên nhung, viễn xứ, áo bào, (Trang 83)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w