Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 68 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
68
Dung lượng
1,26 MB
Nội dung
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2011 – 2015
Đề tài:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thu Hƣơng
Nguyễn Thị Khánh Vi
MSSV: 5115776
Lớp: Luật Tƣ pháp 1 – K37
GVHD: Nguyễn Thu Hương
1
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong luật hình sự
Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn pháp luật hình sự,
tạo điều kiện tăng cường pháp chế và thể hiện nguyên tắc công bằng trong chính sách
hình sự nước ta, tạo ranh giới giữa hành vi bị coi là tội phạm với không phải là tội
phạm, giữa tội phạm đơn lẻ và tội phạm do đồng phạm gây ra. Bộ luật hình sự hiện
hành khi quy định về đồng phạm chỉ mới liệt kê khái niệm ở Điều 20 và quyết định
hình phạt ở Điều 53 mà chưa đề cập đến những vấn đề có liên quan khác cho trường
hợp đồng phạm trong đó có trách nhiệm hình sự của từng người đồng phạm, việc xác
định trách nhiệm hình sự trong các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt,
hành vi thái quá của người thực hành,…Đó là những cơ sở pháp lý cần thiết trong việc
thực hiện nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người trong đồng phạm.
Tuy nhiên, từ trước đến nay vấn đề thừa nhận các hướng giải quyết liên quan đến trách
nhiệm hình sự chỉ được nêu ở những tài liệu giảng dạy đã có mà xung quanh những
vấn đề được trình bày thì vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau chưa có sự thống nhất
và quy định một cách chặt chẽ, chưa đầy đủ về mặt nội dung nên chưa thật sự phù hợp.
Từ những vấn đề nêu trên người viết thấy rằng việc nghiên cứu đề tài: “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
trong luật hình sự Việt Nam hiện hành” là cần thiết để hoàn thiện về mặt pháp luật
cũng như thực tiễn, tạo sự thống nhất giữa các cơ quan tư pháp và nâng cao hiểu biết
cho người dân về những quy định của pháp luật về tội phạm nói chung và tội phạm do
đồng phạm gây ra nói riêng, góp phần phòng chống và ngăn ngừa tội phạm đạt hiệu
quả cao. Đó cũng chính là lý do thúc đẩy người viết lựa chọn và nghiên cứu đề tài luận
văn này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc đi sâu nghiên cứu, giải thích và làm sáng tỏ chế định trách nhiệm hình sự
của những người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối
với hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cũng như giúp cho chúng
ta hiểu thêm những kiến thức bổ ích khi tìm hiểu về các quy định của Bộ luật hình sự.
Chính vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các quy định của pháp luật
về: Trách nhiệm hình sự, đồng phạm, trách nhiệm hình sự đối với những người đồng
phạm theo Bộ luật hình sự; xoáy sâu làm nghiên cứu các vấn đề về trách nhiệm hình
GVHD: Nguyễn Thu Hương
2
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
sự cho những người đồng phạm thông qua nghiên cứu đặc điểm, ý nghĩa kết hợp với
việc nghiên cứu các nguyên tắc, căn cứ xác định trách nhiệm hình sự cho những người
này. Từ đó đánh giá tình hình tội phạm, tội phạm do đồng phạm gây ra trong giai
đoạn hiện nay. Cuối cùng tổng kết đưa ra đề xuất, ý kiến góp phần hoàn thiện chế định
này của luật hình sự trong tương lai.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khoa học luật hình sự, vấn đề chế định trách nhiệm hình sự của những
người đồng phạm là một vấn đề lớn gồm nhiều mãng kiến thức, phức tạp. Chính vì vậy,
trong giới hạn đề tài luận văn người viết chủ yếu chỉ nghiên cứu những vấn đề chung
xung quanh việc xác định trách nhiệm hình sự cho những người đồng phạm từ việc
phân tích lý luận chung về trách nhiệm của những người này kết hợp với các quy định
của pháp luật về vấn đề xác định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm. Bên
cạnh đó, người viết làm một cuộc khảo sát nhỏ trước tình hình tội phạm trên cả nước
thông qua việc lựa chọn ngẫu nhiên 300 bản án từ các vụ án hình sự đã được đưa ra
xét xử trong các năm 2011, 2012, 2013 (nguồn từ báo Pháp luật và đời sống). Từ đó
đưa ra nhận xét về tình hình diễn biến nguy hiểm của đồng phạm trong tội phạm,
những vướng mắc, bất cập trong công tác áp dụng pháp luật từ việc xác định trách
nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm; qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện chế
định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, người viết chủ yếu dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan cùng với các
tài liệu liên quan đến đề tài như: giáo trình, các công trình nghiên cứu chuyên khảo có
giá trị và bình luận luật học kết hợp sưu tầm và tham khảo các tạp chí chuyên ngành;
thông tin trên mạng internet và các tài liệu khác liên quan từ đó tiến hành phân tích,
tổng hợp, chọn lọc ngẫu nhiên, so sánh đối chiếu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn áp
dụng về những trường hợp xác định trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt
Nam.
5. Bố cục đề bài
Để việc nghiên cứu và tìm hiểu luận văn này một cách có khoa học và dễ hiểu thì
ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm.
- Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm hình sự của những
người đồng phạm.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
3
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
-
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Chương 3: Thực tiễn và một số giải pháp trong việc xác định trách nhiệm hình
sự của những người đồng phạm.
Đề tài nghiên cứu “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự
của những người đồng phạm” là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu
đề tài cần có một kiến thức sâu rộng và nắm vững thực tiễn áp dụng pháp luật. Ngoài
ra, còn đòi hỏi người viết phải biết nắm bắt được những vấn đề cốt lõi, những tồn tại
và vướng mắc còn tồn đọng, để từ đó đề xuất giải pháp giải quyết. Tuy nhiên, là một
sinh viên năm cuối, lần đầu tiên làm quen với một đề tài nghiên cứu có tính khoa học
cao mà thời gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như vốn kiến thức, hiểu biết có giới hạn
vì vậy sẽ dẫn đến nhiều khiếm khuyết, thiếu sót trong đề tài nghiên cứu này là điều
không thể tránh khỏi, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến đánh giá từ
quý thầy, cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
4
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
Khi tìm hiểu và nghiên cứu về một đề tài khoa học nhất định thì vấn đề đầu tiên
chúng ta cần phải tìm hiểu là cơ sở lý luận của đề tài, để từ đó thấy được những vấn đề
chung nhất, khái quát nhất mà người viết đang tìm hiểu đồng thời giúp cho người đọc
nắm được những phần cơ bản, đầu tiên trong vấn đề nghiên cứu. Chính vì vậy, khi
nghiên cứu về đề tài trách nhiệm hình sự cho những người trong đồng phạm người viết
đã dành riêng chương này nêu lên những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến đề tài.
Tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan đến trách nhiệm hình sự của những người
đồng phạm đồng thời trình bày những đặc điểm riêng trong trách nhiệm hình sự của
những người này, tổng quát qua một số dạng của đồng phạm và lịch sử hình thành của
chế định đồng phạm. Từ đó, góp phần làm rõ hơn những vấn đề được nghiên cứu.
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trong sách báo cũng như thực tiễn pháp lý, thuật ngữ “Trách nhiệm” thường
được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của
một người trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước. Ví dụ: Trách nhiệm của
công dân trong việc bảo vệ môi trường, trách nhiệm của bố mẹ trong việc chăm sóc,
giáo dục con cái,…Thứ hai, Trách nhiệm là hậu quả bất lợi mà một người phải gánh
chịu trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi phạm bổn phận,
nghĩa vụ nào đó. Trách nhiệm pháp lý, trong đó có trách nhiệm hình sự được hiểu theo
nghĩa thứ hai. Trách nhiệm hình sự là một trong những vấn đề lý luận phức tạp của
Luật hình sự, là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm
pháp luật hình sự. Tuy nhiên, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào được đưa ra
xung quanh thuật ngữ này chính vì vậy trong khoa học luật Hình sự Việt Nam vẫn còn
tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, chẳng hạn như:
Tiến sĩ Phạm Văn Beo viết: Ttrách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm
pháp lý, buộc người phạm tội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về hành vi
phạm tội của mình, được thể hiện bằng việc Tòa án nhân danh Nhà nước, tuân
theo một thủ tục tố tụng riêng, kết án người phạm tội”.1
1
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
Tr.136.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
5
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học Lê Cảm định nghĩa: “Trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật
hình sự quy định”. 2
Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc viết: “Trách nhiệm hình sự là hậu quả
pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước”.3
Giáo sư, tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang quan niệm:“Trách nhiệm hình sự là một dạng
của trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả
bất lợi do Tòa án tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà
người đó thực hiện”. 4
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và
chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Cho nên, được xem là dạng trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Nó chỉ được thực
hiện trong phạm vi quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với hai chủ thể có quyền và
nghĩa vụ nhất định. Một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội. Một người có
hành vi bị pháp luật hình sự cấm, không thực hiện hoặc thực hiện không đến nơi đến
chốn những gì mà pháp luật hình sự yêu cầu gây ra hoặc đe dọa gây ra hậu quả cho xã
hội bị coi là tội phạm thì phải gánh chịu hậu quả, như là trách nhiệm pháp lý trước Nhà
nước và xã hội. Việc quy định trách nhiệm pháp lý bất lợi cho người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội là một cơ chế để Nhà nước bảo vệ các quan hệ xã hội trước hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Trách nhiệm pháp lý ở đây được cụ thể bằng trách nhiệm hình
sự vì nó được áp dụng đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Như vậy, theo quan điểm của người viết, dưới góc độ tổng quát thì : Trách nhiệm
hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả bất lợi của việc thực hiện
tội phạm mà người thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu, được thể hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy
định.
1.1.2 Khái niệm đồng phạm và những loại người trong đồng phạm
Trước khi tìm hiểu các khái niệm về những người đồng phạm chúng ta cần làm
rõ khái niệm đồng phạm như sau: “Đồng” theo từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng nhau,
2
Lê Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),Hà Nôi, 2000, Tr. 122
Đào Trí Úc, Mô hình lý luận về Bộ Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999, Tr.41
4
Đỗ Ngọc Quang, Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1997, Tr.14
3
GVHD: Nguyễn Thu Hương
6
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
như nhau, không thể khác được. “Phạm” là làm tổn hại đến những cái cần được tôn
trọng, bảo vệ nên tránh mắc phải. Như vậy, ghép chung hai từ “Đồng phạm” với nhau
hiểu theo nghĩa từ điển là cùng nhau phạm phải một việc nào đó hay một sai lầm nào
đó.5 Còn dưới góc nhìn của Luật hình sự thì đồng phạm lại được hiểu là cùng phạm
một tội.
Một cách tổng quát Bộ luật hình sự đã định nghĩa: Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật hình sự.6
Qua tìm hiểu và nghiên cứu ta có thể thấy rằng đồng phạm là một khái niệm nói
lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tội
phạm trên thực tế diễn ra rất đa dạng nhiều trường hợp không chỉ đơn thuần chỉ có một
người thực hiện mà còn có nhiều người tham gia thực hiện một tội phạm. Tuy nhiên,
không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó còn
phải cố ý thực hiện một tội phạm. Nếu có nhiều người tham gia nhưng không cùng
thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Ví dụ: A cắt khóa mở cửa nhà B
vào ăn trộm tiền, C nhìn thấy nhưng không lên tiếng mà đợi đến khi A đi ra thì C lại
tiếp tục lẽn vào nhà B ăn trộm xe và nhiều bình cổ có giá trị. Trong trường hợp này cả
A và C đều thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tuy nhiên hai người này không cùng
thực hiện và không có sự hợp tác trước với nhau nên không thể xem A là đồng phạm
của B được.
Từ quy định trên của luật hình sự về khái niệm đồng phạm ta có thể thấy rằng
đồng phạm ít nhất phải do hai người cùng thực hiện một hành vi phạm tội. Tuy nhiên,
không phải tất cả họ đều tham gia với vai trò là người thực hiện tội phạm mà họ có thể
tham gia với các vai trò khác nhau chính vì thế Bộ luật hình sự Việt Nam tại Điều 20
đã quy định khái niệm về những người cùng thực hiện một hành vi phạm tội trong vụ
án đồng phạm dựa trên mức độ và hoạt động tham gia của họ khi thực hiện tội phạm
như sau:
“2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là
những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
5
Từ điển tiếng Việt, http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/%C4%90%E1%BB%93ng_ph%E1%BA%A1m, [Truy
cập ngày 19/8/2014].
6
Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
7
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm.”
Ngƣời thực hành:
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nghĩa là bằng hành vi của
mình, người thực hành thực hiện những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Có hai trường hợp đều được xem là người thực hành như sau:
Trường hợp thứ nhất, người thực hành có thể tự mình thực hiện các hành vi
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này có thể chỉ có một người
thực hành cũng có thể có nhiều người cùng thực hành. Nếu nhiều người cùng tham gia
với vai trò thực hành thì không cần mỗi người phải thực hiện đầy đủ các yếu tố của
cấu thành tội phạm mà chỉ cần tổng hợp hành vi của họ thỏa mãn các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm. Ví dụ: Ngày 20/3/2013, Biết anh T không có ở nhà A, B, C, D bàn bạc
và thống nhất với nhau sẽ vào nhà anh T ăn cắp xe máy wave S. Đến 11 giờ khuya
cùng ngày 4 người đã tiến hành thực hiện hành vi. A,B,C cùng vào nhà, D ở ngoài
canh cửa đề phòng anh T về đột xuất. A rọi đèn cho B dùng kềm cộng lực bẻ khóa mở
cửa. C vào nhà dắt xe ra. Kết quả 4 người này trộm được xe máy của anh T mang đi
bán được 5 triệu đồng để chia nhau tiêu xài. Từ tình huống trên ta có thể thấy rằng
hành vi của từng người không hề thỏa mãn mô tả cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài
sản nhưng hành vi của cả bốn người họ khi tổng hợp lại thì thỏa mãn cấu thành tội
phạm của tội này.
Trường hợp thứ hai, Một người tuy không trực tiếp thực hiện hành vi được mô
tả trong cấu thành tội phạm nhưng đã sử dụng người khác như một công cụ, phương
tiện để thực hiện các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm thì cũng được xem
là người thực hành. Cụ thể ở các dạng sau:
Sử dụng người không có năng lực TNHS để người này trực tiếp thực hiện các
hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm, gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Ví dụ: A có hiềm khích với B nên rũ T (mới 8 tuổi) bỏ thuốc độc
vào giếng nước nhà B làm cho gia đình B bị ngộ độc phải nằm viện. Ở đây, mặc
dù T là người bỏ thuộc nhưng T vẫn chưa đủ tuổi chịu TNHS và không nhận
thức được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội nên T không phải chịu
TNHS. Còn A biết rõ rằng việc xúi giục của mình sẽ mang lại hậu quả nguy hiểm
cho người khác nhưng vẫn thực hiện nên A phải chịu TNHS với vai trò là người
thực hành.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
8
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Lợi dụng sai lầm của người khác để gây ra hậu quả của tội phạm mà người gây ra
hậu quả không có lỗi hoặc có lỗi vô ý. Chẳng hạn, A là giám đốc công ty Thành
Vinh trong đợt tổng kết sắp xếp lại nhân sự, A đã quyết định sa thải B và C. Từ
đó, B và C luôn tìm cách trả thù A. Một lần A bị ốm B và C đến nhà A thăm bệnh,
nhân lúc vợ A ở dưới bếp B và C đã bỏ thuốc độc vào cháo của A. Vợ A không
biết nên đã đúc cháo cho A ăn. Sau đó, A chết. Trong trường hợp này vợ A mặc
dù đúc cháo cho A ăn nhưng hoàn toàn không biết về việc cháo có thuốc độc nên
không có lỗi trong chuyện này, còn B và C mặc dù không tự tay đúc cháo cho A
nhưng là người bỏ thuốc độc do đó B và C cùng là đồng phạm trong vụ án giết
người với vai trò là người thực hành.
Cưỡng bức, uy hiếp tinh thần, sức khỏe của người khác, bắt họ thực hiện hành vi
gây nguy hiểm mà họ không mong muốn. Ví dụ: A, B và D rũ nhau vào nhà chị
M ăn trộm, nhưng đến khi đi thì D hối hận và không chịu đi. Khi đó A và B đã ra
sức đánh và hâm dọa D “Mày không đi tao sẽ giết mày” làm D sợ quá nên phải
đi theo. Trường hợp này D không phải chịu TNHS vì D đã bị cưỡng bức về tinh
thần và sức khỏe nên đã đi cùng mà D không mong muốn.
Trong trường hợp chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, nếu quyết định của cấp trên
không đúng pháp luật mà người thi hành quyết định của cấp trên không biết được
tính chất không đúng pháp luật của quyết định và cũng không có nghĩa vụ phái
biết, thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi. 7 Trong
trường hợp này người ra quyết định là người phải chịu trách nhiệm hình sự với
vai trò là người thực hành.
Ngƣời tổ chức
Đoạn 2 Khoản 2 Điều 20 quy định: “Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy việc thực hiện tội phạm”.
Theo quy định này thì người tổ chức được phân hóa thành 3 loại:
Người chủ mưu là người đề ra âm mưu, phương hướng hoạt động của nhóm
đồng phạm.8 Hoạt động phạm tội của họ thể hiện ở hành vi bày mưu, lập kế
hoạch tiến hành tội phạm. Những người đồng phạm khác dựa vào kế hoạch của
họ để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Người chủ mưu có thể tham gia trực
7
Trịnh Tiến Việt, Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu được đặct ra khi sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 04, năm 2013, Tr.23.
8
Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB. Chính trị quốc gia, năm 2008,
tr.100.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
9
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
tiếp vào việc thực hiện tội phạm hoặc cũng có thể không tham gia vào mà đứng
ngoài tổ chức.
Người cầm đầu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào việc soạn
thảo kế hoạch, phân công, giao trách nhiệm cho đồng bọn cũng như đôn đốc,
giao trách nhiệm cho nhóm đồng phạm9. Trong một vụ đồng phạm có thể do
một người cầm đầu nhưng cũng có thể do nhiều người cầm đầu. Nhiệm vụ của
người này là đứng ra thành lập các tổ chức tội phạm, lôi kéo người khác vào tổ
chức phạm tội đó. Ví dụ: tổ chức đánh bạc, cho vay nặng lãi, chiếm đoạt tài sản
của người khác,…Người cầm đầu luôn đứng trực tiếp trong tổ chức để điều
khiển hoạt động phạm tội.
Người chỉ huy: Người chỉ huy là người trực tiếp điều khiển tổ chức phạm tội.10
Người điều khiển là người giữ vai trò điều khiển hoạt động chung của toàn
nhóm như vạch ra phương hướng hoạt động, kế hoạch thực hiện, phân
công,…cho những người đồng phạm khác. Thông thường chỉ trong đồng phạm
phức tạp hoặc phạm tội có tổ chức mới xuất hiện người chỉ huy.
Như vậy, việc phân biệt ba loại người “chủ mưu” , “cầm đầu”, “chỉ huy” chỉ là
tương đối. Một tổ chức tội phạm có thể tồn tại ba loại người này với ba người khác
nhau song cũng có thể cả ba vai trò đó cùng tồn tại trong một người đồng phạm. Trong
mối quan hệ với những người đồng phạm khác thì người tổ chức là người giữ vai trò
thành lập nhóm đồng phạm hoặc điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm đó. Điều
đặt biệt của người tổ chức là hoạt động của họ không được mô tả trong cấu thành tội
phạm. Người tổ chức phải thông qua hành vi của người thực hành mới gây ra hậu quả
của tội phạm.
Ngƣời giúp sức
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện
tội phạm. Hành vi của người giúp sức là tạo ra những điều kiện để người thực hành
thực hiện hành vi phạm tội. Những điều kiện đó có thể là vật chất hoặc tinh thần. Giúp
sức về vật chất như cung cấp vũ khí, phương tiện, tài sản cho nhóm tội phạm hoạt
động. Giúp sức về tinh thần có thể là những hành vi cung cấp những gì tuy không có
tính vật chất nhưng cũng tạo cho người thực hành điều kiện thuận lợi hơn cho việc
thực hiện tội phạm chẳng hạn như: chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình,…
Có trường hợp hành vi giúp sức được thực hiện bằng không hành động. Đó là
trường hợp có những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhưng họ lại cố ý
9
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2005.
Tr.172.
10
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009,
Tr.261.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
10
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
không hành động và qua đó đã làm cho hành vi phạm tội được thực hiện dễ dàng. Ví
dụ: A là bảo vệ của cơ sở sản xuất hàng đa dụng. Khi làm nhiệm vụ thấy bạn cùng
phòng của mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho nhưng A không bắt giữ mà giả vờ
như không hay biết để B mang tài sản ra khỏi kho. Sau khi mang tài sản ra ngoài B
bán và chia tiền cho A.
Một dạng giúp sức đặc biệt nữa là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước sẽ che giấu
người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm
tội mà có được khi tội phạm đã hoàn thành.
Hành vi giúp sức được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào thực hiện,
khi tội phạm đang tiến hành giúp một người đang có ý định phạm tội có thêm điều
kiện thuận lợi để thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức tự nó
được biểu hiện là hành vi ít nguy hiểm hơn hành vi của những người đồng phạm khác.
Đây cũng là cơ sở của việc phân hóa TNHS của những người đồng phạm.
Ngƣời xúi giục
Người xúi giục là người không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã
thực hiện hành vi của mình bằng cách tác động lên suy nghĩ, ý chí của người khác
khiến người này nảy sinh ý định phạm tội và đi đến thực hiện tội phạm. Họ là người đề
xuất việc phạm tội và thúc đẩy việc phạm tội đó được thực hiện thông qua người khác.
Để thực hiện điều đó người xúi giục bằng những hành động của mình tích cực tác
động đến người bị xúi giục.
Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: kích động, lôi kéo,
cưỡng ép, dụ dỗ, lừa gạt,…tuy nhiên hành vi xúi giục không nhất thiết phải có đủ các
thủ đoạn trên mà chỉ cần một trong các hành vi trên cũng đủ cấu thành hành vi phạm
tội và phải chịu TNHS. Dù với hình thức nào thì hành vi xúi giục cũng phải trực tiếp,
nghĩa là người xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định, việc kêu gọi,
hô hào mà không hướng tới một chủ thể nào thì không phải là xúi giục. Hành vi xúi
giục phải cụ thể nghĩa là phải gây ra một tội phạm cụ thể. Việc truyền bá, gieo rắc tư
tưởng xấu cho một người hoặc một số người khiến những người này đi vào con đường
phạm tội cũng không phải là hành vi xúi giục trong đồng phạm mà chỉ có thể cấu
thành tội độc lập khác như dụ dỗ, ép buộc người khác phạm pháp.
Lưu ý:
Cấu thành tội phạm của tất cả các tội phạm đều đòi hỏi có hai dấu hiệu là năng
lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên có nhiều trường hợp đặc biệt cấu thành
tội phạm còn đòi hỏi có thêm một số dấu hiệu đặc biệt khác, vì chỉ có dấu hiệu này
mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản ánh. Chủ
thể có thêm dấu hiệu như vậy được gọi là chủ thể đặc biệt.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
11
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Các đặc điểm của chủ thể đặc biệt có liên quan đến giới tính, độ tuổi, quan hệ gia
đình của người phạm tội. Ví dụ: tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 Bộ luật hình sự
1999), Tội loạn luân (Điều 158 Bộ luật hình sự 1999); Tính chất bắt buộc mà người
thực hành đòi hỏi phải có đối với những tội mà cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc
biệt phải là những đặc điểm liên quan đến chức vụ, đặc điểm liên quan đến nghề
nghiệp, vị trí công tác của một người như: Tội làm nhục, hành hung đồng đội (Điều
321 Bộ luật hình sự 1958), Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259 Bộ luật hình sự
1999), Tội không chấp hành bản án (Điều 223 Bộ luật hình sự),…Đối với các chủ thể
trong đồng phạm: “Những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt chỉ cần người thực hành có
những đặc điểm của chủ thể đặc biệt thì thõa mãn”11. Như vậy trường hợp đồng phạm
chung một tội, các chủ thể tham gia đồng phạm chỉ cần có người thực hành thỏa mãn
điều kiện của chủ thể đặc biệt. Những người đồng phạm khác có thể thỏa hoặc không
thỏa các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt cũng không sao. Ví dụ: tội tham ô tài sản quy
định tại Điều 278 Bộ luật hình sự:“Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản mình có trách nhiệm quản lý…”. Theo đó, tội tham ô tài sản xảy ra khi và chỉ
khi đòi hỏi duy nhất là chủ thể người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn
và thỏa mãn các yêu cầu của chủ thể đặc biệt trong tội này. Còn người tổ chức, giúp
sức, xúi giục,..không nhất thiết cũng không cần thiết phải là người có chức vụ, quyền
hạn.
Tóm lại, từ định nghĩa về đồng phạm và những loại người trong đồng phạm ta có
thể thấy rằng đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt được thực hiện cùng với sự cố
ý tham gia của nhiều người. Tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có
thể là sự tham gia của cả bốn loại người đồng phạm: người thực hành, người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức nhưng cũng có thể chỉ có một hành vi tương ứng với
một trong bốn loại người đó.
1.1.3 Khái niệm trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Từ trước đến nay, lý luận cũng như thực tiễn xét xử ở nước ta đã thừa nhận tội
phạm có thể được thực hiện dưới một trong hai hình thức là tội phạm đơn lẻ và đồng
phạm. Trong trường hợp đồng phạm được thực hiện dưới hình thức tội phạm đơn lẻ thì
mọi vấn đề liên quan đến tội phạm chỉ cần xác định thông qua hành vi của một người.
Ngược lại, trong trường hợp tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm thì
những vấn đề liên quan lại phải được xem xét như là kết quả tổng hợp từ hành vi của
nhiều người. Chính sự khác biệt về số lượng người thực hiện tội phạm như vậy đã tạo
11
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo Trình đại học Luật Hà Nội (Phần chung), Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội 2009, Tr.143.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
12
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
cho đồng phạm tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với hình thức phạm tội đơn lẻ.
Do đó, việc xác định một tội phạm là tội phạm đơn lẻ hay đồng phạm gắn bó chặt chẽ
với TNHS của những người tham gia thực hiện hành vi phạm tội đó. Tuy nhiên, cũng
cần phải khẳng định rằng cùng với sự khác biệt về số lượng người tham gia thì việc
xác định các dấu hiệu pháp lý liên quan đến đồng phạm cũng phức tạp hơn nhiều so
với tội phạm đơn lẻ.
Nếu một người có đầy đủ năng lực trách nhiệm và tuổi chịu TNHS thực hiện một
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự phải chịu
TNHS trước pháp luật thì đối với việc nhiều người cùng thực hiện một tội phạm cũng
vậy. Nghĩa là, trong trường hợp không chỉ có một người thực hiện tội phạm mà có từ
hai người trở lên cùng hợp tác với nhau thực hiện một tội phạm thì những người đó
cùng phải chịu TNHS về việc của mình làm phụ thuộc vào vai trò của mình trong quá
trình thực hiện và đương nhiên mỗi người ở những vai trò khác nhau cũng phải chịu
TNHS khác nhau. Khái niệm trên cũng đã đề cập đến vấn đề năng lực và tuổi chịu
TNHS của những người đồng phạm bởi lẽ những người được xem là đồng phạm khi
cơ bản họ phải thỏa mãn các điều kiện về chủ thể của tội phạm. Vì nếu trường hợp
cùng có hai người thực hiện một tội phạm nhưng trong đó có một người dưới tuổi chịu
TNHS hoặc mắc các bệnh không có đủ năng lực TNHS thì hoàn toàn không có đồng
phạm.
Xuất phát từ khái niệm đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực
hiện một hành vi phạm tội với lỗi cố ý và TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc
người phạm tội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình,
người viết đưa ra một khái niệm tương đối tổng quát về TNHS của những người đồng
phạm như sau: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là hậu quả pháp lý
bất lợi cho những người phạm tội trong trường hợp có hai người trở lên có đầy đủ
năng lực và tuổi chịu TNHS phải chịu trách nhiệm khi họ thực hiện hành vi phạm tội
với các vai trò là người thực hành, người tổ chức, xúi giục, giúp sức người khác cùng
thực hiện một hành vi phạm tội.
1.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm
1.2.1. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Có quan điểm cho rằng: “Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý
hình sự, phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội”.12 Theo người viết
12
Trường kiểm sát Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng , Cơ sở của trách nhiệm hình sự, http://tks.edu.vn/portal
/detail/380563 Co-so-cua-trach-nhiem-hinh-su.html, [Truy cập ngày 20/8/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
13
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
quan điểm này đã phần nào làm hẹp đi nội dung của TNHS. Bởi vì trong số các biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất pháp lý hình sự áp dụng đối với người
phạm tội thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu và nghiêm khắc nhất. TNHS
theo luật hình sự Việt Nam đã được phân chia thành hai loại: loại có hình phạt và loại
không có hình phạt (miễn hình phạt).
Trong trường hợp có hình phạt, TNHS mà người phạm tội phải chịu trước hết thể
hiện ở bản án kết tội kèm theo việc quyết định hình phạt của Tòa án đối với người
phạm tội. Người phạm tội không chỉ bị kết tội, “bị coi là có tội” mà còn phải chịu
hình phạt do Tòa án quyết định trong bản kết tội đó.
Trong trường hợp miễn hình phạt, TNHS được thể hiện ở bản kết tội của Tòa án
mà không có quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội bị Tòa án,
nhân danh Nhà nước kết án vì đã thực hiện hành vi phạm tội. Với bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật, người phạm tội chính thức “bị coi là có tội” nhưng người đó không
bị Tòa án quyết định hình phạt mà được miễn hình phạt.
Từ những vấn đề trên, không thể coi TNHS là việc thực hiện chế tài pháp lý
hình sự phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội và để xác định khái
niệm TNHS trước hết cần phải làm rõ các đặc điểm vốn có của nó.
Đặc điểm thứ nhất: TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi bị luật
hình sự coi là tội phạm.
Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý chỉ có thể được áp dụng đối
với người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm, nghĩa là việc thực hiện
hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình
sự.
Tội phạm là hành vi được quy định trong bộ luật hình sự. Điều này có nghĩa là
các dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm cụ thể được quy định ở cả phần chung và phần
các tội phạm cụ thể của luật hình sự. Phần chung bộ luật hình sự, không chỉ quy định
khái niệm tội phạm mà còn quy định các dấu hiệu có ý nghĩa xác định chung đối với
mọi tội phạm như: nội dung của lỗi cố ý và vô ý, tuổi chịu TNHS, vấn đề năng lực
TNHS, các dấu hiệu của chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và TNHS của những
người đó. Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định về các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể, trong đó xác định các dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm cũng
như mức hình phạt áp dụng đối với từng loại tội đó.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
14
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Đặc điểm thứ hai: TNHS là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội.
Theo luật hình sự Việt Nam, TNHS chỉ có thể là trách nhiệm của cá nhân người
thực hiện hành vi mà luật hình sự coi là tội phạm. TNHS phải tương xứng với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do người phạm tội thực hiện. C.Mác đã
viết: “Nếu như khái niệm tội phạm giả định phải có sự trừng phạt, thì tội phạm thực tế
lại giả định phải có một mức độ trừng phạt nhất định. Tội phạm thực tế là có giới hạn.
Vì vậy, cả sự trừng phạt phải có giới hạn, dầu chỉ có thể cho nó tính chất thực tế - nó
phải được hạn chế bởi nguyên tắc của pháp luật để trở thành hợp pháp. Vấn đề là ở
chỗ làm cho sự trừng phạt trở thành hậu quả thực tế của việc phạm tội. Dưới con mắt
của kẻ phạm tội thì sự trừng phạt phải là hậu quả tất yếu của hành vi của chính người
đó – do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của hành vi của y phải là giới
hạn của sự trừng phạt.”13 Người phải chịu TNHS chỉ có thể là người phạm tội, nghĩa
là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm khi đã đạt độ
tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS và có lỗi (cố ý hoặc vô ý).
Đặc điểm thứ ba: TNHS được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự
quy định.
Trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền) và người phạm tội. TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm
tội, thể hiện trước hết ở việc Tòa án nhân danh Nhà nước, kết án người phạm tội. Nếu
không có bản án kết tội của Tòa án thì không thể nói đến TNHS đối với một người.
Bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý xác nhận người phạm
tội chính thức “bị coi là có tội”. Đó chính là hậu quả pháp lý thể hiện một trong những
nội dung quan trọng của TNHS mà người phạm tội phải chịu trước Nhà nước. Đa số
các trường hợp bản án kết tội của Tòa án đối với người phạm tội đi kèm với việc Tòa
án quyết định hình phạt đối với người đó. Trong trường hợp này, TNHS được thể hiện
ở dạng bản án kết tội và hình phạt. Do đó bản án kết tội của Tòa án áp dụng đối với
người phạm tội không gắn với việc Tòa án quyết định hình phạt mà gắn với việc Tòa
án quyết định miễn hình phạt với người đó.
Từ lẽ đó, TNHS có thể có hình phạt và cũng có thể không có hình phạt. Trong
trường hợp bản án kết tội của Tòa án có kèm theo quyết định miễn hình phạt đối với
người phạm tội thì TNHS của người phạm tội thể hiện ở việc người phạm tội được kết
án bằng bản án có tội mà không được thể hiện bằng việc người đó phải chịu hình phạt.
Trong trường hợp bản án kết tội của Tòa án có kèm theo quyết định hình phạt thì
13
C.Mác – Ph. Ăngghen (1978), Toàn tập, tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội, Tr.169.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
15
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
TNHS không chỉ thể hiện ở bản án kết tội mà còn thể hiện ở loại và mức hình phạt cụ
thể mà Tòa án quyết định đối với người phạm tội và dấu hiệu án tích của người đó.14
Như vậy, theo quan điểm của người viết, bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực
pháp luật là cơ sở pháp lý chính thức xác nhận người phạm tội bị coi là có tội. Cùng
với bản án kết tội, Tòa án có thể quyết định hình phạt hoặc quyết định miễn hình phạt
đối với người phạm tội. Trong trường hợp, người phạm tội được miễn hình phạt thì
TNHS vẫn được ghi nhận để xem xét tiền án, tiền sự cho họ nhưng họ sẽ không cần
phải chấp hành hình phạt.
Đặc điểm thứ tƣ: TNHS là trách nhiệm trước Nhà nước, kết quả của việc áp
dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được xác định và thực hiện theo một trình tự,
thủ tục đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Việc xác định các căn cứ để có thể áp dụng TNHS là kết quả của cả một quá
trình điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự.
Song TNHS chỉ có thể do Tòa án, nhân danh Nhà nước, áp dụng đối với người phạm
tội.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự nước ta, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi
xác định có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án, khi có đủ căn cứ để xác định một
người đã thực hiện tội phạm thì khởi tố bị can. Trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án gắn với các
quyết định tố tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
quyết định truy tố bị can. Chức năng xét xử, kết tội người phạm tội thuộc về Tòa án
dựa trên kết quả của quá trình điều tra và quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án sẽ
ra phán quyết về việc có kết tội người đã bị truy tố hay không. Nếu có đủ cơ sở để kết
án người phạm tội, Tòa án sẽ ra bản án kết tội đối với người đó, bản án kết tội của Tòa
án chính là sự thể hiện của TNHS áp dụng đối với người phạm tội. Việc thực hiện
TNHS từ phía Nhà nước và việc phải chịu TNHS từ phía người phạm tội chỉ bắt đầu
khi bản án kết tội của Tòa án đối với bị cáo có hiệu lực pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là một dạng đặc biệt của
TNHS nói chung. Chính vì vậy, TNHS cũng bao gồm những đặc điểm chung cơ bản
của TNHS như: là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội
14
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: Phạm Mạnh Hùng, Cơ sở của trách nhiệm hình sự,
http://tks.edu .vn/portal/detail/3805_63_Co-so-cua-trach-nhiem-hinh-su.html, [Truy cập ngày 20/8/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
16
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
phạm; là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội; được thể hiện dưới dạng bản án kết
tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình sự
khác do luật hình sự quy định; được xác định và theo một trình tự và thủ tục đặc biệt
do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm cơ bản của
loại trách nhiệm pháp lý này TNHS của những người đồng phạm cũng có những đặc
điểm riêng của mình cụ thể như sau:
Thứ nhất, Những người đồng phạm phải cùng thực hiện một tội với lỗi cố ý
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là kết quả quá trình thực hiện
tội phạm của nhiều người mà theo quy định của luật hình sự thì ít nhất phải có hai
người trở lên cùng thực hiệc tội phạm với lỗi cố ý. Dấu hiệu cùng thực hiện một tội
phạm nghĩa là những người tham gia bằng hành vi của mình đều góp phần thực hiện
tội phạm hoặc thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Cố ý cùng thực hiện một tội phạm đòi
hỏi mỗi người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một hoặc một số hành vi sau:
Hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực
hiện tội phạm, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm.15 Tương ứng với bốn loại hành vi
này là bốn loại người đồng phạm, bao gồm: người tổ chức, người xúi giục, người giúp
sức và người thực hành.
Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.16 Phân tích dấu hiệu lỗi trong
đồng phạm là trường hợp mà những người tham gia thực hiện hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực
hiện. Đồng thời biết được người khác cũng có hành vi nguy hiểm cùng với mình. Tất
cả họ đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội từ hành vi của mình cũng như hậu
quả từ đồng phạm mà họ tham gia thực hiện, cùng mong muốn có hoạt động chung,
mong muốn có hậu quả xảy ra và có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
Tại Điều 20 Bộ luật hình sự hiện hành đã quy định: “Đồng phạm là trường hợp
có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” nghĩa là đồng phạm chỉ xảy ra
với lỗi cố ý, mỗi người trong đồng phạm khi thực hiện hành vi phạm tội đều với lỗi cố
ý và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cố ý trong
đồng phạm được thể hiện ở hai mặt lý trí và ý chí như sau:
15
Cao Thị Oanh, Vấn đề về mặt chủ quan của đồng phạm, Tạp chí Luật học số 02/2002, tr.44.
16
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
Tr.210.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
17
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Về lý trí:
Trong nhận thức của những người đồng phạm đều phải biết hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, đồng thời biết rằng người khác cũng có hành vi nguy hiểm như
mình. Trong trường hợp vụ đồng phạm có nhiều người tham gia, bản thân mỗi chủ thể
khi thực hiện hành vi của mình không thể biết được hành vi cụ thể của những người
tham gia khác. Nhưng có một điều mà những người phạm tội luôn tin tưởng là bên
cạnh họ còn có những người khác cùng phạm tội. Vì vậy, dù ít hay nhiều giữa những
người đồng phạm luôn có sự liên kết cùng hành động điều này làm tăng lên tính nguy
hiểm của đồng phạm so với trường hợp phạm tội đơn lẻ.
Nếu một người chỉ biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội mà không biết
là có người khác cũng đang hành động như mình thì chưa phải là cùng cố ý do vậy
chưa có đồng phạm. Chẳng hạn, trên một chuyến tàu A và B tình cờ gặp và quen nhau.
Sau một lúc trò chuyện A biết B cùng xuống chung một ga với mình nên A đã gửi cho
B giữ giúp mình một bọc hàng. B vốn là một tên trộm chuyên nghiệp nên đoán là trong
bọc hàng có nhiều thứ giá trị nên nhận lời ngay; nếu có cơ hội thì sẽ lấy cắp bọc hàng
ngay. Gần cuối ga tàu bất ngờ công an đến bắt và phát hiện trong bọc hàng có 500g
Heroin. Trong trường hợp này A chỉ biết mình có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội là
vận chuyển ma túy chứ không hề biết là B có ý định muốn ăn trộm đồ của mình giữa
A và B không có sự cố ý cùng phạm một tội do vậy A và B không đồng phạm với
nhau.
Mặt khác mọi người trong đồng phạm còn thấy trước được hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội cuả mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ thực hiện và
mục đích của họ là cùng nhau thực hiện được hành vi và kế hoạch mà họ đã đặt ra.
Về ý chí
Những người đồng phạm mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn
hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Trở lại định nghĩa đồng phạm ở
Điều 20 Bộ luật hình sự chỉ đưa ra giới hạn “cùng cố ý”, tức là lỗi của họ phải là lỗi
cố ý chứ điều luật không yêu cầu là lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp do đó điều mà
chúng ta quan tâm khi tìm hiểu về ý chí của những người đồng phạm là tìm hiểu xem
họ có cùng mong muốn hoặc cùng để mặc cho hậu quả phát sinh hay không. Ví dụ: A
và B cùng thuê ao của hợp tác xã để nuôi cá, nhưng C lại nhiều lần đến kéo trộm cá
trong ao của A và B. Một hôm đang ngồi trong liều A nghe tiếng động và hát hiện ra C.
Khi bắt được C, A dùng côn đánh vào cổ C còn B thì dung đòn gánh đánh vào lưng và
chân của C. Sau đó A và B bỏ C nằm đấy và đi về nhà. Trường hợp này A và B tuy
không mong muốn C sẽ chết nhưng vẫn bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó, A và B
cùng là đồng phạm trong tội giết người.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
18
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Phân tích dấu hiệu lỗi trên cả hai mặt lý trí và ý chí cho ta thấy: đồng phạm là
trường hợp những người tham gia hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình thực hiện đồng thời họ cũng biết rằng có
những người khác cũng đang thực hiện hành vi gây nguy hiểm cùng với họ. Những
người này đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả
chung của tội phạm mà họ gây ra, đồng thời họ cùng mong muốn có hoạt động chung,
cùng mong muốn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Bằng những hành vi cụ thể những người đồng phạm tham gia vào vụ án đều gây
ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện trong mối
liên kết và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Quan hệ nhân quả trong đồng phạm là
dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp17 . Khi tội phạm được thực hiện với sự cố ý cùng
tham gia của nhiều người thì mỗi hành vi trái pháp luật của từng người đồng phạm đều
có khả năng thực tế, trực tiếp làm phát sinh hậu quả.
Trong trường hợp hành vi của những người đồng phạm chưa có khả năng thực tế
làm phát sinh hậu quả thì quan hệ nhân quả chỉ hình thành khi có sự kết hợp các hành
vi đó với nhau thành một thể thống nhất. Ví dụ: A vì có thù tức với H nên đã rủ B và C
cùng đánh H cho bỏ tức. B và C đồng ý nên cả A, B, C cùng bàn bạc lập kế hoạch để
sớm hành động. Khi biết H có phiên trực phải về muộn nên ba người này đứng đợi H ở
đầu làng. Khi nhìn thấy H đến A liền dùng côn đánh vào người H làm H ngã xuống,
tiếp đó B giữ chặt tay H liên tiếp đánh vào người H còn C thì dùng dao đâm vào
những bộ phận khác nhau trên người H. Kết quả H chết cho bị thương quá nặng. Như
vậy bản thân hành vi của từng người đồng phạm là rất nguy hiểm xong trong trường
hợp này sự liên kết hành động của A, B, C là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết
của H.
Ngoài dấu hiệu lỗi là cùng cố ý và cùng thực hiện trong nhiều trường hợp đồng
phạm còn đòi hỏi dấu hiệu động cơ và mục đích. Khi đó mục đích là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: trong nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia
mục đích chống chính quyền hoặc làm suy yếu chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt
buộc trong tất cả các tội. Khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có mục đích
chống lại chính quyền nhân dân. Đây là dấu hiệu phân biệt tội xâm phạm an ninh quốc
gia với những tội khác có dấu hiệu của mặt khách quan tương tự. Nếu không thỏa mãn
dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm và những người tham gia tội phạm sẽ
chịu TNHS độc lập với nhau.
Trường hợp cụ thể, A và B cùng là nhà báo, A là cấp trên của B và thường xuyên
giao cho B thu thập các thông tin liên quan đến hoạt động tôn giáo hiện nay ở miền
17
Quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân
GVHD: Nguyễn Thu Hương
19
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Nam. A sử dụng các thông tin mà B thu thập được để cung cấp cho các tổ chức phản
động nước ngoài với mục đích chống chính quyền nhân dân. Ta có thể thấy rằng ở đây
giữa A và B không phải đồng phạm về tội chống chính quyền nhân dân mà chỉ A mới
phải chịu TNHS độc lập về tội gián điệp theo Điều 80 Bộ luật hình sự. Hành vi của B
tuy có tạo điều kiện cho A thuận lợi trong việc thực hiện tội phạm nhưng giữa A và B
không có sự thống nhất ý chí nên không được xem là đồng phạm tội gián điệp.
Xuất phát từ quy định của bộ luật hình sự và thực tiễn phạm tội đồng phạm
chúng ta thấy rằng: Đồng phạm là một dạng tội phạm đặc biệt được thực hiện bởi
nhiều người biểu hiện ở mặt khách quan là sự liên kết hành vi phạm tội của những
người đồng phạm trong việc thực hiện tội phạm.
Thứ hai, Có ít nhất hai người có điều kiện chủ thể cùng thực hiện một tội phạm
Tất cả những người tham gia trong vụ đồng phạm đều phải có ít nhất hai người
trở lên cùng đủ tuổi và năng lực chịu TNHS thì TNHS đối với trường hợp đồng phạm
mới được áp dụng cho họ. Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết
định tính chất của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm chỉ do một người thực
hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp của nhiều chủ thể khác
nhau. Sự tham gia của nhiều người vào vụ án đã làm cho tội phạm có sự thay đổi về
bản chất và có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi
tội phạm được thực hiện bởi nhiều người thì những người này sẽ có tâm lý dựa vào
sức mạnh tập thể, nên liều lĩnh và táo bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn.
Chủ thể trong đồng phạm phải là những người có đầy đủ năng lực TNHS. Hai
hay nhiều người trong đồng phạm đòi hỏi phải có đầy đủ các điều kiện của chủ thể.
Nghĩa là mỗi người trong số họ đều phải đạt tuổi chịu TNHS theo điều 12 của Bộ luật
hình sự và phải không mắc bệnh làm mất đi khả năng nhận thức cũng như điều khiển
hành vi của họ theo Điều 13 Bộ luật hình sự thì TNHS trong trường hợp đồng phạm
mới được đặt ra đối với họ.
Thứ ba, Những người đồng phạm phải cùng chịu trách nhiệm hình sự về một tội
nếu tổng hợp hành vi phạm tội của họ thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm một tội nhất định
Khi một người thực hiện tội phạm đơn lẻ thì bắt buộc hành vi phạm tội của họ
phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm thì TNHS mới được đặt ra đối
với họ. Còn đối với trường hợp đồng phạm thì mặc dù hành vi của từng người đồng
phạm không thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng chỉ cần tổng hợp
hành vi của họ thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì tất cả những người
này đều bị truy cứu TNHS về tội phạm mà mình đã gây ra. Bởi lẽ trong trường hợp
GVHD: Nguyễn Thu Hương
20
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
phạm tội đơn lẻ chỉ có một người thực hiện hành vi phạm tội thì tội phạm đã hoàn
thành, còn trong trường hợp đồng phạm mỗi người đồng phạm có thể được phân cho
những vai trò, vị trí khác nhau nhưng nhìn chung tổng hợp những hành vi của họ sẽ
gây nên một tội phạm hoàn thành, do đó họ phải cùng chịu trách nhiệm chung về toàn
bộ vụ án. Ví dụ: Ngày 26/3/2014, Lê Văn Thái cùng đồng bọn là Lê Văn Dương và
Nguyễn Văn Truyền lợi dụng lúc chị Nguyễn Thị Kim Hai đi vắng đã lén lút đột nhập
vào nhà chị Kim Hai. Thái phân công cho Truyền đứng ở quán cà phê đối diện nhà để
canh chừng nếu thấy có biến thì báo cho Thái. Dương bẻ khóa còn Thái thì trực tiếp
vào nhà lấy đi 6.250.000 đồng và nhiều tài sản khác trị giá tổng tài sản là 19.000.000
đồng. Trong vụ án này, mặc dù Truyền, Dương không trực tiếp lấy đi tài sản nhưng
hành vi của họ đã giúp sức cho Thái và tổng hợp hành vi của cả ba người đã thỏa mãn
cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản. Nên cả ba phải cùng nhau chịu TNHS
chung về tội này.
Thứ tƣ, Mỗi người đồng phạm phải chịu TNHS, hình phạm độc lập tương ứng
với hành vi phạm tội của mình
Trong trường hợp tội phạm thực hiện với hình thức đồng phạm thì từng người
trong đồng phạm cũng phải chịu TNHS độc lập, hình phạt quyết định đối với từng
người đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm. Điều này
có nghĩa là sự phân hóa, cũng như cá thể hóa TNHS của từng người trong đồng phạm
là vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, có nhiều người loại người
trong đồng phạm: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp
sức,…Những người này giữ những vai trò khác nhau trong một vụ đồng phạm do đó
TNHS và hình phạt dành cho mỗi người họ là khác nhau. Bên cạnh đó vấn đề nhân
thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, hình phạt cho mỗi người trong đồng
phạm cũng được xem xét khi xác định cho họ.
Thứ năm, Việc xác định TNHS cho những người đồng phạm được thức hiện bởi
một quy trình tố tụng chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng
Cũng giống như TNHS cho tội phạm đơn lẻ, việc xác định cũng như các bước
trong quy trình tố tụng hình sự xác định TNHS cho những người đồng phạm cũng
được thực hiện bởi một thủ tục tố tụng chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối
với những vụ án đồng phạm cơ quan tiến hành tố tụng cũng chỉ làm một hồ sơ duy
nhất cho toàn bộ vụ án nhưng trong hồ sơ đó phải kèm theo hồ sơ án của từng người
đồng phạm tham gia trong vụ án đó. Cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra, lấy lời
khai của từng bị can một sau đó mới tổng hợp làm thành một bộ hồ sơ hoàn chỉnh gửi
sang cho viện kiểm sát lập quyết định khởi tố vụ án. Tòa án đưa toàn bộ vụ án ra xét
GVHD: Nguyễn Thu Hương
21
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
xử trong cùng một phiên tòa, nhưng trong quá trình thẩm vấn, xét hỏi tại tòa thì lại
thực hiện đối với từng bị cáo một. Từ đó ghi nhận, đánh giá mức độ cũng nhưng tính
chất tham gia của từng người mà định tội cho họ một cách chính xác đảm bảo cho bản
án đúng người, đúng tội, đúng theo quy định của pháp luật.
1.3. Các hình thức của đồng phạm
Để xác định một tội phạm có phải là đồng phạm hay không chúng ta có thể dựa
vào các dấu hiệu về mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm đó. Khoa học luật
hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự từ trước đến nay cũng
dựa vào các dấu hiệu này để phân loại các hình thức đồng phạm.
1.3.1. Phân loại theo dấu hiệu chủ quan
Căn cứ vào đặc điểm về mặt chủ quan thì đồng phạm được phân loại thành đồng
phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước.
Đồng phạm không có thông mƣu trƣớc
“Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm không có sự
thỏa thuận, bàn bạc với nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc có thỏa thuận
nhưng không đáng kể, có thể nhất trí phạm tội ở hiện trường hoặc đồng phạm được
hình thành khi có người đang thực hiện tội phạm18.”
Nghĩa là những người đồng phạm không có sự bàn bạc thống nhất trước với nhau
về kế hoạch thực hiện tội phạm đồng thời giữa những người đồng phạm cũng không có
sự phân công vai trò như tổ chức, thực hành hay xúi giục. Ở hình thức này có thể
những người đồng phạm chỉ có thể nhất trí với nhau về việc thực hiện tội phạm ở hiện
trường và bắt tay ngay vào việc thực hiện tội phạm hoặc đồng phạm hình thành khi có
người đang thực hiện đồng phạm người khác nhìn thấy và cùng tham gia. Ví dụ: N và
M rủ nhau lên rừng hái cà phê. Đến khi trời tối trên đường về hai người nhìn thấy một
con bò đang đi lạc và ăn cỏ ở cuối rừng. Cả hai nảy sinh ý định bắt trộm con bò đó
sau đó hai người này dắt trộm con bò xuống Huyện và bán được 5 triệu đồng. Ở đây A
và B cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của công dân. Nhưng trước khi thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản giữa N và M không có bàn bạc kế hoạch trước.
Như vậy, so với các hình thức đồng phạm thì hình thức đồng phạm không có
thông mưu trước ít nguy hiểm hơn.
18
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
Tr.265.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
22
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Đồng phạm có thông mƣu trƣớc
“Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó những người
đồng phạm đã có sự thỏa thuận bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực hiện”.19
Ví dụ: H rủ K cùng mình đột nhập vào nhà ông G để trộm cắp tài sản. K đồng ý
cả hai thường xuyên tụ tập lại nhà K để bàn bạc, lên kế hoạch. H giao cho K tìm cách
giết chết con chó giữ nhà của ông G, còn H sẽ theo dõi hoạt động thường xuyên của
các thành viên trong gia đình ông G. Đợi lúc gia đình ông G đi vắng hai người này đã
đột nhập vào nhà lấy trộm 10.000.000, một xe máy và một số vật dụng khác có giá trị.
Ở hình thức đồng phạm này những người đồng phạm ít nhiều đều có sự phân
công, bàn bạc, tính toán và lên kế hoạch. Có sự phân công vai trò nên quan hệ phạm
tội chặt chẽ. Loại đồng phạm này có tính nguy hiểm rất cao cho xã hội.
1.3.2. Phân loại theo dấu hiệu khách quan
Dựa vào những dấu hiệu khách quan ta có thể phân biệt đồng phạm thành hai loại
là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
Đồng phạm giản đơn
“Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người tham gia
vụ đồng phạm đều là người thực hành”.20
Đây là trường hợp những người tham gia đồng phạm đều thực hiện hành vi phạm
tội được mô tả trong cấu thành tội phạm. Nghĩa là, mỗi người bằng chính hành vi của
mình đều trực tiếp thực hiện hoặc góp phần thực hiện hành vi phạm tội. Ở hình thức
đồng phạm này sự gắn bó của những người phạm tội không đáng kể và hạn chế ở chỗ
mỗi người phạm tội chỉ biết về hoạt động phạm tội của một hoặc một số người khác tại
thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm hay trong quá trình thực hiện tội phạm. Ví dụ:
khoảng 20h Nguyễn Văn Bình dùng kềm sắt và một con dao nhỏ trèo lên cột điện tại
xã Long Điền nơi có dây truyền thanh đi qua. Nguyễn Văn Bình rũ Trần Văn Trôn làm
cùng, Trôn đồng ý. Tại đây Bình và Trôn cùng phân công nhau trèo lên 6 cây cột điện
có hai đường dây bắt qua, dùng kềm cắt được 5 khoảng dây mỗi khoảng dài 50m, tổng
cộng được 250m dây. Tiếp đó chúng dùng dao tách vỏ ra để lấy dây đồng bên trong.
Về mặt chủ quan, đồng phạm giản đơn thường không có sự phân công vai trò cụ
thể (như người tổ chức, xúi giục, thực hành, giúp sức), mà về cơ bản họ có cùng một
19
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2009,
Tr. 141.
20
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
2009, Tr.142
GVHD: Nguyễn Thu Hương
23
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
vai trò là những người cùng hành động. Trong ví dụ trên cả Bình và Trôn đều thỏa các
tình tiết được mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP)21 của tội “trộm cắp tài sản” với
vai trò là người thực hành. Chính vì vậy, những người đồng phạm trong hình thức
đồng phạm giản đơn được coi là những người đồng thực hành.
Đồng phạm phức tạp
“Đồng phạm phức tạp là hình thức của đồng phạm trong đó có một hoặc một số
người tham gia với vai trò là người thực hành, còn những người đồng phạm khác giữ
vai trò là người tổ chức, xúi giục, giúp sức22.”
Trong đồng phạm giữa những người đồng phạm có sự bàn bạc trước với nhau và
kế hoạch phạm tội và giữa họ có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng điều này tạo nên
mối quan hệ chặt chẽ giữa họ. Ở hình thức đồng phạm này không chỉ có người thực
hành mới thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà còn có cả hành vi
của người tổ chức, xúi giục hay giúp sức.
Ví dụ: A,B,C mang theo dao đi vào công viên thì phát hiện E và F đang ngồi tâm
sự với nhau. Bên cạnh hai người có một chiếc xe máy. A phân công cho B đứng ngoài
canh gác và cảnh giác. C dùng dao không chế E còn A sẽ xử lí F. Kế hoạch được thực
hiện C dùng dao gí màng sườn E bắt E phải giao đồng hồ, tiền và chìa khóa xe cho
mình. E không đưa cố gắng kháng cự C đã dùng dao đâm vào tay và chân E khiến E
phải đưa ra. C đưa chìa khóa cho B sau đó chúng trói E và F lại cả ba liền nhảy lên
xe máy bỏ chạy.
Tội phạm được thực hiện là sự phối hợp cùng thực hiện của những người đồng
phạm. Trong vụ đồng phạm trên không chỉ có người thực hành (A và C) mà còn có cả
người giúp sức (B) cùng thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội
Cướp tài sản quy định tại điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999.
1.3.3. Phạm tội có tổ chức trong đồng phạm
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của
nó đã được các nhà làm luật quy định tại Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự: “Phạm tội
có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm”.
21
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể
được quy định trong luật hình sự.
22
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
2005, Tr. 266
GVHD: Nguyễn Thu Hương
24
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trong đồng phạm có tổ chức giữa những người đồng phạm vừa có sự liên kết
chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hóa vai trò phân công nhiệm vụ tương đối rõ rệt, cụ
thể. Thông thường chúng ta có thể xác định đồng phạm có tổ chức dựa vào các đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, nhóm tội phạm được tổ chức và thực hiện với phương hướng hoạt
động lâu bền, thể hiện ở sự ổn định, thường xuyên. Trong nhóm tội phạm có tổ chức
sự tham gia của các thành viên mới là rất hạn chế vì các thành viên cũ sợ bị lộ, tan vỡ.
Nhóm tội phạm luôn tồn tại kỹ luật chặt chẽ, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều
khiển chung, thống nhất của người cầm đầu.
Thứ hai, Có sự phân công thực hiện tội phạm trong nhóm, người thì được phân
công thực hiện việc chuẩn bị như: theo dõi đối tượng, đề xuất phương án hành động,
che dấu tội phạm. Người thì tổ chức bảo vệ, lưu trữ, giữ gìn, vận chuyển, tiêu thụ tài
sản chiếm đọat được. Mỗi tên đều hiểu rõ trách nhiệm của mình, do đó chúng hành
động có tổ chức và chặt chẽ.
Với những đặc điểm trên đồng phạm có tổ chức có nhiều khả năng cho phép
phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn do đó
trong một số trường hợp là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (Điều 136, 143,
238,…Bộ luật hình sự.
Lưu ý:
Phạm tội có tổ chức khác với tổ chức phạm tội. Luật hình sự xã hội chủ nghĩa
không truy cứu TNHS đối với một tổ chức (pháp nhân)23. Vì vậy, không có khái niệm
tổ chức tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử vẫn
có thể có một tập thể, một tổ chức phạm tội. Tức là có sự thống nhất từ người đứng
đầu đến các nhân viên thực hiện một tội phạm, nhưng khi truy cứu TNHS thì chỉ truy
cứu từng cá nhân trong tổ chức đó. Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, có một đơn
vị là phòng Phòng chống buôn lậu thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức nhận hối lộ. Việc nhận hối lộ ở đây không phải do từng cá nhân thực hiện mà là
do phòng thực hiện, người đưa hối lộ cũng không đưa cho một cá nhân nào mà đưa
chung cho cả Phòng, Phòng cử người nhận tiền hối lộ và chia cho tất cả những người
khác theo phương thức người có chức vụ nhiều hơn nhân viên, người có thời gian
công tác ở Phòng lâu hơn được chia nhiều hơn. Tuy phòng chống buôn lậu không phải
23
Tòa án nhân dân tối cao: Đinh Văn Quế, Một số vấn đề về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình
sự, http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_ page_id=1754190&p cateid=1751909
&article _details=1&item_ id=10931636, [Truy cập ngày 25/8/2014]
GVHD: Nguyễn Thu Hương
25
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
là tổ chức chuyên phạm tội, nhưng nếu xét riêng về hành vi nhận hối lộ thì họ là tổ
chức nhận hối lộ.
Tổ chức phạm tội được Bộ luật hình sự quy định thành một tội danh độc lập.
Chẳng hạn, Điều 148 – Tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, Điều 206 – Tội tổ chức đua xe
trái phép, Điều 249 – Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc,…Trường hợp này người
phạm tội là người đứng ra tổ chức cho người khác thực hiện tội phạm được quy định
thành tội danh riêng chứ không phải là đồng phạm với những người tham gia. Ví dụ:
Hồ Văn Tạng đã dùng diện tích quán cà phê nhà mình là nơi chứa chấp đánh bạc, bao
gồm: đánh cờ tướng, Đomino, các loại bài Tây để ăn tiền,…Mỗi bàn người thắng sẽ
chung cho ông Tạng 100.000 làm tiền sâu bài. Trong trường hợp này, rõ ràng Hồ Văn
Tạng là người đã tổ chức cho người khác phạm tội. Hành vi này đã được luật hình sự
hiện hành quy định tại Điều 249 Tội tổ chức đánh bạc, còn những người tham gia đánh
bạc thì vi phạm điều 248 Tội đánh bạc.
Do hành vi tổ chức cho người khác phạm một tội được Bộ luật hình sự quy định
thành một tội độc lập nên hành vi đó không bị xem là đồng phạm hoặc cao hơn là
trường hợp phạm tội có tổ chức. Nếu Bộ luật hình sự không quy định hành vi tổ chức
cho người khác phạm tội là tội phạm độc lập thì người thực hiện hành vi đó được xem
là người tổ chức trong đồng phạm.
1.4. Lịch sử hình thành chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng
phạm
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý hình thành khi có sự xuất
hiện của tội phạm và sự ra đời của luật hình sự buộc một người khi thực hiện hành vi
phạm tội phải chịu. Còn đồng phạm là một chế định cơ bản của pháp luật hình sự đã
trải qua nhiều thay đổi tồn tại và phát triển cùng lịch sử lập pháp. Chính vì vậy theo
quan điểm của người viết thì lịch sử hình thành TNHS của những người đồng phạm
cũng tồn tại song song và gần giống như lịch sử chế định đồng phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Bao gồm các thời kì :
1.4.1. Trong giai đoạn phong kiến
Trên lãnh thổ của Nhà nước Việt Nam trước đây, trong thời đại phong kiến đã có
những quy định sơ khai về chế định đồng phạm và TNHS của những người đồng phạm.
Khi bộ luật thành văn đầu tiên ra đời - Bộ Hình thư24 và trước đó pháp luật của các
triều đại phong kiến trước đã có nhắc đến việc chịu TNHS đối với tập thể đặc biệt đối
với các tội thuộc Thập ác tội (Ví dụ: “mưu phản”) phải giết hết thân tộc, một người
24
Bộ Hình Thư, Thời Lý - Trần, Thế kỷ thứ XI
GVHD: Nguyễn Thu Hương
26
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
làm mà cả dòng họ phải chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó dưới thời Lý – Trần, nhà vua
quy định 10 hộ họp lại thành một “bá” để kiểm soát nhau. Nếu một người trong báo
đó phạm tội thì cả báo phải chịu TNHS. Ở đây về mặt hình thức ta có thể thấy rằng
đây không phải là biểu hiện của đồng phạm theo pháp luật hình sự hiện đại nhưng đây
là biểu hiện của việc chịu trách nhiệm tập thể trong hình sự.
Đến thời Lê sơ sự ra đời của bộ luật Hồng Đức đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc
truy cứu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp có nhiều người cùng phạm một tội. Cụ
thể như sau:“Nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người
a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả người trong một nhà cùng phạm một tội, chỉ bắt
tội người tôn trưởng”.25 Quy định trên đồng phạm chỉ gồm 2 loại người chính là người
chủ mưu và người a tòng. Tuy nhiên trong điều luật cũng thể hiện quy tắc nhân đạo
trong việc xử tội cả gia đình là khi cả nhà phạm tội thì chỉ xử tội người làm con trưởng
mà không giết cả nhà nhằm mục đích cảnh cáo và duy trì hương hỏa. Việc ghi nhận
TNHS của những người cùng thực hiện một tội phạm cụ thể ở Điều 454:“Những kẻ
đồng mưu với nhau đi ăn cướp, nhưng khi đi thì không đi, người đi lấy được của về
chia nhau, mà kẻ đồng mưu ở nhà cũng lấy phần thì xử tội như là có đi ăn cướp (ăn
trộm cũng vậy) nếu không lấy được phần chia thì bị xử lưu đi châu gần. Trước kia vẫn
từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi dù không lấy phần cũng xử tội như đi ăn cướp.”
hay ở Điều 169 quy định về tội đồng mưu đánh người: “Đồng mưu đánh người bị
thương, thì kẻ nào đánh nhiều đòn nặng là thủ phạm, kẻ chủ mưu cũng phải cùng một
tội, còn người đồng phạm thì được giảm một bậc;….” Từ quy định này ta có thể thấy
rõ rằng những người ở những vai trò khác nhau sẽ phải chịu TNHS khác nhau đối với
tội phạm mà mình đã gây ra đồng thời Nhà làm luật đã cố ý phân biệt kẻ thủ phạm và
tòng phạm. Nói chung, các nhà làm luật thời này đã lẫn lộn giữa hai khái niệm đồng
phạm và tòng phạm. Tuy nhiên dù gọi thế nào thì trong vụ án hình sự này cũng có sự
tham gia của chính phạm, chủ mưu và người tòng phạm. Đây là những quy định đầu
tiên làm tiền đề cho việc ghi nhận chế định đồng phạm cũng như TNHS của những
người đồng phạm sau này.
1.4.2. Trong giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi Bộ luật
hình sự 1985 ra đời
Sau ngày thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945) nay là
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật liên quan đến đồng phạm cũng như TNHS cũa những người này. Sắc lệnh 233–SL
(17/11/1946) quy định: “Nhiều người phạm tội đưa hối lộ và nhận hối lộ có thể bị xử
25
Điều 35 Bộ Luật Hồng Đức
GVHD: Nguyễn Thu Hương
27
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
lý tịch thu nhiều nhất ¾ tài sản, những người đồng phạm cũng bị xử như trên”. Sắc
lệnh số 133-SL (20/01/1959) và pháp lệnh ngày 30/10/1967, Về việc trừng trị những
tội phạm phản cách mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều người trong
đó bao gồm tội chủ mưu, cầm đầu và tham gia tổ chức phản cách mạng.
Ở giai đoạn này chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đồng phạm.
Tuy nhiên đã đưa ra một nguyên tắc chung để xử lí TNHS cho những người cùng tham
gia thực hiện một tội phạm đó là: “Nghiêm trị bọn chủ mưu, cầm đầu, bọn ngoan cố;
Khoan hồng với những người bị lừa phỉnh, bị ép buộc, lầm đường”. Thành tựu lập
pháp ở thời điểm này chỉ mới dừng lại ở ghi nhận các trường hợp phạm tội có đồng
phạm như: “Phạm tội có tổ chức”, “phạm tội có móc ngoặc” hay quy định về những
loại người cụ thể trong vụ phạm tội có nhiều người cùng liên kết, thực hiện như bọn
chủ mưu, bọn cầm đầu, hay người xúi giục. Có thời điểm nhiều người quan niệm rằng
việc nhiều người cố ý cùng phạm một tội được gọi là “cộng phạm” và đến năm 1963
khái niệm này lại được khẳng định lại trong báo cáo tổng kết của ngành tòa án như sau:
“Có thể coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành động.
Nghĩa là họ là một trong số những người hoặc là tổ chức, hoặc là xúi giục, hoặc giúp
sức hoặc tham gia thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội”.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của thời kỳ này chúng ta chưa tìm thấy sự
phân hóa TNHS đối với những người cùng thực hiện tội phạm nhưng qua đó ta đã có
được tư duy để phân biệt giữa trường hợp tội phạm có sự tham gia của nhiều người và
đồng phạm. Đặc biệt, một điểm mới trong pháp luật hình sự thời kì này là việc đề cập
đến hình thức cộng phạm đặc biệt – Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được quy định và
có sự phân biệt giữa các hình thức phạm tội có tổ chức với các hình thức cộng phạm
đơn giản.
1.4.3. Giai đoạn từ khi ban hành bộ luật hình sự 1985 đến nay
Pháp luật hình sự giai đoạn này đã có những bước tiến nhảy vọt với sự ra đời của
Bộ luật hình sự 1985. Tại đây lần đầu tiên khái niệm đồng phạm đã đã được định
nghĩa chính thức trong luật khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự nêu rõ: “Hai hoặc nhiều
người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”.
Xuất phát từ thực tế đa dạng của trường hợp phạm tội do nhiều người thực hiện,
đồng thời kế thừa những tinh hoa của lịch sử lập pháp Việt Nam. Bộ luật hình sự 1999
trên cơ sở định nghĩa của Bộ luật Hình sự năm 1985 đã nêu định nghĩa một cách khái
quát và xác định rõ phạm vi chủ thể đồng phạm và nguyên tắc xử lý TNHS của những
người đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 Bộ luật này quy định: “Đồng phạm là trường hợp
GVHD: Nguyễn Thu Hương
28
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Bên cạnh đó tại Bộ luật hình
sự 1999 đã quy định về việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại
Điều 53 như sau:
“Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến
tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuốc người
đồng phạm nào, chỉ áp dụng đối với người đó”
Tuy nhiên, Điều 20 và Điều 53 cũng chỉ mới phần nào quy định về khái niệm
cũng như việc xem xét hình phạt cho những người đồng phạm. Còn vấn đề xác định
TNHS cho những người vẫn chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật 1999.
Đến lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 Bộ luật hình sự 1999 mặc dù có những thay
đổi cơ bản về quy định đối với một số quy định cụ thể ở cả phần chung lẫn phần riêng
nhưng khái niệm về đồng phạm và những người đồng phạm vẫn đồng vẫn được giữ
nguyên và áp dụng như bộ luật 1999.
Trong Bộ luật hình sự 1985 cũng như Bộ luật hình sự hiện hành đều quy định
một cách khái quát khái niệm đồng phạm và chỉ rõ ra những loại người bị xem là đồng
phạm. Đồng thời, luật cũng nêu cụ thể rõ vai trò cũng từng loại người trong đồng
phạm. Tuy nhiên, vấn đề TNHS cho từng người trong đồng phạm vẫn chưa được quy
định ở bất kì một điều luật cụ thể nào. Tất cả đều chỉ nằm ở dạng lý luận và thực tiễn
áp dụng pháp luật của các cơ quan tố tụng.
Như vậy, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng đồng
phạm cũng như TNHS của những người đồng phạm đã được hình thành và phát triển
cùng với lịch sử phát triển của Luật hình sự Việt Nam.
1.5. Ý nghĩa chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm
Chế định TNHS của những người đồng phạm là một chế định pháp lý đảm bảo
tính công bằng của xã hội trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm
tội. Do vậy việc xây dựng và áp dụng đúng những quy định về về xác định TNHS cho
những người đồng phạm sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh phòng chống, răn
đe các loại tội phạm, góp phần giữ gìn trật tự xã hội. Cụ thể với những ý nghĩa sau:
Thứ nhất, Việc xác định TNHS đúng cho những người đồng phạm sẽ góp phần
đạt được mục đích và nâng cao hiệu quả xác định TNHS và hình phạt cho từng người
trong đồng phạm. Khi xác định TNHS cho những người đồng phạm, Tòa án sẽ tuyên
một bản án chung cho họ, nhưng trong đó mỗi người đồng phạm sẽ được tuyên ở một
GVHD: Nguyễn Thu Hương
29
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
mức án khác nhau phụ thuộc vào tính chất, mức độ tham gia của họ trong một vụ án
đồng phạm mà xác định TNHS riêng lẻ cho từng bị cáo một. Chính về thế chế định
TNHS của những người đồng phạm sẽ giúp cho việc xác định TNHS cho từng bị cáo
trong vụ đồng phạm được chính xác, rõ ràng, đúng người, đúng tội.
Thứ hai, Việc xác định đúng TNHS của từng người trong một vụ đồng phạm góp
phần cũng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để quyết định hình phạt đúng cho từng bị
cáo trong đồng phạm trước tiên Tòa án phải xác định đúng TNHS cho từng người
trong đồng phạm. Nhưng xác định đúng TNHS cho từng người thì Tòa án phải nhận
thức đúng và tuân thủ theo các quy định của pháp luật về việc xác định TNHS. Mặt
khác, TNHS của từng người trong đồng phạm phải đúng thì hình phạt dành cho họ mới
chính xác và bản án mới thuyết phục, người bị kết án mới tự giác chấp nhận hình phạt
từ hành vi phạm tội do mình gây ra.
Thứ ba, Việc xác định đúng TNHS sẽ giúp cho việc thực hiện các quy trình tố
tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng được chính xác, minh bạch, rõ ràng. Các cơ
quan thi hành án cũng từ đó có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình, góp phần tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực tế có nhiều trường hợp
việc xác định TNHS sai cho các bị cáo dẫn đến bản án không đúng là cho việc thi hành
cũng như áp dụng các bản án bị trì trệ, gây oan sai trong quá trình xét xử cũng như thi
hành bản án.
Thứ tư, TNHS cho những người đồng phạm được xác định đúng còn là sự đảm
bảo cho nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự được thực thi nói riêng và công
bằng xã hội nói chung. Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự đối với trường hợp
đồng phạm là người nào tham gia tội phạm với vai trò, mức độ tham gia nhiều, gây
hậu quả nghiêm trọng thì chịu TNHS nặng hơn những người tham gia với vai trò nhỏ,
gây hậu quả ít nghiêm trọng. Bên cạnh đó, những người tham gia tội phạm nhiều hơn,
TNHS nặng hơn thì phải chịu hình phạt nặng hơn. Thể hiện rõ tính công bằng trong
việc áp dụng cũng như thi hành pháp luật hình sự.
Tóm lại, Thông qua việc phân tích khái niệm, đặc điểm, hình thức cũng như ý
nghĩa của việc xác định TNHS cho những người đồng phạm đã khẳng định chế định
TNHS của những người đồng phạm là một chế định quan trọng trong luật hình sự Việt
Nam. Bên cạnh đó luận văn cũng đã khái quát lịch sử hình thành, phát triển của chế
định này trong luật hình sự Việt Nam. Đây là những vấn đề lý luận chung và phương
pháp luận làm tiền đề để tìm hiểu về những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành xung quanh vấn đề xác định TNHS cho những người đồng phạm ở chương
sau.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
30
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
Xuất phát từ các nguyên tắc chung của luật hình sự là nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo,...kết hợp với các nguyên tắc
riêng đặc thù trong việc xác định TNHS cho những người đồng phạm như: nguyên tắc
chịu trách nhiệm chung về toàn bộ vụ án, nguyên tắc cá thể hóa TNHS và nguyên tắc
phân hóa TNHS giữa những người đồng phạm. Luật hình sự Việt Nam đã tạo ra một
hệ thống các căn cứ để xác định TNHS cho từng loại người trong đồng phạm.
2.1. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm
2.1.1. Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ vụ án
Trong đồng phạm, tội phạm được thực hiện là do sự nổ lực, hợp tác chung của
những người cùng tham gia. Hành vi của mỗi người là một bộ phận cần thiết trong
hoạt động chung đó. Hơn nữa bản thân tội phạm cũng là một thể thống nhất không thể
chia cắt để buộc mỗi người phải chịu trách nhiệm riêng về phần tội phạm do hành vi
của mình thực hiện. Theo nguyên tắc này luật Hình sự Việt Nam đã xác định: “Tất cả
những người đồng phạm phải chịu TNHS, bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh, theo
cùng một điều luật trong cùng một phạm vi chế tài của điều luật đó.”26
Tội phạm do đồng phạm thực hiện dựa trên sự liên kết giữa nhiều người cùng với
sự quyết tâm của họ là mong muốn cho hậu quả của tội phạm đó xảy ra. Vì lẽ đó, ý chí
và hành vi của mỗi người trong đồng phạm bao giờ cũng trở thành một bộ phận trong
tổng thể thống nhất của một tội phạm. Sự đóng góp của mỗi người vào hành vi đồng
phạm dù ít hay nhiều cũng ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả của tội
phạm xảy ra là sự kết hợp không thể phân chia của các hành vi của từng cá nhân tham
gia phạm tội. Nếu tội phạm xảy ra không có mối quan hệ nhân quả với hành vi của
một người nào đó tham gia vào thực hiện hành vi thì không thể xem người đó là đồng
phạm. Cho nên, chúng ta không thể tách hậu quả của từng cá nhân gắn với hậu quả của
hành vi đó để truy cứu TNHS riêng với từng cá nhân. Từ những lý luận trên pháp luật
hình sự Việt Nam đã xác định nguyên tắc các đồng phạm phải chịu chung TNHS về
tội phạm mà họ cùng thực hiện.
26
Nguyễn Trung Thành, Cơ sở của những nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự trong phạm tội có Tổ
chức, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 06/2002, Tr.43.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
31
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm còn được thể hiện ở
khía cạnh: Thời hiệu truy cứu TNHS của những người đồng phạm được áp dụng chung
cho tất cả. Khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Mọi hành vi phạm tội phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chống, công minh theo đúng pháp luật”. Tuy
nhiên không phải trong mọi trường hợp tội phạm khi được phát hiện đều phải bị truy
cứu TNHS. Đối với trường hợp này nếu người phạm tội đã tự mình hối cải, làm ăn
lương thiện, không phạm tội mới, không trốn tránh sự trừng trị của pháp luật thì việc
truy cứu TNHS là không cần thiết phù hợp với quy định về thời hiệu của pháp luật
hình sự Việt Nam.
2.1.2. Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trong một vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ vụ án mà họ cùng thực hiện. Nhưng do TNHS là trách nhiệm của cá
nhân nên việc xác định TNHS cho mỗi người vẫn dựa trên cơ sở hành vi của mỗi
người. Bản thân mỗi người đồng phạm đều phải có đầy đủ năng lực nhận thức và năng
lực điều khiển hành vi của mình khi thực hiện đồng phạm. Do đó khoa học luật hình
sự Việt Nam đã đưa ra nguyên tắc thứ hai trong việc xác định TNHS của những người
đồng phạm:“Mỗi người đồng phạm phải chịu TNHS độc lập về việc cùng thực hiện vụ
đồng phạm”. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, Những người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá
của người khác. Hành vi vượt quá của một người được hiểu là hành vi mà người đó
thực hiện vượt ra ngoài ý định của những người đồng phạm khác. Hành vi đó có thể
cấu thành một tội phạm khác độc lập được quy định ở điều luật khác hoặc cấu thành
tội phạm tăng nặng27 (khung hình phạt tăng nặng) quy định tại điều luật đó.
Thứ hai, Những tình tiết liên quan đến tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ liên quan đến
những người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng riêng cho người đó. Tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ áp dụng riêng cho những người đồng phạm thường là những tình tiết liên
quan đến nhân thân của người phạm tội.
Thứ ba, Những tình tiết loại trừ TNHS, miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đối với
người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó. Nghĩa là, những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, miễn TNHS hoặc miễn hình phạt theo tinh thần quy định tại Điều 25,
điều 45, điều 46 và điều 47 Bộ luật hình sự 1999 thuộc về người đồng phạm nào thì
chỉ áp dụng đối với người đồng phạm đó, việc tự ý nữa chừng chấm dứt hành vi phạm
27
Là cấu thành tội phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng các
yếu tố khác khiến cho tội phạm tăng tính nguy hiểm cho xã hội.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
32
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
tội của người đồng phạm này không làm loại trừ TNHS của những người đồng phạm
khác.
Thứ tư, Hành vi xúi giục của người tổ chức, người xúi giục dù chưa dẫn đến việc
thực hiện tội phạm của người thực hành nhưng vẫn phải chịu TNHS.
2.1.3. Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trong một vụ đồng phạm tuy có nhiều người cùng tham gia vào một tội phạm
nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau. Cho nên khi truy cứu
TNHS cần xem xét sự tham gia của họ. Tính chất tham gia của những người đồng
phạm thể hiện vai trò của họ trong đồng phạm và việc thực hiện tội phạm. Mức độ
tham gia càng nhiều thì hậu quả nguy hại cho xã hội càng cao. Do đó TNHS phải
tương xứng với mức độ tham gia của mỗi người. Nguyên tắc này được thể hiện ở
khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự 1999: “Nghiêm trị người chỉ huy, cầm đầu, chủ mưu,
ngoan cố chống đối, lưu manh côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạt xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất
chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng”. Và thể hiện một cách tập trung tại
Điều 53 khi quyết định hình phạt trong đồng phạm: “Khi quyết định hình phạt đối với
những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến…tính chất và mức độ tham gia của
những người đồng phạm”.
Những người đồng phạm không phải bao giờ cũng thực hiện đúng với sự phân
công của những người khác mà có nhiều trường hợp họ lại thực hiện theo ý chí chủ
quan của riêng mình. Có trường hợp họ thực hiện nhiều hơn những gì đã bàn bạc, cũng
có trường hợp họ không thực hiện, thực hiện ít hơn những gì mà mình được phân công.
Chẳng hạn, việc tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội của một hoặc số người trog vụ
án có đồng phạm. Chính vì vậy, theo nguyên tắc cá thể hóa TNHS thì mỗi người đồng
phạm sẽ phải chịu TNHS tương ứng với hành vi phạm tội của mình.
Ngoài ra, nguyên tắc cá thể hóa TNHS cũng được thể hiện trong đường lối xét xử
các vụ đồng phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Bởi vì trong
các vụ án này bên cạnh các tên cầm đầu, chủ mưu, những tên hoạt động đắc lực có ý
phạm tội sâu sắc còn đa số còn lại là những người bị xúi giục, lôi kéo, ép buộc. Chính
sách nghiêm trị, kết hợp với khoan hồng cũng được thể hiện rõ nét trong các vụ đồng
phạm khác nếu trong các vụ đồng phạm đó có sự phân biệt rõ rệt hai loại người: Một
bên là những tên cầm đầu và một bên là những tên nhất thời bị dụ dỗ phạm pháp.
Như vậy, nguyên tắc phân hóa TNHS thể hiện rõ nguyên tắc xử lý của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xét xử đối với tội phạm nói chung và đồng phạm nói riêng.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
33
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Đây sẽ là cơ sở đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật giúp cơ quan Tòa
án đưa ra hình phạt thích hợp với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế.
2.2. Các căn cứ xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm
2.2.1. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý mà những người thực hiện tội phạm phải
chịu trách nhiệm trước Nhà nước, thể hiện ở bản kết tội cũng như hình phạt mà Tòa án
quyết định đối với người bị kết án và dấu hiệu án tích của người đó. Cơ sở của TNHS
được quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự:“Chỉ người nào đã phạm một tội do bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu TNHS”. Đây là căn cứ chung mà dựa vào đó Nhà nước
thông qua các cơ quan đại diện có thể truy cứu, áp dụng TNHS đối với một người nào
đó.
Từ quy định trên ta có thể thấy rằng, TNHS chỉ có thể là trách nhiệm của cá nhân
và chỉ được đặt ra với một con người cụ thể và người đó đã thực hiện hành vi vi phạm
những quy định tại Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất quy định về tội
phạm và hình phạt. Ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản quy phạm pháp luật
nào khác quy định về vấn đề này. Chính vì thế, một người chỉ phải chịu TNHS khi
hành vi của mình thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong luật hình sự. Quy định này
thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa của luật hình sự và là một trong
những điều kiện để áp dụng các nguyên tắc khác của luật hình sự.
Cấu thành tội phạm với tính chất là một phạm trù pháp lý, làm khuôn mẫu pháp
lý chung của từng tội phạm, được quy định trong luật hình sự có vai trò rất quan trọng
trong việc xác định TNHS.
Thứ nhất, cấu thành tội phạm, trong sự kết hợp các dấu hiệu của nó có tính chất
đặc trưng điển hình cho một loại tội phạm cụ thể. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định tội trong từng trường hợp cụ thể. Cho phép phân biệt hành vi là tội
phạm với hành vi không phải là tội phạm.Thứ hai, cấu thành tội phạm giữ vai trò là
căn cứ pháp lý để xác định TNHS. Bởi vì, chỉ khi hành vi đã được xác định thỏa mãn,
các dấu hiệu được quy định trong bộ luật hình sự mới là cơ sở để áp dụng TNHS đối
với người thực hiện hành vi phạm tội.
Bên cạnh, cấu thành tội phạm cơ sở của TNHS còn có yếu tố các giai đoạn thực
hiện tội phạm vì theo pháp luật Hình sự Việt Nam thì: Người chuẩn bị phạm tội “rất
nghiêm trọng” hoặc “tội đặc biệt nghiêm trọng” (Đoạn 2 Điều 17 Bộ luật hình sự
1999) hay “phạm tội chưa đạt” mặc dù trong hành vi được thực hiện rõ ràng là chưa có
đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng vẫn phải chịu TNHS. Điều luật ở
GVHD: Nguyễn Thu Hương
34
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
phần chung Bộ luật hình sự mô tả các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể,
tạo nên cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm tại Điều 20.
Từ những tìm hiểu ở phần lý luận chung ta biết rằng TNHS của những người
đồng phạm là một dạng đặc biệt, do đó cơ sở pháp lý về TNHS của những người đồng
phạm mặc dù không được quy định cụ thể trong điều luật riêng nhưng vẫn có thể dựa
vào quy định về TNHS chung của tội phạm đơn lẻ để suy luận ra cụ thể được pháp luật
quy định tại Điều 2 Cơ sở của TNHS: “Chỉ người nào đã phạm một tội được luật hình
sự quy định mới phải chịu TNHS” kết hợp với Điều 20 khái niệm đồng phạm và Điều
53: “Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến
tính chất của đồng phạm, mức độ tham gia phạm tội của những người đồng phạm. Các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ
áp dụng đối với người đó”.
Cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm cần được hiểu là tổng hợp các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại các điều luật cụ thể phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự không chỉ bao gồm các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản mà
còn có các cấu thành tội phạm khác như: cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội
phạm giảm nhẹ cùng những dấu hiệu của chế định đồng phạm tại Điều 20. Hành vi
đồng phạm rất đa dạng, có thể là trực tiếp thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người
khác thực hiện tội phạm hay “tổ chức, giúp sức”28 người khác thực hiện tội phạm.
Những hành vi này theo quy định của Bộ luật hình sự có thể phải chịu TNHS. Có thể ở
đây được hiểu là hành vi đó nhất thiết phải thỏa các dấu hiệu được quy định trong cấu
thành tội phạm. Chúng ta cũng không loại trừ được hành vi của một số người thỏa mãn
các quy định của cấu thành tội phạm nhưng họ vẫn không phải chịu TNHS bởi vì họ
còn có một số đặc điểm nào đó thỏa quy định của pháp luật về loại trừ TNHS.
Tóm lại, Trường hợp phạm tội do đồng phạm bao giờ cũng có tính nguy hiểm cao
cho xã hội hơn tội phạm do một người thực hiện. Việc xác định TNHS trong đồng
phạm như thế nào để bảo đảm các nguyên tắc chung của luật hình sự và tương ứng với
tính nguy hiểm cho xã hội mà tội phạm do đồng phạm gây ra là việc làm hết sức cần
thiết trong xử lý hình sự.
2.2.2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ để xác
định TNHS cho những người phạm tội, phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
28
Điều 20 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định
GVHD: Nguyễn Thu Hương
35
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
trọng. Hành vi của những người phạm tội tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm, không phải chịu
TNHS và chịu hình phạt. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cùa hành vi tội
phạm cũng là căn cứ để quy định TNHS, loại hình phạt, khung hình phạt. Do đó,
TNHS của những người đồng phạm muốn xác định đúng được thì cần phải xem xét cụ
thể tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vụ án đồng phạm và của từng người
đồng phạm. Thông thường để cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi tội phạm các cơ quan tố tụng cần phải xem xét những mặt sau:
Thứ nhất, Khách thể của vi phạm pháp luật bị xâm phạm
Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành quy định khách thể được luật hình
sự bảo vệ bao gồm: “….độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, tự do, nhân phẩm, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.” Khách thể của
những vi phạm pháp luật hình sự cũng chính là khách thể được pháp luật hình sự bảo
vệ nhưng lại bị tội phạm bằng những hành vi vi phạm pháp luật của mình xâm phạm.
Chính vì vậy, trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật thì
việc xác định được khách thể của hành vi vi phạm đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi
lẽ, khi xác định được khách thể nào bị xâm hại, mức độ xâm hại nhiều hay ít thì TNHS
và mức độ nguy hiểm cũng được xác định với hành vi xâm hại tương ứng đó. Ví dụ:
có hai nhóm người đồng phạm cùng trộm cắp tài sản. Nhưng nhóm do A cầm đầu trộm
được 5.000.000 đồng, còn nhóm do B cầm đầu lại trộm được 500.000.000 đồng thì rõ
ràng khách thể từ hành vi của nhóm B bị xâm phạm nhiều hơn nhóm A. Đồng nghĩa
với việc TNHS cho nhóm B cũng nặng hơn rất nhiều so với nhóm A.
Khách thể của hành vi vi phạm pháp luật hình sự được xác định qua đối tượng
mà tội phạm đó muốn tác động tới. Tuy nhiên không phải đối tượng tác động giống
nhau thì khách thể là một, điều này còn tùy thuộc vào việc xác định đối tượng ấy nằm
trong quan hệ nào và mục đích của chủ thể khi tác động tới đối tượng. Việc xác định
khách thể của tội phạm nếu không căn cứ vào hai cơ sở trên thì sẽ dẫn đến hành vi quy
kết về mặt khách quan, loại bỏ những yếu tố còn lại của quy phạm pháp luật. Từ đó
dẫn đến việc xác định mức độ nguy hiểm cũng như TNHS cho tội phạm nói chung và
cho những người đồng phạm nói riêng bị sai lệch, không chính xác.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
36
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Thứ hai, lỗi, mục đích, động cơ của những người đồng phạm; điều kiện hoàn
cảnh, công cụ và phương tiện phạm tội 29
Không thể truy cứu TNHS bất kì tội phạm nào dưới hình thức đồng phạm được
nếu lỗi do họ gây ra không phải là lỗi cố ý. Từ đó lỗi được xem là thước đo, thang
đánh giá cho hành vi cũng như mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội. Trong hoạt
động xác định mức độ nguy hiểm của tội pham để truy cứu TNHS thì việc xác định lỗi
là một vấn đề vô cùng phức tạp và then chốt trong việc xác định một vụ án xem có
đồng phạm hay không, là đồng phạm thông thường hay phạm tội có tổ chức. Dấu hiệu
lỗi không cần xác định trực tiếp mà chỉ cần xác định người thực hiện hành vi có điều
kiện nhận thức được hành vi và kiểm soát được hành vi đó ở thời điểm thực hiện hành
vi, vì thực tế khi con người đã đủ điều kiện nhận thức mà vẫn thể hiện hành vi trái
pháp luật thì vẫn được xem là có lỗi. Có thể nói đây là một yếu tố quan trọng trong
việc xác định TNHS cho tội phạm nói chung và tội phạm do đồng phạm nói riêng thực
hiện.
Động cơ vi phạm pháp luật là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật. Trên thực tế, có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật không nhất
thiết phải có động cơ. Theo nguyên tắc cá thể hóa TNHS thì tính chất , mức độ tham
gia của những người đồng phạm được thể hiện ở việc xác định vai trò của họ trong vụ
đồng phạm. Họ tham gia với vai trò, xúi giục, tổ chức hay giúp sức. Thông thường
trong các vụ đồng phạm vai trò của người tổ chức là nguy hiểm nhất vai trò của người
giúp sức là ít nguy hiểm nhất. Còn mức độ tham gia tội phạm của những người đồng
phạm được xác định chủ yếu bởi ảnh hưởng thực tế của người đó đối với những người
đồng phạm khác trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm cũng như đóng
góp thực tế của người đó trong việc gây ra tội phạm. Ngoài ra, không phải bao giờ
những người đồng phạm cũng thực hiện đúng với sự phân công của những người khác
mà họ lại thực hiện theo ý chí chủ quan của riêng mình. Có trường hợp người thực
hành tự ý không thực hiện tội phạm, cũng không ít trường hợp người thực hành thực
hiện hành vi vượt quá yêu cầu của những người đồng phạm khác đặt ra. Trong khoa
học luật hình sự gọi là hành vi thái quá30 của người thực hành trong vụ án đồng phạm.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực
hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người
29
Tòa án nhân dân tối cao, Sổ tay thẩm phán: “căn nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội”, http://www.toaan.gov.vn/ portal/page/portal/ebb/1787571?p_id=1787571&p_ lang=vn&m_action
=2&p_itemid=627, [Truy cập ngày 30/9/2014].
30
“Hành vi thái qua được hiểu là việc người thực hành hoặc người nào khác trong đồng phạm tự ý thực
hiện hành vi tội phạm (hoặc một hành vi nào đó)mà những người đồng phạm khác không ý thức được” –
Phạm Văn Beo, giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Chính trị quốc gia, Tr.271.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
37
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
thực hành phải chịu TNHS còn những người đồng phạm khác không phải chịu về sự
“thái quá” đó. Khi người thực hành thực hiện hành vi thái quá thì họ phải chịu TNHS
riêng biệt về hành vi đó của mình. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ TNHS
của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng
ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ
đó xác định TNHS của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ TNHS đối
với những người đồng phạm khác.
Trường hợp xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp
luật hình sự thì động cơ vi phạm lại là một trong những yếu tố quan trọng để xác định
TNHS cũng như hình phạt cho những người phạm tội. Tại Điểm đ Khoản 1 Điều 48
Bộ luật hình sự quy định các tình tiết tăng nặng TNHS quy định: “Phạm tội vì động cơ
đê hèn” là một trong các căn cứ xác định TNHS cho tội phạm. Nguyên nhân của việc
quy định động cơ đê hèn là vì khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội những
người phạm tội có thể có những nhận thức khác nhau về việc mình làm có người thực
hiện hành vi vì mục đích đê hèn nhưng cũng có người thực hiện hành vi đó vì mục
đích tốt đẹp theo ý chí của riêng họ. Vì vậy hậu quả do các kiểu động cơ này gây ra là
khác nhau. Nếu những người trong đồng phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội của
mình với động cơ “đê hèn”31 thì động cơ đó sẽ thúc đẩy chủ thể tiến hành thực hiện
hành vi một cách nhanh chóng hơn và hậu quả từ những hành vi này là vô cùng nguy
hiểm và nặng nề hơn. Ví dụ: A,B mượn tiền của C để đánh bạc, sau khi thua hết không
còn tiền để trả thì A bàn với B tìm cách giết C để giật nợ. Khi đến nhà C, thấy A đang
quét sân hai người này liền dùng cây đánh mạnh vào đầu C làm C chết ngay tại chỗ vì
vỡ sọ. Hành vi của A, B được xem là đê hèn bởi vì trái với luân thường, đạo lý và
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đây cũng là một trong các tình tiết tăng
nặng TNHS cho A, B trước tòa. Bên cạnh động cơ xấu cũng có những động cơ tốt
nhưng do không nhận thức được mức độ nguy hiểm của hành vi nên người thực hiện
phải chịu TNHS. Ví dụ: Trên đường đi chơi về Nam, Tuấn và Quốc nhìn thấy một
thanh niên lạ mặt đang tìm cách mở khóa vào nhà của ông Kha để trộm tài sản. Ba
người liền hô la bắt trộm sau đó Tuấn và Quốc chạy đuổi theo bắt được tên trộm,
nhưng tên trộm kháng cự dữ dội. Tuấn và Quốc liền kêu Nam dùng cây đánh chết tên
trộm đi. Nam đã dùng cây đánh vào đầu và người tên trộm kết quả tên trộm bị thương
nặng giám định thương tật 65% não bị chấn thương nặng. Hành vi của Nam, Tuấn và
Quốc mặc dù vi phạm pháp luật hình sự nhưng động cơ của họ là tốt đẹp chỉ nhằm
31
Động cơ đê hèn: Phạm tội vì động cơ đê hèn là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm với động
cơ xấu xa, thấp hè , đáng khinh bỉ, không kể gì đến danh dự, nhân phẩm, tư cách của một con người.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
38
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
mục đích bắt trộm đây cũng là một trong những tình tiết để xem xét giảm nhẹ TNHS
cho họ.
Từ những động cơ khác nhau của người phạm tội thể hiện hành vi của họ cũng
xuất phát từ những mục đích khác nhau. Mục đích vi phạm là kết quả trong ý thức mà
tội phạm đã đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
hình sự. Mục đích vi phạm sẽ thúc đầy hành vi tội phạm của những người đồng phạm.
Vì vậy với những mục đích khác nhau thì có những hành vi phạm tội khác nhau và
mức độ nguy hiểm giữa các hành vi này cũng khác nhau. Ví dụ: trong một vụ đồng
phạm mà mục đích của những người đồng phạm chỉ nhằm cướp giật tài sản thì rõ
ràng có tính nguy hiểm ít hơn rất nhiều so với hành vi giết người cướp tài sản.
Cùng với các yếu tố hành vi, động cơ, mục đích của người phạm tội thì các yếu
tố bên ngoài như: điều kiện, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện cũng là một trong những
nội dung của các yếu tố khách quan trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Ngoài các tác động từ phía bản thân người phạm tội thì sự trợ giúp hay hạn
chế sức tác động của hoàn cảnh có thể làm tăng lên hoặc giảm nhẹ mức độ nguy hiểm
của hành vi. Trước hết, hành vi trái pháp luật hình sự được thực hiện trong những hoàn
cảnh khác nhau thì mang lại mức độ và hậu quả nguy hiểm khác nhau. Chẳng hạn,
cùng là hành vi dùng thuốc nổ trái phép, nhưng nếu dùng để khai thác mỏ thì mức độ
nguy hiểm thấp hơn rất nhiều so với việc dùng thuốc nổ để nổ nhà dân. Nếu hành vi
trái pháp luật hình sự được thực hiện trong những điều kiện thuận lợi thì chủ thể vi
phạm có thể nhận thức được nó, chủ động tạo ra hay lợi dụng cơ hội để hành động thì
tội phạm do hành vi này gây ra rõ ràng nguy hiểm hơn và thường thì gây thiệt hại cao
hơn. Đặc biệc khi có hành vi che dấu tội phạm thì ở trường hợp này cũng thấy rõ hơn.
Ví dụ: một nhóm người thực hiện hành vi cướp ngân hàng trong điều kiện ngân hàng
không có lực lượng an ninh bảo vệ thì hành vi phạm tội của nhóm người này sẽ được
thực hiện nhanh chóng và mức độ thiệt hại của ngân hàng sẽ nặng nề hơn. Mặt khác,
khi hành vi phạm tội được thực hiện với những phương tiện, công cụ khác nhau thì
mức độ nguy hiểm cũng khác nhau. Ví dụ: hành vi giết người, nếu dùng súng thì sẽ
nguy hiểm hơn rất nhiều so với dùng dao, hay dùng tay.
Thứ ba, hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả của hành vi.
Về nguyên tắc, hành vi trái pháp luật là dấu hiệu bắt buộc của mọi vi phạm pháp
luật. Hành vi trái pháp luật được xác định dựa vào tính chất biến đổi của quan hệ xã
hội bị tác động. Hành vi trái pháp luật hình sự càng có kết cấu, cơ chế phức tạp thì khả
năng gây nguy hiểm cho xã hội của nó càng cao. Ví dụ: Một nhóm người lập kế hoạch
GVHD: Nguyễn Thu Hương
39
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
đánh người vì muốn trả thù thì có mức độ cố ý và tính chất nguy hiểm cao hơn rất
nhiều so với trường hợp gây gổ, xô xát trong bàn nhậu mà đánh nhau.
Hậu quả là một trong những căn cứ quan trọng để xác định tính nguy hiểm của
hành vi, vì hậu quả là trạng thái thực tế mà tội phạm đã tác động vào các quan hệ xã
hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Nếu hậu quả càng lớn thì mức độ trái pháp luật của
hành vi phạm tội ngày càng cao và ngược lại nếu hậu quả thấp thì mức độ tác động
cũng thấp. Thông thường khi xác định mức độ gây nguy hiểm cho xã hội do tội phạm
gây ra thường xét theo khía cạnh và xem xét trạng thái biến đổi của khách thể do hành
vi tội phạm xâm phạm. Mức độ gây thiệt hại của hành vi phạm tội càng cao thì TNHS
cho những người thực hiện tội phạm càng lớn và mức độ nguy hiểm cho xã hội càng
cao.
Giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm do những người đồng phạm
phạm gây ra cũng giống như tội phạm thông thường có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Dựa vào mối quan hệ nhân quả này mà chúng ta có thể xác định được hậu quả này là
do hành vi nào gây ra. Từ đó xác định tính chất, mức độ cũng như TNHS cho từng
người trong đồng phạm. Chẳng hạn, một người tham gia đồng phạm với vai trò là
người giúp sức thì hành vi của họ sẽ ít nguy hiểm hơn là người tổ chức hay là người
thực hành và TNHS dành cho họ cũng thấp hơn những người khác.
Thứ tƣ, tính chất của vụ án do đồng phạm thông thường hay phạm tội có tổ
chức gây ra
Khi xem xét các vụ án có đồng phạm tham gia thì chúng ta cần phải xem xét tính
chất của đồng phạm là đồng phạm thông thường hay là phạm tội có tổ chức, số lượng
người tham gia đồng phạm nhiều hay ít; xem xét, cân nhắc vị trí, vai trò của từng
người trong đồng phạm để xác định TNHS cho từng người. Trong trường hợp đồng
phạm do phạm tội có tổ chức gây ra thì cần xem xét thêm tính chất của tổ chức đó có
chặt chẽ hay không, số lượng người tham gia có đông đảo hay không, mức độ cấu kết
trong khi thực hiện tội phạm có cấu kết mật thiết với nhau không. Từ đó xem xét xác
định TNHS và hình phạt cho những người này.
2.2.3. Nhân thân người phạm tội trong đồng phạm
Như chúng ta đã tìm hiểu ở phần trên cơ sở pháp lý về TNHS của những người
đồng phạm chính là cấu thành tội phạm, kết hợp với nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
hình sự của những người đồng phạm ta có thể thấy rằng việc xác định trách nhiệm
hình sự cho tội phạm cũng phải dựa trên nhân thân của người đó. Nhân thân của người
phạm tội mặc dù không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng trong
GVHD: Nguyễn Thu Hương
40
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
quá trình đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cơ quan tiến hành tố tụng
cũng cần phải xem xét đến nhân thân của họ.32 Đối với trường hợp đồng phạm cũng
vậy vấn đề nhân thân của từng người trong đồng phạm cũng chính là một trong những
căn cứ quan trọng để xác định TNHS cho những người này.
Nhân thân của từng người trong đồng phạm là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề
TNHS. Những đặc điểm riêng đó có thể là: Người phạm tội là phụ nữ có thai, người
phạm tội là người già, người phạm tội là người có bệnh làm giảm khả năng nhận thức
và khả năng điều khiển hành vi của mình, người phạm tội là người có thành tích xuất
sắc trong chiến đấu, học tập, thi đua lao động, sản xuất công tác, nghề nghiệp, thái độ
làm việc, thái độ trong quan hệ ứng xử với mọi người, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn
cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án tiền
sự của người phạm tội… quy định tại các điểm m, l, n, s Điều 46 Bộ luật hình sự.
Qua việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội chúng ta có thể đánh giá được
khả năng, giáo dục, cải tạo của người phạm tội để từ đó đưa ra mức hình phạt phù hợp,
đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trong pháp luật
hình sự Việt Nam, nhân thân được coi là một trong những căn cứ để quyết định hình
phạt. Điều 45 Bộ luật hình sự quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần căn cứ
vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ TNHS”. Như vậy, khi Tòa án quyết định hình phạt hay xác định TNHS cho những
người tham gia trong vụ án đồng phạm thì phải xác định sao cho phù hợp và tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, phù hợp với hậu quả cũng như
tác hại của hành vi mà người phạm tội đã gây ra, chẳng hạn đối với người có nhân thân
tốt, người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả,
người phạm tội tự thú, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năng, hối cải, người
phạm tội tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra, người phạm tội đã lập công, chuộc
tội,…(Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự) khi họ đã thực hiện một hành vi phạm tội
nhưng sau đó họ có ý thức khắc phục làm giảm bớt hậu quả thiệt hại của tội phạm thì
họ sẽ được xem xét để giảm nhẹ TNHS. Ngược lại đối với người có nhân thân xấu:
phạm tội nhiều lần, có tính chất chuyên nghiệp cao, tái phạm, tái phạm nguy hiểm
nhiều lần…được quy định tại các điểm b, g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự thì cần
32
Sài Gòn minh luật, Dấu hiệu nhân thân trong cấu thành tội phạm,
http://www.saigonminhluat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2918:du-hiu-nhanthan-trong-cu-thanh-ti-phm&catid=334:hinh-s-to-tung-hinh-s&Itemid=519, [Truy cập ngày 30/9/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
41
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
phải tăng nặng TNHS đối với họ. Có như vậy mới đảm bảo được sự nghiêm minh của
pháp luật và đảm bảo tính giáo dục, răn đe của pháp luật hình sự Việt Nam.
2.2.4. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự thì khi quyết định hình phạt. Tòa án
không chỉ căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội, mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Đối với trường hợp tội phạm do đồng phạm gây ra cũng vậy, khi
xác định TNHS và khung hình phạt Tòa án cũng phải xem xét đến các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS cho những người này để phù hợp với nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Các tình tiết đó bao gồm:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết được quy định trong phần chung Bộ luật
hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong
văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật do Tòa án xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong
bản án, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa TNHS và hình phạt
đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi khung hình phạt”.33
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho tội phạm nói chung và cho những người tham gia
trong đồng phạm nói riêng được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999
như: người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm
tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; khắc phục hậu quả, phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại nặng hoặc thiệt hại không lớn; phạm tội tron trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng; phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần; do hành vi trái pháp
luật cả người bị hại hoặc người khác gây ra; phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
mà không phải do mình tự gây ra; phạm tộilần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng; phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức; phạm tội do lạc hậu; người phạm
tội là phụ nữ có thai; người phạ tội là người già; người phạm tội là người có bệnh bị
hạn ché khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; người phạm
tội tự thú; người phạm tội thành khẩ khai báo, ăn năng, hối cải; người phạm tộ tích
cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm; người phạm tội
là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
người phạm tội đã lập công chuộc tội;…Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
4/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn sáp dụng một số
33
Trịnh Tiến Việt, Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt, Tạp chí Khoa
học và Pháp luật số 01/2014, Tr.58.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
42
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
quy định về phần chung của BLHS 1999 cũng có quy định về vấn đề này. Bên cạnh đó,
Khoản 2 Điều 46 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Nghĩa là Tòa án có
thể công nhận các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nếu như thấy cần thiết và đúng
pháp luật để áp dụng cho người phạm tội, nhưng lưu ý rằng các tình tiết này chỉ được
áp dụng trong một trường hợp cụ thể mà Tòa án xem xét, với những tội phạm cụ thể.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“Các tình tiết tăng nặng TNHS là các tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, là căn cứ để tăng nặng TNHS của những người phạm tội
(trong phạm vi khung hình phạt) so với các trường hợp phạm tội tương tự khác nhưng
không có tình tiết tăng nặng đó”.34
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại
Điều 48 gồm nhiều tình tiết được xem là cơ sở cho quyết định tăng nặng TNHS cho
những người phạm tội như sau: phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; phạm tội có tính chất côn đồ; phạm
tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; phạm tội nhiều lần, tái
phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội đối vói trẻ em, người già, người ở trong tình
trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh
thần, công tác hoặc các mặt khác; xâm phạm tài sản Nhà nước, gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, thiê tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội
đề phạm tội; dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có
khả năng gây guy hại cho nhiều người; xúi giục người chưa thành niên phạm tội; có
hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.” Việc xác định
các tình tiết tăng nặng cho những người đồng phạm bên cạnh việc áp dụng các quy
định chung của tội phạm thì các tình tiết tăng nặng dành cho họ cũng có những điểm
riêng như: Điểm a Khoản 1 Điều 48 quy định “Phạm tội có tổ chức”, Điểm g “Phạm
tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm”.
Như vậy, Khi xác định TNHS cho những người phạm tội nói chung và những
người đồng phạm nói riêng các cơ quan tố tụng phải xem xét, cân nhắc các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng TNHS cho những người này nhằm giúp việc thực thi pháp luật
được rõ ràng, công minh thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩ và nguyên
tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.
34
Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng Một số vấn đề về nhận thức và áp dụng các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, http://tks.edu.vn/portal/print/4187_66_0, [Truy cập ngày 1/11/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
43
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
2.3. Xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm trong một số
trƣờng hợp đặc biệt
Hành vi đồng phạm thường được diễn ra theo một quá trình vì có nhiều người
tham gia. Trên thực tế, có thể có trường hợp vì lý do khách quan nào đó mà một hoặc
một số người đồng phạm không thực hiện đến cùng hành vi tham gia của mình, nghĩa
là hành vi của họ bị dừng lại trước đồng phạm hoàn thành về mặt pháp lý. Việc xác
định các giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm chủ yếu dựa vào
mức độ thực hiện tội phạm của người thực hành nghĩa là: “nếu những người đồng
phạm không thực hiện hành vi tội phạm được đến cùng do những hành vi khách quan
thì khi người thực hành thực hiện đến giai đoạn nào, họ phải chịu TNHS đến giai đoạn
đó”.35
Trong vụ đồng phạm hành vi của người thực hành luôn giữ vai trò trung tâm
trong vụ đồng phạm. Hành vi và mức độ của người thực hành là cơ sở phân định các
giai đoạn phạm tội trong trường hợp đồng phạm. Trong trường hợp tất cả những người
tham gia đồng phạm đều là người thực hành, hành vi khách quan của cấu thành tội
phạm cụ thể không chỉ đơn thuần là hành vi của một người mà là do nhiều người cố ý
cùng thực hiện. Hành vi của những người đồng thực hành tuy có thể khác nhau thỏa
mãn một phần hoặc tất cả các dấu hiệu hành vi khách quan của cấu thành tội phạm cụ
thể nhưng đều là một phần của quá trình phạm tội thống nhất. Do bản chất của hành vi
đồng thực hành như vậy nên trong trường hợp đồng phạm việc xác định giai đoạn thực
hiện hành vi thực hành hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thực hiện tội phạm chung. Tội
phạm chung do nguyên nhân khách quan dừng lại ở giai đoạn nào thì hành vi phạm tội
của tất cả những người tham gia cũng được xác định ở giai đoạn đó.
Việc xác định tội phạm chưa đạt là cơ sở để xác định TNHS của những người
đồng phạm đựơc chính xác. Nếu sự tác động không có kết quả thì cần cân nhắc rõ ràng
vì ở đây chưa có sự tác động ý chí giữa người xúi giục và người bị xúi giục, người xúi
giục chưa đạt được mục đích của mình. Vì vậy, TNHS phải xem xét giảm nhẹ so với
trường hợp người xúi giục đã thúc đẩy người thực hành thực hiện tội phạm. Ví dụ: A
và B cùng vào nhà D để trộm tiền. Khi vào nhà, thấy vợ D đang nằm ngủ một mình
trong nhà, A đã bảo D giật dây chuyền trên cổ của vợ D nhưng khi B chuẩn bị giật thì
nghe tiếng D từ bên ngoài đang về nên cả A và B liền bỏ chạy. Ở đây, mục đích của tội
phạm chưa thực hiện được nên được xem xét giảm nhẹ TNHS.
35
Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, tr. 143.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
44
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Trường hợp một người mong muốn giúp người khác thực hiện tội phạm nhưng
người thực hành lại không thực hiện tội phạm đó hoặc không sử dụng sự giúp sức của
người đó để thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội vẫn phải chịu TNHS về tội
mà mình định giúp sức: “Hành vi giúp sức chưa thành là trường hợp người giúp sức
đã bắt đầu thực hiện hành vi giúp sức nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người giúp sức mà sự giúp sức đó chưa có tác động tạo điều kiện cho việc thực hiện
tội phạm của người khác”. 36
Ví dụ: B biết A có ý định trộm cắp tài sản của công ty, B đã hứa sẽ vận chuyển
giúp A mà không lấy tiền công. Đến khoảng 23g30 phút, B đậu xe trước cổng công ty
để chờ A thực hiện hành vi và sau đó mình vận chuyển hàng đi. A vì lo lắng sợ hãi nên
không thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nữa. Trong trường hợp này A đã tự ý nữa
chừng chấm dứt hành vi phạm tội. Còn B với vai trò là người giúp sức phải chịu TNHS
về hành vi trộm cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật hình sự 1999).
Việc xác định TNHS cho những người đồng phạm trong các trường hợp đặc biệt
là cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện nguyên tắc xác định TNHS của những
người đồng phạm. Đảm bảo cho nguyên tắc những người đồng phạm phải chịu trách
nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm. Dưới đây là cách xác định TNHS
cho những người đồng phạm trong những trường hợp đặc biệt như sau:
2.3.1. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong giai đoạn chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt
Đã xảy ra việc chuẩn bị phạm tội và bàn tính thực hiện tội phạm giữa những
người đồng phạm để tiến hành thực hiện tội phạm, nhưng chưa diễn biến đến việc
người thực hành thực hiện được hành vi phạm tội vì một số nguyên nhân nhất định thì
trong trường hợp này những người đồng phạm vẫn phải chịu TNHS về tội phạm mà họ
cố tổ chức, xúi giục, giúp sức người thực hành thực hiện hành vi phạm tội.
Khi xác định TNHS cho những người đồng phạm trong giai đoạn này Tòa án
dựa vào các quy định tại Điều 17 Chuẩn bị phạm tội, Điều 18 Phạm tội chưa đạt và
Điều 52 Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
của tội phạm đơn lẻ để áp dụng pháp luật tương tự truy cứu TNHS cho những người
đồng phạm. Khoản 2 và 3 Điều 52 Bộ luật hình sự quy định:
36
Tòa án nhân dân tối cao, Đinh Văn Quế,Một số vấn đề về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật,
http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/ tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_ cateid=175190
9&article_details=1&item_id=10931636, [Truy cập ngày 25/8/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
45
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
“ 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy
định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất là
không quá hai mươi năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không được vượt
qua một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy
định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì có thể áp dụng các hình
phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Nếu là tù có thời hạn thì mức phạt
không được vượt quá ba phần tư mức phạt mà điều luật đó quy định.”
Nghĩa là, không phải ở trường hợp nào thì những người đồng phạm cũng đều
phải chịu TNHS mà họ chỉ chịu trong trường hợp hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt của họ là tội phạm ở tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Đồng
thời, những người thực hiện đồng phạm ở giai đoạn này cũng phải chịu TNHS nếu vi
phạm một số tội được quy định cụ thể ở một số điều luật thuộc phần các tội phạm cụ
thể dù cho trường hợp hành vi thực hiện với lỗi vô ý chưa gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội mà mới chỉ có khả năng sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm trong tương lai. Ví dụ:
trong các tội phạm quy định tại khoản 4 điều 186, khoản 3 các điều 190, 192,194 Bộ
luật hình sự hiện hành.
Việc xác định tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc chưa đạt là cơ sở để
xác định TNHS của những người đồng phạm đựơc chính xác. Bên cạnh vai trò trung
tâm của người thực hành phải kể đến vai trò của những người đồng phạm khác bởi vì
có một số trường hợp, mặc dù hành vi của những người thực hành chưa thỏa mãn hết
dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể nào đó. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi
của những người đồng phạm khác như người tổ chức, giúp sức, xúi giục đã hoàn thành
và hành vi phạm tội của từng người dừng lại ở những giai đoạn khác nhau thì tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau. Chẳng hạn, trong trường hợp người
bị xúi giục không nghe theo, sự xúi giục không có kết quả thì chỉ riêng người xúi giục
phải chịu TNHS về tội đã xúi giục. Trên thực tế, hành vi xúi giục chưa thành có thể
được biểu hiện bởi các dạng thực tế: hành vi xúi giục không thành (sự xúi giục không
mang lại kết quả), người xúi giục không nghe theo lời xúi giục phạm tội và không đi
đến quyết định thực hiện tội phạm hoặc thực hiện một tội phạm khác so với sự xúi
giục; chưa thực hiện được trọn vẹn hành vi tác động (theo ý tưởng của người xúi giục)
như đang thực hiện hành vi tác động thì bị dừng lại; hành vi tác động đã được thực
hiện nhưng sự tác động chưa đến với người tác động. Ví dụ: gửi thư với nội dung thúc
đẩy người khác thực hiện tội phạm nhưng vì một lý do nào đó bức thư chưa đến được
tay người cần tác động.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
46
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Nếu sự tác động không có kết quả thì cần cân nhắc rõ ràng vì ở đây chưa có sự
tác động ý chí giữa người xúi giục và người bị xúi giục, người xúi giục chưa đạt được
mục đích của mình. Vì vậy, TNHS phải xem xét giảm nhẹ so với trường hợp người xúi
giục đã thúc đẩy người thực hành thực hiện tội phạm. Ví dụ: A và B cùng vào nhà D để
trộm tiền. Khi vào nhà, thấy vợ D đang nằm ngủ một mình trong nhà, A đã bảo B giật
dây chuyền trên cổ của vợ D nhưng khi B chuẩn bị giật thì ngay úc đó D từ ngoài sân
mửa cửa vào nhà. Nghe tiếng D, A và B liền bỏ chạy nên không đạt được mục đích đây
cũng là một căn cứ để Tòa án xem xét giảm nhẹ TNHS.
2.3.2. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong việc tự ý nữa chừng
chấm dứt việc thực hiện tội phạm
Điều 19 Bộ luật hình sự hiện hành quy định:“Người tự ý nữa chừng chấm dứt
việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có
đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này”.
Từ điều luật này chúng ta có thể thấy rõ nếu tội phạm thực hiện dưới hình thức
tội phạm đơn lẻ thì trong quá trình thực hiện tội phạm của mình người đó đột ngột
dừng lại nữa chừng. Dừng lại ở đây là đảm bảo cho tội phạm vẫn chưa hoàn thành thì
sẽ được miễn TNHS về tội mình định phạm. Nhưng đối với trường hợp đồng phạm thì
chúng ta lại không thấy nhắc đến trong điều luật này. Bởi lẽ, trong quá trình hoàn thiện
Bộ luật hình sự năm 1999, các nhà làm luật không có những thay đổi trong việc quy
định về vấn đề tự ý nữa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm so với Bộ luật hình sự
1985. Mà Bộ luật hình sự 1985 lại có một văn bản quy định và hướng dẫn về việc xác
định TNHS cho những người đồng phạm trong giai đoạn tự ý nữa chừng chấm dứt tội
phạm mà đến nay vẫn còn được sửa dụng. Chính vì thế, trong quá trình áp dụng pháp
luật cơ quan tố tụng vẫn áp dụng để hướng dẫn cho về vấn đề này. Văn bản đó chính là
Nghị quyết số 01/HĐTP/NQ ngày 19 tháng 4 năm 1989 của hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung một số quy định của Bộ luật Hình sự 1985.
Trước Nghị quyết 01/HĐTP ngày 19 tháng 4 năm 1989, hội đồng thẩm phán đã
có Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5 tháng 1 năm 1986 Hướng dẫn một số quy định tại
phần chung Bộ luật hình sự 1985 nhưng chỉ mới hướng dẫn về việc tự ý nữa chừng
chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm. Theo đó, đối với người thực
hành vấn đề nữa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm giống với trường hợp phạm
tội riêng lẻ. Người thực hành được xem là nữa chừng chấm dứt việc phạm tội khi
không tự mình thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù không có gì ngăn cản. Nhưng lại
chưa có hướng dẫn về việc tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường
hợp có đồng phạm. Nghị quyết số 01/HĐTP năm 1989 bổ sung thêm hướng dẫn cho
GVHD: Nguyễn Thu Hương
47
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
vấn đề này cụ thể tại Chương I của Nghị quyết như sau: “Việc tự ý nữa chừng chấm
dứt việc phạm tội của người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức có đặc điểm khác
với việc tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm. Nếu
người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nghĩa là tự mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, mặc dù không có gì ngăn cản, thì tội phạm không thể hoàn
thành, hậu quả mà kẻ phạm tội mong muốn sẽ không xảy ra. Trong các vụ án có đồng
phạm, nếu người xúi giục hoặc người tổ chức hay người giúp sức tuy nữa chừng từ bỏ
ý định phạm tội, nhưng không áp dụng những biện pháp cần thiết để ngăn chặn kẻ
thực hành thực hiện tội phạm vẫn có thể xảy ra. Do đó, để được miễn TNHS theo Điều
16 Bộ luật Hình sự về tội định phạm, người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức
phải có những hành động tích cực nhằm ngăn chặn việc thực hiện tội phạm.” Điều
này đồng nghĩa với việc đối với những người giúp sức, tổ chức, xúi giục trong đồng
phạm thì vấn đề tự ý nữa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm có nhiều điểm khác
so với người thực hành. Quá trình thực hiện tội phạm, họ không tự mình thực hiện tội
phạm mà phải thông qua người thực hành để thực hiện hành vi được mô tả trong cấu
thành tội phạm, hoạt động của họ luôn là tiền đề và là điều kiện hỗ trợ cho hoạt động
phạm tội của người thực hành. Người này có thể từ bỏ ý định phạm tội trong khi người
thực hành vẫn thực hiện tội phạm đến cùng theo kế hoạch đã vạch ra. Chính vì thế,
người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức, chỉ được coi là tự ý nữa chừng chấm
dứt phạm tội khi thỏa mãn hai điều kiện. Thứ nhất, họ phải chấm dứt việc phạm tội
trước khi người thực hành thực hiện tội phạm. Thứ hai, họ phải có những hành động
tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình để ngăn chặn việc
thực hiện tội phạm. Những hành vi có tính ngăn chặn bao gồm: thuyết phục, khuyên
bảo, đe dọa để người thực hành không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc phải
báo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, báo cho người sẽ là nạn nhân biết về tội
phạm đang được chuẩn bị thực hiện để cơ quan Nhà nước hoặc người sẽ là nạn nhân
có biện pháp ngăn chặn tội phạm.
Trong trường hợp này, người giúp sức phải ngừng tạo những điều kiện vật chất
và tinh thần cho việc thực hiện tội phạm. Nếu sự giúp sức của những người giúp sức
đang được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm thì người giúp
sức cũng phải có những hành động tích cực đối với người xúi giục, người tổ chức hay
người thực hành để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Nghị quyết cũng đã quy định:
“Người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức được miễn trách nhiệm theo điều 16
Bộ luật hình sự37 trong trường hợp họ ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, hậu
37
Nay là Điều 19 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
48
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
quả của tội phạm không xảy ra. Nhưng nếu những việc họ đã làm không ngăn chặn
được việc thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra, thì họ có thể vẫn phải
chịu TNHS. Họ chỉ có thể được miễn TNHS theo khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự,38
nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác mà họ đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần
có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả của tội phạm”. Nghĩa là nếu những người đồng phạm này không thể
ngăn chặn được hậu quả xảy ra thì họ chỉ có thể được giảm nhẹ TNHS nếu những
hành vi tiếp theo của họ thỏa mãn các dấu hiệu tại điều luật quy định về các tình tiết
giảm nhẹ hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự.
Nếu trong vụ đồng phạm có nhiều người thực hành thì hành vi phạm tội của từng
người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong trường hợp này Nghị quyết cũng có
quy định: “Người tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS theo điều
16 Bộ luật hình sự nếu họ đã không làm gì hoặc những việc mà họ đã làm trước khi từ
bỏ ý định phạm tội không giúp gì cho những người đồng phạm khác trong việc tiếp tục
thực hiện tội phạm. Thí dụ: 3 người rủ nhau đến ga xe lửa để trộm cắp, nhưng không
bàn bạc gì cụ thể cả; trên đường đi một người đã bỏ về vì không muốn phạm tội nữa;
hai người còn lại vẫn tiếp tục đến ga xe lửa và lợi dụng sự sơ hở của một số hành
khách đã trộm cắp được một số hành lý. Còn nếu những việc mà họ đã làm được
những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm, thì họ cũng phải có
những hành động tích cực để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm đó, thì họ mới có thể
được miễn TNHS theo điều 16 Bộ luật hình sự. Nhưng nếu họ không ngăn chặn được
những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra,
thì họ có thể vẫn phải chịu TNHS, tương tự như trường hợp về người xúi giục, người
tổ chức, người giúp sức đã được nêu ở điểm 1 trên đây”. Việc xác định thời điểm
được xem là tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội phải căn cứ vào hành vi thực tế
của mỗi người đồng phạm. Trong trường hợp tổng hợp hành vi phạm tội của tất cả
những người đồng phạm đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ
thể thì vấn đề tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội không được đặt ra. Trong số
những người đồng phạm nếu có một hoặc một số người không thực hiện tội phạm nữa
thì cũng được xem là tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Trong trường hợp một người xúi giục, giúp sức người khác phạm một tội nhưng
người này không phạm tội đó mà phạm một tội khác thì người xúi giục phải chịu
TNHS về tội mà mình xúi giục nếu tội đó có sự thống nhất trong nhận thức của người
xúi giục, giúp sức với người thực hành. Ngoài ra, “Người thực hành, người giúp sức
38
Nay là Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 sửa đồi bổ sung 2009.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
49
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm, nhưng có
thể phải chịu TNHS về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 247 Bộ luật
hình sự, 39 nếu họ không tố giác tội phạm do người (hoặc những người) đồng phạm
thực hiện không có sự trợ giúp của họ.”
Tóm lại, Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về các căn cứ và điều kiện xác định
TNHS cho những người đồng phạm thông qua cơ sở pháp lý TNHS, các yếu tố nhân
thân, động cơ, mục đích của những người đồng phạm kết hợp với các nguyên tắc xác
định TNHS của những người này. Từ đó đưa ra những hướng dẫn cụ thể trong việc
xác định TNHS cho họ trong trường hợp đồng phạm hoàn thành và các trường hợp đặc
biệt khác. Như vậy, ta có thể thấy Bộ luật hình sự hiện hành mặc dù chưa có điều luật
cụ thể nhưng vẫn có những quy định chung nhằm giúp xác định TNHS cho từng người
trong đồng phạm. Đây là cơ sở, là tiền đề tìm ra những bất cập cũng như các đề xuất,
kiến nghị về các vấn đề liên quan đến đề tài đang được nghiên cứu.
39
Nay là Điều 314 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
50
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
Cùng với sự phát triển của các hoạt động tích cực thì các hoạt động tiêu cực của
xã hội cũng phát triển theo, trong đó có tội phạm và tội phạm do đồng phạm gây ra
cũng đang diễn biến hết sức phức tạp và ngày càng nguy hiểm. Tuy vậy, vấn đề áp
dụng cũng như giải quyết tội phạm vẫn còn nhiều khó khăn chẳng hạn từ việc tìm hiểu
khái quát chung cho đến những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về trường
hợp xác định TNHS cho những người đồng phạm chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh
những mặt tích cực vẫn còn rất nhiều những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện
giúp cho việc đấu tranh phòng chống cũng như giải quyết tội phạm nói chung và tội
phạm có sự tham gia của đồng phạm nói riêng được triệt để, đúng quy định. Cụ thể
như sau:
3.1. Tổng quan tình hình tội phạm do đồng phạm gây ra trên cả nƣớc giai đoạn
từ năm 2011 đến 2013
Qua công tác xét xử của Tòa án các cấp cho thấy tình hình tội phạm vẫn có chiều
hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm.
Trong đó tội phạm do đồng phạm thực hiện cũng đang chiếm một vai trò không nhỏ
trong tổng số các vụ án hình sự. Dưới đây là số liệu thống kê công tác xét xử các vụ án
hình sự qua các năm 2011 - 2013 và số liệu khảo sát của người viết với 300 vụ án hình
sự được lựa chọn ngẫu nhiên cũng từ thời gian trên để làm sáng tỏ hơn tình hình tội
phạm và tội phạm do đồng phạm gây ra trên cả nước. Cụ thể như sau:
Bảng 3.1. Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về tổng kết công
tác xét xử án sơ thẩm của cả nƣớc qua các năm 2011 – 2013
Năm
Số vụ án đƣợc giải
Số vụ án tăng so
quyết
với năm trƣớc
2011
60925
2012
67369
6444
2013
68751
1382
*Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao 40
40
Tòa án nhân dân tối cao, Thống kê số lượng án, http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/5901712,
[Truy cập ngày 29/10/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
51
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Từ số liệu thống kê trên có thể thấy rằng số lượng các vụ án hình sự trong cả
nước đang tăng đều qua các năm trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013. Cụ thể là:
-
Năm 2011 số lượng các vụ án hình sự được giải quyết sơ thẩm là 60925 vụ án.
Năm 2012 là 67369 vụ tăng 6444 vụ so với năm 2011.
Đến năm 2013 số lượng này lại tiếp tục tăng từ 68751 vụ án lên 1382 vụ so với
năm 2012.
Tuy nhiên, chỉ nhìn vào số liệu trên vẫn chưa thấy được tình hình diễn biến của
tội phạm do đồng phạm trong giai đoạn này chính vì vậy người viết đã làm một cuộc
khảo sát nhỏ với việc lựa chọn ngẫu nhiên 300 bản án hình sự nổi bật trên cả nước từ
các năm 2011, 2012, 2013 để thống kê lấy số liệu thì thu được kết quả như sau:
Bảng 3.2. Bảng tƣơng quan về tình hình tội phạm do đồng phạm gây
ra so với tổng số tội phạm trên cả nƣớc giai đoạn 2011 -2013
Thông số
Số lƣợng án
Tỷ lệ
300
100%
103
34,3 %
197
65,7%
Vụ án
Các vụ án được chọn
Tội phạm có đồng
phạm
Tội phạm đơn lẻ
*Nguồn: Internet (Báo Đời sống và pháp luật)41
41
Đời sống và pháp luật, hình sự, http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/, [Truy cập ngày 29/10/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
52
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Biểu đồ: Tƣơng quan giữa trường hợp đồng phạm và tội phạm
đơn lẻ
34%
Tội phạm đơn lẻ
Đồng phạm
66%
Từ bảng thống kê và biểu đồ trên cho chúng ta thấy rằng trong 3 năm 2011 đến
2013 tình hình tội phạm trên cả nước đang diễn ra rất phức tạp với nhiều vụ án được
đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù số liệu trên chỉ được lấy
ngẫu nhiên từ 300 vụ án hình sự được đưa ra xét xử và đăng tải trên các phương tiện
truyền thông nhưng cũng phần nào phản ánh được diễn biến tình hình tội phạm do
đồng phạm gây ra trong những năm gần đây cụ thể như sau:
-
Tội phạm có sự tham gia của đồng phạm đang diễn ra với một số lượng không
nhỏ chiếm 103 (34.5%) trên tổng số 300 vụ án được lựa chọn.
Tội phạm không có sự tham gia của đồng phạm vẫn chiếm đa số nhưng không
còn giữ số lượng cao như trước đây so với tội phạm do đồng phạm gây ra cụ thể
chiếm 197 vụ (65.5%) trong tổng số 300 vụ án được chọn.
Qua quá trình khảo sát cho thấy các vụ án có sự tham gia của đồng phạm đang
chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng số các vụ án hình sự. Trên thực tế hành vi phạm
tội là rất đa dạng và phong phú, tính chất nguy hiểm cho xã hội cũng rất khác nhau
chính vì vậy đối với các vụ án có sự tham gia của đồng phạm thì lại càng nguy hiểm
hơn tội phạm đơn lẻ rất nhiều. Bởi lẽ, việc tập trung sức lực, trí tuệ để phối hợp và
tương trợ lẫn nhau giữa những người đồng phạm cho phép họ không chỉ thực hiện tội
phạm một cách thuận lợi mà trong nhiều trường hợp việc tham gia phạm tội của nhiều
người trong cùng một vụ án hình sự còn giúp cho họ bao che, giúp đỡ nhau tránh khỏi
sự điều tra, phá án của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Đồng phạm gây ra nhiều tác động xấu cho xã hội, gây mất trật tự, an ninh; xâm
phạm tới tài sản của Nhà nước, của công dân; xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân
GVHD: Nguyễn Thu Hương
53
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
phẩm của công dân; kích thích các tệ nạn xã hội phát triển làm phát sinh những quan
hệ xã hội không lành mạnh,…Gây rất nhiều khó khăn trong việc xác định trách nhiệm
hình sự cho những người đồng phạm cũng như hình phạt dành cho họ và công tác bảo
vệ pháp luật cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình trên, Tòa án các cấp cũng đã có nhiều cố gắng khắc phục khó
khăn, đẩy mạnh tiến bộ, xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án có đồng phạm
như: nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
để hạn chế những sai sót. Nhiều tòa án đã tổ chức các phiên tòa xét xử tại nơi xảy ra
tội phạm nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật; tổ chức xét xử các vụ án lớn, trọng
điểm, đặc biệt nghiêm trọng, kéo dài nhiều ngày…để xét xử các vụ án hình sự nói
chung và án có đồng phạm tham gia nói riêng đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên,
bên cạnh những cố gắng đó vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc bất cập trong công tác
xét xử cũng như việc xác định TNHS cho tội phạm nói chung và cho những người
đồng phạm nói riêng. Nguyên nhân xuất phát từ những quy định của pháp luật về
những loại người đồng phạm chưa được đầy đủ kết hợp với thực tiễn xét xử của các
cơ quan Tòa án đã có nhiều trường hợp các cơ quan này đã đánh giá chưa chính xác
tính chất cũng như mức độ tham gia của từng người trong đồng phạm dẫn đến việc xác
định TNHS cũng như hình phạt cho họ còn nhiều bất cập.
3.2. Một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời
đồng phạm
Nghiên cứu các nội dung quy định về đồng phạm và những người đồng phạm
chúng ta có thể thấy rằng quy định của Bộ luật hình sự về đồng phạm và TNHS cho họ
vẫn chưa được đầy đủ và cụ thể, đa số đều nằm ở dạng lý luận và những kinh nghiệm
rút ra từ việc áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tố tụng
do đó việc xác định TNHS cho những người đồng phạm nhiều khó khăn. Bộ luật hình
sự hiện hành chỉ quy định có 2 Điều luật tại phần chung cho chế định đồng phạm là
Điều 20 Khái niệm đồng phạm và Điều 53 Quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm, chứ không có quy định về việc xác định TNHS, nguyên tắc phân hóa
TNHS cho họ, cũng như TNHS cho từng loại người trong đồng phạm,…Tất cả các
hoạt động áp dụng pháp luật cho những người đồng phạm để xác định TNHS, hình
phạt trong đồng phạm dường như đều phải dựa vào nguyên tắc áp dụng tương tự pháp
luật (trong luật hình sự Việt Nam không đặt nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật) từ
việc xác định TNHS cho tội phạm đơn lẻ sang tội phạm có sự tham gia của đồng phạm.
Từ những phân tích trên người viết xin đưa ra một số vướng mắc trong các quy định
GVHD: Nguyễn Thu Hương
54
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
của luật cũng như trong công tác áp dụng pháp luật gặp phải khi giải quyết các vụ án
đồng phạm.
3.2.1. Về các giai đoạn thực hiện tội phạm
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có quy định về các giai đoạn thực hiện
tội phạm của những người đồng phạm. Quan điểm phổ biến được áp dụng là việc xác
định các giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm phụ thuộc vào mức
độ thực hiện tội phạm của những người thực hành. Nghĩa là, người thực hành dừng lại
ở giai đoạn phạm tội nào thì những người đồng phạm khác cũng phải chịu TNHS cùng
với người thực hành ở giai đoạn đó. Cụ thể, trong vụ án đồng phạm nếu người thực
hành vì những lý do nào đó mà không thực hiện được tội phạm đến cùng, ví dụ: do bị
bắt giữ, bị ốm, chết hoặc có những tác động từ bên ngoài dẫn đến việc tội phạm không
được thực hiện,…và người thực hành chưa bắt tay vào việc thực hiện tội phạm thì
những người đồng phạm khác có thể phải chịu TNHS ở các giai đoạn chuẩn bị phạm
tội. Những người đồng phạm phải chịu TNHS ở giai đoạn phạm tội chưa đạt nếu người
thực hành đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến
cùng (tội phạm chưa hoàn thành). Bộ luật hình sự hiện hành, ngoài quy định tại điều
17 và 18 về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt thì không có quy định nào khác về
các giai đoạn thực hiện hành vi của những người đồng phạm, chính vì vậy vấn đề này
cần được xem xét, làm rõ hơn.
3.2.2. Vấn đề trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong việc tự ý nữa
chừng chấm dứt việc phạm tội
Ngay sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời thì Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đã cho ra đời Nghị quyết số 01/HĐTP/NQ ngày 4 tháng 8 năm 2000
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự 1999 để hướng
dẫn cho Bộ luật này. Các văn bản trước đó hướng dẫn cho Bộ luật hình sự 1985 trong
đó có Nghị quyết số 01/HĐTP/NQ ngày 19 tháng 4 năm 1989 của hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung một số quy định của phần chung Bộ luật
Hình sự 1985. Tuy nhiên, Nghị quyết số 01/2000 lại không có hướng dẫn về vấn đề tự
ý nữa chừng chấp dứt việc phạm tội của những người đồng phạm. Do đó, khi xác định
TNHS cho những người đồng phạm trong trường hợp này các cơ quan tố tụng vẫn
phải sử dụng Nghị quyết số 01/HĐTP/NQ ngày 19 tháng 4 năm 1989 để giải quyết cho
vấn đề này. Đây là một trong những vấn đề chưa được hoàn chỉnh của pháp luật hình
sự cần được giải quyết trong thời gian tới.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
55
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
3.2.3. Hành vi thái quá của người thực hành
Bộ luật hình sự không có quy định về “Hành vi thái quá của người thực hành”
tất cả chỉ là do thực tiễn xét xử cũng như lý luận về luật hình sự thừa nhận khi cần xem
xét đến TNHS của từng người trong đồng phạm. Thực tế không phải bao giờ người
thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do đồng phạm đặt ra, có trường hợp
người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nữa chừng chấm dứt việc
thực hiện tội phạm, nhưng cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện
các hành vi vượt quá yêu cầu của những người đồng phạm đặt ra do đó họ phải chịu
TNHS về phần hành vi thái quá của mình. Như vậy, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ
TNHS cho những người đồng phạm khác người thực hành chúng ta phải nghiên cứu
nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định TNHS của
người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ TNHS của những người đồng
phạm khác. Chính từ những vấn đề trên, cho thấy chế định hành vi thái quá của người
thực hành là một chế định quan trọng thế nên không thể để cho tình trạng thực tiễn xét
xử thì thừa nhận mà pháp luật hình sự lại không ghi nhận. Đây cũng là một vấn đề còn
bất cập trong pháp luật hình sự nước ta.
3.2.4. Vấn đề xác định sự khác nhau về trách nhiệm hình sự của từng loại người
tham gia trong vụ án đồng phạm
Thực tiễn giải quyết các vụ án đồng phạm có sự tham gia của nhiều người, nhiều
loại người đồng phạm, có người tham gia đồng phạm với một giai đọan ngắn, có người
tham gia toàn bộ vụ án,…đồng thời hành vi của họ thỏa mãn các quy định của cấu
thành tội phạm vật chất thì khi xác định TNHS và định khung hình phạt cho những
người này Tòa án thường căn cứ vào số lượng của vật phạm pháp. Nếu vật phạm pháp
thuộc Khoản X của điều luật thì tất cả các đồng phạm đều bị truy cứu ở Khoản X.
Chính vì vậy, việc xác định TNHS trong nhiều trường hợp không thể hiện được
nguyên tắc công bằng của Bộ luật hình sự. Chẳng hạn vụ án sau: Nguyễn Hữu D là
Đội trưởng của đội thi công công trình có nhiệm vụ nhận thuốc nổ của đơn vị về phá
đá, làm đường. Sau khi hoàn thành công việc được giao, thấy trong kho còn nhiều
thuốc nổ Nguyễn Hữu D đã bàn bạc với thủ kho là Nguyễn Thế H cùng nhau lấy vài
bao thuốc nổ mang ra chợ Lào Cai bán lấy tiền tiêu. Nguyễn Thế H đồng ý. Trong thời
gian từ ngày 05/3 đến ngày 02/5 Nguyễn Hữu D và Nguyễn Thế H đã 3 lần vận chuyển
thuốc nổ trong kho ra đường quốc lộ. Sau đó Nguyễn Hữu D thuê xe của Trịnh Đức K
mang lên Lào Cai bán cho Trần Văn M với tổng trọng lượng thuốc nổ là 650 kg. Ngày
2 tháng 5 năm 2010, do Trịnh Đức K bận việc đột xuất nên Nguyễn Hữu D đã ra bến
xe tìm thuê Lê Văn Q là người lái xe tải nhẹ chuyên vận chuyển hàng thuê, hỏi thuê
GVHD: Nguyễn Thu Hương
56
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
chở hàng cho đơn vị. Lê Văn Q đồng ý và lái xe cùng Nguyễn Hữu D đến nơi để hàng.
Nguyễn Thế H và Nguyễn Hữu Duy bốc 4 bao thuốc nổ lên xe, Lê Văn Q biết rõ là
thuốc nổ trái phép nhưng vẫn chở. Khi xe chạy được khoảng 10 km thì bị Công an bắt
giữ, thu được 125 kg thuốc nổ. Qua quá trình điều tra công an, cơ quan điều tra đã
thu giữ ở Trần Văn M 600 kg thuốc nổ. Với số lượng thuốc nổ phạm pháp trên tại Bản
án số 05/HSST ngày 3 tháng 12 năm 2011 của Tòa án quân sự trung ương đã căn cứ
vào Thông tư liên tịch số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Thông tư liên tịch số 01/2003/ TTLT –
TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP – BQP ngày 11/8/2003, áp dụng Khoản 4 Điều
232 BLHS có khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm, tù chung thân để xét xử và tuyên
án. Các bị cáo Nguyễn Hữu Duy và Nguyễn Thế H có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hậu
quả của vụ án được hạn chế (thu hồi gần đủ số thuốc nổ bị mất) nên Tòa án áp dụng
khoản 4 Điều 232, Điểm p, s khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS tuyên án Nguyễn Hữu D
10 năm tù và Nguyễn Thế H 9 năm tù. Đối với Lê Văn Q, do không có các tình tiết
giảm nhẹ nên Tòa đã tuyên Lê Văn Q mức án 15 năm tù.42 Việc quyết định hình phạt
trong vụ án trên rõ ràng là không công bằng vì Lê Văn Q chỉ tham gia vụ án ở một giai
đoạn ngắn và chỉ một lần, lại tham gia với vai trò là người giúp sức nhưng mức án đối
với Q lại là nặng nhất. Tuy nhiên, việc quyết định hình phạt đối với Q trong hợp này là
hoàn toàn đúng pháp luật và không thể nói là Tòa án xét xử sai vì theo quy định thì dù
Q chỉ tham gia tội phạm có một lần với vai trò là người giúp sức nhưng số lượng thuốc
nổ trên xe Q vận chuyển là 125 kg thì việc Tòa án áp dụng Khoản 4 Điều 232 BLHS là
hoàn toàn đúng. Bên cạnh đó, Q lại không có tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46
nên không thể xử phạt với mức hình phạt thấp hơn. Nguyên nhân của vấn đề trên là do
chưa có bất kì một văn bản hướng dẫn cũng như quy định của pháp luật nào về vấn đề
xác định trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt cho những người đồng phạm, ví dụ
trên là một dẫn chứng cụ thể và rõ ràng về những khó khăn của các cơ quan tiến hành
tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự loại này.
3.2.5. Việc xác định vai trò, mức độ tham gia của những người đồng phạm
Việc phân hóa trách nhiệm cho các bị cáo trong một số vụ án hình sự có đồng
phạm tham gia chưa thật sự rõ ràng. Cần có sự phân hóa rõ hơn vai trò, mức độ tham
gia của từng người trong vụ án nhất là đối với các vụ án phạm tội có tổ chức để xác
định TNHS cho hợp lý. Bởi vì trên thực tế tội phạm có tổ chức nguy hiểm hơn đồng
phạm thông thường rất nhiều. Ví dụ sau sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn về vấn đề này.
42
Nguyễn Văn Trượng, Thực tiễn áp dụng Điều 53 Bộ luật hình sự về việc quyết định hình phạt trong
trường hợp Đồng phạm và một số kiến nghị, Tạp chí Kiểm sát số Tết 01/2012, Tr.53.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
57
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Ví dụ: vào lúc 21g ngày 29/06/2006, do nghi ngờ Nguyễn Văn Hùng ăn cắp xoài
nhà mình nên ông Lê Văn Sửu đã chặn xe đạp của Hùng lại để hỏi cho rõ. Sau đó, hai
bên xảy ra xô xát. Hùng chạy về nhà kể cho cha mình là Nguyễn Văn Nhu và mẹ là
Nguyễn Thị Hồng nghe, Bà Hồng liền đi gọi anh trai của Hùng là Nguyễn Văn Nho về
sau đó lấy cây gậy gỗ trong nhà ra cho ông Nhu. Cả ba người cùng bàn bạc với nhau
là sẽ đi đánh ông Sửu. Ông Nhu mang theo gậy gỗ, Nho mang thanh thép, Hùng thì
mang theo côn để cùng nhau đi tìm ông Sửu. Tới đầu hẻm, thì thấy ông Sửu đang đi
công việc về 3 cha con cùng chặn ông Sửu lại hai bên đôi co qua lại, sau đó ông Sửu
xô ông Nhu ra để đi về nhà vì không muốn tranh cãi nữa. Ba cha con ông Nhu ngay
lập tức sử dụng hung khí mang theo đánh tới tấp vào đầu và người ông Sửu tới lúc mọi
người trong xóm nghe tiếng đánh nhau ra can thì họ mới dừng lại. Ông Sửu được đưa
đi cấp cứu. Giám định thương tật cho thấy ông Sửu bị 65% thương tật vĩnh viễn và bị
rối loạn tâm thần.43
Tại bản án số 28/HSST của Tòa án nhân dân huyện Long Phú ngày 03/9/2006 đã
nhận xét: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của
người khác gây thương tích cho ông Sửu 65% thương tật. Hành vi của các bị cáo là rất
nguy hiểm, gây nên hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo ở mức
nghiêm khắc tương xứng với các hành vi mà các bị cáo đã thực hiện. Nhưng xét các bị
cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường
cho người bị hại, bản thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, các bị cáo chỉ phạm tội
trong trạng thái tinh thần bị kích động.
Đối với Nguyễn Văn Nhu là cha khi nghe con kể, chưa biết thực hư thế nào đã
cùng các con dùng hung khí nguy hiểm đi đánh ông Thân gây thương tích nặng. Bị cáo
là người có vai trò chính trong vụ án trên nên phải bị trừng phạt nghiêm khắc nhất.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn Hùng và bị cáo Nguyễn Văn Nho đều là những
người tích cực thực hiện hành vi phạm tội dùng hung khí nguy hiểm đánh vào người
ông Sửu nên phải chịu hình phạt như nhau.
Ở phần quyết định Tòa án đã tuyên: 3 bị cáo Nguyễn Văn Nhu, Nguyễn Văn Nho
và Nguyễn Văn Hùng phạm “ tội cố ý gây thương tích ”.
Áp dụng Khoản 2 Điều 104, các Điểm b, c, đ, p Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình
sự 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Nhu 36 tháng tù.
Áp dụng Khoản 2 Điều 104, các Điểm b, c, đ, p Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình
sự 1999 xử phạt 2 bị cáo Nguyễn Văn Nho và Nguyễn Văn Hùng 24 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo.
43
Tòa án nhân dân Huyện Long Phú- Tỉnh An Giang.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
58
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Vụ án tuy đã khép lại nhưng lại gây bất bình trong dân chúng. Không đồng ý với
quyết định của Tòa án bà Nguyễn Ngọc Liên luật sư đại diện hợp pháp của ông Sửu đã
đề đơn kháng cáo.
Rõ ràng ở đây, Tòa án nhân dân huyện Long Phú đã nhận định chưa đúng tính
chất nguy hiểm từ hành vi của các bị cáo. Chưa đề cập vấn đề phạm tội có tổ chức vì
trước khi thực hiện tội phạm những người này đã bàn bạc trước với nhau và cả tình tiết
dùng hung khí nguy hiểm cũng không được đề cập tới cho nên khi quyết định hình
phạt cho các bị cáo là quá nhẹ so với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đồng thời
chưa có sự phân hóa rõ ràng vai trò của từng bị cáo trong vụ đồng phạm. Bên cạnh đó,
cũng có một người cần xét tới vai trò giúp sức đó là bà Nguyễn Thị Hồng vì đã đi gọi
Nguyễn Văn Nho và tìm hung khí cho ông Nhu.
Như vậy vấn đề đặt ra là các cán bộ tòa án cần có sự nhận thức rõ ràng về vấn đề
phạm tội có tổ chức và đồng phạm thông thường, cần có sự phân hóa vai trò, mức độ
tham gia của mỗi người trong đồng phạm để xét xử đúng người, đúng tội.
3.2.6. Việc xác định thời điểm bắt đầu tham gia thực hiện tội phạm trong đồng
phạm
Trong thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm còn có một vấn đề vướng mắc mà
hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất đó là: Khi tội phạm đã
hoàn thành nhưng chưa kết thúc mà có một người bắt đầu tham gia vào quá trình thực
hiện tội phạm thì TNHS của người này có được xác định dưới hình thức đồng phạm
hay không.
Ví dụ: Nội dung vụ án theo cáo trạng như sau, Khoảng 9g ngày 01/01/2007,
Phong rủ Hà đi ăn trộm bò của người dân thả lan trong vùng đất gần biên giới
Capuchia để làm thịt bán lấy tiền tiêu xài, Hà đồng ý. Đến khoảng 16g30 phút cùng
ngày, phong và Hà mang theo mỗi người một đèn pin và một con dao (riêng Phong
còn mang theo một bao tải) cùng nhau đi. Trên đường đi, Phong và Hà gặp Kiên đang
đi đặt bẫy chuột về, ba người chào hỏi nhau, sau đó Phong và Hà đi tiếp thì gặp một
con bò vàng khoảng 2 năm tuổi, hai người lấy đá đập vào đầu con bò cho đến chết. Bị
đánh đau con bò kêu la ầm ĩ, thấy vậy Kiên quay lại chỗ Phong và Hà thì thấy hai
người này đang ở cạnh con bò đã chết. Phong và Hà rủ Kiên cùng làm thịt con bò bán
lấy tiền chung, Kiên đồng ý. Kiên cầm đèn pin rọi cho Phong và Hà dùng dao cắt 4
đùi bò bỏ vào bao tải. Xong việc Kiên và Hà về nhà ngủ còn Phong mang bao tải ra
chợ Huyện bán được 5.500.000 đồng quay về đưa cho Hà và Kiên mỗi người 500.000
đồng. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn đã truy cứu các bị can Phong, Kiên, Hà
GVHD: Nguyễn Thu Hương
59
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.44 Hiện nay vẫn có hai
quan điểm khác nhau về việc định tội danh cho Kiên như sau:
Quan điểm thứ nhất, Thạch Văn Kiên là đồng phạm cùng Phong và Hà trong tội
trộm cắp tài sản.
Quan điểm thứ hai, Thạch Văn Kiên phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
Trong vụ án này, tài sản là con bò của người dân thả trong rừng. Khi Phong và
Hà đã đánh chết con bò và mang xuống suối làm thịt thì lúc này tội trộm cắp tài sản đã
hoàn thành. Tuy nhiên, tội phạm chưa kết thúc vì tiếp đó những người này còn phải
làm thịt con bò và đem đi bán. Khi thấy con bò bị đánh chết, Kiên đã quay trở lại và
sau một hồi thuyết phục của Phong và Hà, Kiên đã đồng ý cùng hai người này làm thịt
con bò. Vậy trong trường hợp này, tội phạm đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc.
Hiện nay tại điều 20 của Bộ luật hình sự không có quy định về mốc thời điểm
cũng như thời gian thực hiện các giai đoạn tội phạm giữa những người đồng phạm là
bắt đầu thực hiện trước thời điểm tội phạm hoàn thành hay trước thời điểm tội phạm
kết thúc. Chính vì vậy, có hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng pháp luật trong các vụ
án cụ thể như sau:
Theo cách hiểu thứ nhất, nếu người tham gia thực hiện tội phạm khi tội phạm đã
hoàn thành nhưng chưa kết thúc, thì sẽ bị xử lý về tội mà tội phạm trước đó đã thực
hiện là đồng phạm. Cụ thể tại vụ án trên, Kiên là đồng phạm với vai trò là người giúp
sức trong tội trộm cắp tài sản. Bởi vì Kiên đồng ý cùng Phong và Hà làm thịt con bò
trong thời điểm tài sản chưa được dịch chuyển ra khỏi phạm vi vùng chăn thả, đồng
thời người này còn có hành động rọi đèn pin giúp sức cho Phong và Hà làm thịt con bò.
Theo cách hiểu thứ hai, nếu người tham gia thực hiện tội phạm sau khi tội phạm
đã hoàn thành tùy từng trường hợp có thể xử lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, tội không tố giác tội phạm tội che dấu tội phạm. Nếu hiểu theo cách
này thì trong vụ án trên Kiên sẽ vị truy cứu TNHS về tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
Người viết đồng ý với quan điểm thứ nhất, vì khi tội phạm đã hoàn thành nhưng
chưa kết thúc thì vẫn có thể có đồng phạm mới. Như chúng ta đã hiểu từ phần tổng
quan về đồng phạm và các loại người trong đồng phạm thì đồng phạm có bốn loại
người là người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức…thì trong
trường hợp này Kiên chính là người giúp sức. Bởi vì người giúp sức có thể mang tính
chất thụ động có thể hỗ trợ về vật chất, hoặc tinh thần đều được, chỉ là chất xúc tác cho
những người đồng phạm khác. Thời điểm tội phạm hoàn thành chỉ phản ánh sự thể
44
Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
60
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
hiện đầy đủ về bản chất pháp lý của tội phạm đó, còn thời điểm tội phạm kết thúc vừa
phản ánh về mặt bản chất pháp lý lẫn thực tế của vụ án.
Tóm lại, việc xác định TNHS có liên quan đến những người đồng phạm vẫn còn
nhiều khó khăn, bất cập cần được khắc phục và xem xét. Tình trạng trên do rất nhiều
nguyên nhân khác nhau gây nên, xuất phát từ bản thân điều luật chưa cụ thể, rõ ràng
kết hợp với việc áp dụng các điều luật chưa có sự thống nhất đa số đều phải phụ thuộc
vào quan điểm và nhận thức của những người áp dụng pháp luật nên việc xác định
TNHS chỉ mang tính tương đối.
3.3. Đề xuất giải pháp trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời
đồng phạm
3.3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hình
sự của những người đồng phạm
Từ những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật về đồng phạm chúng ta
đều thấy rằng Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 chỉ mới quy định khái quát về khái nhiệm
đồng phạm, những loại người trong đồng phạm, tội phạm có tổ chức,…mà không hề
có quy định về việc xác định TNHS cũng như những chế định có liên quan đến việc
xác định TNHS cho từng người trong vụ án đồng phạm. Chính vì vậy, muốn giải quyết
đúng đắn cũng như triệt để các vụ án đồng phạm thì theo người viết Điều 20 cần được
bổ sung, sửa đổi một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hành vi thái quá của người thực hành
Trên thế giới hiện nay, có rất nhiều quốc gia ghi nhận về chế định hành vi “thái
quá” của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản pháp luật hình
sự của họ45. Ở nước ta đến nay, chế định này vẫn chưa được ghi nhận. Nhưng về lý
luận cũng như thực tiễn xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần xem xét đến TNHS
của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong vụ án có đồng
phạm. Hiện tại, đa số các nhà nghiên cứu luật hình sự đều cho rằng khi Bộ luật hình sự
của nước ta được sửa đổi, bổ sung một cách căn bản, cần quy định chế định hành vi
“thái quá” của người thực hành bên cạnh chế định đồng phạm. Từ những nhận định
trên, theo người viết khi Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới
nên quy định trực tiếp về hành vi này tại Điều 20.
45
Tòa án nhân dân tối cao, Đinh Văn Quế,Một số vấn đề về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật,
http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/ tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_ cateid=175190
9&article_details=1&item_id=10931636, [Truy cập ngày 25/8/2014].
GVHD: Nguyễn Thu Hương
61
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Thứ hai, Vấn đề xác định sự khác nhau về trách nhiệm hình sự của từng người
trong đồng phạm
Vấn đề xác định sự khác nhau về TNHS dựa trên mức độ và tính chất tham gia
giữa những loại người tham gia trong vụ án đồng phạm. Thực tiễn xét xử của Tòa án
các cấp về các vụ án có đồng phạm mà hành vi của những người này thỏa mãn các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm vật chất thì vật phạm pháp có trọng lượng ở khung hình
phạt nào thì tất cả những người tham gia trong đồng phạm đều phải bị truy cứu ở cùng
một khung hình phạt, dù cho họ có tham gia với vai trò, mức độ cũng như tính chất
tham gia ra sao. Chính vì thế, Điều 20 cần được sửa đổi, bổ sung bên cạnh việc đưa ra
khái niệm từng loại người đồng phạm cũng cần phải quy định thêm TNHS cho từng
loại người đồng phạm, có như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc công bằng của pháp
luật hình sự nước ta.
Như vậy, từ những nhận định trên theo quan điểm của người viết Điều 20 Bộ luật
hình sự 1999 cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
“ Điều 20. Đồng phạm
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người
đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người
tổ chức phải chịu trách nhiệm hình sự nặng nhất.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Tùy từng trường hợp người xúi giục phải chịu trách nhiệm nhiệm hình sự cao
hơn, thấp hơn hoặc bằng người thực hành.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm. Người giúp sức chịu trách nhiệm hình sự nhẹ hơn người thực
hành.
3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm.
4. Hành vi thái quá của người thực hành trong đồng phạm là việc người thực hành
đã thực hiện một tội phạm nằm ngoài ý định của những người đồng phạm khác.
Những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
thái quá của người thực hành.”
GVHD: Nguyễn Thu Hương
62
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
3.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999 trog việc xác định trách nhiệm hình sự cho những người đồng phạm
Thứ nhất, Tăng cường giải thích pháp luật và hướng dẫn pháp luật
Giải thích pháp luật là hoạt động quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động áp dụng
pháp luật, nhưng khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời đến nay, vẫn chưa có bất kì một văn
bản hướng dẫn chi tiết nào liên quan đến các vấn đề về đồng phạm nói chung và xác
TNHS cho những người đồng phạm nói riêng chính vì vậy công tác xét xử và giải
quyết các vụ án đồng phạm của Tòa án các cấp vẫn còn nhiều khó khăn và thiếu thống
nhất, ví dụ: có nhiều cách hiểu khác nhau về đồng phạm, về những người trong đồng
phạm và các nguyên tắc phân hóa TNHS, cách xác định các loại người trong đồng
phạm,..dễ dẫn đến việc xét xử và xác định sai TNHS cho tội phạm. Từ những bất cập
đã nghiên cứu theo người viết về mặt thực tiễn các cơ quan ban hành pháp luật cần ban
hành một văn bản hướng dẫn chung nhằm giải quyết triệt để cho các vấn đề sau:
Vấn đề xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm là
một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc xác định TNHS của những người đồng
phạm trong từng giai đoạn thực hiện tội phạm. Do đó, văn bản hướng dẫn cần có
những quy định và hướng dẫn thêm việc xác định TNHS của những người này ở các
giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt theo hướng: Trong trường hợp người
thực hành không thực hiện tội phạm đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn
của những người đồng phạm khác. Thì những người đồng phạm còn lại vẫn có thể
phải chịu TNHS về tội phạm mà mình muốn thực hiện ở các giai đoạn chuẩn bị phạm
tội hoặc phạm tội chưa đạt.
Về vấn đề tự ý nữa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm mặc dù từ trước đến
nay các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn luôn áp dụng những quy định của Nghị quyết số
01/HĐTP/NQ ngày 19 tháng 4 năm 1989 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn bổ sung một số quy định của phần chung Bộ luật Hình sự hướng dẫn
cho Bộ luật hình sự 1985 để áp dụng. Nhưng việc áp dụng như vậy là không phù hợp
với quy định của pháp luật về việc áp dụng các văn bản pháp luật. Bởi khi Bộ luật hình
sự 1999 ra đời thì đã có văn bản hướng dẫn khác phù hợp với Bộ luật mới rồi chính vì
thế đối với vấn đề tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng nên được hướng dẫn
cụ thể ở một văn bản pháp luật mới có hiệu lực pháp luật.
Vấn đề xác định thời điểm tham gia tội phạm của những người đồng phạm. Đây
là một vấn tương đối khó khăn khi xác định TNHS mà thực tiễn giải quyết các vụ án
về đồng phạm của Tòa án đã gặp phải. Do đó, theo quan điểm của người viết khi ban
GVHD: Nguyễn Thu Hương
63
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
hành văn bản hướng dẫn về vấn đề đồng phạm Tòa án nhân dân tối cao cũng nên cân
nhắc, ghi nhận và giải thích trường hợp này theo hướng quy định TNHS cho những
người tham gia tội phạm ở giai đoạn tội phạm hoàn thành nhưng chưa kết thúc cũng là
một loại người trong đồng phạm, từ đó giúp cho việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến vấn đề này được dễ dàng hơn.
Thứ hai, Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và
trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán Tòa án các cấp.
Qua thực tiễn xét xử của ngành tòa án các cấp, chúng ta có thể thấy rằng tuy đã
có nhiều tiến bộ vượt bậc nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại, thiếu sót trong việc xét
xử các vụ án hình sự và xác định TNHS cho những người đồng phạm. Nguyên nhân
chủ quan là do tinh thần trách nhiệm, năng lực, nghiệp vụ chuyên môn của thẩm phán
nói riêng và hội đồng xét xử nói chung. Do vậy để nâng cao chất lượng xét xử và đảm
bảo hình phạt được áp dụng một cách công bằng, chính xác thì các thành viên hội
đồng xét xử phải thường xuyên trao dồi kiến thức, chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp; thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải thường xuyên cập nhật kiến thức mới,
văn bản pháp luật mới. Thẩm phán phải thật sự công tâm khi xét xử để hình phạt được
tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đấu tranh với tiêu cực trong quá trình giải
quyết vụ án. Đồng thời xử lý nghiêm đối với trường hợp cán bộ xét xử oan sai, phải
xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên hội đồng xét xử để từ đó xử lý cho chính
xác. Đối với những trường hợp thành viên hội đồng xét xử do tiêu cực mà xét xử trái
pháp luật thì phải truy cứu TNHS, xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Thứ ba, Tăng cường kiểm sát việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến
những loại người đồng phạm của Viện kiểm sát nhân dân
Ngành kiểm sát cần tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động khởi tố, điều tra xét
xử, thi hành án. Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan điều tra và Tòa án trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Nâng cao ý thức pháp luật và năng
lực áp dụng pháp luật trong hoạt động bồi dưỡng về các mặt chuyên môn, nghiệp vụ,
trình độ chính trị để nâng cao năng lực của đội ngũ Kiểm sát viên. Tăng cường các
điều kiện về cơ sở, vật chất, phương tiện đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm
vụ kiểm sát.
Tóm lại, Thông qua việc tìm hiểu những bất cập nêu trên người viết đã đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và nâng cao hiệu
quả việc áp dụng pháp luật từ thực tiễn tạo sự thống nhất trong quan điểm xét xử khắc
phục vướng mắc trong công tác tố tụng cũng như xét xử án đồng phạm.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
64
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
KẾT LUẬN
Đồng phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và những người tham gia trong
đồng phạm sẽ phải bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội của mình. Vì thế việc xác
định TNHS của những người đồng phạm là một trong những chế định quan trọng của
luật hình sự. Từ trước đến nay, trong khoa học luật hình sự vấn đề này luôn được các
nhà khoa học luật trong nước quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là một chế định
phức tạp, nội dung nghiên cứu phong phú nên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ
và chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Đồng thời, từ những nghiên cứu về
mặt lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng TNHS cho những người đồng phạm
chúng ta có thể kết luận rằng: đồng phạm là hình thức tội phạm đặc biệt với sự tham
gia của nhiều người. Mỗi người đồng phạm bằng hành vi cụ thể của mình đều góp
phần đảm bảo cho tội phạm được thực hiện trên thực tế, sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau
giữa những người đồng phạm đã giúp họ củng cố quyết tâm thực hiện tội phạm đến
cùng. Chính vì thế tội phạm diễn ra với hình thức này thường gây hậu quả rất nghiêm
trọng và việc xác định TNHS cho từng người tham gia cũng vô cùng khó khăn, mà
thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc.
Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm do đồng phạm nói riêng ở nước ta đang
diễn biến rất phước tạp. Trong đó các vụ án do phạm tội có tổ chức gây ra cũng đang
chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các vụ đồng phạm. Việc giải quyết TNHS đối với từng
người đồng phạm trong các vụ án đó cũng rất phức tạp, bởi vì không phải trong mọi
trường hợp vai trò của từng người tham gia trong vụ phạm tội đều có tính chất và mức
độ nguy hiểm như nhau. Vấn đề đặt ra là các cơ quan tiến hành tố tụng cần có những
hướng dẫn cụ thể, biện pháp thống nhất để xác định hình thức của đồng phạm, các loại
người tham gia trong đồng phạm và việc xác định TNHS cho họ làm căn cứ quan
trọng trong việc xác định hình phạt và các biện pháp tư pháp cũng như công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Từ những nhận định trên người viết mong rằng việc nghiên cứu đề tài luận văn
của mình sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc sửa đổi, bổ sung các quy định của luật
hình sự đối với các vấn đề có liên quan đến đồng phạm nói chung và việc xác định
trách nhiệm hình sự cho những người này nói riêng, góp phần vào việc giải thích,
hướng dẫn tạo nhận thức chung để các cơ quan tố tụng áp dụng đúng đắn các quy định
của pháp luật về việc xác định TNHS cho những người đồng phạm trong thời gian tới.
Bên cạnh đó còn giúp cho các cơ quan xét xử nâng cao được hiệu quả cũng như chất
lượng giải quyết các vụ án hình sự, tạo công bằng cho xã hội.
GVHD: Nguyễn Thu Hương
65
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 2
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 3
5. Bố cục đề bài ....................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
1.1. Một số khái niệm có liên quan .......................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự ..................................................................... 5
1.1.2 Khái niệm đồng phạm và những loại người trong đồng phạm ..................... 6
1.1.3 Khái niệm trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm .................... 12
1.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm ..................... 13
1.2.1. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự .............................................................. 13
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm...................... 16
1.3. Các hình thức của đồng phạm ........................................................................ 22
1.3.1. Phân loại theo dấu hiệu chủ quan ................................................................ 22
1.3.2. Phân loại theo dấu hiệu khách quan ............................................................ 23
1.3.3. Phạm tội có tổ chức trong đồng phạm......................................................... 24
1.4. Lịch sử hình thành chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng
phạm ........................................................................................................................ 26
1.4.1. Trong giai đoạn phong kiến......................................................................... 26
1.4.2. Trong giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình
sự 1985 ra đời ........................................................................................................ 27
1.4.3. Giai đoạn từ khi ban hành bộ luật hình sự 1985 đến nay ............................ 28
1.5. Ý nghĩa chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm......... 29
GVHD: Nguyễn Thu Hương
66
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
2.1. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm31
2.1.1. Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ vụ án ................................ 31
2.1.2. Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm ... 32
2.1.3. Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm . 33
2.2. Các căn cứ xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm ... 34
2.2.1. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm .......... 34
2.2.2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.............. 35
2.2.3. Nhân thân người phạm tội trong đồng phạm .............................................. 40
2.2.4. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự ........................... 42
2.3. Xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm trong một số
trƣờng hợp đặc biệt ................................................................................................ 44
2.3.1. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong giai đoạn chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt .............................................................................. 45
2.3.2. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong việc tự ý nữa chừng
chấm dứt việc thực hiện tội phạm ......................................................................... 47
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM
3.1. Tổng quan tình hình tội phạm do đồng phạm gây ra trên cả nƣớc giai đoạn từ
năm 2011 đến 2013 ................................................................................................. 51
3.2. Một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời
đồng phạm ............................................................................................................... 54
3.2.1. về các giai đoạn thực hiện tội phạm ............................................................ 55
3.2.2. Vấn đề trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong việc tự ý nữa
chừng chấm dứt việc phạm tội .............................................................................. 55
3.2.3. Hành vi thái quá của người thực hành......................................................... 56
3.2.4. Vấn đề xác định sự khác nhau về trách nhiệm hình sự của từng loại người
tham gia trong vụ án đồng phạm ........................................................................... 56
3.2.5. Việc xác định vai trò, mức độ tham gia của những người đồng phạm ...... 57
GVHD: Nguyễn Thu Hương
67
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
3.2.6. Xác định thời điểm bắt đầu tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm 59
3.3. Đề xuất giải pháp trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời
đồng phạm. .............................................................................................................. 61
3.3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự
của những người đồng phạm ................................................................................. 61
3.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 trog việc xác định trách nhiệm hình sự cho những người đồng phạm . 63
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 68
GVHD: Nguyễn Thu Hương
68
SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi
[...]... trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện một hành vi phạm tội với lỗi cố ý và TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc người phạm tội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình, người viết đưa ra một khái niệm tương đối tổng quát về TNHS của những người đồng phạm như sau: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là hậu quả pháp lý bất lợi cho những người phạm tội trong... là đồng phạm hoặc cao hơn là trường hợp phạm tội có tổ chức Nếu Bộ luật hình sự không quy định hành vi tổ chức cho người khác phạm tội là tội phạm độc lập thì người thực hiện hành vi đó được xem là người tổ chức trong đồng phạm 1.4 Lịch sử hình thành chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý hình thành khi có sự xuất hiện của tội phạm và. .. bằng của pháp luật giúp cơ quan Tòa án đưa ra hình phạt thích hợp với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế 2.2 Các căn cứ xác định trách nhiệm hình sự cho những ngƣời đồng phạm 2.2.1 Cơ sở pháp lý về trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý mà những người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, thể hiện ở bản kết tội cũng như hình. .. Nguyễn Thị Khánh Vi Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm phần chung Bộ luật hình sự mô tả các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể, tạo nên cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm tại Điều 20 Từ những tìm hiểu ở phần lý luận chung ta biết rằng TNHS của những người đồng phạm là một dạng đặc biệt, do đó cơ sở pháp lý về TNHS của những người đồng phạm mặc dù không... người trở lên có đầy đủ năng lực và tuổi chịu TNHS phải chịu trách nhiệm khi họ thực hiện hành vi phạm tội với các vai trò là người thực hành, người tổ chức, xúi giục, giúp sức người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội 1.2 Đặc điểm trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm 1.2.1 Đặc điểm của trách nhiệm hình sự Có quan điểm cho rằng: Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý hình. .. tội phạm của người thực hành nhưng vẫn phải chịu TNHS 2.1.3 Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm Trong một vụ đồng phạm tuy có nhiều người cùng tham gia vào một tội phạm nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau Cho nên khi truy cứu TNHS cần xem xét sự tham gia của họ Tính chất tham gia của những người đồng phạm thể hiện vai trò của họ trong đồng phạm. .. Vi Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm Bên cạnh đó tại Bộ luật hình sự 1999 đã quy định về việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Điều 53 như sau: “Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người. .. cùng với lịch sử phát triển của Luật hình sự Việt Nam 1.5 Ý nghĩa chế định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm Chế định TNHS của những người đồng phạm là một chế định pháp lý đảm bảo tính công bằng của xã hội trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội Do vậy việc xây dựng và áp dụng đúng những quy định về về xác định TNHS cho những người đồng phạm sẽ có ý nghĩa rất lớn trong... định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành xung quanh vấn đề xác định TNHS cho những người đồng phạm ở chương sau GVHD: Nguyễn Thu Hương 30 SVTH: Nguyễn Thị Khánh Vi Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm CHƢƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG PHẠM Xuất phát từ các nguyên tắc chung của luật hình sự là nguyên tắc pháp... Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là kết quả quá trình thực hiện tội phạm của nhiều người mà theo quy định của luật hình sự thì ít nhất phải có hai người trở lên cùng thực hiệc tội phạm với lỗi cố ý Dấu hiệu cùng thực hiện một tội phạm nghĩa là những người tham gia bằng hành vi của mình đều góp phần thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy việc thực hiện tội phạm Cố ý cùng thực hiện một tội phạm