Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 75 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
75
Dung lượng
820,31 KB
Nội dung
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
-----
-----
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 – 2014)
Tên đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
ThS. LÊ HUỲNH PHƯƠNG CHINH
NGUYỄN CHÍ KHANG
MSSV: 5115715
Lớp: Luật Thương mại 1
CẦN THƠ, tháng 12 năm 2014
-------------
-------------
Tác giả xin chân thành cảm ơn thầy Dương Văn Học đã truyền đạt những kỹ
năng và những kiến thức hữu ích liên quan quyền đảm bảo an sinh xã hội trong pháp
luật Việt Nam cũng như tạo điều kiện để tác giả hoàn thành tốt Luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình hoàn thiện luận văn, nhưng sẽ không tranh
khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ các Thầy, Cô,
các bạn sinh viên và người đọc để tác giả có thể hoàn thành tốt hơn nữa đề tài nghiên
cứu của mình.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................
...............................................
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
...........................................
................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục văn bản quy phạm pháp luật
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2013
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006
Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn
một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 04 năm 2007 của Chính phủ về Chính
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 sửa đổi, bổ sung một số điều
nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 04 năm 2007 của Chính phủ về Chính
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội
Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30 tháng 01 năm 2007 của Bộ Lao động
Thương Binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều
của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thông tư 19/2008/TT-BLĐTBXH ngày 23 tháng 09 năm 2008 của Bộ Lao động
Thương Binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư 03/2007/TTBLĐTBXH ngày 30 tháng 01 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị
định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc hướng dẫn thực hiện
một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thông tư 41/2009/TT-BLĐTBXH ngày 30 tháng 12 năm 2009 của Bộ Lao động
Thương Binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30
tháng 01 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐCP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thông tư 23/2012/TT-BLĐTBXH ngày 18 tháng 10 năm 2012 của Bộ Lao động
Thương Binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư 19/2008/TTBLĐTBXH ngày 23 tháng 09 năm 2008 của Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội sửa
đổi, bổ sung một số điều Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30 tháng 01 năm
2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội và
bảo hiểm xã hội bắt buộc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều
của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30 tháng 01 năm 2007 hướng dẫn thực hiện
một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Danh mục sách báo, tạp chí
Nguyễn Văn Định, Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà
Nội, 2008
Nguyễn Thị Kim Phụng, Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 2008
Ths. Diệp Thành Nguyên, Giáo trình Luật an sinh xã hội, Khoa Luật, Đại học Cần
Thơ, 2012
Nguyễn Văn Dung – Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao, Giáo trình lý luận và pháp luật
về quyền con người, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội
Bùi Hồng Lĩnh, Kết quả thực hiện pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
những năm vừa qua và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới.
ThS. Nguyễn Văn Chiều, An sinh xã hội và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai
trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách an sinh xã hội ở Việt
nam, Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Danh mục trang thông tin điện tử
Bảo đảm an sinh xã hội - một quyền mới của công dân, http://hanoimoi.com.vn/Tintuc/Chinh-tri/684932/bao-dam-an-sinh-xa-hoi---mot-quyen-moi-cua-cong-dan
Đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội, http://rubiclaw.vn/doi-tuong-duoc-huong-uu-daixa-hoi
Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền Con Người, http://chungta.com/nd/tu-lieutra-cuu/lich_su_phat_trien_tu_tuong_quyen_con_nguoi/default.aspx
Luật an sinh xã hội, http://www.slideshare.net/foreman/luat-an-sinh-xa-hoi-vn
Luật
Bảo
hiểm
xã
hội
-
Nhiều
bất
cập
cần
sửa
đổi,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?It
emID=1155
Nhân quyền, http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_quy%E1%BB%81n
Trao đổi ý kiến: Bất cập về chính sách bảo hiểm xã hội: Văn bản có khác luật,
http://baoduongsat.vn/xa-hoi/phap-luat/trao-doi-y-kien-bat-cap-ve-chinh-sach-baohiem-xa-hoi-van-ban-co-khac-luat.html
Vũ Ngọc Bình, Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế về quyền con người (The United
Nations
and
International
Human
Rights
Law),
http://www.crights.org.vn/module/html/print.asp?id=107
Xác định rõ "Quyền con người và quyền cơ bản của công dân",
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?It
emID=828
Ưu đãi xã hội ở Việt Nam, http://luanvan.co/luan-van/de-tai-uu-dai-xa-hoi-o-viet-nam7079/
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người và quyền được đảm bảo về an sinh xã hội là những yếu tố cơ
bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người (nhân
quyền) đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhưng không phải trong bất cứ
hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được
thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết
quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng, giải
phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ,
nhân đạo. Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi nhân quyền như một
vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để tập hợp lực
lượng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được giai cấp tư sản
đề cập đến như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm
1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên
của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Nhân quyền đã trở thành vấn đề quan trọng,
thường xuyên được đề cập đến trong quan hệ quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành
hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là
Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948
thì vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở
thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế. Đến nay quyền con
người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà nước ta
luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945
được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người.
Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta: Hiến pháp
năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều
50 Hiến pháp năm 1992 của nước ta khẳng định: "ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được
tôn trọng và bảo đảm thực hiện". Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc
hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt nam là
thành viên. Đó là "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng". Việc hạn chế quyền con người,
quyền công dân không thể tùy tiện mà phải "theo quy định của luật".
Song song đó đảm bảo an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết của sự ổn
định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân.
Vượt qua khó khăn, thách thức, kể cả sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch
và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước
Việt Nam, hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được triển khai có hiệu quả, trở
thành một điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam...Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống an sinh xã hội được Đảng và Nhag nước ta xác định là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, là chủ trương, chính sách lớn phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ
xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định chính trị và phát triển bền
vững của đất nước.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, việc nghiên cứu cơ sở lý luận,
đánh giá những thành tựu, kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế của vấn đề
đảm bảo quyền an sinh xã hội là cần thiết. Đồng thời, qua đó xác định phương hướng,
nội dung, phương pháp thực hiện việc đảm bảo an sinh xã hội trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, nhu cầu hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả để phát huy quyền được đảm bảo an sinh xã hội trong pháp luật là cần
thiết. Nhận thức được điều đó, nên tác giả đã chọn vấn đề “Pháp luật Việt nam về
đảm bảo quyền an sinh xã hội” để làm đề tài nghiên cứu của Luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu những quy định pháp luật về
quyền đảm bảo an sinh xã hội, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của vấn đề
quyền con người, quyền đảm bảo an sinh xã hội của công dân để tìm hiểu tổng quan về
quyền con người và khái quát về quyền an sinh xã hội, để thấy được những tồn tại và
hạn chế trong quá trình thực hiện quyền bảo đảm an sinh xã hội. Từ đó, đưa ra những
giải pháp, định hướng thúc đẩy quá trình phát triển của vấn đề đảm bảo an sinh xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tổng quan về quyền con người, khái quát về quyền an sinh xã hội, sự ghi nhận
của quyền đảm bảo an sinh xã hội trong pháp luật Việt Nam và quốc tế là những vấn đề
lý luận chung được tác giả tập trung nghiên cứu. Trên cơ sở những kiến thức chung, tác
giả đã phân tích làm rõ các vấn đề liên quan đến các quan hệ trong an sinh xã hội như:
bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội. Từ những lý luận vừa phân tích, tác giả
đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế, bất cập trong quá
trình thực thi những quy định pháp luật liên quan đến quyền đảm bảo an sinh xã hội, từ
đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật viết
kết hợp với các biện pháp so sánh, đối chiếu và tổng hợp từ các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến thị trường mở. Bên cạnh đó, những phương pháp như thống kê,
suy luận logic cũng được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
+ Mục lục;
+ Lời nói đầu;
+ Nội dung chính của luận văn, được chia thành 2 chương:
Chương I: Quyền đảm bảo an sinh xã hội trong pháp luật Việt Nam .
Chương II: Thực tiễn và hướng hoàn thiện quyền đảm bảo an sinh xã hội trong
pháp luật Việt Nam.
+ Kết luận;
+ Danh mục tài liệu tham khảo.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, quyền đảm bảo an sinh xã hội
ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đảm bảo quyền an sinh xã hội đã góp phần ổn định đời sống của con người.
Trong trường hợp con người bị đau ốm, bệnh tật, mất khả năng lao động, mất việc
làm,… hệ thống an sinh xã hội sẽ có vai trò thay thế hoặc bù đấp một phần thu nhập.
Nhờ vậy, mà con người có thể nhanh chống khắc phục được những tổn thất về vật chất,
nhanh chống phục hồi về sức khỏe, thể lực, ổn định cuộc sống thường nhật. Bên cạnh
đó, an sinh xã hội còn góp phần đảm bảo an toàn, ổn định nền kinh tế xã hội. Có thể
khẳng định rằng, hệ thống an sinh xã hội là hệ thống chính sách từ trước đến nay đã
được quan tâm và mở rộng, từ đó có được sự chủ động, mau chống cân bằng cuộc sống
của con người trong những trường hợp cần thiết. Chính vì lẻ đó, phát triển và đảm bảo
quyền an sinh xã hội là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển và bền vững đất
nước. Ngày nay, Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển, đồng thời đang phải đối mặt
với nhiều thách thức bởi những rủi ro bất ngờ do thiên tai gây ra. Vì vậy, việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội là một yêu cầu bức thiết nhằm đảm bảo ổn định
chính trị, xã hội và phát triển đất nước. Với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước và quyết tâm của toàn xã hội, an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, để chính sách tiền
tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò, vị trí của mình phải phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước. Hiện tại, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 ghi nhận các công cụ
điều hành chính sách tiền tệ gồm công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ
bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở.
Trải qua một khoản thời gian lâu dài chuẩn bị về hệ thống pháp luật, nguồn
nhân lực và trang thiết bị phục vụ cho quá trình hoạt động, thị trường mở của Ngân
hàng trung ương chính thức đi vào hoạt động vào tháng 7 năm 2000. Kể từ khi ra đời,
thị trường mở đã được thực hiện an toàn và hiệu quả trong việc điều hành chính sách
tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của
Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường mở còn bộc lộ
những hạn chế nhất định. Chủ thể tham gia còn ít, hàng hóa giao dịch chưa được nhiều,
quy trình xử lý thông tin chưa hoàn thiện là những lý do làm cho nghiệp vụ thị trường
mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa thật sự phát triển.
Chính vì vậy, nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị
trường mở là cần thiết. Nhận thức được điều đó, nên tác giả đã chọn vấn đề “Pháp luật
về thị trường mở” để làm đề tài nghiên cứu của Luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu những quy định pháp luật về
thị trường mở để thấy được những tồn tại và hạn chế trong quá trình điều hành chính
sách tiền tệ thông qua công cụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước. Từ đó, đưa ra
những giải pháp, định hướng thúc đẩy quá trình phát triển của hoạt động thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 1
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
3. Phạm vi nghiên cứu
Lịch sử hình thành, cơ chế tác động, vai trò và nhân tố ảnh hưởng đến sự vận
hành của thị trường mở là những vấn đề lý luận chung về thị trường mở được tác giả
tập trung nghiên cứu. Trên cơ sở những kiến thức chung, tác giả đã phân tích làm rõ tư
cách pháp lý cũng như mục đích của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khi
tham gia thị trường mở. Đồng thời, những hàng hóa tham gia thị trường mở như tín
phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước và chứng chỉ tiền gửi cũng được tác giả
giới thiệu trong chương này. Những hàng hóa tham gia giao dịch trên thị trường mở có
thể được mua bán dưới hình thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn, thông qua
phương thức đấu thầu lãi suất hoặc đấu thầu khối lượng theo những trình tự và thủ tục
của Luật định.
Từ những lý luận vừa phân tích, tác giả đánh giá những kết quả đạt được cũng
như những tồn tại, hạn chế trong quá trình vận hành của thị trường mở, từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật
viết kết hợp với các biện pháp so sánh, đối chiếu và tổng hợp từ các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến thị trường mở. Bên cạnh đó, những phương pháp như thống kê,
suy luận logic cũng được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
+ Mục lục;
+ Lời nói đầu;
+ Nội dung chính của luận văn, được chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về thị trường mở.
Chương II: Quy định pháp luật điều chỉnh về thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 2
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Chương III: Nhận xét việc thực hiện quy định pháp luật về thị trường mở - Một
số định hướng hoàn thiện.
+ Kết luận;
+ Danh mục tài liệu tham khảo.
-------------
-------------
Tác giả xin chân thành cảm ơn cô Lê Huỳnh Phương Chinh đã truyền đạt
những kỹ năng và những kiến thức hữu ích liên quan đến nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng trung ương cũng như tạo điều kiện để tác giả hoàn thành tốt luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình hoàn thiện luận văn, nhưng sẽ không tranh
khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ các Thầy, Cô,
các bạn sinh viên và người đọc để tác giả có thể hoàn thành tốt hơn nữa đề tài nghiên
cứu của mình.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 3
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường mở
Trên thế giới, thị trường mở (OMO – open Market Operations) được hình
thành đầu tiên vào năm 1920 tại Mỹ, khi Hệ thống dự trữ Liên bang (Federal Reserve
System – FED), tức Ngân hàng Trung ương của Mỹ tiến hành mua bán chứng khoán
Chính phủ với các Ngân hàng thương mại để hỗ trợ thêm cho các nghiệp vụ của Ngân
hàng Trung ương. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945), Ngân hàng trung
ương của các nước Châu Âu cũng đã sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán Chính
phủ để hỗ trợ chính sách tái chiết khấu. Kể từ đó khái niệm thị trường mở được sử
dụng rộng rãi tại các quốc gia theo nền kinh tế thị trường và tại các ngân hàng phát
triển1.
Ở Việt Nam, thị trường mở ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới.
Một thời gian dài 15 năm sau đổi mới (1986 – 1998), Việt Nam vẫn chưa đảm bảo
được những điều kiện cần thiết để đưa thị trường mở đi vào hoạt động. Bởi, trên thực
tế Việt Nam vẫn chưa có một thị trường chứng khoán nào được hình thành.
Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở, lần đầu tiên đề cập tại Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam năm 1997. Theo đó “Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua,
bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên thị trường
tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”2. Sau đó, khái niệm nghiệp vụ thị
trường mở được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003)3. Ngày 11 tháng 7 năm 1998 Chính phủ
ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Cũng trong ngày 11 tháng 7 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
1
Dương Hữu Hạnh, Ngân hàng trung ương các vai trò và các nghiệp vụ (Central Bank: Roles and Operations),
Nhà xuất bản Lao động, trang 662
2
Khoản 4, Điều 9, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997
3
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước thực hiện
trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 4
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
khoán Thành phố Hồ Chí Minh4. Như vậy, thị trường chứng khoán đầu tiên của Việt
Nam đã được hình thành vào năm 1998 với tên gọi là Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau đó, Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN ngày 09/3/2000 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở
ra đời. Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ban hành kèm theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở đã đưa ra những quy định
pháp luật liên quan nhằm cụ thể hóa khái niệm thị trường mở tại Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003). Những quy định pháp luật liên
quan đến thị trường mở như: công nhận thành viên tham gia thị trường mở, các loại
giấy tờ có giá được tham gia giao dịch thông qua thị trường mở, phương thức mua bán
và phương thức đấu thầu giấy tờ có giá…Nhìn chung, quy chế nghiệp vụ thị trường
mở được ban hành kèm theo quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN đã đưa ra những quy
định làm nền móng cho sự hình thành và phát triển quy định pháp luật về thị trường
mở sau này.
Tuy nhiên, mãi đến năm 2000 thị trường mở mới được Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam chính thức triển khai áp dụng5. Thị trường mở đi vào hoạt động đã thể hiện
được vai trò quan trọng trong việc điều tiết – tăng hoặc giảm – mức dự trữ của các tổ
chức tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc
mua hoặc bán giấy tờ có giá. Với sự thành công của phiên giao dịch đầu tiên của thị
trường mở ở Việt Nam vào tháng 7 năm 2000, đánh dấu bước phát triển mới trong cơ
chế điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam6. Đây được xem là kết quả bước đầu của
cả một quá trình nỗ lực chuẩn bị, góp phần đổi mới trong việc điều hành chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chuyển dần từ việc áp dụng các công cụ trực tiếp sang
các công cụ gián tiếp.
4
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh hình thành và phát triển,
http://www.hsx.vn/hsx/Modules/Gioithieu/Lichsu.aspx [Truy cập ngày 28/7/2014]
5
Trần Trọng Độ, Thị trường mở từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2004, Hà Nội, trang 5
6
Nguyễn Văn Dờn, Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, Nhà xuất bản Phương Đông, trang 111
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 5
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Hiện nay, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định về thị
trường mở như sau: “Ngân hàng Nhà nước thực hiện thị trường mở thông qua việc
mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng”7. Điều đó cho thấy, quy định pháp
luật về thị trường mở ngày một hoàn thiện góp phần thúc đẩy hoạt động thị trường mở
ngày càng hiệu quả.
Thị trường mở ra đời có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong việc điều
hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
+ Thứ nhất, do hạn chế của những công cụ trực tiếp trong việc điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia. Những công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia được ngân hàng trung ương sử dụng dưới các hình thức: quy định hạn mức tín
dụng, khống chế trực tiếp lãi suất tiền gửi – lãi suất tiền vay, khống chế trực tiếp tỷ giá
mua – bán ngoại tệ của các ngân hàng8. Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia, những công cụ trực tiếp thể hiện nhiều bất cập: thiếu chủ động, không có sự
liên kết chặt chẽ, chưa thật sự phản ánh được tín hiệu của thị trường. Đặc biệt, công cụ
trực tiếp dưới hình thức hạn mức tín dụng hiệu quả điều tiết chính sách tiền tệ không
cao, bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường
tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của ngân
hàng thương mại. Chính những bất cập của công cụ trực tiếp trong điều hành chính
sách tiền tệ đã làm cho hoạt động của ngân hàng trung ương đạt hiệu quả không cao.
Để khắc phục những bất cập đó, nghiệp vụ thị trường mở - một công cụ gián tiếp điều
hành chính sách tiền tệ ra đời.
+ Thứ hai, so với các công cụ gián tiếp khác trong điều hành chính sách tiền
tệ, nghiệp vụ thị trường mở thể hiện phần vượt trội hơn. Bởi vì, tự bản thân nghiệp vụ
thị trường mở có thể kiểm soát được toàn bộ khối lượng và thực hiện, trong khi đó
hành vi kiểm soát này không thể có được ở các công cụ khác9. Chẳng hạn như công cụ
7
Khoản 1, Điều 15, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010
Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng, Học viện ngân hàng, Nhà xuất bản Dân Trí, 2012, trang 340
9
Trần Trọng Độ, Thị trường mở từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2004, trang
266
8
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 6
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
dự trữ bắt buộc, tự bản thân nó không phản ánh được toàn bộ dự trữ thực của hệ thống
ngân hàng và do đó nó khó có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng. Hay nghiệp vụ
tái chiết khấu, Ngân hàng trung ương có thể sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết
hay khuyến khích các ngân hàng vay vốn. Nhưng trên thực tế, nó không thể kiểm soát
trực tiếp khối lượng chiết khấu.
+ Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế,
đòi hỏi Việt Nam phải có thị trường tài chính lớn mạnh đủ để tham gia cạnh tranh
trong thị trường quốc tế. Thị trường mở sẽ góp phần hoàn thiện và phát triển thị trường
tài chính của Việt Nam.
+ Thứ tư, thị trường mở đã giúp cho chính phủ thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia một cách hiệu quả. So với công cụ tái chiết khấu hay dự trữ bắt buộc, công cụ
nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính linh hoạt và tính chính xác cao hơn. Với nghiệp
vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể điều hành cơ chế tiền tệ tùy theo mức
độ mong muốn thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng chứng khoán lớn hoặc
nhỏ. Đặc biệt, hiện nay máy móc được trang bị hiện đại, chương trình đấu thầu hợp lý
điều đó giúp cho việc đấu thầu được diễn ra nhanh gọn đảm bảo bí mật số liệu mà
không bị trở ngại bởi các thủ tục hành chính.
+ Bên cạnh đó, thị trường mở còn có vai trò quan trọng đối với các tổ chức tín
dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng, thực hiện mục tiêu các chính sách tiền
tệ theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước.
Tóm lại, thị trường mở của Việt Nam ra đời có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, thị trường mở đã giúp Ngân hàng
trung ương kiểm soát được sự thay đổi của mức cung ứng tiền tệ, phục vụ cho việc
thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ và ổn định hoạt động
của hệ thống ngân hàng, cũng như thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô – các công cụ
gián tiếp của chính sách tiền tệ được tăng cường.
Tuy vậy, tính đến thời điểm hiện tại những quy định về thị trường mở còn nằm
rải rác, chưa có sự thống nhất trong cùng một văn bản. Do đó, đòi hỏi phải có một
khung pháp lý hoàn chỉnh ra đời để điều chỉnh thị trường mở, nhằm đáp ứng được xu
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 7
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
thế phát triển của thị trường và hỗ trợ kịp thời nguồn vốn khả dụng cho các tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài10.
1.2. Khái niệm thị trường mở
Khái niệm thị trường mở được hiểu trên hai quan điểm cơ bản. Thứ nhất, xét
theo nghĩa rộng, thị trường mở (Open market) là một khái niệm của sự kết hợp giữa
phạm trù thị trường tiền tệ, thị trường tài chính. Thứ hai, xét theo nghĩa hẹp, thị trường
mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua hoặc bán các công cụ tài
chính. Trong nội dung này, người viết nghiên cứu theo quan điểm thứ hai, tức thị
trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua bán các giấy tờ có
giá ngắn hạn.
Thị trường mở là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Để hiểu như thế
nào là thị trường mở, trước tiên chúng ta phải hiểu rõ chính sách tiền tệ là gì? Một
cách tổng quát chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của
Ngân hàng Nhà nước, do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm khởi thảo và thực
thi. Thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương thực
hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu về giá cả, sản
lượng và công ăn việc làm. Như vậy, bản chất của chính sách tiền tệ chính là sự chủ
động của ngân hàng trung ương trong việc tạo ra các điều kiện về tiền tệ (mức cung
cầu hoặc lãi suất) với mục đích xác định. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là
ổn định giá trị đồng tiền và hướng đến một mục tiêu đã đặt ra trong nền kinh tế.Chính
sách tiền tệ của quốc gia được hiểu là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền
biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực
hiện mục tiêu đề ra11. Như vậy, chính sách tiền tệ quốc gia là chính sách kinh tế vĩ mô.
Thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, chính sách tái
10
Bản giải trình về dự thảo Thông tư thay thế Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 về việc ban hành
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở và Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN ngày 30/9/2008 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy chế nghiệp vụ thị trường mở
11
Khoản 1, Điều 3, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 8
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
chiết khấu, hạn mức tín dụng và nghiệp vụ thị trường mở,.. Ngân hàng Nhà nước thực
hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm ổn định giá trị đồng
tiền và đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội đã đề ra.
Theo cách hiểu chung nhất, thị trường mở là nơi diễn hoạt động mua bán giấy
tờ có giá của Ngân hàng trung ương với các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường
mở. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực
tiếp đến dự trữ của hệ thống các tổ chức tín dụng và tác động gián tiếp đến lãi suất của
thị trường12. Xét về mặt lý thuyết, đối tượng của nghiệp vụ thị trường mở là các chứng
khoán ngắn hạn hoặc dài hạn. Các chứng khoán này có thể do Chính phủ phát hành
hoặc do các doanh nghiệp, các ngân hàng phát hành. Và các chủ thể tham gia với tư
cách là thành viên của nghiệp vụ thị trường mở có thể là các ngân hàng, các doanh
nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính. Xét về mặt thực tế, nghiệp vụ thị trường mở là
hành vi giao dịch các chứng khoán của ngân hàng trung ương với các thành viên tham
gia nghiệp vụ thị trường mở. Hàng hóa được giao dịch thực chất là các chứng khoán
nợ ngắn hạn hoặc dài hạn. Một khi đến hạn, bên phát hành chứng khoán nợ phải có
nghĩa vụ trả nợ và lãi suất cho bên sở hữu chứng khoán nợ đó.
Hiện nay, trên thế giớicó nhiềuquan điểm khác nhau về thị trường mở và các
loại chứng khoán được tham gia giao dịch trên thị trường mở.
Theo quan điểm của Anh: “Thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua
bán trái phiếu dài hạn của Chính phủ trên thị trường trái phiếu có bảo đảm để làm tăng
hoặc giảm mức cho vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, ngân hàng trung
ương sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. Thị trường mở
về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị trường tín phiếu. Nơi mà ngân
hàng trung ương bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương mại để tác động
đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”13.
12
Trần Trọng Độ,Thị trường mở từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Ha Nội, 2004, trang
74
13
Khái niệm chung về nghiệp vụ thị trường mở,http://voer.edu.vn/m/khai-niem-chung-ve-nghiep-vu-thi-truongmo/1fe15c7f[Ngày truy cập: 24/7/2014]
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 9
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Theo quan điểm của Mỹ: “Thị trường mở là nơi mua và bán các loại chứng
khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi FED”14. FED là tên viết tắt của
Ngân hàng dự trữ liên ban Mỹ. Ngân hàng do Quốc hội Mỹ thành lập từ năm 1993 để
tạo cho quốc gia này có một hệ thống tài chính tiền tệ an toàn, linh hoạt và ổn định
hơn. Trong những năm qua, vai trò của FED đối với hệ thống ngân hàng và trong nền
kinh tế ngày càng được gia tăng15.
Tuy có sự khác nhau trong cách định nghĩa về thị trường mở, nhưng cả hai đều
cho rằng thị trường mở là nghiệp vụ của thị trường giao dịch các loại chứng khoán
ngắn hạn và dài hạn. Và tùy theo điều kiện của từng quốc gia mà các loại giấy tờ có
giá, cũng như những chủ thể tham gia giao dịch thị trường mở được quy định khác
nhau. Một số nước quy định hàng hóa tham gia giao dịch trên thị trường mở chỉ là giấy
tờ có giá dài hạn như Anh. Một số nước lại cho phép mua hoặc bán cả giấy tờ có giá
ngắn hạn và dài hạn điển hình như: Thái Lan, Mỹ16…Trong khi đó pháp luật Việt Nam
chỉ cho phép mua hoặc bán ngắn hạn giấy tờ có giá chứ không phải tất cả các loại giấy
tờ có giá như quan điểm của một số nước.
Ở Việt Nam, khái niệm thị trường mở được hiểu: “Thị trường mở là nơi Ngân
hàng Nhà nước thực hiện mua, bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá với các tổ chức tín
dụng”17. Như vậy, thị trường mở là nơi diễn ra giao dịch mua hoặc bán ngắn hạn các
giấy tờ có giá. Với một bên là Ngân hàng trung ương và một bên là các tổ chức tín
dụng. Hàng hóa là các loại giấy tờ có giá ngắn hạn.
Theo khoản 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy
định: “ Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện
14
Khái niệm chung về nghiệp vụ thị trường mở,http://voer.edu.vn/m/khai-niem-chung-ve-nghiep-vu-thi-truongmo/1fe15c7f[Ngày truy cập: 24/7/2014]
15
Trần Trọng Độ: Thị trường mở từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Ha Nội, 2004, trang
91
16
Trần Trọng Độ, Thị trường mở từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2004, trang
190
17
Khoản 1, Điều 2, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước về Ban
hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 10
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
trả lãi và các điều kiện khác”. Hay nói cách khác, giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ, (1) xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong một quan hệ
pháp lý với một chủ thể khác. Một trong những thuộc tín cơ bản của giấy tờ có giá là:
(2) có thể chuyển giao được, nghĩa là chủ sở hữu giấy tờ có giá có thể chuyển giao giấy
tờ có giá thuộc sở hữu của mình cho một chủ thể khác trong quan hệ dân sự. Ngoài ra,
(3) giấy tờ có giá phải trị giá được bằng tiền, tức là giấy tờ có giá phải được xác định
bởi một lượng tiền nhất định.
Suy cho cùng, giấy tờ có giá chẳng qua là một phiếu nợ, mà khi đến hạn “con
nợ” (người phát hành giấy tờ có giá) phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng một số tiền
nhất định cho “chủ nợ” (người sở hữu giấy tờ có giá do “con nợ” phát hành).
Giấy tờ có giá theo quy định pháp luật hiện nay bao gồm: tín phiếu ngân hàng
nhà nước, trái phiếu chính phủ (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình trung ương, công trái xây dựng tổ quốc,…), trái phiếu được chính phủ bảo lãnh,
trái phiếu chính quyền địa phương18. Các loại giấy tờ có giá vừa nêu muốn được sử
dụng trong các giao dịch của ngân hàng nhà nước phải thỏa mãn những điều kiện luật
định19. Thứ nhất, giấy tờ có giá phải được lưu ký tại ngân hàng nhà nước. Thứ hai,
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng. Thứ ba, tổ chức phát hành không
được phép sử dụng các loại giấy tờ có giá do tổ chức đó phát hành để tham gia giao
dịch với ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thị trường mở của ngân hàng
trung ương, không phải lúc nào cũng mua bán tất cả các loại giấy tờ có giá trên. Ngân
hàng trung ương chỉ mua hoặc bán ngắn hạn giấy tờ có giá với tổ chức tín dụng.
Nói tóm tại, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ được thực hiện bởi Ngân
hàng trung ương mà nội dung cụ thể của nó là việc mua vào hoặc bán ra các loại giấy
tờ có giá ngắn hạn, không vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận mà vì mục đích ổn định nền
kinh tế quốc gia. Các hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở chính là phương tiện
18
Khoản 1, Điều 1, Quyết đinh số 11/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước về danh
mục giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch của Ngân hàng Nhà nước
19
Khoản 2, Điều 1, Quyết đinh số 11/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước về danh
mục giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch của Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 11
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
quan trọng để triển khai và thực hiện chính sách tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ thị
trường mở, ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia có thể điều tiết được lượng cung
ứng tiềntệ của quốc gia.
1.3. Cơ chế tác động đến thị trường mở
Thông qua hoạt động mua hoặc bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương đã
tác động trực tiếp đến dự trữ của các tổ chức tín dụng và gián tiếp đến các mức lãi suất
trên thị trường20.
1.3.1. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Khi ngân hàng trung ương thực hiện việc mua, bán giấy tờ có giá trên thị
trường mở sẽ tác động ngay lập tức đến dự trữ của hệ thống ngân hàng. Bởi vì, việc
mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở của ngân hàng trung ương đã làm thay đổi
trực tiếp đến cơ số tiền tệ. Cơ số tiền tệ là lượng tiền trong lưu thông cộng với lượng
tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng. Lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân
hàng chính là khoản tiền dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại gửi tại ngân
hàng trung ương.
Ngoài ra, hành vi mua hoặc bán giấy tờ có giá của ngân hàng trung ương có
khả năng tác động trực tiếp đến dự trữ ngân hàng thương mại thông qua việc ảnh
hưởng của lượng tiền gửi của các ngân hàng tại ngân hàng trung ương và ảnh hưởng
đến lượng tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng.
Khi ngân hàng trung ương mua giấy tờ có giá trên thị trường mở, thì cơ số tiền
tệ sẽ tăng. Tức là lượng tiền trong lưu thông và lượng tiền dự trữ của các ngân hàng
thương mại tại ngân hàng trung ương sẽ tăng. Một khi dự trữ của các ngân hàng
thương mại tăng đồng nghĩa với việc tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng
và khối lượng tín dụng tăng lên theo, từ đó lượng tiền cung ứng sẽ tăng theo. Lượng
tiền cung ứng là tổng số tiền có khả năng thanh toán, nó bao gồm tiền mặt đang lưu
hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại.
20
Mai Văn Bạn, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, Trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà
Nội, NXB Thống Kê, 2008, trang 61
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 12
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Ngược lại, khi ngân hàng trung ương bán giấy tờ có giá trên thị trường mở, thì
cơ số tiền tệ sẽ giảm. Điều đó cho thấy, lượng tiền trong lưu thông và lượng tiền dự trữ
của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương sẽ giãm. Một khi dự trữ của
các ngân hàng thương mại giảm đồng nghĩa với việc giảm khả năng cho vay của các tổ
chức tín dụng và khối lượng tín dụng giảm xuống theo, từ đó lượng tiền cung ứng sẽ
giảm theo.
Như vậy, thông qua nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương
đã bơm vào hoặc hút ra một lượng tiền trong lưu thông. Chính điều đó làm tác động
trực tiếp vào dự trữ của các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến khả năng cho vay của các
tổ chức tín dụng và làm thay đổi cơ số tiền tệ của các ngân hàng.
1.3.2. Tác động đến lãi suất thị trường
Hoạt động mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường mở của ngân hàng trung
ương ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai cách thức sau:
Thứ nhất, khi thực hiện việc mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở
ngân hàng trung ương đã làm thay đổi dự trữ của hệ thống ngân hàng. Nếu dự trữ của
hệ thống ngân hàng thay đổi, sẽ dẫn đến thay đổi cung cầu vốn ngân hàng trung ương
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và làm thay đổi lãi suất thị trường tiền tệ. Từ đó
làm thay đổi lãi suất thị trường liên ngân hàng. Mức lãi suất ngắn hạn của thị trường
liên ngân hàng, thông qua dự đoán của thị trường sẽ ảnh hưởng đến các mức lãi suất
trung và dài hạn của thị trường tài chính.
Ví dụ1: Khi ngân hàng trung ương bán Tín phiếu kho bạc trên thị trường mở,
dẫn đến dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ giảm, kéo theo cung vốn ngân hàng trung
ương và lãi suất ngắn hạn giảm. Một khi, lãi suất ngắn hạn giảm đồng nghĩa với việc
lãi suất thị trường tăng lên, làm cho lượng đầu tư giảm.
Thứ hai, việc mua hoặc bán chứng khoán sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về
chứng khoán, từ đó làm thay đổi giá cả của chứng khoán. Khi giá chứng khoán thay
đổi, tỷ lệ sinh lời của nó thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn
trong giao dịch thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại đến lãi suất của
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 13
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
thị trường. Từ đó tác động đến nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Làm
thay đổi sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.
Ví dụ2: Khi Ngân hàng trung ương bán Tín phiếu kho bạc trên thị trường mở,
dẫn đến cung ứng tín phiếu kho bạc tăng, điều đó đồng nghĩa với việc giá của tín phiếu
kho bạc sẽ giảm. Khi đó, lãi suất thị trường tăng và đầu tư sẽ giảm.
Tóm lại, thông qua hoạt động mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở,
ngân hàng trung ương đã tác động trực tiếp đến các dự trữ của hệ thống ngân hàng,
qua đó tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Khi nền kinh tế đang rơi vào tình
trạng lạm phát, ngân hàng trung ương tiến hành bán các giấy tờ có giá để hỗ trợ cho
nền kinh tế thoát khỏi tình trạng lạm phát. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
giảm phát, ngân hàng trung ương sẽ mua các giấy tờ có giá vào. Khi đó lượng tiền
cung ứng sẽ trở nên dồi dào, kích thích tiêu dùng. Từ đó tạo công ăn việc làm, giảm
thất nghiệp, và tăng thu nhập quốc dân góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.4. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở
1.4.1. Đối với chính sách tiền tệ quốc gia
Thị trường mở giúp ngân hàng trung ương chủ động trong việc điều hành
chính sách tiền tệ thông qua việc kiểm soát mức cung ứng, và tăng khả năng điều tiết
lãi suất thị trường. Trong các công cụ của chính sách tiền tệ, thị trường mở được xem
là công cụ điều hành chính sách tiền tệ quan trọng nhất.
+ Thứ nhất, thị trường mở là một công cụ chính sách tiền tệ có tính chủ động
cao. Thông qua hoạt động của thị trường mở, ngân hàng trung ương có thể tạo ra
những biến động mang tính chất cung cấp tín hiệu cho thị trường theo mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia và theo xu hướng của thị trường. Bên cạnh đó, xuất phát từ bản
chất của thị trường mở là do ngân hàng trung ương khởi xướng, tức ngân hàng trung
ương sẽ chủ động hơn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Ví dụ, như các
nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của ngân hàng trung ương chủ yếu do các ngân
hàng chủ động yêu cầu, khi nào cần vay vốn các ngân hàng mới chủ động khởi xướng
yêu cầu vay vốn. Như vậy, cho thấy trong hoạt động của thị trường mở ngân hàng
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 14
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
trung ương hoàn toàn chủ động. Ngân hàng trung ương có thể linh hoạt quyết định
khối lượng cũng như thời gian giao dịch như quy mô lớn hoặc nhỏ, thời hạn dài hoặc
ngắn…tùy theo quyết định mua hoặc bán giấy tờ có giá. Đồng thời, ngân hàng trung
ương có thể chủ động trong việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở một cách định kỳ
hoặc đột xuất khi cần thiết đề điều chỉnh chính sách tiền tệ cho hợp lý.
+ Thứ hai, thị trường mở đảm bảo độ chính xác cao, tác động nhanh và an
toàn. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh khối lượng
giấy tờ có giá trên thị trường mở. Như vậy, cho thấy ngân hàng trung ương chủ động
trong việc điều chỉnh sự thay đổi của cơ số tiền tệ. Bởi trong những trường hợp cần
thiết, ngân hàng trung ương được quyền quyết định việc thay đổi khối lượng giấy tờ có
giá. Điều đó, chứng tỏ rằng thông qua thị trường mở ngân hàng trung ương có khả
năng tác động đến chính sách tiền tệ một các nhanh chóng. Sở dĩ nghiệp vụ thị trường
mở đảm bảo độ chính xác, vì các giấy tờ có giá trên thị trường mở đều có cơ sở bảo
đảm, thành viên tham gia thị trường mở đòi hỏi phải thỏa mãn những điều kiện nhất
định về giấy phép tham gia và những quy định do Ngân hàng trung ương đặt ra.
+ Thứ ba, thị trường mở là công cụ mềm dẻo trong các công cụ điều hành
chính sách tiền tệ. Trong trường hợp gặp rủi ro, ngân hàng trung ương có thể khắc
phục được. Cụ thể, nếu ngân hàng trung ương mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị
trường mở, ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh bằng cách bán ra giấy tờ có giá.
Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương bán quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở,
ngân hàng trung ương có thể điều tiết lại bằng cách mua vào giấy tờ có giá. Việc mua
vào hoặc bán ra giấy tờ có giá trên thị trường mở được thực hiện thường xuyên và
nhanh chóng theo định kỳ. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng trung ương có thể
yêu cầu thành viên tham gia thị trường mở ngay lập tức mở phiên giao dịch mua bán
giấy tờ có giá. Như vậy, thị trường mở có thể khắc phục được những hạn chế của các
công cụ chính sách tiền tệ khác. Bởi vì, các giao dịch của thị trường mở là giao dịch
hai chiều, nghĩa là ngân hàng trung ương vừa có thể bơm tiền vào lưu thông, vừa rút
tiền ra từ lưu thông thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 15
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Thứ tư, thị trường mở giúp ngân hàng trung ương kiểm soát tiền tệ một cách
hiệu quả. Là một công cụ chủ yếu nhất trong mục tiêu trung hòa điều tiết lượng tiền
lưu thông trong nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước đã điều hành thị trường mở một cách
linh hoạt, đảm bảo hài hòa các mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, nhưng vẫn
tạo sự thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh21. Đồng thời, trong quá trình điều
hành chính sách tiền tệ, chỉ cần một sự điều chỉnh nhỏ của ngân hàng trung ương có
thể làm thay đổi lượng tiền cung ứng.
+ Thứ năm, cùng phối hợp với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác
thị trường mở có vai trò gia tăng hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ. Việc kết
hợp linh hoạt các công cụ tái cấp vốn, công cụ dự trữ bắt buộc với thị trường mở cũng
có tác dụng nhất định hỗ trợ nghiệp vụ thị trường mở. Nhất là trong việc hạn chế các
biến động ngắn hạn về lãi suất trên thị trường. Muốn đạt hiệu quả cao trong điều hành
chính sách tiền tệ đòi hỏi phải có sự kết hợp linh hoạt các công cụ điều hành chính
sách tiền tệ trong đó có thị trường mở.
Bên cạnh đó, khi ngân hàng trung ương thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá
trên thị trường mở sẽ tác động đến cơ số tiền tệ. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ
có giá trên thị trường mở, ngân hàng trung ương có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối
lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Tùy theo tín hiệu của thị trường mà ngân
hàng trung ương sẽ quyết định đưa đồng tiền ra hoặc rút đồng tiền về trong quá trình
lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng trung ương ngoài vai trò điều tiết
nguồn vốn khả dụng của hệ thống tổ chức tín dụng, còn hỗ trợ cho Ngân hàng Nhà
nước trong việc định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai. Thông qua
hoạt động mua bán của nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường ngân hàng trung ương
có thể nắm bắt được tình hình thị trường từ đó có những định hướng nới lỏng hoặc thắt
chặt chính sách tiền tệ cho phù hợp. Đặc biệt, khi thị trường mở được thực hiện một
21
OMO: Điểm sáng chính sách tiền tệ, http://www.stockbiz.vn/News/2014/5/7/477040/omo-diem-sang-chinhsach-tien-te.aspx, [Ngày truy cập: 7/8/2014]
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 16
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
cách thường xuyên và hiệu quả, thì lãi suất của thị trường mở lúc này còn có một ý
nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường. Thông qua đó,
ngân hàng trung ương có thể hạn chế được những biến động của lãi suất thị trường.
Tóm lại, ngân hàng trung ương có vai trò quan trọng trong việc hoạch định và
tổ chức thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ, trong đó có thị trường mở. Ngân
hàng trung ương tham gia thị trường mở không vì mục đích lợi nhuận, mà vì mục đích
điều tiết và quản lý thị trường, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ
quốc gia. Thứ nhất, ngân hàng trung ương có vai trò quan trọng trong việc tổ chức, xây
dựng và điều hành các hoạt động của thị trường mở. Thứ hai, ngân hàng trung ương đã
nghiên cứu và tạo mọi điều kiện cho hoạt động của thị trường mở phát triển cũng như
hỗ trợ cho quá trình hoạt động của thị trường mở. Thứ ba, ngân hàng trung ương đã tạo
mọi điều kiện, cả về cơ sở vật chất lẫn các quy định pháp luật liên quan đến nghiệp vụ
thị trường mở. Thứ tư, ngân hàng trung ương chủ động quyết định thời điểm, khối
lượng, phương thức giao dịch và phối hợp với các công cụ khác để điều hành chính
sách tiền tệ. Như vậy, so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, thị trường mở
chiếm nhiều ưu thế hơn và thị trường mở có thể được sử dụng để hỗ trợ cho các công
cụ mang tính chất trực tiếp hoặc gián tiếp khác trong điều hành chính sách tiền tệ.
1.4.2. Đối với nền kinh tế
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở giữa ngân
hàng trung ương với các tổ chức tín dụng đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các
giấy tờ có giá. Điều đó làm cho thị trường tài chính ngày một phát triển. Một khi thị
trường tài chính phát triển đều đó tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính trung gian có
cơ hội để thu hút vốn trong nền kinh tế và làm thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng
của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị
trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở đã tác động mạnh đến sự
hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 17
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế, các giải pháp và chính sách của
Ngân hàng Nhà nước, trong đó có việc thực hiện và vận dụng linh hoạt các công cụ
chính sách tiền tệ (bao gồm các kênh thị trường mở, tái cấp vốn…) đã góp phần đáng
kể giúp ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Khi lãi suất trên
thị trường tăng cao, việc áp dụng đấu thầu khối lượng với các mức lãi suất thống nhất,
linh hoạt đã tạo ra định hướng tích cực cho thị trường, góp phần kiềm chế lạm phát22.
Đặc biệt, Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế thế
giới. Đồng nghĩa với việc đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh phát triển thị trường tài
chính, thị trường tiền tệ, cũng như các hoạt động trong thương mại quốc tế với các
quốc gia phát triển. Muốn vậy, yêu cầu Việt Nam phải cải cách hệ thống ngân hàng và
nâng cao các hoạt động của nghiệp vụ ngân hàng trung ương trong đó có các hoạt
động của nghiệp vụ thị trường mở để điều hành chính sách tiền tệ. Nhờ vào thị trường
mở mà ngân hàng trung ương có thể đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô thông qua
hoạt động điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy, việc sử dụng thị trường mở của ngân
hàng trung ương là một trong những điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế khu
vực và thế giới.
1.4.3. Đối với các tổ chức tín dụng
Sử dụng linh hoạt và giải quyết những khó khăn tạm thời về nguồn vốn khả
dụng trong thời gian ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu
cầu tăng trưởng tín dụng là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đối với các tổ
chức tín dụng. Muốn vậy, đòi hỏi các các tổ chức tín dụng phải chủ động trong việc sử
dụng nguồn vốn khả dụng. So với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác, thì
thị trường mở là nơi các đối tác của ngân hàng trung ương có thể tham gia mua bán
giấy tờ có giá một cách chủ động, an toàn và hiệu quả.Bời vì, cơ sở bảo đảm cho các
giao dịch trên thị trường mở là những giấy tờ có giá, có tính thanh khoản cao, không
22
Tiếp tục triển khai nghiệp vụ thị trường tiền tệ hiệu quả và linh hoạt, http://baodientu.chinhphu.vn/home/nam2009-tiep-tuc-trien-khai-nghiep-vu-thi-truong-tien-te-hieu-qua-linh-hoat/20092/7523.vgp, [Ngày truy cập
13/8/2014]
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 18
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
rủi ro về tài chính. Chính vì vậy, các tổ chức tín dụng trên thị trường đều lựa chọn
nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở là thị trường kinh doanh có độ rủi ro thấp nhất của các tổ chức
tín dụng. Việc giao dịch mua bán giấy tờ có giá với đối tác là ngân hàng trung ương sẽ
mang lại sự an toàn gần như là tuyệt đối cho các tổ chức tín dụng khi tham gia.
Thị trường mở góp phần đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của các tổ
chức tín dụng. Ngoài những ngành nghề kinh doanh cơ bản như: bảo lãnh, cho vay,
cho thuê, bán, đấu giá… thì các tổ chức tín dụng có thể đem lại cho mình nguồn thu
nhập từ nguồn vốn kinh doanh mới là mua bán giấy tờ có giá.
Thị trường mở mang tính tự nguyện, do các ngân hàng tự nguyện tham gia
thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như công cụ
dự trữ bắt buộc và cũng không có tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt
động của các ngân hàng như dự trữ bắt buộc.
Hoạt động thị trường mở tạo điều kiện tăng cường khả năng liên kết, hỗ trợ lẫn
nhau giữa các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Thông qua hoạt động của thị trường mở, ngân hàng trung ương có thêm một
kênh thông tin nữa để hỗ trợ cho quá trình giám sát và kiểm soát hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Bởi vì, thông qua những quy định pháp luật liên quan đến nghiệp vụ thị
trường mở đòi hỏi các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở phải tuân thủ theo.
Ngoài ra, thị trường mở còn tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hoạt động
hiệu quả hơn. Theo quy định trước đây, các tổ chức tín dụng phải dự trữ một khoản
tiền nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán dưới dạng tiền nhất định để đảm bảo
khả năng thanh toán dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Khoản
dự trữ của các tổ chức tín dụng gửi tại Ngân hàng Nhà nước được hưởng lãi suất rất
thấp. Khi thị trường mở ra đời và hoạt động thường xuyên thì các tổ chức tín dụng có
thể cơ cấu khoản dự trữ bảo đảm thanh toán của mình bao gồm một tỉ lệ nhất định các
giấy tờ có giá ngắn hạn có độ thanh khoản cao, có thể tham gia giao dịch trên thị
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 19
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
trường. Như thế, các tổ chức tín dụng vừa được hưởng lãi suất đầu tư từ các giấy tờ có
giá, vừa có thể chuyển ra tiền bất cứ lúc nào thông qua giao dịch trên thị trường mở.
Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các
ngân hàng. Đồng thời, thị trường mở còn thúc đẩy quá trình kinh doanh của các thành
viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở và tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương dễ
dàng trong việc quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường mở
Thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mang
tính tự nguyện, theo nguyên tắc thị trường và linh hoạt. Trong quá trình vận hành thị
trường mở, công cụ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Các
nhân tố ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường mở có thể do chính bản thân ngân
hàng trung ương hoặc cũng có thể do các tổ chức tín dụng tạo nên23.
1.5.1. Nhân tố chủ quan
Xuất phát từ đặc tính của thị trường mở là một công cụ chính sách tiền tệ
mang tính tự nguyện và linh hoạt, nên sự vận hành của thị trường mở phụ thuộc rất
nhiều vào bản thân của ngân hàng trung ương và các thành viên của nghiệp vụ thị
trường mở. Bởi vì, có sự tự nguyện giữa ngân hàng trung ương với các tổ chức tín
dụng thì mới hình thành nên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. Đồng thời, dựa trên cơ
sở những dự báo tình hình thị trường tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống các
ngân hàng. Ngân hàng trung ương sẽ tổ chức, xây dựng, điều hành nghiệp vụ thị
trường mở và đưa ra những quyết định quan trọng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường
mở như: thời điểm, khối lượng giấy tờ có giá, thời hạn và phương thức giao dịch...
Như vậy, với vai trò tổ chức, xây dựng, quản lý và điều hành nghiệp vụ thị trường mở,
ngân hàng trung ương hoàn toàn chủ động trong giao dịch thị trường mở.
23
Tán Anh Khoa, Nghiên cứu nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2007 –
2011, Đại học Đà Nẳng, Trường Đại học Kinh tế, 2012, Trang 26
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 20
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Việc ngân hàng trung ương dự báo nguồn vốn khả dụng phù hợp với tình hình
thực tế diễn biến của thị trường thì khả năng tham gia nghiệp vụ thị trường mở của các
thành viên sẽ cao. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương dự báo vốn khả dụng không
phù hợp với diễn biến thị trường, thì xác suất tham gia thị trường mở của các thành
viên thị trường mở rất thấp. Như vậy, muốn hoạt động thị trường đạt hiệu quả cao, đòi
hỏi vai trò rất lớn của ngân hàng trung ương. Thực tế cho thấy, kết quả phiên giao dịch
thị trường mở, muốn thành công hay thất bại phụ thuộc vào độ chính xác của việc dự
báo vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp, dự báo vốn khả dụng
đang trong tình trạng dư thừa, thì ngân hàng trung ương sẽ chào bán giấy tờ có giá
hoặc phát hành tín phiếu của ngân hàng trung ương để điều chỉnh lại tình hình vốn khả
dụng. Nếu dự báo vốn khả dụng đang thiếu, thì ngân hàng trung ương sẽ chào mua
giấy tờ có giá hoặc chứng chỉ tiền gửi để cung ứng vốn cho hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, những quy định pháp luật về thị trường mở cũng tác động đến sự
vận hành của nghiệp vụ thị trường mở. Nếu như pháp luật cho phép thực hiện đa dạng
các phương thức thị trường mở thì thị trường mở sẽ trở nên sôi động và hấp dẫn, thu
hút được đông đảo thành viên tham gia và ngược lại. Thị trường mở theo quy định
pháp luật Việt Nam rất đa dạng cả về hình thức lẫn nội dung. Thứ nhất, về chủ thể có
ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng và
các đối tác khác như tập đoàn, tổng công ty… Thứ hai, phương thức giao dịch có hai
phương thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn. Thứ ba, về phương thức đấu thầu
có đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Ngoài ra, ngân hàng trung ương còn phát
hành tín phiếu của ngân hàng trung ương, cầm cố các chứng chỉ tiền gửi, cho vay
không có bảo đảm hoặc hoán đổi ngoại tệ. Chính những quy định pháp luật đa dạng
như vậy đã tác động đến sự phát triển của nghiệp vụ thị trường mở.
Như vậy, khả năng dự báo vốn khả dụng của ngân hàng trung ương và những
quy định pháp luật liên quan đến thị trường mở là hai nhân tố chủ quan cơ bản tác
động đến sự vận hành của thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 21
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
1.5.2. Nhân tố khách quan
Ngoài sự phụ thuộc vào ngân hàng trung ương, nghiệp vụ thị trường mở còn
phụ thuộc nhiều yếu tố khác như: môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng,
sự tham gia thị trường và nhu cầu tham gia giao dịch của các ngân hàng.
Thông thường các ngân hàng tham gia thị trường mở chủ yếu tìm kiếm lợi
nhuận từ mua bán giấy tờ có giá và đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng. Có
nhiều cách để ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình như: bán giấy
tờ có giá, đi vay từ các tổ chức, tín dụng khác từ thị trường vốn hoặc vay từ ngân hàng
trung ương. Tuy nhiên, việc tìm kiếm nhu cầu thanh khoản của ngân hàng từ các
nguồn vốn khác như: huy động nguồn vốn khác, bán tài sản, vay các ngân hàng
khác… phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tiền tệ. Trong khi,
khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của thị trường lại có ưu thế hơn cho ngân hàng
vì lý do phi kinh tế. Do vậy, thông thường để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình,
các ngân hàng thường lựa chọn thị trường mở.
Để tham gia thị trường mở, các ngân hàng phải nắm giữ một khối lượng hàng
hóa nhất định. Hàng hóa đó phải được xác định về khối lượng, chủng loại và những
điều kiện cần thiết để hàng hóa có thể giao dịch được. Và một điều quan trọng hàng
hóa đó phải đáp ứng được nhu cầu giao dịch của ngân hàng trung ương.
Khi thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa trên thị trường mở, ngân hàng trung
ương thường yêu cầu sử dụng những giấy tờ có giá có độ rủi ro thấp và tính thanh
khoản cao. Thực tế cho thấy, các giấy tờ có giá do Bộ tài chính hoặc ngân hàng trung
ương phát hành thường được ngân hàng trung ương ưu tiên chấp nhận. Tuy nhiên,
những giấy tờ có giá do chính phủ phát hành, do chính quyền địa phương phát hành,
hoặc do các tổ chức tín dụng, các tổ chức phi tài chính có độ tín nhiệm cao phát hành
vẫn được ngân hàng trung ương chấp nhận.
Điều đó cho thấy, việc ngân hàng trung ương chấp nhận nhiều loại giấy tờ có
giá do các chủ thể khác nhau phát hành đã tạo điều kiện cho danh mục giấy tờ có giá
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 22
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
ngày trở nên đa dạng. Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nhiều sự lựa chọn
trong việc đầu tư mua bán giấy tờ có giá.
Như vậy, trình độ phát triển của thị trường tiền tệ và hàng hóa thị trường mở là
hai nhân tố khách quan tác động đến sự vận hành của nghiệp vụ thị trường mở.
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1
Tóm lại, thị trường mở thực chất là nơi diễn ra các hoạt động mua bán giấy tờ
có giá ngắn hạn giữa Ngân hàng trung ương với các tổ chức tín dụng. Thông qua hoạt
động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương đã tác động trực tiếp dự trữ của
các ngân hàng và gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường. Hoạt động của thị
trường mở có vai trò quan trọng đối với hoạt động điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia của ngân hàng trung ương, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
trung ương đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Khả năng dự báo vốn khả dụng của
ngân hàng trung ương, những quy định pháp luật liên quan đến thị trường mở, trình độ
phát triển của thị trường tiền tệ và hàng hóa thị trường mở là những nhân tố tác động
đến sự vận hành của thị trường mở của ngân hàng trung ương trong giai đoạn hiện nay.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 23
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
CHƯƠNG II:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ
2.1. Quy định pháp luật về chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở
Chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm có Ngân hàng Nhà nước và
các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân
hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân24. Tuy nhiên, không phải tất cả
các loại hình tổ chức tín dụng vừa nêu đều là thành viên của nghiệp vụ thị trường mở,
muốn trở thành thành viên của nghiệp vụ thị trường mở phải đảm bảo được những điều
kiện của quy chế nghiệp vụ thị trường mở25.
2.1.1. Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách vừa là chủ
thể quản lý, điều hành vừa là thành viên của nghiệp vụ thị trường mở.
2.1.1.1. Tư cách quản lý và điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng trung ương tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là cơ
quan quản lý và điều hành hoạt động thị trường mở.Với vai trò quản lý và điều hành
hoạt động thị trường mở, Ngân hàng trung ương sẽ soạn thảo, ban hành quy chế
nghiệp vụ thị trường mở, xét duyệt hồ sơ và công nhận thành viên tham gia nghiệp vụ
thị trường mở. Đồng thời, Ngân hàng trung ương chủ động tổ chức các giao dịch mua
hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở. Ngoài ra, Ngân hàng trung ương còn là chủ
thể có thầm quyền quyết định chủng loại, số lượng hàng hóa mua hoặc bán và phương
thức giao dịch, thời hạn mua hoặc bán giấy tờ có, thời hạn thanh toán,…
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Nhà nước điều hành
thông qua Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở.
24
Khoản 1, Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
25
Điều 4, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 24
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
a. Thành phần Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Nhà nước thành lập,
do một Phó thống đốc làm trưởng ban và các thành viên là đại diện của các đơn vị liên
quan thuộc Ngân hàng Nhà nước26.
Để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, ban điều
hành nghiệp vụ thị trường mở được quy định những quyền hạn và nhiệm vụ sau:
+ Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở có nhiệm vụ điều hành hoạt động
nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước theo quy định.
+ Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở có nhiệm vụ phân tích các thông tin
về tình hình dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng do các Vụ, Cục, Sở, chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước trực thuộc cùng cấp để làm cơ sở cho việc đưa ra các
quyết định về nghiệp vụ thị trường mở. Các quyết định cụ thể như quyết định các loại
giấy tờ cần bán hoặc cần mua, quyết định mức lãi suất, quyết định thời hạn mua hoặc
bán và phương thức xét thầu cũng như những vấn đề liên quan.
+ Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở được phép xử lý những vấn đề phát
sinh vượt quá thẩm quyền Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước.
+ Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở có nhiệm vụ trình thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về mức vốn, nguồn vốn, khối lượng tín phiếu cần mua hoặc cần bán,
lãi suất và thời hạn mua hoặc bán tín phiếu tối đa trong từng thời kỳ.
+ Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở có quyền yêu cầu các Vụ, Cục, Sở
thuộc Ngân hàng Nhà nước cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc điều
hành hoạt động nghiệp vụ thị trường mở.
26
Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về ban hành
quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 25
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
b. Cơ cấu tổ chức và hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua các bộ
phận sau: bộ phận quản lý vốn khả dụng, bộ phận nghiệp vụ thị trường mở, bộ phận
thanh toán và bộ phận đăng ký giấy tờ có giá ngắn hạn.
♦ Bộ phận quản lý vốn khả dụng
Vốn khả dụng là số tiền gửi của các tổ chức tín dụng (bao gồm tiền gửi dự trữ
bắt buộc, tiền gửi thanh toán và các loại tiền gửi khác) tại Ngân hàng nhà nước27.
Như vậy, quản lý vốn khả dụng thực chất là sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà
nước đối với sự thay đổi tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và thông qua các công cụ
của chính sách tiền tệ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tác động và khả năng
thanh toán của các tổ chức tín dụng nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
Để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, bộ phận quản
lý vốn khả dụng phải thực hiện những công việc sau:
+ Tổ chức thu thập thông tin liên quan đến vốn khả dụng của từng tổ chức tín
dụng và của cả hệ thống trong từng thời kỳ.
+ Phân tích và dự báo thay đổi vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng trong
từng thời kỳ cho Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở.
+ Kiến nghị với Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở về khối lượng giấy tờ
có giá ngắn hạn cần mua hoặc cần bán trong phiên giao dịch đấu thầu.
♦ Bộ phận nghiệp vụ thị trường mở thuộc Sở Giao dịch
Bộ phận nghiệp vụ thị trưởng mở thuộc Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện đấu thầu theo quyết định của Ban điều hành nghiệp vụ thị
trường mở và tuân theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở.
27
Điều 2, Quyết định số 37/2000/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 01 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về quản lý vốn khả dụng.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 26
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
♦ Bộ phận thanh toán thuộc Sở Giao dịch
Bộ phận thanh toán thuộc Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc
hạch toán đối với các giao dịch mua hoặc bán trên thị trường mở.
♦ Bộ phận đăng ký giấy tờ có giá ngắn hạn
Bộ phân đăng ký giấy tờ có giá thực hiện công việc đăng ký, tiếp nhận và bảo
quản,…các loại giấy tờ có giá cho các thành viên tham gia đấu thầu.
2.1.1.2. Tư cách thành viên nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng trung ương tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là thành
viên của nghiệp vụ thị trường mở. Với tư cách là thành viên nghiệp vụ thị trường mở,
Ngân hàng trung ương ngang bằng với các thành viên còn lại về địa vị pháp lý. Tuy
nhiên, Ngân hàng trung ương tham gia nghiệp vụ thị trường mở không vì mục tiêu lợi
nhuận như những thành viên khác của nghiệp vụ thị trường mở (Ngân hàng thương
mại, các định chế tài chính phi ngân hàng, các đối tác khác), mà Ngân hàng trung ương
tham gia nghiệp vụ thị trường mở với mục tiêu điều chỉnh chính sách tiền tệ quốc gia.
2.1.2. Các Tổ chức tín dụng
2.1.2.1. Điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở của các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng muốn trở thành thành viên của nghiệp vụ thị trường mở và tham
gia các giao dịch trên thị trường mở phải thỏa mãn tất cả những điều kiện dưới đây28.
+ Thứ nhất, các Tổ chức tín dụng phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước (Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố). Nghĩa là, các tổ chức tín dụng phải gửi một khoản tiền nhất định tại Ngân
hàng Nhà nước để đảm bảo. Trong trường hợp các tổ chức tín dụng bị xử lý vi phạm
do không có khả năng thanh toán hoặc thanh toán nhưng không đủ, Ngân hàng Nhà
nước sẽ lấy khoản tiền gửi này để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
28
Điều 5, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 27
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Thứ hai, các tổ chức tín dụng phải có đủ các phương tiện cần thiết để tham
gia nghiệp vụ thị trường mở: như máy FAX, máy vi tính nối mạng internet. Như vậy,
điều kiện cần là các tổ chức tín dụng tham gia các giao dịch trên thị trường mở là phải
đảm bảo đầy đủ những cơ sở vật chất ban đầu như máy FAX, máy vi tính có kết nối
mạng internet để tham gia giao dịch trên thị trường mở.
+ Thứ ba, các tổ chức tín dụng phải có giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ thị
trường mở .
2.1.2.2. Mục tiêu tham gia nghiệp vụ thị trường mở của các tổ chức tín dụng
a. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức
tín dụng năm 201029.
Ngân hàng thương mại tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là thành
viên của nghiệp vụ thị trường mở. Khi tham gia giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá
trên thị trường mở mục tiêu cuối cùng mà ngân hàng thương mại mong muốn đạt được
là lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại là chủ thể thường xuyên và chủ yếu của thị trường mở,
đồng thời ngân hàng thương mại là “đối tác”, là khách hàng quen thuộc trong giao dịch
mua hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường mở. Như vậy, sự có mặt của
ngân hàng thương mại trong các giao dịch mua hoặc bán ngắn hạn giấy tờ có giá trên
thị trường mở là cần thiết. Chính vì lẻ đó, mà Ngân hàng trung ương có sự quan tâm
đến đối tượng này.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường là sự phát triển của hệ thống
ngân hàng thương mại. Điều đó có nghĩa là, sự tham gia của các ngân hàng thương mại
trên thị trường mở sẽ giúp cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung
ương trở nên sống động hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
29
Khoản 3, Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 28
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
b. Các định chế tài chính phi ngân hàng
Các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư
cách là chủ thể đầu tư và kinh doanh các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở. Các
định chế tài chính phi hàng gồm các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính,
các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khóa và các quỹ đầu tư.
Mục đích tham gia các giao dịch trên thị trường mở của các định chế tài chính
phi ngân hàng là tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua hoặc bán giấy tờ có giá trên
thị trường mở.
Nhờ sự tham gia của các định chế tài chính phi ngân hàng mà các danh mục
đầu tư tài chính ngày càng phong phú hơn. Tạo điều kiện để thay đổi danh mục đầu tư
theo hướng có lợi cho các chủ thể tham gia, tức là tìm kiếm được lợi nhuận tối đa và
rủi ro gặp phải là tối thiểu.
2.2. Quy định pháp luật về giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường mở
Giấy tờ có giá muốn được tham gia giao dịch mua hoặc bán trên thị trường mở
phải phù hợp với những mục tiêu và yêu cầu hoạt động của Ngân hàng trung ương đề
ra. Cụ thể, các hàng hóa đó được giao dịch trên thị trường mở phải thỏa mãn một số
yêu cầu của Ngân hàng trung ương như: (1) Giấy tờ có giá phải có tính thanh khoản
cao. (2) Giấy tờ có giá được sử dụng phổ biến. (3) Giấy tờ có giá phải được giao dịch
thuận lợi30.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, giấy tờ có giá được sử dụng trong giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương bao gồm: Tín phiếu kho bạc,
tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác. Đây là là
những loại giấy tờ có giá ngắn hạn, được Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua hoặc bán
trên thị trường mở với kỳ hạn dưới một năm31.
30
Dương Hữu Hạnh, Ngân hàng trung ương các vai trò và các nghiệp vụ (Central Bank: Roles and Operations),
Nhà xuất bản Lao động, trang 663
31
Lê Huỳnh Phương Chinh, giáo trình Luật Ngân hàng, Khoa Luât, Đại học Cần Thơ, năm 2010, trang 25.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 29
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.2.1. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước hay còn gọi là giấy tờ có giá ngắn hạn, do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để tạo ra công cụ trên thị trường tiền tệ
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia32. Nói cách khác, Tín phiếu Ngân hàng Nhà
nước là giấy chứng nhận nợ của ngân hàng trung ương đối với người mua hay người
sở hữu tín phiếu. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước thường được phát hành với thời hạn
ngắn với nhiều loại khác nhau (gồm các loại 91 ngày, 120 ngày, 182 ngày, 274 ngày,
375 ngày) để thỏa mãn các yêu cầu điều chỉnh tổng số lượng tiền cung ứng.
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau33: Thứ nhất,
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước được phát hành, hạch toán và thanh toán bằng đồng
tiền Việt Nam. Bởi vì, hiện nay các giấy tờ có giá ngắn hạn được phát hành bằng ngoại
tệ hiện chưa được phép giao dịch trên thị trường mở của Việt Nam.Thứ hai, Tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước có mệnh giá thường tương đối lớn, tối thiểu là 100 triệu đồng và
các mức mệnh giá bằng bội số của 100 triệu đồng. Thứ ba, thời hạn của Tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước là dưới 1 năm. Thứ tư, Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước là tín
phiếu chiết khấu. Ngân hàng Nhà nước bán tín phiếu với giá bán thấp hơn mệnh giá
ghi trên tín phiếu và thanh toán theo mệnh giá của tín phiếu khi đến hạn. Phần chênh
lệch giữa mệnh giá và giá bán là mức lãi suất của tín phiếu. Thứ năm, Tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ. Thứ sáu, Tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước được phát hành theo phương thức bắt buộc hoặc đấu thầu.
Phương thức phát hành tín phiếu bắt buộc do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết
định phát hành, dựa trên cơ sở căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia và tình
hình thực tế. Phương thức này bắt buộc các tổ chức tín dụng phải mua đúng khối
lượng, lãi suất và thời hạn tín phiếu theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước. Phương thức phát hành tín phiếu đấu thầu có hai loại, đấu thầu lãi suất và đấu
thầu khối lượng.
32
Điều 1, Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN ngày 08 tháng 10 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về việc ban hành Quy chế phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
33
Điều 7, Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN ngày 08 tháng 10 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về việc ban hành Quy chế phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 30
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước muốn tham gia nghiệp vụ thị trường mở phải
thỏa mãn những điều kiện sau34: Thứ nhất, Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước phải được
lưu ký tại Ngân hàng Nhà nước. Khi khách hàng có nhu cầu bán giấy tờ có giá đã lưu
ký trong phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, thì khách hàng phải gửi bản danh
mục giấy tờ có giá đăng ký bán cho Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước sẽ
tiến hành kiểm tra, xem xét danh mục giấy tờ có giá được tham gia lưu ký cho khách
hàng. Ngân hàng Nhà nước sẽ chấp nhận những loại giấy tờ đã lưu ký được tham gia
giao dịch trên thị trường mở nếu thõa mãn những điều kiện nhất định. Thứ hai, Tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước phải thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng. Tức là,
các tổ chức tín dụng phải có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba, tổ chức phát hành các loại giấy tờ có giá không
được sử dụng các loại giấy tờ có giá do tổ chức đó phát hành để tham gia giao dịch với
Ngân hàng Nhà nước. Nghĩa là, tổ chức phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
không được sử dụng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để tham gia giao dịch với Ngân
hàng Nhà nước.
Đối tượng được mua tín phiếu ngân hàng trung ương là các tổ chức tín dụng. Để được
mua tín phiếu ngân hàng trung ương các tổ chức tín dụng phải thỏa mãn tất cả các điều
kiện sau: (1) Được tổ chức và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng. (2) Có tài
khoản tiền gửi tại Sở giao dịch hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước được Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước chỉ định thực hiện nghiệp vụ đấu thầu. (3) Chấp hành đầy đủ quy
định của Ngân hàng Nhà nước về phát hành và đấu thầu tín phiếu Ngân hàng Nhà
nước.
34
Khoản 2, Điều 1, Quyết định số 10/2010/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về danh mục giấy tờ có giá được tham gia trong các giao dịch của Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 31
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.2.2. Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn không vượt quá 52
tuần và đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam35. Như vậy, tín phiếu kho bạc là loại
giấy tờ có giá ngắn hạn, do Bộ tài chính phát hành. Trong những trường hợp cần thiết
Bộ tài chính có thể ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước tổ chức phát hành. Tín phiếu kho
bạc có các kỳ hạn khác nhau như 13 tuần, 26 tuần hoặc 52 tuần. Ngoài ra, Bộ Tài
chính quy định các kỳ hạn khác của tín phiếu trong một số trường hợp cần thiết nhưng
không vượt quá 52 tuần.
Tín phiếu kho bạc có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, thời hạn phát
hành Tín phiếu kho bạc dưới 12 tháng. Như vậy, tín phiếu kho bạc là loại giấy tờ có
giá ngắn hạn. Thứ hai, Tín phiếu kho bạc có tín thanh khoản cao, dễ chuyển hóa thành
tiền. Thứ ba, Tín phiếu kho bạc có thể được phát hành bằng hình thức chứng chỉ hoặc
ghi sổ. Thứ tư, Tín phiếu kho bạc được phát hành định kỳ với khối lượng lớn. Nhờ
vậy, tín phiếu kho bạc có thể đáp ứng nhu cầu can thiệp của Ngân hàng trung ương với
những mức độ và quy mô khác nhau. Cuối cùng, Tín phiếu kho bạc được chuyển
nhượng một cách thuận lợi.
Nhờ những đặc điểm trên mà hiện nay tín phiếu kho bạc được xem là loại giấy
tờ có giá sử dụng phổ biến trên thị trường mở. Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị
trường mở có ý nghĩa như một chất xúc tác cho sự phát triển của thị trường tài chính
nói chung. Chẳng hạn, khi ngân hàng trung ương muốn thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt, thay gì phải phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương thì ngân hàng trung
ương thực hiện việc bán tín phiếu kho bạc. Khi đó, ngân hàng trung ương sẽ giảm
gánh nặng về chi phí để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Cũng giống như tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu kho bạc muốn tham
gia nghiệp vụ thị trường mở phải thỏa mãn những điều kiện sau36: Thứ nhất, Tín phiếu
35
Khoản 1, Điều 10, Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2011 của Chính phủ về việc việc phát
hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương
36
Khoản 2, Điều 1, Quyết định số 10/2010/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về danh mục giấy tờ có giá được tham gia trong các giao dịch của Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 32
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
kho bạc phải được lưu ký tại Ngân hàng Nhà nước. Thứ hai, Tín phiếu kho bạc phải
thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng. Tức là, các tổ chức tín dụng phải có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tín phiếu kho bạc. Thứ ba, tổ chức
phát hành các loại giấy tờ có giá không được sử dụng các loại giấy tờ có giá do tổ chức
đó phát hành để tham gia giao dịch với Ngân hàng Nhà nước. Nghĩa là, tổ chức phát
hành tín phiếu kho bạc không được sử dụng tín phiếu kho bạc để tham gia giao dịch
với Ngân hàng Nhà nước.
Chủ thể có thẩm quyền phát hành tín phiếu kho bạc là Bộ tài chính. Như vậy,
cho thấy Bộ tài chính có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành
định kỳ và việc thanh toán lãi và gốc của tín phiếu kho bạc. Khối lượng tín phiếu phát
hành phụ thuộc vào yêu cầu về vốn của Chính phủ. Chính vì vậy, để phát huy một
cách có hiệu quả lợi ích của tín phiếu kho bạc trên thị trường mở đòi hỏi sự kết hợp
chặt chẽ giữa Ngân hàng trung ương và Bộ tài chính.
Theo quy định về tín phiếu kho bạc hiện nay, có hai hình thức phát hành tín
phiếu kho bạc37. Thứ nhất, phát hành tín phiếu bằng hình thức đấu thầu qua Sở Giao
dịch Ngân hàng Nhà nước. Với hình thức phát hành tín phiếu bằng hình thức đấu thầu
qua Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, thành viên tham gia thường là các tổ chức tín
dụng, công ty bảo hiểm,… đảm bảo điều kiện về vốn điều lệ, tỷ lệ an toàn vốn, thời
gian hoạt động38,…Trong các điều kiện đó, quan trọng hơn hết là mức vốn điều lệ thực
góp phải bằng hoặc cao hơn mức vốn pháp định theo quy định pháp luật của Ngân
hàng Nhà nước. Hình thức đấu thầu có hai hình thức, đấu thầu lãi suất và đấu thầu kết
hợp cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Thứ hai, phát hành tín phiếu kho
bạc bằng hình thức bán trực tiếp cho Ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Với hình thức này, Bộ tài chính sẽ thỏa thuận với ngân hàng nhà
37
Khoản 3, Điều 5, Thông tư liên tịch số 16/2012/ TTLT-BTC-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2012 của Bộ tài
chính và Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn việc phát hành tín phiếu kho bạc qua ngân hàng nhà nước Việt
Nam
38
Khoản 1, Điều 11, Thông tư số 17/2012/ TT-BTCngày 08 tháng 02 năm 2012 của Bộ tài chính về việc hướng
dẫn phát hành trái phiếu chính phủ tại thị trường trong nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 33
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
nước để ký kết hợp đồng bán tín phiếu kho bạc với những nội dung sau: thời hạn, kỳ
hạn, lãi suất và giá bán tín phiếu kho bạc,…
2.2.3. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành với người mua giấy tờ có giá trong
một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác39. Như vậy, thực chất
của chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của các tổ chức tín dụng đối với người mua
chứng chỉ tiền gửi. Khác với tín phiếu Ngân hàng Nhà nước hay tín phiếu kho bạc, chủ
thể có thẩm quyền phát hành chứng chỉ tiền gửi là các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tài chính.
Đặc điểm cơ bản của chứng chỉ tiền gửi: Thứ nhất, chứng chỉ tiền gửi có thời
hạn xác định và chỉ được thanh toán khi đáo hạn. Nghĩa là, chứng chỉ tiền gửi được
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phát hành xác định cụ thể thời hạn và
chỉ khi nào đến khi đáo hạn thì mới được thanh toán. Lãi suất chứng chỉ tiền gửi,
thông thường cao và hấp dẫn hơn so với công cụ huy động vốn của ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính. Thứ hai, chứng chỉ tiền gửi được mua bán, chuyển
nhượng, cầm cố, thế chấp để vay vốn. Tức là, chủ sở hữu hay người mua chứng chỉ
tiền gửi được phép thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp
đối với chứng chỉ tiền gửi.
Chứng chỉ tiền gửi muốn tham gia nghiệp vụ thị trường mở phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định như: chứng chỉ tiền gửi được phát hành và lưu thông hợp
pháp; chứng chỉ tiền gửi phải còn hiệu lực; chứng chỉ tiền gửi phải được phát hành và
thanh toán bằng đồng tiền Việt Nam (VND); phải đăng ký phát hành chứng chỉ tiền
gửi tại Ngân hàng Nhà nước,…Tuy nhiên, so với các loại hàng hóa khác trên thị
trường mở, chứng chỉ tiền gửi hiện nay rất ít được giao dịch trên thị trường mở.
39
Khoản 1, Điều 2, Thông tư số 34/2013/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Ngân hàng Nhà nước về
phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 34
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.2.4. Các loại giấy tờ có giá khác
Ngoài tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu kho bạc và chứng chỉ tiền
gửi, những loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác nếu thỏa mãn những điều kiện về giấy tờ
có giá được tham gia giao dịch trên thị trường mở cũng được xem là hàng hóa tham
gia giao dịch trên thị trường mở40. Việc quy định danh mục những giấy tờ có giá khác
được tham gia giao dịch trên thị trường mở thuộc thẩm quyền của thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
2.3. Quy định pháp luật về các hình thức giao dịch giấy tờ có giá trên thị trường
mở
Thông qua công cụ nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương thực hiện
các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Một khi, ngân hàng trung ương muốn
tăng lượng cung ứng tiền, ngân hàng trung ương có thể điều tiết bằng cách mua các
chứng từ có giá. Ngược lại, khi muốn giảm lượng cung ứng tiền, ngân hàng trung
ương sẽ bán các giấy tờ có giá. Trong mục tiêu chính sách tiền tệ, có mục tiêu được
xác định cụ thể và mục tiêu được xác định có tính chất tạm thời. Khi ngân hàng trung
ương xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia là mục tiêu xác định cụ thể, tức
có thể định lượng được thì ngân hàng trung ương sẽ can thiệp ngay bằng cách mua
hoặc bán hẳn giấy tờ có giá. Mục đích của việc mua bán hẳn trong trường hợp này để
tác động đến khối tiền với thời hạn dài hơn và ổn định hơn. Khi ngân hàng trung ương
xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia là mục tiêu được xác định có tính
chất tạm thời, tức là mục tiêu này chỉ tạm thời làm thay đổi “cơ cấu dự trữ” tiền tệ, tạo
điều kiện cho các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính linh hoạt hơn trong
điều chỉnh cơ cấu dự trữ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Lúc này, ngân hàng
trung ương sẽ mua hoặc bán chứng từ có giá theo một kỳ hạn nhất định (gọi là mua
hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá) chứ không mua hoặc bán hẳn như mục tiêu xác
định cụ thể. Như vậy, tóm lại để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia trên thị
40
Khoản 2, Điều 1, Quyết định số 10/2010/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về danh mục giấy tờ có giá được tham gia trong các giao dịch của Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 35
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
trường mở, ngân hàng trung ương có hai hình thức giao dịch để can thiệp là mua hoặc
bán hẳn giấy tờ có giá và mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá.
2.3.1. Mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá
Mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá được hiểu là việc Ngân hàng Nhà nước
mua hoặc bán và nhận hoặc chuyển quyền sở hữu giấy từ có giá từ tổ chức tín dụng,
đồng thời tổ chức tín dụng sẽ cam kết mua lại hoặc bán lại và nhận lại quyền sở hữu
giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định41. Như vậy, giao dịch mua hoặc bán có
kỳ hạn giấy tờ có giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng là giao dịch mua
bán giấy tờ có giá, kèm theo điều kiện cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó tại một thời
điểm xác định. Điều đó, có thể hiểu rằng nếu hôm nay ngân hàng trung ương tiến hành
bán giấy tờ có giá để điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia, thì ngày mai hoặc có thể là
một khoản thời gian xác định nào đó ngân hàng trung ương sẽ mua lại giấy tờ có giá
đó và ngược lại. Hay nói cách khác, nếu ngân hàng trung ương bán các giấy tờ có giá
ngắn hạn của mình cho các các tổ chức tín dụng, kèm theo cam kết sẽ mua lại các giấy
tờ có giá đó sau một khoản thời gian nhất định (có thể 1 tuần, 1 tháng, hoặc vài ba
tháng thậm chí 1 năm,…). Khi đến hạn cam kết, ngân hàng trung ương phải mua lại
giấy tờ có giá đã bán và thanh toán tiền mua cho các các tổ chức tín dụng đã bán trước
đó. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương mua giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức
tín dụng, kèm theo cam kết sẽ bán lại giấy tờ có giá khi đến hạn cam kết. Khi đến hạn,
ngân hàng trung ương phải bán lại giấy tờ có giá đã mua của các tổ chức tín dụng và
nhận tiền thanh toán.
Muốn giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá đạt được hiệu quả cao,
tránh những tranh chấp phát sinh đòi hỏi các bên trong giao dịch mua bán có kỳ hạn
giấy tờ có giá phải chú ý đến các yếu tố cơ bản như: thời hạn ban đầu, thời hạn còn lại
41
Kết hợp khoản 3 và khoản 4, Điều 2, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 36
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
của giấy tờ có giá, phương thức trả tiền lãi, ngày mua lại, ngày thanh toán, thời hạn
bán42,…
Tóm lại, giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá là giao dịch hai
chiều. Có sự dịch chuyển hàng hóa từ bên bán sang bên mua và ngược lại. Quyền sở
hữu giấy tờ có giá ngắn hạn trong giao dịch mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá tạm thời
chuyển sang bên nắm giữ giấy tờ có giá. Khi đến hạn bên mua hoặc bán sẽ chuyển
quyền sở hữu giấy tờ có giá sang bên bán hoặc bên mua và nhận tiền thanh toán.
Hiện nay, các giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa ngân hàng
trung ương và các tổ chức tín dụng được sử dụng phổ biến hơn cả giao dịch mua hoặc
bán hẳn. Bởi vì, Giao dịch mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá làm giảm được thời gian
thông báo, do đó giảm bớt những biến động trước những quyết định hằng ngày của
Ngân hàng trung ương. Chi phí của giao dịch cho một hợp đồng mua lại trong giao
dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá thường rẻ hơn so với các hợp đồng mua
hoặc bán hẳn giấy tờ có giá.Hơn nữa, giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá
được xem là công cụ hiệu quả để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự
tính trước đến dự trữ của các ngân hàng.
2.3.2. Mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá
Mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá được hiểu là việc Ngân hàng Nhà nước mua
hoặc bán và nhận hoặc chuyển quyền sở hữu giấy tờ có giá từ tổ chức tín dụng, không
kèm theo điều kiện cam kết mua lại43. Như vậy, giao dịch mua hoặc bán hẳn giấy tờ có
giá là giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá của ngân hàng trung ương với các tổ chức
tín dụng theo phương thức mua hoặc bán đứt đoạn. Nghĩa là, quyền sở hữu đối với các
giấy tờ có giá theo phương thức mua hoặc bán hẳn được chuyển hẳn từ người bán sang
cho người mua.
42
Tham khảo tại Điều 2, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
43
Kết hợp khoản 5 và khoản 6, Điều 2, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 37
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Giao dịch mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá hay còn gọi là giao dịch không
hoàn lại. Nghĩa là, việc mua hoặc bán giấy tờ có giá giữa ngân hàng trung ương và các
tổ chức tín dụng không có bất kỳ một cam kết ràng buột nào về việc sẽ mua hoặc bán
lại giấy tờ có giá. Giả dụ, nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái, sản xuất đình
truệ, đòi hỏi phải có sự tác động làm gia tăng lượng tiền cung ứng. Khi đó, ngân hàng
trung ương sẽ tiến hành can thiệp bằng cách mua các giấy tờ có giá trên thị trường mở
để điều tiết lại nền kinh tế. Tuy nhiên, khi ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có
giá trên thị trường mở, ngân hàng trung ương không có một cam kết nào sẽ bán lại các
giấy tờ có giá đã mua cho các tổ chức tín dụng. Như vậy, rỏ ràng cho thấy việc mua
hoặc bán hẳn giấy tờ có giá trên thị trường mở không đòi hỏi phải có sự ràng buột nào
về việc sẽ bán hoặc mua lại giấy tờ có giá đó.
Trong giao dịch mua hoặc bán hẳn, tùy thuộc vào cách thức giao dịch của
Ngân hàng trung ương với các tổ chức tín dụng mà lãi suất có thể xác định là lãi suất
thị trường, lãi suất đấu thầu hoặc lãi suất công bố.
Như vậy, giao dịch mua hoặc bán hẳn là giao dịch đứt đoạn, được sử dụng khi
yêu cầu điều chỉnh và tác động đến lượng tiền cung ứng một cách rỏ ràng và dứt khoát.
Ngoài ra, giao dịch mua hoặc bán hẳn được coi là giao dịch một chiều, vì giao dịch
này chỉ có mua hoặc bán đi mà không có cam kết sẽ bán hoặc mua lại.Điều này đã làm
mất đi tính linh hoạt và uyển chuyển trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia vì sự
dịch chuyển một chiều của giao dịch này.
2.4. Quy định pháp luật về phương thức mua bán giấy tờ có giá trên thị trường
mở
Trên thị trường mở, các giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá đều được thực
hiện thông qua phương thức đấu thầu. Đấu thầu thực chất là một giao dịch mua hoặc
bán giữa chủ thầu và các thành viên tham gia đấu thầu. Theo đó, chủ đấu thầu sẽ đưa
ra khối lượng giấy tờ có giá cần bán hoặc cần mua và mức lãi suất tương ứng để các
thành viên tham gia đấu thầu xem xét và chấp nhận mua hay không mua đối với số
lượng, mức lãi suất và những điều kiện mà chủ đấu thầu đặt ra đối với các giấy tờ cần
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 38
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
mua hoặc cần bán. Ngoài ra trong phương thức đấu thầu trên thị trường mở, người
mua hoặc người bán được quyền đưa ra mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá
tương ứng để đăng ký bán hoặc mua giấy tờ có giá theo thông báo của chủ thầu.
Sở dĩ, Ngân hàng Nhà nước lựa chọn phương thức đấu thầu là phương thức
duy nhất trong giao dịch mua hoặc bán hàng hóa trên thị trường mở. Bởi vì, phương
thức này tạo sự công bằng cho các thành viên tham gia thị trường đấu thầu, sẽ thúc đẩy
cạnh tranh trên thị trường mở được diễn ra hợp pháp và lành mạnh.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam về quy chế nghiệp vụ thị
trường mở. Có hai phương thức đấu thầu chủ yếu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu
lãi suất. Tại mỗi phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ được áp dụng một phương
thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất44.
2.4.1. Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ
chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc cần bán
và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo45. Như vậy, đấu thầu khối lượng cho
phép người mua hoặc người bán (người giao dịch) đăng ký khối lượng giấy tờ có giá
sẽ mua hoặc bán. Hay nói cách khác, đấu thầu khối lượng là việc xác định khối lượng
trúng thầu của người bán hoặc người mua trên cơ sở khối lượng dự thầu của mỗi thành
viên và khối lượng chứng từ có giá cần mua hoặc bán của Ngân hàng trung ương. Khi
xác định được khối lượng đăng ký dự thầu của các thành viên và khối lượng giấy tờ
cần mua hoặc cần bán trong từng đợt thông báo, Ngân hàng trung ương sẽ xác định
khối lượng trúng thầu cho mỗi thành viên đấu thầu theo lãi suất đã được thông báo (lãi
suất cố định).
44
Điều 12 Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
45
Khoản 7, Điều 2 Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 39
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Phương thức đấu thầu khối lượng trên thị trường mở có những đặc điểm cơ
bản như sau:
+ Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước sẽ thông báo cho các tổ chức tín dụng mức
lãi suất đấu thầu. Ngân hàng Nhà nước sẽ quyết định thông báo hoặc không thông báo
khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán trước mỗi phiên đấu thầu. Như vậy,
trong phương thức đấu thầu khối lượng này cho thấy ngân hàng trung ương đã chủ
động ấn định mức lãi suất cố định, đồng thời ấn định luôn khối lượng giấy tờ có giá
cần mua hoặc cần bán.
+ Thứ hai, dựa trên mức lãi suất cố định, nếu các thành viên muốn đăng ký
tham gia mua hoặc bán thì đăng ký tham gia. Tuy nhiên, việc đấu thầu trong trường
hợp này có sự giới hạn ở chỗ là các thành viên chỉ được đấu thầu với khối lượng dự
thầu như đã thông báo không được đấu thầu vượt quá khối lượng đã thông báo trước
đó.
Hiện nay, phương thức đấu thầu khối lượng ít được sử dụng, chỉ khi nào ngân
hàng trung ương xác định rõ mục tiêu cung ứng tiền trong một thời gian ổn định thì
phương thức này mới được áp dụng. Bởi vì, phương thức đấu thầu khối lượng không
có tính cạnh tranh cao, vì khi các thành viên tham gia đấu thầu chắc chắn một điều
rằng họ sẽ được mua hoặc bán khối lượng giấy tờ có giá của Ngân hàng trung ương
đưa ra, chỉ là việc được mua hoặc bán ít hay nhiều mà thôi.
2.4.2. Đấu thầu lãi suất
Đấu thầu lãi suất là việc xét thầu dựa trên cơ sở lãi suất dự thầu, khối lượng dự
thầu của các tổ chức tín dụng và khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần
mua hoặc cần bán46. Như vậy, nếu như với phương thức đấu thầu khối lượng Ngân
hàng trung ương sẽ đưa ra mức lãi suất cố định, thì ở phương thức đấu thầu lãi suất
người mua hoặc người bán được quyền đưa ra các mức lãi suất và các khối lượng giấy
46
Khoản 8, Điều 2 Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 40
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
tờ có giá tương ứng để đăng ký mua hoặc bán theo thông báo của Ngân hàng Nhà
nước.
Hiểu theo một cách đơn giản nhất, nếu Ngân hàng trung ương tiến hành bán
giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu lãi suất mà tổ chức tín dụng nào đặt mua giấy
tờ có giá đó với giá cao nhất, tức lãi suất thấp nhất thì sẽ trúng thầu. Ngược lại, khi
Ngân hàng trung ương tiến hành mua giấy tờ có giá mà tổ chức tín dụng nào đặt mua
giấy tờ có giá với giá thấp nhất, tức lãi suất cao nhất thì sẽ trúng thầu.
Khác với đấu thầu theo phương thức đấu thầu khối lượng, đấu thầu lãi suất có
tính cạnh tranh mãnh liệt. Bởi suy cho cùng mục đích tham gia mua bán giấy tờ có giá
trên thị trường mở của các tổ chức tín dụng là lợi nhuận, chính vì vậy các tổ chức tín
dụng rất cân nhắc, tính toán sao cho đem lại lợi ích cao nhất cho bản thân các tổ chức
tín dụng.
2.5. Trình tự, thủ tục thực hiện đấu thầu trên thị trường mở
Trình tự, thủ tục mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở được quy
định cụ thể tại quy trình số 10876/2008/QT-NHNH của Ngân hàng Nhà nước ngày 12
tháng 12 năm 2008 về quy trình nghiệp vụ thị trường mở.
2.5.1. Thông báo về giao dịch thị trường mở
Dựa trên căn cứ thông báo của Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở, Sở
Giao dịch Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện việc thông báo về giao dịch mua hoặc bán
giấy tờ có giá qua thị trường mở cho các đối tượng có liên quan. Vào ngày thông báo,
Sở Giao dịch sẽ gửi thông báo qua mạng máy vi tính, dưới hình thức thông báo mẫu về
giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá với những nội dung sau:
+ Ngày đấu thầu. Ngày đấu thầu được hiểu là ngày Ngân hàng Nhà nước tổ
chức đấu thầu, xét thầu và thông báo kết quả đấu thầu.Hay nói cách khác, ngày đấu
thầu là ngày mà Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành các công việc liên quan đến giao
dịch mua hoặc bán trên thị trường mở, như tổ chức đấu thầu, xét thầu, và đưa ra kết
quả đấu thầu.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 41
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Phương thức đấu thầu. Hiện nay, pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng trung ương cho phép thực hiện hai phương thức đấu thầu cơ bản là đấu
thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.Phương thức đấu thầu khối lượng được hiểu là
việc xét thầu dựa trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng.Phương thức
đấu thầu lãi suất được hiểu là việc xét thầu dựa trên lãi suất dự thầu. Sở Giao dịch phải
ghi rõ trong thông báo phương thức đấu thầu là đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối
lượng.
+ Phương thức xét thầu. Tương ứng với hai phương thức đấu thầu, Ngân hàng
Nhà nước đưa ra hai phương thức xét thầu cơ bản, xét thầu theo phương thức đấu thầu
khối lượng và xét thầu theo phương thức đấu thầu lãi suất.
+ Phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá.Có hai phương thức giao dịch
giấy tờ có giá là giao dịch mua hoặc bán hẳn và giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn
giấy tờ có giá. Giao dịch mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá hay còn được gọi là giao
dịch mua hoặc bán đứt đoạn giấy tờ có giá, nghĩa là mua hoặc bán mà không có bất kỳ
một cam kết nào về việc mua hoặc bán lại giấy tờ có giá. Giao dịch mua hoặc bán có
kỳ hạn hay còn gọi là giao dịch có hoàn lại, nghĩa là giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có
giá này sẽ cam kết mua hoặc bán lại giấy tờ có giá trong một khoản thời gian nhất
định.
+ Khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán tính theo giá thanh toán
(trừ trường hợp Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở sẽ quyết định không thông báo
khối lượng Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc cần bán).
+ Các loại giấy tờ cần mua hoặc cần bán. Các loại giấy tờ này do Ngân hàng
Nhà nước thông báo khi có nhu cầu cần mua hoặc cần bán. Giấy tờ có giá cần mua
hoặc cần bán có thể là tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ
tiền gửi hoặc là giấy tờ có giá khác.
+ Kỳ hạn giấy tờ có giá. Là thời hạn của giấy tờ có giá đó có giá trị tồn tại, có
thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm,…
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 42
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Ngày phát hành giấy tờ có giá. Ngày phát hành giấy tờ có giá chỉ được Sở
giao dịch thông báo trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước tổ chức bán giấy tờ có giá.
+ Định kỳ thanh toán lãi của giấy tờ có giá (trường hợp Ngân hàng Nhà nước
bán các giấy tờ có giá thanh toán lãi suất định kỳ).Mục đích của thông báo này để yêu
cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ thanh toán lãi định kì cho Ngân hàng Nhà
nước khi tiến hành giao dịch mua giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước.
+ Ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá (trường hợp Ngân hàng Nhà
nước bán). Ngày này được áp dụng trong trường hợp giao dịch bán có kỳ hạn giấy tờ
có giá.Nghĩa là, một ngày cụ thể được xác định khi đến hạn ngày đó các tổ chức tín
dụng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
+ Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá. Thời hạn còn lại được hiểu là thời gian
tính từ ngày giấy tờ có giá được mua hoặc bán thông qua nghiệp vụ thị trường mở đến
ngày đến hạn thanh toán giấy tờ có giá.Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá chỉ được
thông báo trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước bán giấy tờ có giá, trừ trường hợp
phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
+ Thời hạn của giao dịch mua hoặc bán. Là khoản thời gian nhất định để
chuyển giao quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua. Trong khoản thời gian này bên
mua được quyền thực hiện những giao dịch liên quan đến giấy tờ có giá theo quy định.
Hết thời hạn giao dịch, bên mua phải chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá sang
bên mua và nhận thanh toán.
+ Lãi suất Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi mua hoặc bán. Lãi suất này được
thông báo trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước đấu thầu theo phương thức đấu thầu
khối lượng.
+ Lãi suất phát hành trên thị trường sơ cấp của giấy tờ có giá được thông báo
trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước bán giấy tờ có giá, trừ trường hợp phát hành tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước theo phương thức đấu thầu lãi suất.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 43
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Phương thức thanh toán lãi của giấy tờ có giá hay còn gọi là cách thức để
thanh toán lãi của giấy tờ có giá khi đến hạn, được thông báo trong trường hợp Ngân
hàng Nhà nước bán.
Một điểm đáng lưu ý là tại một phiên giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá,
Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng một phương thức đấu thầu hoặc là đấu thầu lãi suất
hoặc là đấu thầu khối lượng47.Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ quyết định
một thời hạn mua hoặc bán thống nhất cho các loại giấy tờ có giá.
2.5.2. Lưu ký và chuyển giao giấy tờ có giá
Lưu ký giấy tờ có giá được hiểu là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản
lý, lưu trữ, bảo quản giấy tờ có giá và thực hiện các quyền về sở hữu giấy tờ có giá của
khách hàng lưu ký theo đề nghị của khách hàng lưu ký48. Như vậy, chủ thể có thầm
quyền lưu ký giấy tờ có giá là Ngân hàng Nhà nước và việc lưu ký này thực hiện theo
yêu cầu của khách hàng lưu ký.
Khi bán giấy tờ có giá, thành viên phải lưu ký giấy tờ có giá tại Sở Giao
dịch.Việc lưu ký này phải được hoàn thành trước giờ mở thầu khoản thời gian là 30
phút.
Mỗi thành viên tham gia dự thầu sẽ có tài khoản giấy tờ có giá lưu ký. Tài
khoản lưu ký giấy tờ có giá là tài khoản Ngân hàng Nhà nước mở theo yêu cầu của
khách hàng lưu ký để hạch toán giấy tờ có giá do khách hàng lưu ký.
+ Khi thành viên nào trúng thầu mua giấy tờ có giá, Sở giao dịch sẽ chuyển
khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu vào tài khoản lưu ký của thành viên tại sở giao
dịch ngay sau khi thành viên trúng thầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền tại sở giao
dịch. Trường hợp, Ngân hàng Nhà nước bán có kỳ hạn giấy tờ có giá thì vào ngày đến
hạn mua lại ghi trong hợp đồng mua lại, sở giao dịch chuyển giấy tờ có giá từ tài
47
Khoản 2, Điều 12, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
48
Khoản 2, Điều 3, Quyết định số 13/VBHN-NHNN ngày 21 tháng 05 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về việc ban hành quy chế lưu ký giấy tờ có giá tại Ngân hàng Nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 44
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
khoản lưu ký của thành viên sang tài khoản lưu ký của Ngân hàng Nhà nước ngay sao
khi chuyển tiền mua lại giấy tờ có giá cho thành viên.
+ Khi thành viên nào trúng thầu bán giấy tờ có giá, Sở giao dịch sẽ chuyển
giấy tờ có giá từ tài khoản lưu ký của thành viên sang tài khoản lưu ký tại Ngân hàng
Nhà nước. Trường hợp, Ngân hàng Nhà nước mua có kỳ hạn giấy tờ có giá vào ngày
đến hạn ghi trong hợp đồng mua lại giấy tờ có giá, sở giao dịch chuyển giấy tờ có giá
từ tài khoản lưu ký của Ngân hàng Nhà nước sang tài khoản lưu ký của thành viên
ngay sau khi thành viên chuyển tiền mua lại giấy tờ có giá cho sở giao dịch.
2.5.3. Nộp đơn dự thầu và làm thủ tục đăng ký giấy tờ có giá của các tổ chức tín
dụng thành viên
Khi Ngân hàng trung ương có nhu cầu và thông báo đấu thầu mua hoặc bán
giấy tờ có giá. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị mình có
thể lập và gửi (qua mạng máy vi tính) đăng ký đấu thầu bán hoặc mua giấy tờ có giá
(theo mẫu có sẳn) để tham gia đấu thầu. Nếu như sở giao dịch thông báo đấu thầu bán
giấy tờ có giá, thì các thành viên tham gia nộp đơn dự thầu đăng ký mua giấy tờ có giá
theo mẫu quy định. Nếu sở giao dịch thông báo đấu thầu mua giấy tờ có giá, thì các
thành viên tham gia nộp đơn dự thầu bán giấy tờ có giá theo mẫu quy định49. Đơn dự
thầu mua hoặc bán giấy tờ có giá được lập theo mẫu quy định của Ngân hàng Nhà
nước, cơ bản đảm bảo những nội dung sau:
+ Tên của các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán.
+ Kỳ hạn của giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán.
+ Khối lượng giấy tờ cần mua hoặc cần bán.
+ Các mức lãi suất dự thầu và khối lượng từng mức lãi suất tương ứng với
từng loại giấy tờ có giá ngắn hạn trong trường hợp đấu thầu lãi suất.
+ Ngày đến hạn thanh toán của từng loại giấy tờ có giá.
49
Tham khảo phụ lục số 04/TTM và phụ lục số 05/TTM của quy trình số 10876/2008/QT-NHNH của Ngân hàng
Nhà nước ngày 12 tháng 12 năm 2008 về quy trình nghiệp vụ thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 45
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Phương thức mua hoặc bán.
+ Mã số chữ ký của người giao dịch, người kiểm soát và người có thẩm quyền.
Khi sở giao dịch thông báo về việc mua hoặc bán giấy tờ có giá, một giao dịch
viên được phân công phụ trách sẽ thực hiện những công việc cơ bản sau:
+ Nhập mã số thành viên, mã số giao dịch và mã số chữ ký của người có thẩm
quyền.
+ Nhập mã số và các thông tin khác về giấy tờ có giá như ngày, lãi suất phát
hành, ngày đến hạn thanh toán, thời hạn còn lại,…
+ Xác nhận mức lãi suất dự thầu của các thành viên tham gia dự thầu. Trường
hợp đấu thầu khối lượng, lãi suất dự thầu là lãi suất Ngân hàng Nhà nước đã thông
báo. Trường hợp đấu thầu lãi suất, lãi suất dự thầu được đăng ký tối đa là 5 mức lãi
suất dự thầu.
+ Xác nhận khối lượng giấy tờ có giá dự thầu: tối thiểu là 100 triệu đồng đối
với một đơn đăng ký đấu thầu. Tối đa bằng khối lượng chào thầu trường hợp Ngân
hàng Nhà nước thông báo khối lượng, bằng nhu cầu của thành viên trường hợp Ngân
hàng Nhà nước không thông báo khối lượng.
+ Xác nhận thời hạn bán: Là số ngày kể từ ngày đấu thầu của phiên mua hoặc
bán có kỳ hạn đến ngày mua lại. Thời hạn này tính từ ngày đấu thầu đến trước ngày
mua lại.
+ Xem xét tính hợp lệ của đơn dự thầu.
Thực hiện các công việc được giao, giao dịch viên tiến hành gửi đến các tổ
chức có liên quan sau: Kiểm soát đăng ký dự thầu, Tổng giám đốc hoặc người được
Tổng giám đốc ủy quyền ký duyệt. Sau đó gửi đăng ký đấu thầu qua mạng cho Sở giao
dịch.
Đơn đăng ký dự thầu của thành viên có thể được thay đổi, nếu việc thực hiện
các bước kiểm soát, ký duyệt và gửi cho sở giao dịch trước thời giờ mở thầu.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 46
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.5.4. Mở và xét thầu
Khi đến giờ mở thầu sở giao dịch sẽ khóa sổ, đều đó đồng nghĩa với việc chấm
dứt tiếp nhận đơn đăng ký dự thầu.Giờ mở thầu thường được Ngân hàng Nhà nước
thông báo trong thông báo đấu thầu mua hoặc bán giấy tờ có giá.
Sau đó sở giao dịch sẽ thực hiện những công việc kiểm tra, xác nhận lần cuối
những vấn đề như xác thực mã số thành viên được tham gia, mã số giao dịch, mã số
khóa chữ ký điện tử, xem xét và loại bỏ những hồ sơ không hợp lệ,…
Khi thực hiện các công việc kiểm tra, xác thực xong sở giao dịch sẽ đưa ra
“Bảng kê tổng hợp đăng ký đấu thầu hợp lệ sắp xếp theo thứ tự lãi suất”. Bảng này
tổng hợp những đơn đăng ký đấu thầu hợp lệ, đầy đủ nội dung và được sở giao dịch
sắp xếp theo thứ tự lãi suất.
Dựa tên “Bảng kê tổng hợp đăng ký đấu thầu hợp lệ sắp xếp theo thứ tự lãi
suất” sở giao dịch tiến hành xét thầu và phân bổ thầu.
2.5.5. Thông báo kết quả đấu thầu, lập và giao nhận hợp đồng bán kèm theo cam
kết mua lại giấy tờ có giá
Tại mỗi phiên đấu thầu đều có sự chứng kiến của Giám đốc Sở Giao dịch hoặc
là người được Giám đốc ủy quyền và đại diện Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở
tham gia.Những người đại diện tham gia, có trách nhiệm ký duyệt kết quả đấu
thầu.Kết quả này sẽ được xử lý bằng chương trình tự động, tự chuyển kết quả đấu thầu
cho thành viên tham gia dự thầu. Thông báo này, được xem là căn cứ chính thức để
các bên thực hiện việc thanh toán và chuyển giao giấy tờ có giá. Thông báo kết quả
đấu thầu cơ bản phải đảm bảo những nội dung sau:
+ Ngày đấu thầu.
+ Loại giấy tờ có giá tham gia giao dịch. Loại giấy tờ có giá này được xác
định trước trong thông báo đấu thầu mua hoặc bán giấy tờ có giá.
+ Khối lượng trúng thầu.
+ Khối lượng không trúng thầu.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 47
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
+ Lãi suất trúng thầu.
+ Số tiền thanh toán.
+ Ngày thanh toán.
Sau 11h30 sáng của ngày đấu thầu (trừ trường hợp thông báo thay đổi giờ mở
thầu) thành viên hoặc người kiểm soát tiến hành xác thực chữ ký của Sở Giao dịch tại
thông báo kết quả đấu thầu.
Căn cứ vào kết quả thông báo trúng thầu, các bên lập hợp đồng bán và cam kết
mua lại giấy tờ có giá. Cam kết mua lại giấy tờ có giá chỉ được áp dụng trong trường
hợp giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá. Theo đó, từng thành viên tham
gia nghiệp vụ thị trường mở phải cam ký với Ngân hàng Nhà nước hoặc Sở Giao dịch
cam kết mua lại giấy tờ có giá bằng “Hợp đồng mua lại giấy tờ có giá”50. Đây là hợp
đồng mẫu được áp dụng chung cho tất cả các giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy
tờ có giá giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Ngay sau khi nhận được
thông báo kết quả đấu thầu, nếu bên bán là các tổ chức tín dụng thì các tổ chức tín
dụng phải lập hợp đồng bán có kỳ hạn giấy tờ có giá và hợp đồng cam kết mua lại giấy
tờ có giá theo mẫu quy định gửi cho Sở Giao dịch của Ngân hàng Nhà nước qua mạng
vi tính. Nếu bên bán là Ngân hàng Nhà nước thì Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước
chịu trách nhiệm lập hợp đồng bán có kỳ hạn giấy tờ có giá và hợp đồng cam kết mua
lại giấy tờ có giá gửi cho các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Một khi các bên đã nhận được hợp đồng bán có kỳ hạn giấy tờ có giá của Ngân
hàng Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng qua mạng vi tính, thì đây được xem là cơ sở
để các bên thực hiện thanh toán, giao nhận giấy tờ có giá.
50
Khoản 1, Điều 20, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 48
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.5.6. Thanh toán và chuyển giao giấy tờ có giá
Khi nhận được thông báo kết quả đấu thầu hoặc phụ lục kèm theo hợp đồng
mua lại giấy tờ có giá trong giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy tờ có giá đã được
các bên ký kết. Bên bán và bên mua sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình, theo đó bên bán
phải chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá sang bên mua, bên mua phải thanh toán
tiền mua giấy tờ có giá lại cho bên bán. Tùy theo phương thức giao dịch mua hoặc bán
giấy tờ có giá mà quy định về việc chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá là khác
nhau. Đối với giao dịch mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá, quyền sở hữu giấy tờ có giá
sẽ được chuyển hẳn sang cho bên mua. Đối với giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn giấy
tờ có giá, quyền sở hữu giấy tờ có giá chỉ được chuyển tạm thời trong một khoản thời
gian nhất định sang bên mua. Việc thanh toán và chuyển giao giấy tờ có giá được thực
hiện trong ngày thanh toán.Ngày thanh toán được hiểu là ngày tổ chức tín dụng trúng
thầu thực hiện giao, nhận giấy tờ có giá và thanh toán với Ngân hàng Nhà nước51.
Khi đến ngày kết thúc thời hạn thanh toán của giao dịch mua hoặc bán giấy tờ
có giá có kỳ hạn, bên mua hoặc bên bán sẽ thực hiện quyền chuyển giao quyền sở hữu
giấy tờ có giá và theo cam kết của các bên tại phụ lục kèm theo hợp đồng giấy tờ có
giá. Nghĩa là, nếu trước đây bên bán chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá sang bên
mua thì ngược lại bây giờ bên mua phải chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá lại
cho bên bán và nhận thanh toán.
Trường hợp đến hạn ngày mua lại hoặc ngày đến hạn thanh toán giấy tờ có giá
nhưng ngày đến hạn mua lại hoặc ngày đến hạn thanh toán lại trùng với ngày nghỉ cuối
tuần, nghỉ lễ và nghỉ tết, thì ngày thanh toán và chuyển giao giấy tờ có giá được thực
hiện vào ngày làm việc tiếp theo.
51
Kết hợp Khoản 13 và Khoản 16, Điều 2, Quyết định số 26/VBHN-NHNN ngày 11 tháng 6 năm 2014 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 49
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
2.5.7. Xử lý vi phạm
2.5.7.1. Xử lý vi phạm trong cung cấp thông tin
Trường hợp tổ chức tín dụng trúng thầu mua giấy tờ có giá không đủ điều kiện
để thanh toán. Hay nói cách khác, tổ chức tín dụng đã tham gia đấu thầu và trúng thầu
trong giao dịch mua giấy tờ có giá nhưng không có khả năng thanh toán, Sở Giao dịch
sẽ trích tài khoản của tổ chức tín dụng trúng thầu tại Ngân hàng Nhà nước để cho đủ
số tiền thanh toán tương ứng với khối lượng trúng thầu. Nếu tổ chức tín dụng không
đủ khả năng thanh toán, Sở Giao dịch đã tiến hành trích tài khoản của tổ chức tín dụng
trúng thầu nhưng vẫn không đủ thanh toán giao dịch mua giấy tờ có giá thì Ngân hàng
Nhà nước sẽ hủy bỏ phần kết quả trúng thầu chưa được thanh toán. Như vậy, nếu như
phần kết quả trúng thầu nào không có khả năng thanh toán thì phần đó sẽ bị hủy, phần
còn lại tổ chức tín dụng trúng thầu có khả năng thanh toán thì phần đó vẫn được chấp
nhận.
Khi đến hạn thanh toán tiền mua lại giấy tờ có giá mà tổ chức tín dụng không
thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền cần thanh toán thì Ngân hàng Nhà nước
hoặc Sở Giao dịch sẽ trích tài khoản của tổ chức tín dụng đó tại Ngân hàng Nhà nước
cho đủ số tiền thanh toán. Trường hợp Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
việc trích tài khoản của tổ chức tín dụng nhưng vẫn không đủ, thì Ngân hàng Nhà
nước sẽ chuyển khoản tiền còn thiếu đó sang nợ quá hạn. Số tiền còn thiếu được
chuyển sang nợ quá hạn được tính với mức lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất thống
nhất hoặc lãi suất riêng lẻ hoặc lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo áp dụng đối
với giao dịch mua hoặc bán
2.5.7.2. Xử lý vi phạm trong việc cung cấp thông tin
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng trao đổi thông tin với nhau thông
qua trang tin nghiệp vụ thị trường mở. Theo quy định định kỳ một lần trên một tuần
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng phải thực hiện việc cung cấp thông tin
cho nhau, theo đó:
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 50
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Ngân hàng Nhà nước sẽ cung cấp cho các tổ chức tín dụng là thành viên tham
gia nghiệp vụ thị trường mở những thông tin cơ bản sau:
+ Thông tin đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở.
+ Thông tin tổng hợp về nghiệp vụ thị trường mở.
+ Các thông tin khác có liên quan do Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở
quyết định.
Các tổ chức tín dụng là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở cung cấp
cho Ngân hàng Nhà nước những thông tin cơ bản sau:
+ Dự kiến vốn khả dụng bằng đồng tiền Việt Nam tại tổ chức tín dụng.
+ Nhu cầu mua hoặc bán giấy tờ có giá.
+ Hoạt động mua hoặc bán giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng.
+ Các thông tin khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Nếu như các tổ chức tín dụng là thành viên của Nghiệp vụ thị trường mở
không cung cấp những thông tin cơ bản trên cho Ngân hàng Nhà nước sẽ bị đình chỉ
tham gia mua, bán trong thời gian 1 tháng, tính từ ngày Ngân hàng Nhà nước thông
báo cho các tổ chức tín dụng biết về việc vi phạm đó. Theo quy định, chỉ xử lý vi
phạm nếu như các tổ chức tín dụng chậm trễ hoặc không thông báo những thông tin cơ
bản cho Ngân hàng Nhà nước chứ không quy định xử lý vi phạm nếu như Ngân hàng
Nhà nước chậm trễ hoặc không thông báo cho các tổ chức tín dụng những thông tin cơ
bản trên.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 51
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
TỔNG KẾT CHƯƠNG 2
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ để Ngân hàng Nhà nước thực hiện hoạt
động điều hành chính sách tiền tệ, do vậy việc phát triển của nghiệp vụ thị trường mở
sẽ hỗ trợ đắc lực Ngân hàng Nhà nước hoạt động có hiệu quả đáp ứng yêu cầu vận
hành kinh tế Việt Nam trong thời đại mới. Trên cơ sở những lý luận chung về nghiệp
vụ thị trường mở, chương này tập trung nghiên cứu sâu về tư cách và điều kiện của
chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở, theo đó Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức
tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là thành viên. Tuy nhiên có một
điểm đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước ngoài việc tham gia nghiệp vụ thị trường mở với
tư cách thành viên còn tham gia với tư cách quản lý và điều hành nghiệp vụ thị trường
mở. Các chủ thể muốn tham gia nghiệp vụ thị trường mở cần thỏa mãn những điều
kiện nhất định. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, Tín phiếu Kho bạc, chứng chỉ tiền gửi
là những loại giấy tờ có giá được tham gia giao dịch trên thị trường mở thông qua hình
thức mua bán có kỳ hạn hoặc mua bán hẳn. Việc mua hoặc bán các loại giấy tờ vừa
nêu phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định và chỉ được thực hiện một
trong hai phương thức hoặc là đấu thầu lãi suất hoặc là đấu thầu khối lượng.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 52
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
CHƯƠNG III:
NHẬN XÉT VIỆC THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ - MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1. Nhận xét việc thực hiện quy định pháp luật về thị trường mở
3.1.1. Thuận lợi
Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước chính thức đi vào hoạt
động ngày 12/7/2000, đây là một bước tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ
gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Nghiệp vụ thị
trường mở của Ngân hàng Nhà nước ra đời đã tạo ra một kênh cung ứng và điều tiết
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước và tạo điều kiện cho
các tổ chức tín dụng sử dụng linh hoạt các loại giấy tờ có giá của mình.
Có thể nói qua gần 15 năm thành lập và hoạt động công cụ nghiệp vụ thị
trường mở được Ngân hàng Nhà nước không ngừng cải tiến và dần trở thành một công
cụ điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu đối với một công cụ chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu đề
ra. Những kết quả mà công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước mang
lại như sau:
Thứ nhất, hoạt động thị trường mở trong thời gian qua đã thể hiện được vai trò
công cụ điều hành hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông
qua việc quy mô thị trường ngày càng mở rộng cả về doanh số hoạt động, tần suất giao
dịch lẫn số lượng thành viên tham gia. Bên cạnh đó, nghiệp vụ thị trường mở kết hợp
một cách hiệu quả với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác như lãi suất chiết
khấu, dự trữ bắt buộc,…góp phần hỗ trợ kịp thời cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả
năng thanh toán, góp phần duy trì ổn định tiền tệ.
Thứ hai, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương đã góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng tăng trưởng và phát triển.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 53
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về vốn
ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời, sự phát triển của nghiệp
vụ thị trường mở còn gắn với việc tăng cường tính chủ động cho các tổ chức tín dụng
trong quá trình khai thác và sử dụng nguồn vốn, nhờ việc luôn được đảm bảo khả năng
thanh khoản từ thị trường. Việc đầu tư vào hoạt động mua hoặc bán giấy tờ có giá đã
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đa dạng hóa danh mục hàng hóa đầu tư, cũng
như tối đa hóa lợi ích từ hoạt động đầu tư nghiệp vụ thị trường mở.
Thứ ba, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước và nâng cao vị thế, vai trò và chức năng của Ngân hàng Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Nghiệp vụ thị trường mở là kênh quan trọng để Ngân
hàng Nhà nước tổ chức, nắm bắt thông tin về tình hình nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng nói riêng và tình hình thị trường nói chung. Thông qua việc tổng hợp, phân tích
các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao dịch
của nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước có thể đưa ra những quyết sách
trong việc điều hành chính sách tiền tệ, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, thực hiện
tốt nhiệm vụ, chức năng được giao. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở còn góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhờ vào tính chuyên môn hóa
cao trong các lĩnh vực liên quan, điển hình như nâng cao hiệu quả của hoạt động phân
tích, dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng làm cơ sở cho các quyết định giao
dịch trên thị trường mở.
Thứ tư, các cơ chế và quy chế nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà
nước không ngừng được cải tiến và hoàn thiện, ngày càng đáp ứng yêu cầu thực tiễn và
mong muốn của các tổ chức tín dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tùy theo từng thời
kỳ, từng giai đoạn mà Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành những quy định nhằm điều
chỉnh nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước cho phù hợp, và kịp thời sửa
đổi, bổ sung những cơ chế, quy chế không còn thiết thực.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 54
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Sở dĩ hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước đạt được
những kết quả như vậy là nhờ những yếu tố thúc đẩy chính sau:
+ Các loại giấy tờ có giá được tham gia nghiệp vụ thị trường mở ngày càng đa
dạng. Đây là sự thay đổi có tác động tích cực đến thị trường, bởi nó có góp phần tăng
cường khối lượng và chủng loại hàng hóa tham gia giao dịch trên thị trường mở từ đó
kích thích sự đầu tư của các tổ chức tín dụng.
+ Quy trình thanh toán ngày một rút ngắn, nếu trước đây ngày thanh toán là
sau 02 ngày kể từ ngày đấu thầu, thì ngày nay việc thanh toán được thực hiện ngay
trong ngày đấu thầu.
+ Tần suất giao dịch cũng được tăng dần, điều đó góp phần thúc đẩy hoạt động
nghiệp vụ thị trường mở ngày một hiệu quả.
+ Phương thức giao dịch được đổi mới theo thời gian. Hiện nay, đa phần hoạt
động trên thị trường mở đều được “diễn ra trên mang” thông qua phần mềm ứng dụng
của thị trường mở. Nhờ vậy, các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở có thể
rút ngắn được thời gian, chi phí, công sức…Chính việc đổi mới phương thức này đã
tạo điều kiện thu hút nhiều thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Một cách chung nhất, các quy định hiện hành về nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng trung ương khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Công tác điều hành,
tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện một cách an toàn. Việc giao
dịch thông qua nối mạng giữa trung tâm giao dịch của thị trường với các thành viên
được thực hiện trôi chảy. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng chú trọng xây dựng cơ
sở hạ tầng, hỗ trợ hoạt động của thị trường tiền tệ. Đồng thời, với vai trò là cơ quan
quản lý, điều hành nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng Nhà nước đã chú trọng xây
dựng phần mềm để thực hiện các giao dich trên thị trường mở giữa Ngân hàng Nhà
nước và các thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở đã
có tác dụng nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tham gia thị trường, đa
dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối hợp giữa thị trường
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 55
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
liên ngân hàng – thị trường mở - thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính
Việt Nam hiện nay.
3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế về thị trường mở
Bên cạnh những kết quả đạt được, nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng
Nhà nước cũng bộc lộ những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, quy mô thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước ngày càng mở rộng
nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế, số lượng thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường
mở vẫn còn ít. Bởi vì, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động không mang
tính bắt buộc, vì thế số lượng thành viên tham gia vẫn còn khiêm tốn. Theo thống kê
hai năm 2008 – 2009 khoảng 50% – 60% các tổ chức tín dụng được công nhận là thành
viên của nghiệp vụ thị trường mở. Năm 2010, số lượng thành viên tham gia tích cực
hơn, có phiên giao dịch lên đến 40 thành viên tham gia. Sang năm 2011, các thành viên
tham gia phiên giao dịch cao nhất lên đến 44 thành viên52. Đồng thời, chính sự không
đồng bộ trong ứng dụng công nghệ tin học giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức
tín dụng cũng làm hạn chế số lượng thành viên tham gia. Bên cạnh đó, việc Ngân hàng
Nhà nước còn sử dụng rộng rãi kênh tái cấp vốn, tái chiếc khấu với lãi suất thấp chưa
tạo ra động lực để các tổ chức tín dụng tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Một
số tổ chức tín dụng đầu tư vào giấy tờ có giá nhưng không sử dụng giấy tờ có giá để
tham gia nghiệp vụ thị trường mở mà chủ yếu cầm cố để vay vốn hoặc tái chiết khấu
tại Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bước
vào hội nhập còn hạn chế về khả năng quản trị rủi ro, quản lý tài sản có – tài sản nợ.
Các ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn cơ cấu lại, có sự chênh lệch lớn về qui
mô, chất lượng tài sản, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Khả năng thích ứng
với sự biến động của thị trường còn yếu, đã làm hạn chế đến hiệu quả điều hành chính
sách tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Mặc khác, các tổ chức tín dụng chưa
thực sự quan tâm đến công tác quản lý thanh khoản, chưa sở hữu hoặc sở hữu nhưng
52
Tán Anh Khoa, Nghiên cứu nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2007 –
2011, trang 56
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 56
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
không nhiều các loại giấy tờ có giá. Chính vì vậy, đã phần nào làm giảm tính cạnh
tranh về lãi suất trong các phiên giao dịch của thị trường mở và ảnh hưởng đến hiệu
quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ hai, giấy tờ có giá tham gia giao dịch trên thị trường mở chưa thật sự đa
dạng. Xuất phát từ định nghĩa nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước là
hoạt động mua hoặc bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá, vậy nên chỉ có tín phiếu kho
bạc, tính phiếu Ngân hàng Nhà nước và chứng chỉ tiền gửi được phép tham gia giao
dịch trên thị trường mở. Thêm vào đó, Việt Nam chưa hình thành các tổ chức đánh giá
độ tín nhiệm có đủ uy tín nên Ngân hàng Nhà nước chưa có điều kiện để sử dụng giấy
tờ có giá của các Ngân hàng thương mại có uy tín phát hành hoặc bảo lãnh, các trái
phiếu doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao… trong giao dịch trên thị trường mở. Chính
điều này, đã làm hạn chế sự đầu tư của các tổ chức tín dụng đối với giấy tờ có giá tham
gia giao dịch trên thị trường mở.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện cố định phiên chào mua, chào
bán hàng tuần hoặc công bố trước hướng điều hành nghiệp vụ thị trường mở của ngân
hàng trung ương, vì vậy đã làm hạn chế tính chủ động của các thành viên khi tham gia
giao dịch trên thị trường mở. Mặc khác, hiện tại các giao dịch phổ biến trên thị trường
mở là các giao dịch mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá. Các giao dịch mua hoặc bán có
kỳ hạn giấy tờ có giá tuy có diễn ra nhưng không nhiều.
Thứ tư, quy trình đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá để tham gia nghiệp vụ thị
trường mở vẫn chưa thật sự tạo sự thuận lợi cho các thành viên tham gia. Quy trình lưu
ký giấy tờ có giá qua mang đang được xây dựng và hoàn thiện. Thông tin về các loại
giấy tờ có giá đang lưu ký không được theo dõi thống nhất và tạo điều kiện để các
thành viên tham gia giao dịch kiểm tra, đối chiếu. Bên cạnh đó, hoạt động của nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng chủ yếu dựa trên
phần mềm của hệ thống giao dịch điện tử. Tuy nhiên, phần mềm này chưa thật sự phát
huy hết chức năng, những số liệu cần thiết như tình hình vốn khả dụng của các tổ chức
tín dụng từng thời điểm, hoạt động đầu tư giấy tờ có giá,…vẫn chưa được nắm bắt kịp
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 57
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
thời. Việc dự báo tình hình vốn khả dụng đôi khi chưa thật sự chính xác. Các dự báo
trên một tháng tuy đã được thực hiện, nhưng không thường xuyên và chỉ mang tính dự
báo về xu hướng và ước đoán theo dãy số liệu lịch sử. Chính vì vậy, việc điều tiết vốn
khả dụng để thực hiện hiện mục tiêu chính sách tiền tệ chưa thật sự hiệu quả.
Thứ năm, khả năng điều tiết các điều kiện thị trường như cung cầu, lãi suất của
nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế. Ngân hàng Nhà nước chưa kiểm soát được toàn
bộ các luồng tiền tệ trong nền kinh tế như luồng ngoại tệ ra hoặc vào đất nước, hoạt
động cho vay của các tổ chức tài chính khác, các khoản thu chi ngân sách nhà nước và
hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác53.
Thứ sáu, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước còn mang
dấu ấn hành chính. Điều này, được minh chứng rõ nhất thông qua các xử lý thắt chặt
tiền tệ để chống lạm phát trong những tháng đầu năm 2008, những tháng cuối năm
2010 và từ năm 2011 đến nay thông qua việc áp dụng các mức trần lãi suất54. Đồng
thời, theo quy định của quy chế bán đấu giá tài sản, có hai hình thức đấu thầu lãi suất
và đấu thầu khối lượng, nhưng thực tế hiện nay các giao dịch trên thị trường mở đều
được Ngân hàng Nhà nước ấn định mức lãi suất, điều đó đã làm giảm đi tính chủ động
và cạnh tranh của các thành viên tham gia giao dịch trên thị trường mở.
Thứ bảy, thời gian qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành linh hoạt
lãi suất thị trường mở gắn liền với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu để định
hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu trong điều hành chính sách tiền tệ. Thực tế cho
thấy vẫn có thời điểm, Ngân hàng Nhà nước lúng túng trong việc điều hành lãi suất
trên thị trường mở trong mối quan hệ với các lãi suất khác. Những năm gần đây và đặc
biệt trong năm 2011, Ngân hàng Nhà nước thực hiện đấu thầu khối lượng với lãi suất
công bố, điều này cũng hạn chế phần nào đến khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín
dụng.
53
Tô Ánh Dương, Chính sách tiền tệ của Việt Nam: những thách thức và yêu cầu đổi mới, Tạp chí Tài chính –
Tiền tệ, trang 32
54
Tô Ánh Dương, Chính sách tiền tệ của Việt Nam: những thách thức và yêu cầu đổi mới, Tạp chí Tài chính –
Tiền tệ, trang 32
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 58
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Từ những phân tích trên, cho thấy hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của
Ngân hàng Nhà nước sở dĩ bộc lộ nhiều hạn chế là do vấn đề cơ chế chính sách tác
động đến hàng hóa của thị trường, vấn đề điều hành của Ngân hàng Nhà nước và các
vấn đề liên quan đến khả năng hoạt động của các tổ chức tín dụng.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở
3.2.1. Những giải pháp trực tiếp liên quan đến hoạt động của thị trường mở
Một là, mở rộng thành viên tham gia thị trường mở. Hiện nay, thành viên tham
gia các giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở chủ yếu là Ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Muốn giao dịch trên thị trường mở
thật sôi động và đạt hiệu quả đòi hỏi cần phải tăng số lượng thành viên tham gia. Theo
đó, Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu mở rộng và có thể xem xét đến Quỹ hỗ trợ
phát triển, Kho bạc Nhà nước, Quỹ bảo hiểm xã hội,…khi những định chế này có đủ
tiêu chuẩn đề trở thành thành viên của nghiệp vụ thị trường mở.
Hai là, bổ sung thêm hàng hóa tham gia giao dịch trên thị trường mở. Ngân
hàng Nhà nước cần nghiên cứu và bổ sung thêm hàng hóa tham gia giao dịch trên thị
trường mở. Bởi sự đa dạng của hàng hóa tham gia nghiệp vụ thị trường mở sẽ thúc đẩy
sự đầu tư của các tổ chức tín dụng vào các loại giấy tờ có giá, từ đó tăng thêm tính
thanh khoản của các giấy tờ có giá và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua hoặc
bán giấy tờ có giá của Ngân hàng trung ương. Ngoài những giấy tờ có giá do Ngân
hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phát hành, Ngân hàng Nhà nước nên chấp nhận những
loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do các tổ chức tín dụng có uy tín, do các chính quyền
địa phương hoặc các công ty lớn của Ngân hàng Nhà nước được phép giao dịch trên thị
trường mở phát hành. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải bổ sung vào cơ cấu
giấy tờ có giá những loại giấy tờ có giá như trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam, trái phiếu chính quyền địa phương, thương phiếu,…Không dừng lại ở đó,
Ngân hàng Nhà nước cần xem xét và bổ sung thêm những loại giấy tờ có giá trung hạn
và dài hạn vào cơ cấu hàng hóa được tham gia giao dịch trên thị trường mở.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 59
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
Ba là, đa dạng hóa các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kỳ hạn
trong một phiên giao dịch trên thị trường mở. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà nướ cần đa
dạng hóa hơn nữa các kỳ hạn giao dịch, nghiên cứu áp dụng nhiều kỳ hạn giao dịch
trong một phiên giao dịch để tăng cường khả năng tham gia thị trường mở của các
thành viên. Thực hiện cố định chào mua, chào bán hàng tuần và khuyến khích các tổ
chức tín dụng tích cực đầu tư và giấy tờ có giá để tham gia nghiệp vụ thị trường mở và
hạn chế tình trạng dự trữ sơ cấp. Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa thời hạn và tăng khối
lượng phát hành giấy tờ có giá. Bởi vì, hiện nay kỳ hạn giấy tờ có giá còn khá đơn
điệu, không có tính liên tục. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài
chính để sao cho việc phát hành giấy tờ có giá được liên tục và thường xuyên để hình
thành nên các mức lãi suất chuẩn có tính tham chiếu cho thị trường và tránh trùng lắp
giữa kỳ hạn của các giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phát hành.
Chẳng hạn, nếu Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu từ 7 ngày đến 182 ngày, thì
Bộ Tài chính sẽ phát hành tín phiếu có thời hạn từ 6 tháng trở lên để nhằm bù đắp sự
thiếu hụt về kỳ hạn của thị trường giao dịch giấy tờ có giá. Sự đa dạng về kỳ hạn giấy
tờ có giá, sẽ là yếu tố thu hút sự đầu tư và giao dịch của các tổ chức tín dụng. Đồng
thời việc đa dạng các kỳ hạn các giao dịch giấy tờ có giá sẽ giúp cho Ngân hàng Nhà
nước có thêm loại hàng hóa với khối lượng lớn để can thiệp thị trường trong những
trường hợp cần thiết. Tiếp tục tăng tần số giao dịch, tiến tới thực hiện giao dịch định kỳ
theo hàng ngày. Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết với khối lượng giao dịch
lớn và các kỳ hạn giao dịch đa dang sẽ thực hiện phiên giao dịch đột xuất, đây là điều
hết sức cần thiết. Điều này, sẽ tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng có nhiều lựa chọn,
có những đặt thầu phù hợp với nhu cầu điều tiết vốn khả dụng của mình. Đồng thời,
góp phần quan trọng cho việc tăng cừng hiệu quả điều tiết của nghiệp vụ thị trường
mở, nhất là giai đoan hiện nay khi mà yêu cầu điều tiết tiền tệ của nền kinh tế có những
diễn biến thất thường.
Bốn là, hoàn thiện các quy định lưu ký giấy tờ có giá tại Ngân hàng Nhà nước.
Hiện nay, mặc dù việc đặt thầu, xét thầu và thông báo đều được thực hiện qua mạng
nhưng việc theo dõi, lưu ký giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước thực hiện hoàn
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 60
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
toàn thủ công bằng văn bản. Chính điều này, đã làm kéo dài thời gian giao nhận giấy
tờ có giá giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khi thực hiện giao dịch
trên thị trường mở. Vì vậy, việc theo dõi lưu ký giấy tờ có giá bằng phần mềm sẽ góp
phần khắc phục được hạn chế trong việc chậm trễ giao nhận giấy tờ có giá trong giao
dịch thị trường mở giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng. Đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước cần Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy trình lưu ký giấy tờ có giá
qua mạng, thực hiện việc nâng cấp đường truyền, tạo thuận lợi cho các thành viên
tham gia thị trường được nhanh chóng và thông suốt, đáp ứng yêu cầu khi thị trường
mở ngày càng phát triển và mở rộng. Đồng thời, phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
thông tin về hoạt động thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước nói riêng và thị trường
tiền tệ nói chung, để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng nắm bắt diễn biến
thị trường. Mở rộng hệ thống công nghệ thông tin của nghiệp vụ thị trường mở để hệ
thống không chỉ thực hiện, xử lý các thủ tục giao dịch giấy tờ có giá mà chương trình
và các cơ sở dữ liệu được phát triển để trở thành cổng thông tin của thị trường tiền tệ
như thông tin về nhu cầu vốn khả dụng, nhu cầu mua hoặc bán giấy tờ có giá của các
tổ chức tín dụng, thông tin về khối lượng giấy tờ có giá đang được nắm giữ tại các tổ
chức tín dụng và Ngân hàng Nhà Nước.
Năm là, Tăng cường quản lý vốn khả dụng và dự báo vốn khả dụng. Thứ nhất,
tổ chức tốt việc thu thập thông tin liên quan đến vốn khả dụng của từng tổ chức tín
dụng và của cả hệ thống, phân tích và dự báo một cách khoa học những thay đổi mức
vốn khả dụng trong từng thời kỳ. Dự báo diễn biến tiền tệ trên cơ sở phân tích các
nguyên nhân tác động đến tình hình tiền tệ để đưa ra các biện pháp điều hành chính
sách tiền tệ phù hợp mục tiêu từng thời kỳ. Thứ hai, Nâng cao chất lượng dự báo và
điều hành thị trường trên cơ sở cải tiến chế độ thu thập, xữ lý, cung cấp thông tin trong
và ngoài ngành, cần phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng,
và các bộ, ngành liên quan. Ngoài ra, cần tăng cường công tác đào tạo, nâng cao trình
độ cán bộ làm công tác dự báo vốn khả dụng cũng như việc thực hiện quy trình giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở. Bởi suy cho cùng dù ở bất kỳ hoạt động nào hay lĩnh
vực nào trong các hoạt động kinh tế, xã hội con người vẫn được xem là yết tố then
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 61
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
chốt, quyết định sự thành công. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng
Nhà nước trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ là một điều hết sức cần
thiết. Việc nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng Nhà nước không chỉ đối với cán bộ
Ngân hàng Nhà nước mà còn cả cán bộ của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước
và các ngân hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý
ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ.
Sáu là, Ngân hàng Nhà nước nên kết hợp giữa hai hình thức đấu thầu lãi suất
và đấu thầu khối lượng lại với nhau. Bởi vì, theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở ngân
hàng nhà nước chỉ có thể đấu thầu theo hình thức đấu thầu lãi suất hoặc đấu thầu khối
lượng. Việc đấu thầu khối lượng chỉ xãy ra khi lãi suất cố định được tính toán và chỉ
đạo, còn đấu thầu lãi suất sẽ xác định lãi suất trúng thầu tại điểm mà khối lượng tiền
cần bơm vào hay hót khỏi lưu thông đạt được. Chính mức lãi suất này sẽ quyết định giá
của giấy tờ có giá trên thị trường mở. Như vậy, để khuyến khích các tổ chức tín dụng
tham gia nghiệp vụ thị trường mở, trong giai đoạn đầu, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cần kết hợp cả hai hình thưc đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
3.2.2. Một số giải pháp bổ trợ hỗ trợ cho hoạt động của thị trường mở
Một là, hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Để
nâng cao năng lực điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, trước hết cần xem xét lại
cơ chế điều hành của từng công cụ chính sách tiền tệ và đề ra phương án cải tiến, hoàn
thiện. Đồng thời, nghiên cứu và bổ sung thêm những công cụ mới trong điều hành
chính sách tiền tệ.
Hai là, phối hợp đồng bộ giữa thị trường mở với công cụ điều hành chính sách
tiền tệ khác. Tùy thuộc vào điều kiện của từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước sẽ xác
định và kết hợp sử dụng những công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Có thể kết hợp
giữa công cụ lãi suất với công cụ tỷ giá, công cụ dự trữ bắt buột, tái cấp vốn với thị
trường mở.
Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, thông tin rộng rãi về thị
trường mở nhằm thu hút thêm các thành viên tham gia thị trường mở. Mở rộng hệ
thống công nghệ thông tin thị trường mở từ chỗ chỉ là nơi thuần tuý thực hiện các giao
dịch mua bán giấy tờ có giá phát triển thành cổng thông tin của thị trường tiền tệ như
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 62
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
thông tin về nhu cầu vốn khả dụng, nhu cầu mua bán giấy tờ có giá của các tổ chức tín
dụng, thông tin về khối lượng giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính
phát hành, khối lượng giấy tờ có giá do Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng
nắm giữ.
Bốn là, Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường
mở. Suy cho cùng, con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt
động kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng Nhà
nước trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết
vừa lâu dài. Do vậy, để hoàn thiện và triển khai hiệu quả thị trường mở tại Việt Nam,
điều quan trọng là phải nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành thị trường mở,
không chỉ tại Ngân hàng Nhà nước mà còn tại các tổ chức tín dụng thành viên. Ngân
hàng Nhà nước và các ngân hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
cán bộ quản lý ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cần phải được
chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh
đào tạo lý thuyết cơ bản thì cũng cần tiến hành các khoá học ở trong nước và nước
ngoài.
TỔNG KẾT CHƯƠNG 3
Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
đã đạt được những kết quả nhất định, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở ngày một
phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và thể hiện đúng vai trò, vị trí là công cụ hữu
hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước còn bộc lộ những hạn chế như
số lượng thành viên tham gia nhìn chung còn khá ít, hàng hóa tham gia giao dịch chưa
đa dạng, tần số giao dịch chưa thật sự nhiều…Chính điều này, đã làm hạn chế sự đầu
tư của các tổ chức tín dụng, làm giảm khả năng phát triển của hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở. Để giải quyết những tồn tại, hạn chế đó đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước cũng
như những chủ thể có liên quan cần có những chính sách và giải pháp tương ứng để
khắc phục.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 63
Đề tài: Pháp luật về thị trường mở
KẾT LUẬN
Tóm lại, thị trường mở là công cụ linh hoạt và hữu hiệu để Ngân hàng Nhà
nước thực hiện hoạt động điều hành chính sách tiền tệ. Sự phát triển của thị trường mở
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi suất thị
trường. Kể từ khi ra đời, hoạt động thị trường mở được thực hiện thông suốt, hỗ trợ kịp
thời nguồn vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng. Ngày nay, cùng với sự phát triển
khá nhanh về quy mô của thị trường tiền tệ nói chung và thị trường mở nói riêng, đòi
hỏi phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh nhằm điều chỉnh hoạt động thị trường mở,
đảm bảo phù hợp với xu hướng của thị trường.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã hệ thống hoá một số nội dung cơ bản về
thị trường mở, từ đó đưa ra những phân tích, đánh giá hoạt động thị trường mở của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dựa trên nhiều khía cạnh như: khuôn khổ pháp lý, tổ
chức và điều hành nghiệp vụ thị trường mở, hàng hoá tham gia giao dịch trên thị
trường mở, các thành viên tham gia thị trường mở, phương thức và hình thức giao dịch
giấy tờ có giá trên thị trường mở, cũng như trình tự, thủ tục mua hoặc bán giấy tờ có
giá.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đánh giá những ưu và nhược điểm của hoạt động
thị trường mở bằng cách phân tích những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế.
Đồng thời, đưa ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường mở,
để từ đó rút ra những vấn đề nổi bật cần giải quyết trong thời gian tới và đề xuất những
giải pháp hoàn thiện thị trường mở để đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SVTH: Nguyễn Chí Khang
Trang 64
[...]... tệ và hàng hóa thị trường mở là những nhân tố tác động đến sự vận hành của thị trường mở của ngân hàng trung ương trong giai đoạn hiện nay GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Nguyễn Chí Khang Trang 23 Đề tài: Pháp luật về thị trường mở CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ 2.1 Quy định pháp luật về chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở Chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm có Ngân... thị trường mở ra đời Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở đã đưa ra những quy định pháp luật liên quan nhằm cụ thể hóa khái niệm thị trường mở tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003) Những quy định pháp luật liên quan đến thị trường mở như: công nhận thành viên tham gia thị trường mở, ... cụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Từ đó, đưa ra những giải pháp, định hướng thúc đẩy quá trình phát triển của hoạt động thị trường mở GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Nguyễn Chí Khang Trang 1 Đề tài: Pháp luật về thị trường mở 3 Phạm vi nghiên cứu Lịch sử hình thành, cơ chế tác động, vai trò và nhân tố ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường mở là những vấn đề lý luận chung về thị trường mở. .. pháp luật liên quan đến thị trường mở là hai nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến sự vận hành của thị trường mở GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Nguyễn Chí Khang Trang 21 Đề tài: Pháp luật về thị trường mở 1.5.2 Nhân tố khách quan Ngoài sự phụ thuộc vào ngân hàng trung ương, nghiệp vụ thị trường mở còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như: môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng, sự tham gia thị. .. quy định pháp luật về thị trường mở cũng tác động đến sự vận hành của nghiệp vụ thị trường mở Nếu như pháp luật cho phép thực hiện đa dạng các phương thức thị trường mở thì thị trường mở sẽ trở nên sôi động và hấp dẫn, thu hút được đông đảo thành viên tham gia và ngược lại Thị trường mở theo quy định pháp luật Việt Nam rất đa dạng cả về hình thức lẫn nội dung Thứ nhất, về chủ thể có ngân hàng trung ương,... nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa thật sự phát triển Chính vì vậy, nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở là cần thiết Nhận thức được điều đó, nên tác giả đã chọn vấn đề Pháp luật về thị trường mở để làm đề tài nghiên cứu của Luận văn 2 Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu những quy định pháp luật về thị trường mở để... tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài10 1.2 Khái niệm thị trường mở Khái niệm thị trường mở được hiểu trên hai quan điểm cơ bản Thứ nhất, xét theo nghĩa rộng, thị trường mở (Open market) là một khái niệm của sự kết hợp giữa phạm trù thị trường tiền tệ, thị trường tài chính Thứ hai, xét theo nghĩa hẹp, thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua hoặc bán các công... 05/01/2007 về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở và Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN ngày 30/9/2008 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ thị trường mở 11 Khoản 1, Điều 3, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Nguyễn Chí Khang Trang 8 Đề tài: Pháp luật về thị trường mở chiết khấu, hạn mức tín dụng và nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng... viên của nghiệp vụ thị trường mở, muốn trở thành thành viên của nghiệp vụ thị trường mở phải đảm bảo được những điều kiện của quy chế nghiệp vụ thị trường mở2 5 2.1.1 Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước tham gia nghiệp vụ thị trường mở với tư cách vừa là chủ thể quản lý, điều hành vừa là thành viên của nghiệp vụ thị trường mở 2.1.1.1 Tư cách quản lý và điều hành nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng trung... vụ thị trường mở với tư cách là cơ quan quản lý và điều hành hoạt động thị trường mở. Với vai trò quản lý và điều hành hoạt động thị trường mở, Ngân hàng trung ương sẽ soạn thảo, ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở, xét duyệt hồ sơ và công nhận thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở Đồng thời, Ngân hàng trung ương chủ động tổ chức các giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở ... 23 Đề tài: Pháp luật thị trường mở CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ 2.1 Quy định pháp luật chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở Chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm có... hàng Ngoài ra, quy định pháp luật thị trường mở tác động đến vận hành nghiệp vụ thị trường mở Nếu pháp luật cho phép thực đa dạng phương thức thị trường mở thị trường mở trở nên sôi động hấp... Nguyễn Chí Khang Trang Đề tài: Pháp luật thị trường mở CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ 1.1 Lịch sử hình thành phát triển thị trường mở Trên giới, thị trường mở (OMO – open Market Operations)