1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN

45 3,6K 21
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nhà nước và pháp luật của triều đại nhà Nguyễn
Trường học Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Lịch sử
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 45
Dung lượng 3,45 MB

Nội dung

Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim

Trang 1

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN

Hiệu kỳ hoàng đế nhà Nguyễn từ 1802 đến 1885

1 Điều kiện hình thành.

Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545).Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào ThanhHóa để chống lại nhà Mạc Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một người con củavua Lê Chiêu Tông lập lên ngôi để nối tiếp nhà Lê, là vua Lê Trang Tông Nhờ côngnày, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội.Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc giết Nguyễn Kim có hai ngườicon trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều được phong chức Quận công,nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm Trịnh Kiểm nắm quyềnchỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình Để giảm bớt quyền lựccủa họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông Lo sợ cho chính mình, NguyễnHoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, về sau được Trịnh Kiểm giao quyền cai quảnluôn cả Quảng Nam, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh

từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh

Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranhgiới bằng cách xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với cácvua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức là miền NamViệt Nam bây giờ) Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phụcvua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn) Nguyễn Hoàng (sau được tôn làChúa Tiên) là người mở đầu cho việc xây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn ở phươngnam

Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay Chúa Sãi, lên ngôi chúa năm

1613, là người đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc Từ đó con cháu trong giòng họ nàyđều mang họ này Sáu đời sau, Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào năm 1738, là

Trang 2

người đầu tiên xưng "vương" vì Chúa Trịnh tại phương bắc cũng đã xưng vương –vua Lê chỉ còn hư vị Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Vũ Vương.

Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luânnhưng một vị quan trong triều là Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới

12 tuổi, lên ngôi để dễ bề thao túng Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi năm 1765, tức làĐịnh Vương Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởinghĩa, trong số đó là anh em nhà Tây Sơn Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lựcrất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó, nhân dịp này chúa Trịnh đemquân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan nhưng sau khi bắt đượcTrương Phúc Loan rồi họ tiếp tục đánh và chiếm được Phú Xuân năm 1775 Vì đóchúa Nguyễn phải vào Quảng Nam Đến năm 1777, Tây Sơn đánh bại quân chúaNguyễn, bắt giết cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính VươngNguyễn Phúc Dương cùng rất nhiều người và thuộc tướng của họ Nguyễn Phúc Chỉ

có một người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát

Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượngchiếm được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng vương.Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Ánh khiếnông trốn chạy rồi quay về nhiều lần Đến năm 1790,Nguyễn Ánh chiếm được hẳn Gia Định

Trong 24 năm liên tiếp sau đó, Nguyễn Ánh ra sứccủng cố lại vùng Gia Định; tranh thủ những sự ủng hộ,nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáongười Pháp

mà tiêu biểu sự giúp đỡ của giám mục Pigneau deBéhaine để củng cố quân đội và tạo cho mình một thếđứng vững vàng Cũng đồng thời lúc đó vua QuangTrung của Tây Sơn đột ngột qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào cảnh "cốt nhục tươngtàn", triều đình nhanh chóng suy yếu và mất lòng dân Nguyễn Ánh ra sức tấn công

và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn Sau đó, ông lên ngôi hoàng đế, lấyniên hiệu là Gia Long, nhà Nguyễn thành lập

2 Các triều đại nhà Nguyễn:

Các vua nhà Nguyễn (Tên - Năm Trị Vì - Niên Hiệu)

 Nguyễn Phúc Ánh 1802-1819 Gia Long

2

Trang 3

 Nguyễn Phúc Đảm 1820-1840 Minh Mạng

 Nguyễn Phúc Miên Tông 1841-1847 Thiệu Trị

 Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1847-1883 Tự Đức

 Nguyễn Phúc Ưng Ái 1883 Dục Đức

 Nguyễn Phúc Hồng Dật 1883 Hiệp Hòa

 Nguyễn Phúc Ưng Đăng 1883-1884 Kiến Phúc

 Nguyễn Phúc Ưng Lịch 1884-1885 Hàm Nghi

 Nguyễn Phúc Ưng Kỷ 1885-1889 Đồng Khánh

 Nguyễn Phúc Bửu Lân 1889-1907 Thành Thái

 Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907-1916 Duy Tân

 Nguyễn Phúc Bửu Đảo 1916-1925 Khải Định

 Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy 1926-1945 Bảo Đại

Vua Gia Long sinh năm 1762, mất năm 1820, là con trai thứ ba của NguyễnPhúc Luân, lên ngôi năm 1802, có 13 con trai và 18 con gái Vua Gia Long cũng làngười đặt tên nước là Việt Nam

Vua Minh Mạng sinh năm 1791, mất năm 1841, là con trai thứ tư của vuaGia Long, lên ngôi năm 1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng

tử Nguyễn Phúc Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có

78 con trai và 64 con gái Vua Minh Mạng cũng là người đặt tên nước là Đại Nam.[140]

Vua Thiệu Trị sinh năm 1807, mất năm 1847, là con trai lớn của vua MinhMạng, lên ngôi năm 1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái

Trang 4

Thế phả nhà Nguyễn

4

Trang 5

Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883, là con trai thứ hai của vua ThiệuTrị, lên ngôi năm 1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu Cả ba sau đều lênlàm vua: Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.

Vua Dục Đức sinh năm 1852, mất năm 1883, là con trai trưởng (con nuôi) củavua Tự Đức, lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm 1883 nhưng 3 ngày sau bị Nguyễn VănTường và Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái DụcĐức, vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên củadinh thự của vị vua này Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng

Vua Hiệp Hòa sinh năm 1847, mất năm 1883, là con trai thứ 29 của vuaThiệu Trị (tức là em của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883 nhưng 4tháng sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con

Vua Kiến Phúc sinh năm 1869, mất năm 1884, là con trai thứ ba (con nuôi)của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnhrồi chết, mọi việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không

có con

Vua Hàm Nghi sinh năm 1872, mất năm

1943, là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha

với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là

con nuôi của vua Tự Đức), lên ngôi năm 1884

nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược

chống họ, có 1 con trai và 2 con gái Sau khi bị

truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống Pháp

nhưng bị bắt vào năm 1888 và bị Pháp đày sang

Algérie

Trang 6

Vua Đồng Khánh sinh năm 1864, mất năm 1889, là con trai thứ hai (connuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi năm 1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6con trai và 3 con gái.

Vua Thành Thái sinh năm 1879, mất năm 1955, là con trai thứ bảy của vuaDục Đức (người làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm 1889 nhưng bị Pháp truấtphế vào năm 1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái Vào năm 1916vua Thành Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo Réunion, nhưngđược đón trở lại Việt Nam vào năm 1947

Vua Duy Tân sinh năm 1899, mất năm 1945, là contrai thứ năm của vua Thành Thái, lên ngôi năm 1907nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đàysang đảo Réunion (cùng với cha là vua Thành Thái) vàonăm 1916, có 3 con trai và 1 con gái

Vua Khải Định sinh năm 1885, mất năm 1925, làcon trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916

với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai

con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi năm

1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt

tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp

6

Trang 7

Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 và giữ chức "Cố vấn tối cao" cho chínhphủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, nhưng chẳng bao lâu lại từ chức đisống tại các nước ngoài Bảo Đại trở lại Việt Nam với chức vụ Quốc trưởng Quốcgia Việt Nam vào năm 1948 nhưng lại bị mất quyền sau một cuộc trưng cầu dân ýtrong năm 1956.

I NHÀ NƯỚC

Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương

Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong vương, đặt quan lại cho những người theophò tá mình Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long, ông lạitiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền mới

Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyềntrung ương giống như các triều đại trước đó Đứng đầu nhà nước là vua, nắm mọi

quyền hành trong tay Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các) Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại

học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật Ngoài ra còn cóTông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia[1]

Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi

bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo

các công việc chung của Nhà nước, các bộ gồm:

Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ

Công.[2] Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện (tức là

Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm

thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc

dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ

Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ

trách giáo dục, Thái y viện chịu trách nhiệm về

việc chữa bệnh và thuốc thang, cùng với một số

Ti và Cục khác

 Bộ Lại: chịu trách nhiệm về mặt tổ chức bộ máy nhà nước

Trang 8

 Bộ Hộ: chịu trách nhiệm về hộ khẩu, hộ tịch, ruộng đất, thuế khóa…

 Bộ Lễ: chịu trách nhiệm về mặt nghi lễ, lễ tân, học hành, thi cử

 Bộ Binh: là cơ quan đặc trách mặt quân sự, quốc phòng

 Bộ Hình : đảm nhận việc thực thi pháp luật, hình án

 Bộ Công phụ trách việc tổ chức và quản lý các hoạt động trên lĩnh vực xâydựng, lao thông, thủ công nghiệp của nhà nước

Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có việc gì quan

trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn

xét Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của

mình mà trình bày Việc gì đã quyết định, đem dâng lên

để vua chuẩn y, rồi mới thi hành Hoàng đế tuy có quyền

lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường

Khi vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử

có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời

can ngăn của những người này[4]

Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện,

từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân Người

dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi

việc tại đia phương Tổng gồm có vài làng hay xã, có một

cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các

làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng

Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ Kể từ thời vua Minh Mạng được xácđịnh rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh vàtòng 2 bậc Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải dưới quan văn

cùng phẩm với mình Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính củatỉnh nhà Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ (phải)

Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyềnlợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàmcao hay thấp

8

Trang 9

Tuy bộ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trongnhững vấn đề lớn Trong bộ luật triều Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắcđối với tội này.

Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quânchủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việcquản lý đất nước

Tổ chức đơn vị hành chính: Dưới thời Gia Long các đơn vị hành chính được

chia thành 3 khu vực trong có tên gọi khác nhau

Qu ảng Bình , Quảng Trị , Quảng Đức , Quang Nam v à 7 trấn là Binh Thuận, BìnhHòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi,

Nghệ An, Thanh Hóa Đất kinh kỳ quản ly

trực tiếp 4 doanh

Từ Thanh Hóa trở ra Bắc gọi là Bắc

thành gồm 11 trấn( 5 nội trấn là Sơn Nam

thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây, Hải Dương,

Bắc Kinh và 6 ngoại trấn là Tuyên Quang,

Hưng hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái

nguyên, Quảng Yên)

Từ Bình Định trở vào Nam gọi là Gia

Định trấn (đến năm 1808 đổi gọi là Gia

Định thành):Cai quản 5 trấn là Phiên An,

Biên hòa, Vĩnh Thành, Vĩnh Tường, Hà

Trang 10

Dưới thời Minh Mạng, tổ chức bộ máy nhà

nước từ trung ương đến các địa phương chặt chẽ

hơn, hoàn chỉnh hơn theo ý đồ của nhà vua, nhằm

tập trung mọi quyền lực cao nhất vào nhà nước

trung ương mà trự tiếp là Hoàng Đế

Thời gian đầu mới lên ngôi, Minh Mạng còn

giữ nguyên tổ chức nhà nước thời Gia Long Sau

đó cùng với việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị

hành chính địa phương trong cả nước, Minh Mạng

đã thực hiện những cải cách trong việc tổ chức và

hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước Bộ máy nhà

nước có trung ương gồm có : đứng đầu triều đình

là nhà vua, nắm giữ mọi quyền hành Giúp việc và làm tham mưu cho nhà vua cómột số quan như sau:

 Nội các: thời Gia Long gọi là Thị thư viện chuyên phụ trách công việc giấy tờvăn thư Năm 1820, Minh Mạng đổi gọi là văn thư phòng Năm 1928 đổi văn thưphòng thành Nội các Nội các của nhà Nguyễn thực ra là phỏng theo quy chế Nộicác thời Minh- Thanh( Trung Quốc) , nhưng có điểm khác là về mặt quyền hành của

cơ quan này Thời Minh- Thanh, Nội các là cơ quan có quyền lực lớn đứng trên các

bộ Phẩm hàm của các viên quan đứng đầu Nội các la chánh nhất phẩm, còn dướitriều Minh Mạng, các viên quan đứng đầu cơ quan này chỉ có làm tam phẩm, tứphẩm Cơ quan Nội các gồm có 4 tào (thưởng bảo, kí chú, đồ thư, biểu bạ)

 Cơ mật viện: Năm 1834 đặt cơ mật viện, đây là cơ quan trọng yếu của nhàvua Minh Mạng phỏng theo tổ chức khu mật viện của nhà Tống và quân cơ xứ củanhà Thanh Đứng đầu cơ quan này gồm có 4 viên quan đại thần do vua lựa chọn từcác quan văn, võ có phẩm hàm từ tam phẩm trở lên.Viện cơ mật có nhiệm vụ giúpvua giả quyết các công việc “quân quốc trọng sự”, làm tư vấn cho nhà vua nắm chắclục bộ và các địa phương trong toàn quốc Viện cơ mật có 2 ban: Nam chương kinhphụ trách những việc có liên quan từ Quảng Bình trở vào Nam và các nước ngoài vềphái nam Đèo Ngang trở vào và Bắc chương kinh phụ trách những công việc từ HàTĩnh trở ra và các nước ngoài về phía Bắc

 Đô sát viện: Tháng 9 năm 1832, Minh Mạng lập ra Đô sát viện Nhiệm vụ của

Đô sát viện là nhiệm vụ giám sát hoạt động của các quan chức trong hệ thống cơquan hành chính từ trung ương đến địa phương Đây là một cơ quan hoạt động độclập không chịu một sự kiểm sát của bất kỳ cơ quan nào ở triều đình ngoài nhà vua

10

Trang 11

Các quan chức của Đô sát viện có nhiệm vụ phối hợp với Giám sát ngự sử 16 đạo đểhoạt động kiểm soát và kiểm tra công việc của bộ máy quan lại.

Từ Minh Mạng về sau vẫn có đủ sáu bộ và sáu khoa Sáu tự có nhiệm vụ giúpviệc cho sáu bộ Ngoài ra còn một số cơ quan chuyên môn như Quốc tử giám, Hànlâm viện, Ti thông chích sứ, Bưu chính ti, Quan lộc tự, Tào chính ti, Tôn nhân phủ,

Hà đê sứ, Doanh điền sứ Cơ quan chỉ huy quan sự là Ngũ quân đô thống sứ

Về cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương từ thời MinhMạng có nhiều thay đổi, chặt chẽ hơn có tác dụng củng cố chế độ quân chủ chuyênchế và quốc gia thống nhất Các đơn vị hành chính cấp thành, trấn bị bãi bỏ, thốngnhất tên gọi các đơn vị cơ quan hành chính cấp trung gian trong cả nước là lien tỉnh

và tỉnh, bãi bỏ các tên gọi doanh ở miền trung

Nhìn lại quá trình tổ chức bộ máy nhà nước thời Nguyễn cho thấy bộ máy nhànước đó ngày càng được củng cố chặt chẽ và hoàn thiện dưới thời vua Minh Mệnhqua cuộc cải cách hành chính và chính quyền từ trung ương đến địa phương vàonhững năm 1831- 1832

Thời Gia Long và những năm đầu thời Minh Mạng, bộ máy chính quyền còn đơngiản và lỏng lẻo trong thiết chế, tính chất phân quyền trong việc quản lý nhà nướccòn bộc lộ khá rõ Tầng lớp đứng đầu các cơ quan hành chính hầu hết xuất than từ

võ quan Đây là một hạn chế lớn của bộ máy chính quyền thời Gia Long, đầu thờiMinh Menhj so với nhà nước Đại Việt thời Lý- Trần- Lê sơ Sang thời Minh Mệnhnhững hạn chế đó đã được khắc phục dần

Nguyên tắc bao trùm, chi phối trong tổ chức và hoaatj động của bộ máy nhà nướcthời Nguyễn là tập trung thống nhất quyền lực vào một cá nhân- Hoàng đế, tăngcường sự quản lý, giám sát chặt chẽ của nhà nước trung ương đội với tất cả các địaphương, quan lại các cấp Trong thực tế, việc làm đó đã có tác dụng củng cố chế độtrung ương tập quyền, thúc đẩy bộ máy chính quyền các cấp hoạt động hiệu quả hơn

Tuy nhiên, từ trong ý đồ, chủ trương và trong thực hiện bộ máy nhà nước thờiNguyễn là một nhà nước quân chủ tập trung quan liêu chuyên chế nặng nề Một nhànước quân chủ chuyên chế như vậy ở vào đêm hôm trước cuộc cách mạng côngnghiệp và chủ nghĩa tư bản phương Tây đang chuẩn bị ráo riết xâm lược Việt Namkhông còn phù hợp với xu thế của thời đại, yêu cầu lịch sử nước ta bây giờ, đưa đếnhậu quả mất long dân, không củng cố được khối đoàn kết toàn dân tộc chung quanhnhà nước mà ngược lại, làm cho nhà nước đó trở nên bảo thủ, trì trệ, kìm hãm sự

Trang 12

phát triển của đất nước, làm cho dân tộc ta không hòa nhập được với thế giới bênngoài Đây là mặt hạn chế cơ bản của nhà nước thời Nguyễn.

Tổ chức quân đội quốc phòng.

Dưới triều Nguyễn về mặt tổ chức quân đội, trên hết có 5 phủ đô đốc chỉ huy 5quân ( trung quân, hậu quân, tiền quân, tả quân, hữu quân) Đứng đầu mỗi phủ Đôđốc có chức đô thống chưởng phủ sự, rồi đến các chức Thống chế, Chưởng vệ.Năm phủ đô đốc đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua Vua nắm quyền tốihậu về việc điều động và chỉ huy quân đội

Quân đội được chia làm 3 loại: Thân binh, cấm binh, tinh binh Thân binh cónhiệm vụ bảo vệ nhà vua Cấm binh bảo vệ hoàng thành, Tinh binh bao gồm cả bộbinh, thủy binh, tượng binh

Sang thời Minh Mạng, quân đội gồm có 4 binh chủng: bộ binh, pháo binh,thủybinh, tượng binh Tuy nhiên pháo

binh và tượng binh còn là binh

chủng phụ thuộc, chưa chở thành một

binh chủng hoàn chỉnh và mạng như

bộ binh và thủy binh

Bộ binh có kinh binh và cơ binh,

chia làm các doanh ( Mỗi doanh có

2500 người, vệ 500 người, đội 50

người, thập 10 người và ngũ 5 người

Kinh binh do thống chế chỉ huy Mỗi vệ binh có 2 khẩu thần công, 200 súng diềmthương và 21 lá cở Cơ binh là lính đóng ở các tỉnh do các lãnh binh, chánh và phóquản cơ chỉ huy mỗi cơ có 10 đội được chia thành thập và 10 ngũ

Tượng binh chia thành đội, mỗiđội có 40 thớt voi ở kinh đô có 150tớt voi Tổng số có 500 thớt voi

12

Trang 13

Thủy binh được chia là 3 doanh, có 15 vệ Tổng chỉ huy là thủy binh sư đô đốcthống Doanh thì do đô thống và vệ do chưởng vệ chỉ huy.

Trên các binh chủng này có 4 quan đô thống chỉ huy Đứng đầu 4 đô thống là Bộthống trung quân

Quân đội nhà Nguyễn có tổ chức chặt chẽ, có quy củ, từng bước đi vào chínhquy hóa từ tổ chức đến trang bị, là một đội quân khá mạnh ở vùng Đông Nam Á lúcbấy giờ Thế nhưng quân đội dã không bảo vệ được nền độc lập của đất nước trướccuộc xâm lược của chủ nghĩa tư bản Nguyên nhân thất bại không phai do tổ chức,trang bị, mà bởi đường lỗi đánh giặc sai lầm của triều Nguyễn

Tình Hình Kinh tế

Tình hình ruộng đất và nông nghiệp

Triều Nguyễn quản lý đất nước từ năm 1802, đứng trước nhiều khó khăn thửthách to lớn đòi hỏi phải giải quyết trong nền kinh tế trong đó có nhiều vấn đề ruộngđất và đời sống nhân dân

Theo trình tờ của các quan lại Bắc thành vao năm 1803 thì “ ruộng đất vào cuốithời Lê( cuối thế kỷ XVIII), bọn cường hào kiêm tính mỗi ngày một quá, sổ sáchmất mát, ghi chép lại không được thực, dân xiêu tán nhiều…” Trước tình hình đó,vào năm 1805 Gia Long bắt bộc các làng xã phải l àm sổ ruộng ( sổ địa bạ) , đến đờivua minh mạng lại bắt lập lại sổ địa bạ và đo đạc ruộng đất ở Nam kì

Vào thời điểm năm 1840, tổng số diện tích ruộng đất trong cả nước là 4.063.892mẫu ( khoảng 2 triệu ha), tổng số diện tích ruộng đất trong cả nước là 3.396.584mẫu Ruộng công có 580.363 mẫu chiếm 17% Ruộng tư chiếm 2.816.221 mẫu,chiếm 83% Đặc điểm tình hình ruộng đất bấy giờ ở Nam kì hầu hết là ruộng đất tư(tập trung chủ yếu vào giai cấp địa chủ), còn ở miền Trung và miền Bắc thì đại bộphận cũng là ruộng tư, tập trung vào giai cấp địa chủ loại vừa và nhỏ, số đại địa chủnhư ở Nam kì không có mấy, một số làng xã không có ruộng đất công

Mặt khác, các vua triều Nguyễn cho thực hiện một số biện pháp, chính sách vềruộng đất như hính sách quân điền 91804) Theo chính sach này thi ruộng đát công ở

Trang 14

các làng xã được chia cho mọi người theo tỉ lệ các quý tộc, vương hầu được cấp 18phần, quan phẩm nhất được cấp 15 phần, dân nghèo mỗi suất được 3 phần Đến năm

1840, do ruộng đất công ngày càng bị thu hẹp, vua Minh Mệnh đã cho phép các làng

xã được tùy theo tục lệ chia đều cho dân, nhưng vấn ưu tiên cho bọn quan lại, quânlính nên người nông dân chẳng còn được bao nhiêu

Năm 1939, Minh Mệnh cho thực hiện thí điểm một số cải cách ruộng đất ở BìnhĐịnh: sung công một nửa số ruộng đất của các nhà giàu để chia lại cho các đinh dântheo phép quân điền, nhưng kết quả “ ruộng công màu mỡ thì cường hào chiếm, dânchỉ duowdc phầm xương xẩu mà thôi”1, trong khi đó thì chính sách thuế khóa vẫnkhông thay đổi đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn Cuộc cải cách ruộng đất ởBình Định thất bại, nên nhà Nguyễn không dám triển khai ở các địa phương khác

Các vua dưới triều Nguyễn còn đây mạnh

chính sách khai khẩn ruộng đất hoang dưới nhiều

hình thức như khuyến khích nhân dân các xã tự

khai hoang, sau 3 năm đo đạc ruộng đất khai

hoang được đẻ ghi vào sổ địa, tiếp theo 3 năm

sau Người khai hoang đó mới phải nộp thuế cho

nhà nước Để mở rộng diện thích sản suất, nhà

Nguyễn đã huy động binh lính, dân người hoa,

người dân tộc thiểu số, những người bị tù tội

nặng đi khai hoang do nhà nước tô chức để thành

lập đồn điền ở nhiều nơi, đặc biệt ở Nam Bộ

Những hệ thống đồn điền vừa có tác dụng về

kinh tế vùa có tác dụng về quốc phòng Những

đồn điền được lập ra, vua Minh Mạng cho

khoang lại lập thành làng, ấp mới, còn đất thì cho

làm ruộng công của làng, chia cho dân cày nộp

thuế cho nhà nước theo lệ thuế ruộng đất công

Từ năm 1826 về sau, theo đề nghị của Nguyễn Công Trứ, Tham tán quân BắcThành, Minh Mạng còn ban hành chế độ doanh điền Theo quy định của chế độ này

1 Báo cáo của Thượng t hư Đặng Văn Thiêm (Nguyễn Cảnh Minh- Trần Bá Đệ- Đinh Ngọc Bảo, Giáo trình lịch sử

Việt Nam và lịch sử thế giới, 2005, nxb Giáo dục

14

Trang 15

thì nhà nước đứng ra tổ chức, quy hoạch tổng thể và đầu tư một phần kinh phí, còncác nhà giàu góp thêm kinh phí và đứng ra chiêu mộ dân nghèo để tổ chức khẩnhoang ở những vùng đất cụ thể (làng, ấp, trại), còn lực lượng khai hoang chủ yếu làdân nghèo không có đất để sản xuất Với hình thức doanh điền này dưới sự tổ chứcchỉ đạo của Nguyễn công Trứ, hai huyện Tiền Hải (Thái Bình vào năm 1828) vàKinh Sơn (Ninh Bình vào năm 1829) được thành lập với số lượng khai hoang ở TiềnHải là 18.970, ở Kinh Thành là 14.970 Hình thức này được tiếp tục thực hiện ởnhiều tỉnh khác ở Bắc Kỳ va Nam Kỳ sau đó và đạt được những thành tựu đáng kể.

 Đồn điền

Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm đểthực hiện việc khai khẩn đất hoang Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ đượcquản lý theo cung cách đồn điền không giống như thôn ấp bình thường; sau mộtkhoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ chuyển sang hìnhthức bình thường Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định Đợt lập đồn điềnlớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-

1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh

 Doanh điền

Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân,thực hiện di dân để lập ấp mới Hình thức này bắt đầu được thực hiện từ năm 1828dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Tham tán quân vụ Bắc thành NguyễnCông Trứ Theo đó, triều đình sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ đứng rachiêu mộ và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang

Trong 6 tháng đầu, triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lươngthực và phương tiện sản xuất Từ tháng thứ 7 thì dân phải tự lo Triều đình sẽ miễnthuế cho các ấp và lý mới này 3 năm Tổng Giao Thủy thuộc Nam Định cũng đượcthành lập theo hình thức này Về sau, các quan ở Gia Định gồm Trương Minh Giảng,

Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng bắt chướcthực thi chính sách này trên vùng Gia Định, đồng thời với chính sách đồn điền trênmột quy mô rất lớn và thu được nhiều thành công, diện tích ruộng đất đã tăng lên rấtnhiều

Trang 16

Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệthưởng phạt phân minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏđất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng ruộng hoang.

Ngoài ra, triều đình Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợpphục hóa Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn Ruộng đất ởNam Việt thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu Tổng sốđinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất

Tuy nói trên toàn diện, đất công điền không quá 1/5 diện tích canh tác, nhưngphần đất còn lại được phân phối giữa các nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu

là nhiều Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh có nhiều nhất là 5, 3người

Nhờ có những chính sách khai hoang được đẩy mạnh, nên đến năm 1847, tổngdiện tích ruộng đất thực canh lên đến 4.270.013 mẫu

Việc trị thủy

Tại một quốc gia dựa trên căn bản là nông nghiệp như Việt Nam, vấn đề trị thủycàng hệ trọng hơn nữa do các con sông lớn không có thủy chế điều hòa Đối với nạn

nướclụt và nạn triều biển cần phải đắp đê

Vua Gia Long vừa lên ngôi đã quan tâm đến vấn đề đê điều và cho người tu bổ

đê cũ, đắp thêm đê mới Năm 1809, ông lại cho đặt nha Bắc Thành đê chánh và các

chức Tổng lý và Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều ở các trấn xứ Bắc Kỳ Tớinăm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mạng cho cho tăng cường thêmnhân sự cho nha môn đê chánh nhưng tới 1833 thì bỏ nha này đi để chuyên ủy việc

đê điều cho các Đốc biện tại các tỉnh

Việc đắp đê, sữa chữa và khám xét được quy định tỉ mỉ Thời Tự Đức nhiều lần

đã xác định lại cách thưởng phạt về sự phòng hộ đê và phân định trách nhiệm củacác phủ, huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ

Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng tươngđương 960 km[54] Đến hết thời Gia Long, hơn 47 cây số đê điều đã được tu sửa Và

16

Trang 17

sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều dài các con đê ở Bắc Kỳ đã tăng lên303.616 trượng tương đương 1.215 km Tới cuối thế kỷ XIX thì hệ thống đê này đãdài tới 2.400 km

Mặc dù triều đình dành rất nhiều quan tâm nhiều tới việc trị thủy nhưng do thiếu

sự phối hợp đồng bộ và quy hoạch chung giữa các địa phương, do tác động của môitrường, sinh thái, các đê đắp lên cứ vỡ liên miên Đặc biệt là ở sông Hồng, vì đấtbồi nên lòng sông giữa 2 con đê cao hơn mặt đất, mỗi khi nước lớn thì đê không thể

nào cản nổi Triều đình phân vân trong 3 cách: giữ đê, phá đê và đào thêm sông Do

việc bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn tiếp tục vỡ

Việc cứu đói

Mỗi khi mất mùa vì lụt lội hay hạn hán, giá gạo lên cao gây khó khăn về lươngthực Nạn thiếu ăn thường hoành hành tại các tỉnh nghèo nhất và hay gặp thiên tainhư Nghệ An Người dân bị đói tràn khắp vùng thôn quê, tụ họp nhau đi cướp vànhững người chống triều đình lợi dụng sự bất mãn của những đoàn dân đói này đểxách động nổi loạn như ở Thanh Hóa và Nghệ An năm 1819

Triều đình phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói, thường là chẩncấp Triều đình thiết lập các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế được gọi là Bình Chuẩn Thương, người nghèo túng có thể mua gạo giá rẻ hơn bình thường và khônggiới hạn, từ 1, 2 phương tới cả thưng, đấu, bát

Triều Nguyễn còn lập ra Nghĩa Thương là những kho trữ lúa ở các tỉnh và phủ,

huyện Những khi đói kém thì các kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo.Thời Tự Đức tổ chức Xã Thương, khi gạo đắt thì bán ra, khi gạo rẻ thì đong lại đểlưu trữ, có thể cho vay, thu lợi bao nhiêu dùng để cấp dưỡng binh đinh và giúpngười nghèo Thời Minh Mạng triều đình cũng bắt quan lại các tỉnh phải xuất lúagiống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không

bị đình trệ và việc mất mùa không ảnh hưởng nhiều sang các năm sau.[56]

Trang 18

Các biện pháp cứu tế này chỉ có thể ngăn cản nạn đói khỏi lan rộng trong 1 thờigian ngắn, không thể ngăn chặn một cách dứt khoát sự thiếu hụt lương thực Ngoài

ra, việc quan lại địa phương tham nhũng cũng làm giảm hiệu năng của các biện phápnày Triều đình phải liên tiếp ban hành các đạo dụ để nghiêm trị

Để làm nhẹ bớt sự khổ cực của người nông dân, triều Nguyễn cho áp dụng chínhsách giảm hay miễn thuế cho những tỉnh bị nạn Riêng với các tỉnh bị thiệt hại nặng,vua cho miễn luôn tất cả các khoản thuế còn thiếu ở những năm trước Năm 1841,vua Thiệu Trị cho dân Hưng Yên được miễn số thuế là 23.385 quan và 83.162 hộc

ăn lâu dài Nhiều người Việt Nam dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tưkinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ

Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dùnhững người này chỉ là thiểu số.[29] Các mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có:mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc,

vải, đồ đồng, giấy

Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản

và hàng tiểu thủ công ở các chợ Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏhay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông sản địaphương và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợnày sang chợ khác

Trong thế kỷ XIX các thương khu (phường) đã thay đổi bản chất, đã thoát ly khỏitrạng thái chợ phiên có kỳ hạn và đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thườngxuyên Thanh Hoá được bắt đầu xây dựng đầu thời Gia Long và tới năm 1885 đã là

18

Trang 19

1 trung tâm thương mại Ở kinh đô Huế, năm 1837, triều đình đã cho lập chợ GiaHội có tất cả 399 gian, dài suốt hơn 319 trượng

Những trung tâm thương mại từ cuối thế kỷ XVIII cũng vẫn tiếp tục hoạt độngtrong thế kỷ XIX Hội An tương tự 1 Bazar lớn của Ấn Độ với khoảng 60.000 dân

mà 1/3 là Hoa kiều Hàng năm có những thuyền buồm Trung Hoa lường đến 600 tấn

tới buôn bán Ở Huế, người Tàu và người Việt buôn bán rất lớn Thuyền buôn TrungQuốc chở đến vải vóc, đồ sứ, trà, thuốc Bắc, đồ chơi và chở về thổ sản như cau

khô, tơ sống, gỗ, sơn, sừng tê và ngà voi

Cải cách tiền tệ giúp cho thương mại phát triển hơn so với thế kỷ trước Vua GiaLong và Minh Mạng đã cho đúc những nén vàng, nén bạc, nhờ đó thương mại đã cóbước tiến hơn trước Tuy nhiên, tiền ít được đầu tư và được dân chúng đem cất trữbởi tâm lý dân chúng còn mang nặng tính nông nghiệp

 Ngoại thương

Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây

khá cẩn trọng nhưng thương mại với họ vẫn được khuyến khích Hoạt động thươngmại của Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quanchức đánh thuế nặng lên thương mại, còn thủ tục thì rất phiền phức Ngoài ra, triềuđình còn cấm đoán một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép riêng Không cómột tầng lớp trung lưu làm giàu bằng thương mại để thúc đẩy triều đình mở rộnggiao dịch quốc tế

Về các thành thị công thương, trung tâm vẫn là Thăng Long, Bến Nghé, ĐàNẵng, Gia Định, còn Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nênsuy tàn và không thể phục hồi như xưa Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người Hoa,một số phường thủ công cũng ổn định mặt hàng nhưng không thay đổi nhiều

Trang 20

Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực đểthực hiện giao dịch buôn bán Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở HạChâu (Singapore) và Giang Lưu Ba (Indonesia) Năm 1825, vua Minh Mạng pháingười sang Hạ Châu mua

vải và đồ thủy tinh Sau

đó, mỗi năm đều có quan

viên được phái đi tới các

trung tâm mậu dịch của

người Âu ở khắp Đông

Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore.Thương nhân người Hoa thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện về Trong nhữngnăm 1820-1830, giao dịch với Singapore rất hạn chế Nguyên nhân do hàng hóa củaViệt Nam phù hợp với thị trường Trung Hoa hơn Khi người Pháp sắp chiếm hết

Nam Kỳ, các bản lược kê tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương đương3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan viên đã giữ lạigấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triềuđình rất nhiều

Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ nguyên nhân tôn giáo, quan hệbuôn bán với các nước này bị tổn hại Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đibuôn ở Hạ Châu nữa Triều đình cũng tìm cách cản trở dân thường buôn bán vớingười Tây nên cuối cùng, thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và MãLai, trong đó người Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất

20

Trang 21

Thủ công nghiệp

Giống các triều đại trước, thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chiếm một vịtrí rất quan trọng: nó chế tạo tất cả những

đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng

thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc

tiền, Chính vì vậy, nhà Nguyễn cũng tập

trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ

công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các

vùng phụ cận Năm 1803, Gia Long thành

lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở

Thăng Long Nhà Nguyễn cũng lập các Ti

trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ

khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm

đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe,

luyện đồng, Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loài thuyền công và thuyền chiến,

gồm 235 sở trên toàn quốc[37] Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược

Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưngdụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa tới làm việc

để cung cấp đồ dùng cho triều đình Vì vậy người thợ luôn tìm cách trốn tránh dùtriều đình áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn Họ chỉ dámlàm những thứ nhỏ để bán cho dễ, những người nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạodanh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý Đầu Thế kỷ XIX có người chế được

men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhưng phải bỏ trốn vì sợ bị trưng dụng làm cho triềuđình; một số khác phải giả làm đồ Trung Quốc để không bị các quan mua rẻ hay lấykhông

Ngoài các thuyền gỗ, người thợ thủ công VN còn đóng cả các loại tàu lớn bọcđồng Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vàothời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng, và cả máy hơi nước.[40]

Trang 22

Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, vànăm 1833 cĩ 3.122 nhân cơng trong các mỏ Nhà nước Tuy nhiên, phương thức khai

mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới

II HỆ THỐNG PHÁP LUẬT :

1. Khái quát về hoạt động lập pháp

của triều Nguyễn

Từ thời Gia Long đến Tự Đức, các

Hồng Đế đều quan tâm đến xây dựng

luật pháp và chú trọng đến áp dụng pháp

luật Hoạt động lập pháp của triều

Nguyễn cũng đã cĩ những thành tựu

đáng kể Thành tựu điển hình trong hoạt

động lập pháp của triều Nguyễn là bộ

Hồng Việt Luật Lệ và các tập Hội điển

Bộ Hịang Việt Luật Lệ: cả thảy 22

quyển gồm 398 điều thường được gọi

là bo luật Gia Long Được soạn thảo

theo một quy trình chặt chẽ dưới sự kiểm

sốt của Hồng Đế Theo Đai Nam thực lục, năm 1811 Gia Long lệnh cho triều thầnbiên soạn bộ luật Nguyễn Văn Thành được đặc cử làm Tổng Tài cùng với Vũ Trinh

và Trần Hựu chịu trách nhiệm trước nhà vua về xây dựng bộ luật Năm 1812, GiaLong viết lời tựa mở đầu bộ luật, trong đĩ khái lược về tư tưởng và thành tựu lậppháp, chỉ rõ yêu cầu cầu cấp thiết của việc ban hành bộ luật, đồng thời khẳng định ýnghĩa của pháp luật trong thực tiễn Bộ luật được soạn xong và lần đầu tiên đượckhắc in tại Trung Quốc Năm 1815 bộ luật được in thành sách ban hành trên phạm vitồn quốc Đây là làn đầu tiên trong lịch sử, một bộ luật thống nhất từ Đàng Trongđến Đàng Ngồi được ban hành So với luật Hồng Đức thì luật Gia Long khắt khehơn, phạm vi trừng trị bị mở rộng cho đến với cả bà con thân thuật của phạmnhân Đối tượng áp dụng cũng trở nên cụ thể và rõ ràng, các hình phạt dã mannhư lăng trì (xẻo thịt cho chết dần), trảm khiêu (chém bêu đầu), phanh thây được duy trì

22

Ngày đăng: 12/04/2013, 15:45

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình thức như khuyến khích nhân dân các xã tự - NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN
Hình th ức như khuyến khích nhân dân các xã tự (Trang 14)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w