Đề tài Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: TRẦN HỮU TÁ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
Trang 2MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, tôi đã nhận được sự hỗ trợ tích cực và những điều kiện thuận lợi từ Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp Hồ Chí Minh Vì vậy, đầu tiên, cho phép tôi được nói lời cảm ơn chân thành nhất gửi đến quý thầy cô giáo, các cán bộ của Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp Hồ Chí Minh
Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS TS Trần Hữu Tá Thầy đã không quản thời gian, công sức để tân tâm, tận tình, ân cần chỉ bảo, dẫn dắt cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài luận án của mình
Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những bạn bè đồng nghiệp Họ là những người luôn động viên khích lệ tôi vững bước trên con đường mà mình đã lựa chọn
Cuối cùng, tôi xin nói lời cảm ơn Cha - Mẹ, người đã sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn Người đã hướng dẫn, chỉ cho tôi con đường đi đến thành công
Trang 3MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm rạng rỡ Khi chiến tranh qua đi, con người mới kịp bình tâm nhìn lại hiện thực khắc nghiệt mình đã trải qua với bao nhiêu nỗi niềm Chiến tranh đã đi qua nhưng vết thương về chiến tranh vẫn còn mãi
Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới Đất nước mở cửa giao lưu với bạn bè thế giới và xây dựng cuộc sống hòa bình Lúc này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo Cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đạt những thành tựu vĩ đại Đất nước hoàn toàn được giải phóng Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên hàng đầu Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự Các vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi ……đã trở thành chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ Người ta hình dung lại con người, thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới
Tất cả những điều này chúng ta bắt gặp trên từng trang viết của các nhà văn Họ trăn trở tìm hướng đi mới cho con thuyền văn chương của mình Có người lặng lẽ đối chứng lại với những quan niệm sơ lược hoặc phiến diện một thời về thế sự, để từ đó nhằm đấu tranh cho sự hoàn thiện của mỗi con người trong thời đại mới như Nguyễn Minh Châu Có người suy ngẫm về quá khứ để nắm bắt nhịp thở của hiện tại như Dương Thu Hương Có người tìm đề tài trong những cái bề bộn phức tạp của hiện thực cuộc sống, đối thoại cùng người đọc để tìm ra biện pháp tháo gỡ như Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn Có người lại nhìn nhận thực tại và đối chứng với quá khứ đau thương của một thời đạn bom khói lửa như Bảo Ninh Và cùng chung dòng chảy đó chúng ta bắt gặp Lê Lựu – một trong những cây bút đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ
Trước thực tế đầy biến động của lịch sử, những tiểu thuyết Thời xa vắng (1984),
Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995) lần lượt ra đời như những bức tranh sinh
Trang 4động, khắc hoạ chân thực chủ yếu những tháng ngày đầu đất nước trong thời kỳ đổi mới Tìm hiểu những tiểu thuyết kể trên, ta sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết của một thời kỳ văn học sôi động Đồng thời qua đó, người viết muốn tìm hiểu những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này
Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những đặc điểm tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới để nhằm hiểu một cách thấu đáo hơn phương thức xây dựng tác phẩm, những đặc sắc trong việc miêu tả, nội dung hiện thực được phản ánh và những nét riêng biệt của nhà văn so với các tiểu thuyết gia cùng thời Từ đó, nhằm khẳng định sự đóng góp của ông cho sự phát triển nền văn xuôi Việt Nam trong những năm đổi mới
2 Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Lê Lựu đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà phê bình văn học Họ tìm đến với những tác phẩm và nhận thấy ở đấy những chiều kích khác nhau của cuộc sống Qua những tác phẩm ấy, người đọc không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời sống tư tưởng con người thời đại Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh Lê Lựu đã làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động
Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào càng được giới phê bình nghiên cứu quan tâm, càng được bạn đọc chú ý Và dù khen hay chê cũng đều khiến tác phẩm nổi tiếng hơn, mọi người tìm đọc nó nhiều hơn mà thôi Lê Lựu là một trường hợp như vậy Từ một
cây bút truyện ngắn, ông tìm cho mình một lối đi riêng Với tác phẩm Mở rừng, Lê Lựu
bước sang địa hạt tiểu thuyết nhưng thành công của ông không phải ở đấy Lê Lựu khẳng định vị trí, tạo cho mình một thế đứng vững vàng trên văn đàn nền tiểu thuyết hiện đại chính
là nhờ những tác phẩm về sau Đặc biệt, người ta biết đến ông như một tiểu thuyết gia văn
xuôi hiện đại Việt Nam chính bởi Thời xa vắng và sau nữa là Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy
sông Đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm Lê Lựu như: "Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn" của Phong Vũ, "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" hay "Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm" trong báo Văn nghệ tháng 12-
1986, " Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Chuyện phiếm với anh
Sài" của Hồng Vân, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại
Trang 5thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Đọc " Thời xa vắng" của Lê Lựu"
của Hoàng Ngọc Hiến, "Suy tư từ một "Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà, "Một đóng góp vào
việc nhận diện con người hôm nay" của Vương Trí Nhàn, "Lê Lựu và Ranh giới" của Lê Tất
Cứ, "Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Một giờ với nhà văn Lê Lựu" của Nguyễn Hữu Sơn, "Văn chương cũng như
vợ con - nhiều lúc chán lắm nhưng không bỏ được" của Bùi Việt Sĩ, "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng, "Lê Lựu - Thời xa vắng " của Đinh
Quang Tốn, "Lê Lựu - Chân dung văn học" của Trần Đăng Khoa Và tất cả những bài viết này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình
Thông qua những bài viết dành cho Lê Lựu, ta thấy các nhà nghiên cứu rất trân trọng những thành công và phát hiện những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đổi mới nền văn học đương đại Bên cạnh đó, họ cũng thẳng thắn đưa ra những nhận xét về nghệ thuật viết văn của tác giả Dư luận khen cũng nhiều nhưng chê cũng có Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn từng cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy Nếu về văn xuôi hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng” [104, tr 663]
Hay những nhận xét khá sắc sảo của Trần Đăng Khoa dành cho tác phẩm Thời xa vắng
chẳng hạn Tác giả vừa khẳng định những thành tựu về nội dung, nghệ thuật đồng thời chỉ
ra những hạn chế Ông cho rằng “Với ba trăm trang sách, tiểu thuyết "Thời xa vắng" đã ôm
chứa một dung lượng lớn Đấy là một chặng đường lịch sử oai hùng Chặng đường ba mươi
năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước” [104, tr 674] Hay : “Thời
xa vắng" ra đời có tiếng vang lớn, vượt quá sức hình dung của người đẻ ra nó Xét về mặt
nghệ thuật, cuốn sách không có gì cách tân, tìm tòi, lối viết rất cũ, tốc độ truyện chậm, hơi văn ở phần một và phần hai hình như lạc nhau, không liền mạch Có cảm giác như đấy là
hai cuốn tiểu thuyết cùng một nội dung gộp lại.” [104, tr 678] Bên cạnh những ý kiến ấy,
trên báo Văn nghệ tháng 12.1986 trong bài "Vài cảm nghĩ sau khi đọc Thời xa vắng", có nhà nghiên cứu đã mạnh dạn khẳng định: "Thời xa vắng với độ dày hơn ba trăm trang chia làm
ba phần Bố cục của cuốn sách tương đối hợp lý, đặc biệt là phần một và phần hai viết khá thành công Điều đáng bàn và cần bàn là ở phần kết của tác phẩm" [104, tr 541] Dù khen
hay chê thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều phải công nhận "Tiểu thuyết Thời xa vắng của
Lê lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh
Trang 6giá lại hiện thực Sự phản ánh chân thực, sinh động cái hoàn cảnh nhào nặn nên con người
đó, sự nín chịu nhẫn nhục và vùng vẫy cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành động của anh ta đã được Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra
những liên tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm Thời xa vắng
phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn của tâm lý nông dân, giai đoạn vùng lên, hoà theo, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của một xã hội mới" [104, tr 588- 589]
Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự cuốn hút đặc biệt Những nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng giận Những con người ấy hiện lên trên trang viết đầy bi kịch Những bi kịch do xã hội mang lại và những bi kịch do
chính họ tạo ra Chúng ta vừa thương vừa giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá trong con người của Lưu Minh Hiếu trong
Chuyện làng Cuội Mỗi người đọc tuỳ thuộc vào những tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng mà có
cách tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau Tác phẩm Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi động Điều này được Lê Hồng Lâm nhận định: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó Có cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi … tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông.” [104, tr 708]
Nhìn chung, qua các bài viết trên các báo và tạp chí, có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê Lựu cả về nội dung và hình thức nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã được giới nghiên cứu quan tâm, xem xét khá sâu sắc Họ đã chỉ ra những cái hay, cái đẹp cũng như những sai sót, hạn chế của nhà văn thể hiện trên trang viết Tuy nhiên các bài nghiên cứu hầu như tập trung
xoay quanh tác phẩm Thời xa vắng hoặc là viết về từng tác phẩm cụ thể chứ chưa có một
bài nào hay một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu một cách toàn diện về tiểu thuyết Lê
Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở
đáy sông
Với bài "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" (Văn nghệ tháng
12- 1986), người viết đã chỉ ra những bi kịch mà Sài phải gánh lấy không những do hoàn
cảnh mang lại mà "mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về chính nhân cách của mình, cuộc
đời mình"
Trang 7Qua một số bài nghiên cứu như: "Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại
qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Suy tư từ một " Thời xa vắng" của Nguyễn
Hoà , các tác giả lại chỉ ra một cách sâu sắc về sự mới mẻ của Lê Lựu Đó chính là đặt ra
vấn đề nhận thức lại một "thời xa vắng" - một thời "sống hộ", "yêu hộ" Đồng thời họ đều
cùng không đồng tình với cách kết thúc truyện của nhà văn Thiếu Mai cho rằng "Cuối cùng là phần kết Đọc đến đây tôi cảm thấy tác giả mệt rồi, hụt hơi rồi Thế nhưng dường như anh quá thương cảm cho số phận nhân vật của mình nên không nỡ để cho nó lơ lửng,
mà phải tìm cho nó một hướng đi ổn định Nhưng chính cái hướng đi này, theo sự suy nghĩ của đa số người đọc thì lại không ổn, không phù hợp với nhân vật Sài của anh" [104,
tr 584]
Trong bài "Đọc "Thời xa vắng" của Lê Lựu", Hoàng Ngọc Hiến lại nhìn thấy đề tài
"người nhà quê và đô thị", thấy được "người nhà quê vĩ đại" qua anh cu Sài Cùng chung cách đánh giá này có bài viết "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn
Thu Hằng
Ở bài "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay", Vương Trí Nhàn đã
chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế về mặt nội dung và nghệ thuật của nhà văn
Qua "Lê Lựu - Thời xa vắng", Đinh Quang Tốn lại đi khá sâu về sự nghiệp và hoàn
cảnh sáng tác Còn trong bài "Lê Lựu - Chân dung văn học", Trần Đăng Khoa đi sâu hơn
về nghệ thuật của Thời xa vắng
Bài viết "Tiểu Thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới" của Đỗ Hải Ninh cũng đã nêu ra được
những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, tuy nhiên tác giả lại không đi vào phân tích cụ thể
Chính vì vậy, qua công trình nghiên cứu "Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới", cụ thể
là bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông, chúng tôi mong sẽ
có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những đặc điểm về tiểu thuyết Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
3 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu thuyết làm cơ sở, chúng tôi tiến đến tìm hiểu những đặc điểm nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới Và từ đó, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những đặc điểm tiểu thuyết của Lê Lựu ở giai đoạn này Dựa vào đặc
Trang 8điểm thể loại, dựa vào tác phẩm chúng tôi cố gắng chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế riêng biệt, những chuyển biến về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòi…trên những trang viết của tác giả Do đó, luận văn sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ
dừng lại ở bộ ba tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Thời xa vắng (1984) Chuyện làng Cuội
Lê Lựu
4.2 Phương pháp so sánh
Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã hội Sự chuyển biến đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra trên toàn
xã hội Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện
so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật của Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời
4.3 Phương pháp phân tích
Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung - nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không tìm hiểu, đào sâu tác phẩm Sử dụng phương pháp này sẽ giúp chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân vật cũng như những tìm tòi trăn trở của nhà văn trên từng trang viết
5 Những đóng góp của luận văn
Qua những bài viết về Lê Lựu, chúng tôi thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được những đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp cũng như một vài điểm yếu trên từng trang viết của ông Tuy nhiên chưa có một công trình nào mang tính tổng hợp về những đóng góp của Lê Lựu cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới Do vậy, với công trình nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng nhìn nhận, xem xét, để khái quát những đặc điểm nghệ
Trang 9thuật tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng,
Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông để từ đó khẳng định vị trí, vai trò của nhà văn trong
sự vận động của nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
6 Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU:
1 Lý do chọn đề tài
2 Lịch sử vấn đề
3 Phạm vi nghiên cứu
4 Phương pháp nghiên cứu
5 Những đóng góp của luận văn
6 Cấu trúc luận văn
Chương 1: Lê Lựu và nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại
1.1 Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
1.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.2.1 Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật
1.2.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.3 Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu
1.3.1 Quan điểm nghệ thuật
1.3.2 Sự nghiệp sáng tác
Chương 2: Sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông
2.1 Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca
2.1.3.2 Bi kịch trong bản thân mỗi cá nhân
2.2 Sự nhận thức lại hiện thực trong "Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy
sông"
2.2.1 Nhận thức quan niệm duy ý chí
Trang 102.2.2 Nhận thức chân thực những khía cạnh khác nhau của hiện thực trong xã
hội lúc bấy giờ
2.2.2.1 Nhận thức chân thực những hạn chế của đường lối chính sách 2.2.2.2 Nhận thức thực trạng của sự bao che, cho qua
2.2.2.3 Nhận thức chân thực về lối sống thực dụng, ích kỷ, sự biến chất
tha hóa của con người trong xã hội hiện đại
2.2.2.4 Nhận thức hiện thực ở nông thôn
Chương 3: Những nỗ lực hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu
3.2 Giọng điệu trần thuật
3.2.1 Giọng điệu hài hước, trào tiếu
3.2.2 Giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương
3.2.3 Giọng phê phán, lên án tố cáo
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1 Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng
2 Tóm tắt tiểu thuyết Sóng ở đáy sông
3 Tóm tắt tiểu thuyết Chuyện làng Cuội
Trang 11Chương 1:
LÊ LỰU VÀ NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI
1.1 Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Dân tộc ta có truyền thống thơ ca, thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam trước đây chính là thơ ca Đầu thế kỷ XX, nhất là giai đoạn 1930 –1945 với sáng tác của nhóm
“Tự lực văn đoàn” và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nền tiểu thuyết mới thực sự hình thành và phát triển theo hướng hiện đại Sau cách mạng tháng Tám 1945, phải đến những năm 50 tiểu thuyết mới tiếp tục phát triển
Chúng ta nhận thấy, nền văn học sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng được viết với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn theo yêu cầu của lịch sử Cùng với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết giai đoạn này mang tính cổ vũ, động viên,
tuyên truyền hướng tới mục tiêu cao cả nhất: tất cả cho chiến thắng Và nó đã theo kịp
bước tiến của cuộc kháng chiến, phản ánh được những tình cảm lớn của thời đại, những cái đẹp, cái mới, cái anh hùng cao cả
Do vậy, khám phá và khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng là một trong những yêu cầu của nền văn học Việt Nam Cho nên, hình tượng nổi bật là hình tượng cả dân tộc
ra trận Bên cạnh đó, những bức tranh rộng lớn của cuộc kháng chiến được tái hiện hào hùng Những nhân vật tích cực tiêu biểu cho cái đẹp, cao cả, anh hùng được trình bày với cảm hứng lãng mạn của thời đại được đặc tả hầu hết trên các trang viết Hình ảnh con người được thể hiện chủ yếu là con người trong ý thức trách nhiệm với công dân, cộng đồng, lịch sử
Có thể thấy những thành tựu của nền văn học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng rất đáng để cho chúng ta tự hào Nền văn học ấy sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh nhưng lại không kém phần rực rỡ Nó là sự kết tinh và phát huy cao độ của lòng yêu nước, của ý chí dũng cảm và tâm huyết Tất cả những đặc điểm ấy chúng ta bắt
gặp trên những trang tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Cửa biển của Nguyên Hồng, Dấu chân người lính
của Nguyễn Minh Châu
Trang 12Nhìn vào nền văn học lúc bấy giờ, chúng ta thấy: "Về cơ bản chúng ta đã xây dựng
được một nền văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa "[17] Mặc dù vậy, bên cạnh những
thành công, tiểu thuyết giai đoạn này vẫn còn những hạn chế Tuy nhiên, nhược điểm đồng thời là đặc điểm ấy được quy định bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội Bởi vì văn học dù ở giai đoạn nào cũng phải phản ánh hiện thực cuộc sống, mà hiện thực xã hội chủ yếu lúc bấy giờ chính là chiến tranh Do yêu cầu của thời đại cách mạng, văn học phải phản ánh kịp thời, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả Lúc
bấy giờ, cả nước lên đường đánh giặc, cả nước làm văn nghệ theo đường lối "kháng chiến
hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến" Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
văn học giai đoạn ấy đã xây dựng những hình tượng sáng ngời chưa từng có trong lịch sử dân tộc "chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau" như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy Gạt ra ngoài những gì thuộc về riêng tư không có lợi cho cộng đồng, tiểu thuyết giai đoạn này qủa đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của "một nền văn học chống đế quốc"
Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, Anh Đức, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu đã tạo nên những hình tượng đẹp,
có chiều sâu về: bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, phụ lão Văn học phản ánh đủ mọi tầng lớp nhân dân và miêu tả phẩm chất cơ bản của con người lúc bấy giờ là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc Phong cách phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp rực rỡ của đất nước và con người Việt Nam trong khói lửa Theo Trần Đình Sử trong
"Mấy vấn đề quan niệm của văn học Việt Nam thế kỷ XX" thì "Đấy không phải là vẻ đẹp
cổ xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, không phải cái đẹp đìu hiu, vắng vẻ lạnh lùng cô đơn như Thơ mới, hay dáng vẻ khổ sở, tủi nhục trong văn học hiện thực phê phán trước năm
1945, mà là vẻ đẹp hào sảng, khoẻ khoắn, thô ráp của con người "rũ bùn đứng dậy sáng loà" Do đó, sự hy sinh và cái chết càng làm cho họ hoá thân vào cộng đồng bất tử, khiến nỗi đau vút lên hoá thành sự hy sinh cao cả
Như vậy, cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết thời kỳ này là cảm hứng lãng mạn cách mạng Gạt ra ngoài những vướng bận đời thường, những nỗi buồn cá nhân, vượt lên trên những hy sinh mất mát, văn xuôi giai đoạn này phản ánh khí thế hào hùng, niềm hân hoan sảng khoái, những chiến công hiển hách vang dội hướng con người về phía ánh sáng và tương lai Có thể nhận thấy, do hoàn cảnh chiến tranh chi phối nên hiện thực và con người phản ánh trong tác phẩm chưa được đặt trong mối quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều Con
Trang 13người chưa được đặt trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội mà chỉ được thể hiện trong ý thức trách nhiệm công dân, cộng đồng, lịch sử Đó không phải là con người đời thường cá nhân Bởi tình cảm riêng tư của họ đã hoà vào tình cảm chung Ngay cả ý thức cá nhân
của chủ thể sáng tạo cũng thường "bị tan biến vào ý thức cộng đồng" Đồng thời, với nhu
cầu tuyên truyền cổ động chính trị, văn học không thể đề cập đến những tổn thất mất mát, những tiêu cực của xã hội và con người Bức tranh đời sống tinh thần của con người do vậy có phần phiến diện Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên hạn chế sự sáng tạo của người cầm bút Hạn chế về tính nhân văn là điều không thể tránh khỏi Đó là những cái "chưa được làm" mà văn học giai đoạn sau sẽ bổ khuyết
1.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.2.1 Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật
Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thống nhất, độc lập, tự do Thắng lợi to lớn nhưng thách thức cũng hết sức nặng
nề Sức người, sức của phải dồn vào việc khôi phục cuộc sống sau chiến tranh Cả đất
nước đứng trước một yêu cầu sống còn: phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường
Trước thực tế ấy, Đảng đã khởi xướng đổi mới từ năm 1985 và xác định công cuộc đổi mới một cách toàn diện trong đại hội lần thứ VI (1986) Về văn học nghệ thuật, nghị quyết
05 của Bộ chính trị nhấn mạnh: “…Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn hoá ngày càng mở rộng…… văn nghệ nước ta cũng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ cách làm” "Phát huy
khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật phát triển lên một bước mới" [19]
Như vậy, đổi mới trở thành một quy luật tất yếu Từ việc đổi mới kinh tế sẽ kéo theo đổi mới cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực Đổi mới toàn diện trước hết là đổi mới tư duy, trong đó văn học nghệ thuật là một hoạt động tư duy sắc bén nhất Vì vậy, văn học đã được đặt lên hàng đầu ở công cuộc đổi mới này
Từ yêu cầu thực tiễn, Đảng xác định sứ mệnh của văn học nghệ thuật giờ đây không phải là cổ vũ, động viên, ca ngợi mà xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống con người Cho nên "Tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn
thẳng vào sự thật Bởi vì sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [123, tr.88] được thể hiện đậm nét trên nhiều trang viết Đảng yêu cầu tác phẩm văn học phải:
Trang 14"Phản ánh các nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu,
cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ "[150, tr.112]
Với chủ trương mới ấy, văn học nghệ thuật đã được trả lại bản chất vốn có trong việc
khám phá và thể hiện cuộc sống Để có sự đổi mới thực sự, Đảng hết sức khuyến khích
giới văn nghệ sỹ hãy tìm tòi sáng tạo và có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện Bởi vì tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sỹ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự đổi mới diện mạo văn học giai đoạn này Hơn nữa, tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá, nghệ thuật
Như vậy, các nghị quyết và chỉ thị trong Đại hội lần thứ VI (1986) đã chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của Đảng dành cho đời sống tinh thần của con người, mà cụ thể ở đây là văn học nghệ thuật
1.2.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Nền văn học 30 năm chiến tranh đáp ứng yêu cầu "phản ánh chân thực và hùng hồn
cuộc sống mới, con người mới" hay "phản ánh hiện thực trong xu thế phát triển cách mạng của nó" Thực tiễn cuộc sống mới đòi hỏi văn học nghệ thuật phải thay đổi Giờ đây
văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản là công cụ chính trị hay vũ khí công tác
tư tưởng, hoặc phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng mà là "một bộ phận trọng
yếu của cách mạng tư tưởng văn hoá"
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị dành riêng cho văn nghệ trong giai đoạn ấy đã mở ra một hướng đi mới cho văn học Nhà văn hiểu rõ đặc trưng của văn chương và sứ mệnh của mình đối với cuộc sống Những sáng tác của họ không nhằm minh hoạ các khẩu hiệu hay
cổ vũ cho các phong trào, giúp thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước mà "tập trung miêu tả số phận con người, mang đến cho con người cái đẹp, tình yêu cuộc sống cũng như sự từng trải, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân, đồng thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn ra hay đi lùi vào quá khứ, từ đó rút ra bài học, những tư tưởng mang tính khái quát, không chỉ quan trọng về triết học, đạo đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa chính trị lớn lao" [150, tr.18]
Nhìn nhận về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực lúc bấy giờ, các nhà nghiên cứu
đã đánh giá sâu sắc "yêu cầu văn học trong điều kiện lịch sử mới phải giúp vào sự hoàn thiện bức tranh hiện thực còn trong dạng phác thảo của một thời đã qua, sao cho chân thực
Trang 15hơn, được soi tỏ dưới nhiều góc cạnh hơn [96, tr.106] Giờ đây, với yêu cầu mới khiến cho nhiệm vụ của văn học thay đổi, nó không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn thể hiện
thế giới chủ quan Nhận định về văn xuôi trong khoảng mười năm, Hoàng Ngọc Hiến trong
bài "Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo" cho rằng "Trong sáng tác văn học, cái
nhìn mâu thuẫn trong hiện thực đời sống hết sức quan trọng Những biến đổi sâu sắc trong văn xuôi của ta khoảng mười lăm năm nay bắt nguồn từ sự thay đổi trong cách nhìn những
mâu thuẫn trong đời sống xã hội"[96, tr.239]
Vấn đề bản chất văn học cũng được Lê Ngọc Trà đặt ra trong một loạt bài nghiên cứu của mình Ông nhận định: "Tác phẩm văn học là tiếng nói của những ấn tượng, những suy nghĩ vừa như xác định vừa như chưa xác định, vừa như trọn vẹn lại vừa như chưa trọn vẹn, vừa như có ý giới hạn lại vừa như miên man, vô bờ bến Đó là những cảm giác mang tính hình tượng Văn học chính là nỗi buồn về cái đẹp, về lý tưởng, là nỗi đau giằng xé về số
phận con người, là sự cắn rứt lương tri không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm " [154]
Nhận thức hiện thực trong trạng thái đời thường, cảm nhận và phản ánh sự thật về hiện
thực, đó là biểu hiện của đổi mới văn học Trong "Văn học trên con đường đổi mới" Nguyễn
Văn Hạnh đã khẳng định "Tư tưởng quan trọng bậc nhất mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã trang bị cho nhận thức xã hội trong thời kỳ đổi mới, cũng là tư tưởng đã tạo nên bước ngoặt thật sự trong tư duy nghệ thuật mấy năm qua, chính là tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật Bởi sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật tiến bộ" [59]
Có thể nói, tất cả những điều này được nhìn nhận khá chính xác và chúng tôi tâm đắc với ý kiến "Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết tha với công cuộc đổi mới do Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình đổi mới văn học đúng ngay từ chỗ phải bắt đầu nói sự thật Mà người đọc từng trải, thông minh chân tình của chúng ta cũng hiểu như vậy Họ chú ý đến tác phẩm mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở sự trung thực, ở lời nói thật Cái nhìn mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung thực và tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức mạnh của cách mạng, do đó mà có đủ ý thức và dũng cảm để nói lên sự thật, dù đó là một sự thật không đơn giản, thậm chí phũ phàng” [153, tr.88-89]
Nhận định về tiểu thuyết trong thời đại mới, Cao Tiến Lê đã khái quát "Tiểu thuyết của ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988, 1989, 1990, có đổi mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề Văn học đã đi vào đời thường Mỗi một con người đều bình
Trang 16đẳng trước cái nhìn của nhà văn Tất cả mọi người trước nhà văn đều là nhân vật, nhà văn coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì cho văn học."[98] Cùng chung mối quan
tâm về văn học, năm 1989 trong bài Vấn đề định hướng của văn học trong tình hình hiện
nay, Trần Hữu Tá tinh tế khi chỉ ra những hạn chế, những sai lầm, non yếu trong sáng tác
nhưng cũng rất khách quan Tác giả khảng định " ít thấy lúc nào tiểu thuyết phát triển mạnh như mấy năm gần đây" (cuối những năm 80, đầu những năm 90), "sự lao động nghệ thuật nghiêm túc theo phương hướng đổi mới sáng tạo ở một số cây bút là không thể phủ nhận" Tác giả đã khẳng định những nét đổi mới của tiểu thuyết trong việc bám sát cuộc sống hôm nay, nhất là quan tâm đến những vấn đề tâm lý xã hội của đời thường (quyền sống và số phận con người, những mối quan hệ nghĩa tình nhân bản, bi kịch cá nhân, sự suy thoái của đạo đức truyền thống ) Hơn thế nữa, tác giả còn nhận xét về cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết thời kỳ này "cảm hứng phê phán trong những tác phẩm này rào rạt, mạnh mẽ hơn giai đoạn trước, tạo được những tác động mạnh đến tâm trạng xã hội"[137]
Như vậy, với công cuộc đổi mới trên toàn xã hội, văn xuôi đang chuyển mình một
cách mạnh mẽ Giờ đây nó "không xuôi chiều kiểu êm dầm mát mái nữa" mà mạnh dạn
"phanh phui các mặt trái của xã hội, các uẩn khúc hoặc tráo trở của lòng người" Đến với
những tác phẩm giai đoạn này, người đọc tìm thấy mọi cung bậc của tình cảm: từ buồn bã,
cô đơn cho đến công phẫn, xót xa Văn học giai đoạn này đã làm một cuộc "cách mạng" thực sự Nó giàu chất thực hơn, miêu tả cuộc sống trần trụi và mạnh dạn phơi bày sự băng hoại đạo đức nếu thấy cần thiết Giờ đây, yêu cầu tái hiện lịch sử phải đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, phải đặt lại mọi vấn đề, suy nghĩ lại mọi niềm tin và có thể vượt qua mọi cấm
đoán kiêng kỵ Điều này được Phan Cư Đệ ghi nhận định trong công trình Văn học Việt
Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sữ và lý luận (2005): "Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý
bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã qua Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện" [44, tr 152-
153]
Cho nên tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, quả đã ghi nhận những diễn biến tinh vi nhất về cuộc sống mới đa dạng và phức tạp Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng nhận thức trở lại chính bản thân nó Nhận thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực Nhận thức mối quan hệ giữa văn học với chính trị Yêu cầu mới đòi hỏi văn học phải trả
Trang 17lời được những câu hỏi như: Mối quan hệ giữa Văn học và cuộc sống Nghệ sỹ anh là ai?
Bản chất của văn học là gì?
Văn học nghệ thuật trong thời đại mới trở về với thiên chức vốn có của mình là "món
ăn tinh thần" đặc sắc nhất mà không một ngành nghệ thuật nào có thể thay thế được Văn
học mang sứ mệnh to lớn như vậy nên người nghệ sỹ cũng xác định nhiệm vụ của mình trong nghệ thuật phải sáng tạo, phải thể nghiệm mình Điều này từng được Nam Cao khẳng định qua lời nhân vật Hộ, "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu,
biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" Điều này một
lần nữa được Thạch Lam khẳng định trong tác phẩm của mình:" là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực làm cho lòng người trong sạch và phong phú"
Sau chiến tranh, khi tư duy nghệ thuật thay đổi, văn học không chỉ nhìn lại quá khứ bằng việc miêu tả hiện thực đời sống chiến tranh hay trở lại những vấn đề lịch sử dưới một cái nhìn mới mà quan trọng hơn là đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê Cuộc sống được phản ánh vào tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con người thời hậu chiến Đấy là cuộc sống đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa bận rộn nhưng cũng không kém phần sôi động quyết liệt Đặc biệt
“con người” trở thành một đối tượng thực sự trong văn học, một thế giới đầy bí ẩn và là
đối tượng khám phá không cùng của văn học Con người với đầy đủ các “phẩm chất” và
“thuộc tính”, “bản năng” và “ý thức”, “thấp hèn” và “cao thượng”, “phần con” và “phần
người”…… Từ con người tập thể sang con người đời thường với tất cả tính chất mâu
thuẫn phức tạp, con người anh hùng và con người bi kịch.…Một quan niệm mới về con
người được hình thành, đấy là con người cá nhân, con người chịu trách nhiệm trước mọi
quyết định của chính bản thân mình Con người ấy không còn "nguyên phiến sử thi" - chữ
dùng của Trần Đình Sử - mà hiện lên với nhiều mâu thuẫn Những mặt trái của đời sống được phơi bày cụ thể Sự tha hoá về nhân cách, những số phận bi kịch, những tâm trạng lo
âu, khắc khoải đựơc đặc tả Giọng điệu mỉa mai, phê phán tự vấn thay thế giọng điệu ngợi
ca, ru vỗ ngọt ngào êm ái Con người được hình dung nhiều mặt Không chỉ có ý chí, tư tưởng, tình cảm mà còn được khắc hoạ ở các phương diện bản năng vô thức, tâm linh nghịch lý Anh sáng lý tưởng với những hào quang giờ đây nhạt dần Những ngươi chiến
sĩ, những anh hùng không còn vị trí trung tâm mà được thay thế bởi những con người đời thường, có khi la tầm thường nữa Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Trang 18phải nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư với những trăn trở tìm tòi Nhiệt tình ca ngợi, khẳng định được thay thế bằng sự phê phán Điều này thể hiện hầu như trong các tác phẩm
có giá trị lúc bấy giờ:Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguyễn Khắc Trường
Có thể nhận thấy trên các trang tiểu thuyết của văn học giai đoạn này, những mặt
trái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống mà trước đây bị lờ đi, bị gác lại thì nay đã
được các ngòi bút văn xuôi với thế mạnh riêng, lật xới lại hầu hết mọi vấn đề Những nhân vật xấu trước đây chỉ được miêu tả như những thiếu sót, những khuyết điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản vẫn là người tốt thì nay hoàn toàn khác Những kẻ xấu là những
kẻ mang bộ mặt đạo đức giả Chúng lợi dụng danh nghĩa Đảng - cách mạng để trục lợi, để thoả mãn ham muốn quyền lực cá nhân Chúng trù dập người khác nhằm nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình Phong Lê qủa là sắc sảo khi cho rằng :"Tiểu
thuyết thời kỳ này không ngần ngại "vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ" nhưng đem lại hiệu qủa "thanh lọc, tẩy rửa" [97, tr.130]
Tìm hiểu những trang tiểu thuyết hôm nay, người đọc bắt gặp những số phận riêng với những bi kịch rất đời thường của con người trong xã hội mới Thực ra, đây không phải
là điều mới mẻ gì, không phải là lần đầu tiên xuất hiện, bởi xu thế này đã có trên những trang văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945 Tuy nhiên, với thời gian không phải là quá ngắn của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm buộc văn học phải quan tâm đến cái chung còn những vấn đề cá nhân đời thường, số phận riêng mỗi con người phải tạm gác sang một bên Giờ đây, khi chiến tranh kết thúc, cảm hứng đời tư thế sự với những trăn trở tìm tòi được thể
hiện đậm nét trên những trang tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Sao đổi ngôi của Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân Và không chỉ tiểu thuyết mà trong những truyện ngắn, cảm hứng thế sự cũng được khai thác mạnh mẽ Cỏ
lau, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, các sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài cũng như của các nhà văn nhà thơ khác đều là những khám phá mới mẻ về cuộc đời con người Dưới ngòi bút chính luận Nguyễn Khải, con người hiện lên sắc sảo với cách ứng xử thấu đáo và những suy nghĩ sâu sắc Trong thế giới nghệ thuật Ma Văn Kháng, con người được soi chiếu cả ở phần thể chất lẫn tâm hồn nên vừa nồng nàn trong niềm khát khao được giao cảm lại vừa bận rộn với những tính toán trong cuộc mưu sinh Ngòi bút nhà văn dường như luồn thật sâu vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người để lần tìm những rung động dù rất nhỏ Cuộc sống thường nhật
Trang 19cũng như đời sống tâm hồn được miêu tả chân thực hơn Ở đấy không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau đớn, tủi nhục, bất hạnh Cuộc sống con người hiện lên trên trang viết hôm nay thật phong phú đa dạng Các nhà văn đã tiếp cận con người từ nhiều chiều và thể hiện những cảm nhận về con người bằng nhiều cách khác nhau Chiến tranh
đã kết thúc nhưng những dư âm của cuộc chiến vẫn còn Giờ đây, chiến tranh được tái hiện trên nhiều bình diện nhưng đằm lại và sâu lắng hơn Hình tượng người chiến sỹ gần hơn với cuộc sống đời thường
Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật, văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng giai đoạn này đã thực sự mở rộng đường biên trong việc phản ánh vì nó được viết dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn Văn học đã thực sự được cởi trói, cho nên chủ đề, đề tài được
mở rộng, không bị gò ép, không bị giới hạn Văn học đã tìm về với "con người đời thường", "con người cá nhân" nhưng vẫn "mới", vẫn không dẫm chân lên lối cũ "mà đầy
sáng tạo" trong sự vận động không ngừng của cuộc sống mới Văn học được trả lại “thiên
chức” của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh trong
mỗi tác phẩm, trong từng tác giả
1.3 Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu
1.3.1 Quan điểm nghệ thuật
Tác phẩm chính là nơi nhà văn thể hiện quan điểm sáng tác của mình Và Lê Lựu cũng không phải là một ngoại lệ Trên những trang viết, ông đã thể hiện khéo léo quan điểm nghệ thuật ấy Không phải thông qua bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm mà nó được
gói gọn trong lời phát biểu của chính tác giả: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi
Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là sự thật Tôi không thể
viết được nếu không bám vào sự thật Tôi chỉ là người kể chuyện, có gì viết nấy”[104, tr.501] Trong một lần “Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm”, ông tiếp tục khẳng định
với bạn đọc: “Tôi nghĩ, văn chương phải đối thoại được với cuộc sống, viết thật lòng không nói dối – nhờ cái thật mà đối thoại được với cuộc đời và người đang sống”[104, tr 547]
Như vậy chúng ta nên hiểu "sự thật" đó như thế nào? Cái thật trong văn học, theo
quan niệm của Lê Lựu, nó bắt nguồn từ cái thật trong cuộc sống mà cuộc sống thời bấy giờ có nhiều sự đổi thay to lớn Người đọc thích nhìn thẳng vào sự thật, nói thật và làm thật Qua văn chương, người đọc muốn hiểu thời đại lúc bấy giờ ra sao, muốn nhận thức
Trang 20đúng thực chất các mối quan hệ xã hội của con người trong một xã hội đầy biến động Ông
ý thức rằng, văn học không thể tách rời hiện thực mà phải bám sát hiện thực
Vậy là đã rõ, “sự thật” chính là nguyên tắc của Lê Lựu trong việc xây dựng tác phẩm, “Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật” Đấy là lời thổ lộ chân thành
nhất của người cầm bút Và điều này không phải là lời nói suông mà hầu hết trên tất cả những trang viết, sự thật hiện lên như nó vốn có Không một chút màu mè! Không một chút tô vẽ! Trên hành trình kiếm tìm sự thật ấy, nhà văn đã mạnh dạn phơi bày tất cả những gì đang diễn ra, những gì trước nay bị che dấu, bị lờ đi Vì vậy, sự thật về đời sống,
về con người hiện lên rõ nét hơn trong tác phẩm của ông
Là một người nông dân mặc áo lính, Lê Lựu luôn luôn nghĩ về quê hương, ông chú ý đến tất cả mọi điều liên quan đến người nông dân Nông thôn và người nông dân là mảng
đề tài bất tận mà ông khai phá Cho nên, viết về đề tài gì đi chăng nữa thì hình ảnh làng quê với những nhân vật "người nhà quê" vẫn hiển hiện trên từng trang viết Theo nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn “Đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả”[104, tr.663] Hơn thế nữa, Lê Lựu đi nhiều, biết nhiều, vốn sống của ông căng tràn Bản thân là một người lính nên ông rất dễ hoà đồng với họ Ông hiểu tâm tư tình cảm của họ một cách
tự nhiên Họ chính là ông mà ông cũng chính là họ Ông đã viết những gì mình biết, mình
hiểu một cách sâu sắc và tất cả những điều ấy đều xuất phát từ quan niệm nghệ thuật "tôn
trọng sự thật"
Do vậy, khi nghiên cứu tác phẩm, chúng ta không thể không đề cập đến quan điểm nghệ thuật của nhà văn
1.3.2 Sự nghiệp sáng tác
Lê Lựu sinh vào ngày 12/12/1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, thôn Mẫn Hoà,
xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình nông dân bình thường như bao gia đình nông dân tại vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam Làng quê mà ông sinh
ra và lớn lên là một vùng quê nghèo đói, một vùng chiêm trũng ngập lụt
Ông lớn lên giữa lúc miền Bắc được hoàn toàn giải phóng Người nông dân bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, người cày có ruộng Ông rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ đầu những năm sáu mươi
Chính sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước cộng với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ đã thôi thúc nhà văn cầm bút ghi lại tất cả những chuyển biến đó Lúc đầu, ông làm báo ở
Trang 21quân khu III Tiếp đến là phóng viên báo, công tác tại mặt trận đường dây 559 Trường Sơn thời kỳ chiến tranh Sau chiến tranh, ông về làm tại toà soạn của tạp chí Văn nghệ quân đội một thời gian dài Ở đấy, ông không chỉ làm công việc của một biên tập viên mà còn sáng tác
Từ những trang viết đầu tiên, ông luôn thể hiện sự cần mẫn nghiêm túc Để có vị trí trên văn đàn, Lê Lưụ đã trải qua một qúa trình khổ luyện Nhà văn không chấp nhận sự nhạt nhẽo tầm thường Ở bất cứ tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ, ông cũng muốn gửi gắm vào một cái gì đó Ông viết một cách vất vả chật vật không phải vì thiếu cảm xúc, thiếu tài năng mà quan trọng hơn với ông là phải viết "như thế nào?" Chính vì vậy, ông viết chậm, mỗi ngày chỉ vỏn vẹn vài trang, có khi chỉ mấy mươi dòng
Có những nhà văn đôi khi chỉ cần một tác phẩm thôi cũng đủ lưu giữ tên tuổi với đời
Hoàng Ngọc Phách với tác phẩm Tố Tâm chẳng hạn Với Lê Lựu, sáng tác của ông có bề
dày hơn Ông cầm bút ngay từ khi còn là một chàng lính trẻ trong hàng ngũ chiến đấu Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết, ông đã là một cây bút truyện ngắn Là một nhà văn – chiến sỹ, trực tiếp đứng trong hàng ngũ của những anh lính cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh, cho nên sáng tác của Lê Lựu thường in đậm dấu ấn chiến tranh và chất chứa bao suy tư trăn trở về tình người, tình đời Lê Lựu sử dụng khá nhiều vốn liếng thực tế trong những năm làm người lính lăn lộn ở Trường Sơn cũng như vốn hiểu biết về sinh hoạt và phong cảnh làng quê yêu dấu Nhiều tình huống trong truyện dường như là kỷ niệm của bản thân người viết Do vậy, tác phẩm của ông để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc có lẽ không phải do nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết như Nguyễn Minh Châu hay các nhà văn đương thời khác mà vì nội dung thấm đẫm tính nhân văn cao đẹp, hiện thực
cuộc sống gai góc, tươi mới ngồn ngộn chảy trên trang viết
Năm 1964, ông trình làng truyện ngắn đầu tiên: Tết làng Mụa Tiếp theo là các truyện Trong làng nhỏ, Người cầm súng Trên bốn mươi năm cầm bút, với trên 15 tập sách, Lê Lựu đã có tác phẩm đạt đến đỉnh cao như Thời xa vắng Từ truyện ngắn, ông lấn
sân sang tiểu thuyết và cả hai thể loại đều thành công Thế nhưng thành công hơn cả vẫn
là tiểu thuyết Sự thành công ấy được đánh dấu qua việc nhà văn nhận giải nhì cuộc thi
truyện ngắn báo Văn nghệ 1967 – 1968 với truyện ngắn Người cầm súng và giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1998 với tiểu thuyết Thời xa vắng
So với các nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu chẳng hạn thì sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu chưa lớn Thế nhưng khi ghi nhận những cây viết có sự
Trang 22đóng góp cho nền văn xuôi đương đại nước nhà, ta không thể bỏ qua Lê Lựu Ông chính là một trong những cây bút có đóng góp quan trọng đối với văn học thời kỳ đổi mới Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng cảm hứng đời tư thế sự với những lấm lem bi kịch
trong Thời xa vắng và các tác phẩm tiếp theo của ông đã góp phần đổi mới tư duy tiểu thuyết lúc bấy giờ Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông không những cho
bạn đọc biết đến một nhà tiểu thuyết Lê Lưụ mà bộ ba tác phẩm ấy đã khẳng định phong cách nghệ thuật cũng như in dấu đậm nét tên tuổi nhà văn trong quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Trang 23Chương 2:
SỰ ĐỔI MỚI CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT CỦA
LÊ LỰU TRONG BỘ BA TÁC PHẨM THỜI XA VẮNG,
CHUYỆN LÀNG CUỘI, SÓNG Ở ĐÁY SÔNG
2.1 Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca
2.1.1 Khái niệm cảm hứng- Cảm hứng bi kịch
Lê Ngọc Trà từng cho rằng: "Tư tưởng của tác phẩm không thể là những tư tưởng khô khan thuần lý mà phải biến thành khát vọng, thành cảm hứng"[149, tr.13] Như vậy có nghĩa là cùng lấy con người và cuộc sống làm đối tượng khám phá, nhưng văn học khác với các ngành khoa học khác ở chỗ nó gắn liền với cảm hứng mạnh mẽ của người nghệ sỹ Vậy cảm hứng là gì?
Có thể nói, khái niệm cảm hứng đã được đề cập từ lâu trong lí luận nghệ thuật ở Châu Âu Và Hegel chính là người đưa ra lý luận tương đối hoàn chỉnh về nó Theo ông thì cội nguồn gốc rễ của nghệ thuật chính là cảm hứng Ông khẳng định: "Tình cảm tạo nên trung tâm thực sự trên vương quốc chân chính của nghệ thuật; thể hiện tình cảm là cái chủ yếu trong tác phẩm nghệ thuật, cũng như trong cảm thụ của công chúng" [81, tr.39] Như vậy, tác phẩm nghệ thuật chính là kết quả của cảm hứng Điều này được Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương triển khai một cách cụ thể và đi đến kết luận: "Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó" [61, tr.208- 209] Chính cảm hứng chứ không phải cái gì khác: "Trở thành lòng say mê đối với tư tưởng, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt" [61, tr 208- 209]
Nhà mỹ học Pospelov lại quan tâm đến sự chân thực của cảm hứng Ông khẳng định:
"Ở những tác phẩm không có chiều sâu của hệ vấn đề, sự lý giải và đánh giá các tính cách
sẽ không được nâng lên thành cảm hứng Ở những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố tình" [132, tr.152 – 153]
Vậy là, dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng ta có thể nhận thấy các nhà mỹ học, các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất khi quan niệm về cảm hứng Đó chính là một thứ tình cảm mạnh mẽ, đam mê, mang bầu nhiệt huyết nóng hổi của trái tim người nghệ sĩ hướng về đối tượng phản ánh trong tác phẩm của mình Cảm hứng do vậy cũng không thể
Trang 24là một thứ tình cảm giả tạo, hời hợt mà thực sự là một thứ tình cảm sâu sắc mãnh liệt Đó thực sự phải là một tình yêu tha thiết, cũng có thể là một nỗi đau đớn nát tan hay một sự căm ghét tận xương tủy
Cuộc sống con người là thế giới muôn màu, chính vì thế, cảm hứng cũng mang nhiều dạng thức khác nhau Có cảm hứng bi kịch, cảm hứng hài kịch, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng châm biếm Tuy nhiên, cảm hứng chủ đạo trong bộ ba tiểu thuyết của Lê Lựu là cảm hứng bi kịch nên người viết chỉ tập trung khám phá cảm hứng bi kịch
Chúng ta biết rằng bản chất của sự xuất hiện cái bi chính là sự xung đột Và những xung đột để tạo ra cái bi ấy không phải là những xung đột thông thường mà là những xung
đột mang ý nghĩa xã hội, lịch sử, nhân sinh Một biểu hiện cụ thể dễ thấy khi con người rơi vào bi kịch theo Popelov là: "Người ta trải nghiệm sự căng thẳng và sự lo âu sâu sắc trong tâm hồn, khiến người ta phải chịu những đau khổ, thường rất nặng nề" Những bi kịch ấy chủ yếu ở "những mâu thuẫn và đấu tranh bên trong, nảy sinh trong ý thức, trong tâm hồn con người" [132, tr.170]
Như vậy, có thể khẳng định rằng cái bi chính là nỗi đau khổ, mất mát, chết chóc
Đấy là nỗi đau đớn dằn vặt trong tâm hồn Chính vì vậy, cảm xúc bi kịch trong tác phẩm văn học trước hết chính là sự xót xa, đau đớn, đồng cảm với nhân vật
2.1.2 Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới
Nền văn học Việt Nam ra đời và phát triển trong dòng chảy của thời gian Nó không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà còn giúp cho người đọc trong mọi thời đại hiểu được những đặc điểm riêng của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn Cảm hứng bi kịch xuất hiện từ đầu trong những tác phẩm văn học dân gian rồi tiếp nối qua nền
văn học viết Vì vậy, nói đến cảm hứng bi kịch trong văn học "trước thời kỳ đổi mới" là
nói đến một chặng đường dài mà tác phẩm đầu tiên gắn liền với cảm hứng bi kịch chính là
truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy Đấy là bi kịch mang tính thời đại - lịch sử chứ
không phải là bi kịch cá nhân Văn học Việt Nam bắt đầu chú ý đến bi kịch cá nhân có lẽ
là qua tác phẩm Trương Chi - Mỵ Nương và tác phẩm Quan Âm Thị Kính Bi kịch trong
hai tác phẩm này chính là mối xung đột giữa khát vọng chính đáng riêng tư của con người
và khả năng không thể thực hiện được những khát vọng đó trong cuộc sống
Cảm hứng bi kịch được tiếp nối trong nền văn học viết Nó trở thành trào lưu với hàng loạt tác phẩm đề cập đến số phận cá nhân, đặc biệt nhất là hình ảnh người phụ nữ phải chịu mọi đau đớn trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ như thi hào Nguyễn Du từng
Trang 25nói:"Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" ở giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX Sự xuất hiện dồn dập những tiếng kêu thương
bi thiết đầy xót xa đau đớn trong hàng loạt tác phẩm như thơ của Hồ Xuân Hương, Chinh
phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du Có thể nói bi kịch chính là cảm hứng chủ đạo của nền văn học giai
đoạn này vì xã hội lúc bấy giờ có nhiều biến động dữ dội Giai cấp phong kiến không còn khả năng quản lý Chúng ra sức vơ vét bòn rút của cải, tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến liên miên khiến cho cuộc sống của người dân lao đao mà người chịu nhiều đau khổ nhất không ai khác chính là chị em phụ nữ
Từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, vẫn tiếp tục tồn tại trong văn học cảm hứng bi kịch Chúng ta bắt gặp trên từng trang viết nỗi cô đơn, sự day dứt, đau khổ của con người cá nhân mà một trong những tác phẩm đầu tiên thể hiện cảm hứng bi kịch giai
đoạn này chính là Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản Đặc biệt, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách lại khắc hoạ đậm nét cảm hứng này
Có thể nói Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản và Tố Tâm của Hoàng
Ngọc Phách là những trang viết thấm đẫm nước mắt bởi nhân vật chính đã ý thức sâu sắc
về nỗi đau khổ của mình Nhân vật thật sự bị giằng xé, đau đớn trong đời sống nội tâm Cái chết của nhân vật để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc
Tiếp nối nguồn cảm hứng ấy, Nam Cao - một nhà văn của phong trào hiện thực - đã khái quát bi kịch bằng những hình tượng nhân vật sống động cho nền văn học lúc bấy giờ
Qua tác phẩm Chí Phèo, chúng ta thấy tấn bi kịch về sự tha hoá, bi kịch không được quyền làm người của anh Chí Ta còn bắt gặp bi kịch "chết mòn", bi kịch "sống không ra
sống" của Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn Đó là bi kịch của những xung đột
không thể giải quyết được giữa con người và hoàn cảnh, giữa cá nhân và xã hội
Văn học giai đoạn từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới với nhiệm vụ động viên cổ vũ nên được viết hoàn toàn bởi chất sử thi và cảm hứng lãng mạn Cảm hứng bi kịch hầu như không xuất hiện, không được khơi nguồn Nó hoàn toàn bị chặn đứng dù thực tế cuộc sống khắc nghiệt lúc bấy giờ thiếu gì cái bi Trong giai đoạn lịch sử ấy, điều cần thiết là niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng Với cảm hứng ngợi ca, nhà văn thường xây dựng những mẫu người, những hình tượng ước lệ về một vẻ đẹp toàn diện
Chúng ta bắt gặp một loạt nhân vật như vậy trong hầu hết các tác phẩm: Chị Sứ (Hòn Đất
- Anh Đức), anh Núp (Đất nước đứng lên - Nguyên Ngọc), chị Út Tịch (Người mẹ cầm
Trang 26súng- Nguyễn Thi), Tnú (Rừng Xà Nu - Nguyễn Trung Thành), chị Trần Thị Lý (Người con gái Việt Nam - Tố Hữu)
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước với phương châm : "Nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" của Đại hội Đảng lần VI (1986) đã thực sự khơi
dòng chảy cho nguồn "cảm hứng bi kịch" đang bị chặn lại trong chiến tranh Với cảm
hứng bi kịch, các nhà văn đã dò thật sâu vào bên trong đời sống tâm hồn và tình cảm của con người Họ phản ánh sự thật mà không hề né tránh dù đó là sự thật khốc liệt nhất
Viết về chiến tranh, chúng ta không chỉ thấy những hào quang lấp lánh nữa mà còn thấy cả những tổn thất mất mát Con người có thể mất đi một phần hoặc mất tất cả: gia đình, bạn bè, người thân, mất cuộc sống bình thường; mất quyền "làm người", mất đi một phần thân thể hay cả chính phần người trong con người mình khiến cho con người rơi vào chuỗi đau đớn đến tuyệt vọng đầy bi kịch Điều này được thể hiện trong một loạt tác
phẩm như: Truyền thuyết về quán tiên (Xuân Thiều), Bến không chồng(Dương Hướng),
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Người còn sót lại của Rừng Cười (Võ Thị Hảo), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang)
Viết về chiến tranh ở giai đoạn này không chỉ có bi kịch của sự mất mát mà các nhà văn thời kỳ đổi mới còn khắc hoạ tấn bi kịch lạc lõng của người lính sau cuộc chiến Có
lẽ sống quen trong hoàn cảnh "bất bình thường" nên giờ đây, khi quay về với cuộc sống bình thường, những người lính cảm thấy lạc lõng Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất
Quang Thuỵ) là những tác phẩm thể hiện đậm nét tấn bi kịch lạc lõng ấy
Viết về mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, văn học thời kỳ đổi mới với tinh thần dân chủ đã mạnh dạn đề cập đến những thân phận, những cuộc đời mà hoàn cảnh và
môi trường sống không thuận lợi tạo nên bi kịch Ngoại tình (Nguyễn Mạnh Tuấn), Những
thiên đường mù (Dương Thu Hương), Đi về nơi hoang dã (Nhật Tuấn), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường) là những
tác phẩm tiêu biểu phản ánh những tấn bi kịch như vậy
Không chỉ dừng lại mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, văn học thời kỳ đổi mới còn khám phá bi kịch trong mối quan hệ giữa con người với con người ở những cung
bậc khác nhau Đó có thể là bi kịch vỡ mộng trong tác phẩm Bên kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Con chó và vụ li hôn của Dạ
Ngân Cũng có thể là bi kịch bị xâm hại trong chùm truyện ngắn mang đậm chất huyền
Trang 27thoại Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ Hay bi kịch đánh mất mình trong tác phẩm Bất hạnh của tài hoa
(Đặng Thư Cưu), Bi kịch nhỏ (Lê Minh Khuê)
Như vậy, vơi cảm hứng bi kịch, hiện thực trong tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới hiện ra không phải là hiện thực một chiều của sự ca ngợi hoặc phê phán mà đấy là hiện thực bộn bề, ngổn ngang phức tạp không thể giải quyết
2.1.3.Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca - những
biểu hiện cụ thể trong bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng - Chuyện làng Cuội - Sóng ở đáy
sông
Con người luôn là đối tượng trung tâm của mọi ngành khoa học và nghệ thuật Lấy con người làm đối tượng khám phá vô tận, văn học thời kỳ đổi mới đã đặt con người trong
"tổng hoà các mối quan hệ xã hội" thay thế cho con người "nguyên phiến", con người "sử
thi " Giờ đây, con người được nhận thức và khám phá "như một thế giới riêng phong phú,
phức tạp với số phận riêng và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú, phức tạp của nó với toàn bộ xã hội, trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác" [17]
Tiểu thuyết với khả năng riêng đã phản ánh "con người" một cách sâu sắc và nhiều
chiều Khám phá về con người trở thành vấn đề cốt tử của tất cả các nhà tiểu thuyết trong
đó có Lê Lựu Có thể nhận thấy qua những trang viết của các nhà tiểu thuyết lúc bấy giờ, con người đươc nhận thức khá đầy đủ Bakhtin - nhà lý luận văn học Xô Viết - giúp chúng
ta có được nhận thức sâu sắc về con người: "Một trong những đề tài cơ bản có tính nội tại
của tiểu thuyết chính là đề tài nhân vật không tương hợp với số phận và vị thế của nó Con người hoặc cao lớn hơn thân phận mình, hoặc bé nhỏ hơn nhân tính của mình Con người không thể hoá thân đến cùng vào cái thân xác xã hội - lịch sử hiện hữu" [8, tr.287]
Khi nghiên cứu thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiepxki, Bakhtin cũng chỉ ra rằng:"Con người không bao giờ trùng hợp với bản thân mình Theo tư tưởng nghệ thuật của Đôtxtôiepxki, sự sống địch thực của cái bản ngã diễn ra dường như chính cái điểm con người không trùng hợp với bản thân con người ấy; Ơ cái điểm con người vượt ra ngoài giới hạn của toàn bộ cái hiện hữu của nó như một vật thể sinh tồn mà ta có thể rình
xem"[8, tr.261] Bakhtin cũng nhấn mạnh "Nếu cái cuống nhau nối liền nhân vật với
người sáng tạo nó không được cắt đứt đi thì trước chúng ta không phải là một tác phẩm mà
là một tư liệu cá nhân"[8, tr 246]
Trang 28Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người của Bakhtin là quan niệm có tính chất cách mạng to lớn Lấy quan điểm sâu sắc ấy để soi chiếu vào tác phẩm của Lê Lựu, cụ thể
là bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, chúng ta thấy rất rõ
cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán đã dần thay thế cho cảm hứng sử thi lãng mạn, cảm hứng ngợi ca
Vậy là với cảm hứng ngợi ca cổ vũ, các nhà văn giai đoạn trước thời kỳ đổi mới đã sáng tạo ra những hình ảnh về con người mang những phẩm chất đẹp đẽ, mang khát vọng
lý tưởng của giai cấp, thời đại, dân tộc Thế nhưng, khi cảm hứng ngợi ca nhạt dần, cảm hứng bi kịch, phê phán thay thế thì ánh hào quang của quá khứ oai hùng không còn lấp lánh nữa mà con người hiện lên gần với đời thường hơn và chất chứa mọi " hỷ - nộ - ái - ố" của cuộc đời Do vậy, nếu cảm hứng sử thi lãng mạn của nền tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới mang đến cho chúng ta những nhân vật chói loà ánh hào quang thì với luồng gió mới, nhân vật giờ đây đã hiện lên "như nó vốn có" Đấy là những "con người đơn nhất, riêng biệt không giống ai" [114]
Đều đặn trên những trang viết của mình, Lê Lựu đã nhìn nhận lại hiện thực Hơn thế nữa, để có một "nhà tiểu thuyết Lê Lựu" giữa trăm ngàn cái tên tuổi khác chính là nhờ sự
nhạy bén của nhà văn trong việc cảm nhận và mạnh dạn trả lại cho văn học "thiên chức"
vốn có
Bi kịch ư? Đấy là điều không thể nào xuất hiện trong văn học giai đoạn trước đó Đấy dường như là một điều tối kỵ cho người cầm bút lúc bấy giờ Phải viết làm sao, viết như thế nào để cổ vũ, động viên quần chúng Đấy là nhiệm vụ "bất khả kháng" Giờ đây, tiếng bom đã ngừng hẳn Mọi người bắt đầu phải hoà nhịp vào cuộc sống mới và đó quả là điều không giản đơn đối với những người mặc áo lính một thời mà có thể nói là của tất cả mọi người trong nhịp sống hối hả Điều này được Nguyễn Khải nhận định "Chiến tranh ồn
ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó Hoà bình mà lại chứa chất những sóng
ngầm, những gió xoáy bên trong" [82, tr 56]
Có những sóng ngầm gió xoáy từ ký ức chiến tranh hiện về không dễ nguôi quên, có những sóng ngầm lại xuất phát từ quan niệm sống của một thời không dễ thay đổi Gió xoáy sóng ngầm bởi không dễ dàng thích nghi với cuộc sống mới Và cũng có thể là sóng ngầm bởi cuộc sống mới đã hoàn toàn làm thay đổi con người, làm con người biến chất tha hoá Chính tất cả những điều ấy đã tạo nên bi kịch Bi kịch do hoàn cảnh mang lại và
do chính mình tạo nên
Trang 292.1.3.1 Bi kịch do hoàn cảnh
Đến với thế giới nghệ thuật của tác phẩm Thời xa vắng, chúng tôi nhận thấy tấn thảm
kịch mà Giang Minh Sài - nhân vật chính của truyện - phải gánh lấy, một phần là do hoàn cảnh xã hội mang lại Nói một cách cụ thể hơn, chính là do sự "quan tâm" không đúng cách của những người xung quanh anh
Điều đầu tiên, căn nguyên của mọi nỗi khổ mà "Cu Sài" phải gánh lấy xuất phát từ
sự sắp xếp của người cha Ông đồ Khang hỏi vợ cho Sài khi cu cậu còn đang ở tuổi nhi đồng - cái tuổi " ăn chưa no, lo chưa tới" Sài chính là nạn nhân của nạn "tảo hôn" - một tệ nạn làm tan nát biết bao trái tim, phá hỏng bao cuộc đời Tại sao Sài lại rơi vào hoàn cảnh thương tâm như vậy? Nghèo! Vâng, chính cái nghèo, cái đói đã khiến ông đồ Khang quyết định chọn cho Sài một người vợ, chọn cho mình một "nàng dâu" lớn tuổi, khoẻ mạnh để đảm đương công việc Dù chưa ý thức sâu sắc nhưng quả thật Sài không thích như vậy Sài quyết tâm tháo cũi sổ lồng, quyết tâm tự giải phóng
Thế nhưng đâu dễ, Sài đã vấp phải một "thế lực" khác cũng không kém phần nặng nề
đó chính là "truyền thống cách mạng" của gia đình Chú Hà và anh Tính khôn khéo nghĩ ra mọi cách buộc chặt Sài vào cái cạm bẫy hạnh phúc sắp sẵn ấy Họ ráo riết dẹp yên mọi
"dư luận không hay, không tốt, không thuận lợi" cho công việc, địa vị của họ trong xã hội
Họ sợ chuyện hôn nhân của Sài làm ảnh hưởng đến danh dự uy tín Vì vậy, bằng mọi cách, họ đã hành động mà không bận tâm đến việc Sài có hạnh phúc hay không
Sau đêm trốn nhà đi vì uất ức hoàn cảnh trớ trêu của mình, giờ đây, Sài hiểu ra rằng mình không thể làm gì khác, không thể thay đổi được điều gì Anh Tính và chú Hà đã thể hiện rõ quan điểm, họ không đứng về phía Sài Một mình mình, Sài đứng riêng một "trận tuyến" Do vậy, mọi phản ứng của Sài mỗi lúc một yếu dần Lúc này, Sài đã ý thức được vai trò xã hội của mình "nó lo đến vai trò gương mẫu của một liên đội trưởng, nhất là khi được trở thành đội viên "tháng Tám" đầu tiên của xã"[107, tr.43] Giờ đây, hoàn cảnh mới buộc Sài phải sống thành hai con người: thật và giả, con người ban ngày và ban đêm, con người trước mặt mọi người và khi chỉ còn lại một mình Hai con người ấy trong Sài luôn đấu tranh giằng xé nhau và cuối cùng con người bản ngã cũng đành khuất phục Sài "cứ phải cố dồn sức lực, cố gồng mình lên để cái phần sống ở chỗ đông người, chỗ ban ngày được khen ngợi trầm trồ, còn ban đêm với riêng mình, nó tự giết đi xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự" [107, tr 48]
Trang 30Sài quyết định ra đi, quyết định rời xa nơi chôn nhau cắt rốn để mong tìm lối thoát cho cuộc đời, để khỏi phải nhìn mặt "con người ấy" Nhập ngũ lúc bấy giờ không chỉ là việc làm có ích cho đất nước mà đặc biệt là "có lợi" cho Sài
Thế nhưng tấn bi kịch chưa thể buông tha cho anh Ở đơn vị, dù đã cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, không đụng chạm đến bất cứ ai, việc mình mình làm, không bận tâm đến chuyện của người khác Vậy mà chính trị viên đại đội cùng với một số người trong tổ "tam tam" đưa anh ra diễn đàn tư tưởng rồi quy kết cho anh những tội lỗi nặng nề
Vậy đấy! Bi kịch tiếp nối bi kịch Ở nhà, trong vòng tay của cha mẹ, Sài không được làm mọi điều mình thích cũng như không được từ bỏ những gì mình ghét Sài không thể
làm vì như thế là "trái với gia phong" Lớn lên một chút, Sài lại phải sống mang hai bộ mặt Sài là chính mình khi chỉ còn lại một mình Sài là "một con người khác" đầy hạnh
phúc, vui vẻ khi đứng trước đám đông Sài hiểu rằng giờ đây không như thế sẽ làm ảnh
hưởng đến "truyền thống cách mạng của gia đình" Khi đã trưởng thành, Sài là một người
lính thực thụ, anh nghĩ mình có thể sống trong "mơ mộng", trong "tâm tưởng" cũng được
thì nỗi bất hạnh mới lại ập đến Anh bị buộc tội có "tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phản
động" trong suy xét của ông chính trị viên và mấy đồng đội trong tổ tam tam nọ, rằng: "Đã
xuất hiện tư tưởng nằm ỳ thoái thác nhiệm vụ trong chiến sỹ mới Chiến sỹ Giang Minh Sài đã có vợ nhưng vẫn quan hệ bất chính với một phụ nữ, có ý định đào ngũ Đã ghi nhật
ký bậy bạ, khoác loác, có đoạn mang tư tưởng phản động Hầu hết đoàn viên phát biểu ý kiến phân tích sâu sắc, đả phá mạnh mẽ tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến bóc lột muốn "ngồi mát ăn bát vàng" [107, tr 87]
Bi kịch của con người có thể nói là rất đa dạng, không ai giống ai, không lúc nào giống lúc nào Sài cũng thế! Những con người cổ hủ như ông đồ Khang đẩy Sài vào bi kịch đã đành, những người với chủ nghĩa ích kỷ thiển cận như Tính, Hà những người
với quan điểm hẹp hòi "vội vàng, thô thiển kết luận nhân cách của người khác để đạt mục
đích cá nhân mình" như chính trị viên đã đành, Sài lại tiếp tục đón lấy bi kịch từ người
quan tâm lo lắng cho mình còn hơn người thân đó chính là Hiểu Hiểu là người hết sức chân thật, suốt đời sống tốt đẹp với mọi người nhất là với Sài, đấy là người mà theo nhận xét của chính uỷ Đỗ Mạnh: "có trình độ làm việc, làm được nhiều việc một cách thông minh và tỉ mỉ, nhanh nhạy và chính xác, một người sống nhường nhịn và chăm lo cho đồng đội cấp dưới hơn cả chính mình, một người sống trung thực không có kẻ ghen tỵ đố
Trang 31kỵ" [107, tr.127] Với Sài, anh thương yêu như em ruột Anh chăm lo cho Sài vô điều kiện Thế nhưng đứng trước mối tình tay ba giữa Sài - Tuyết - Hương, Hiểu lại rất ngại Vì
sự nghiệp của Sài, anh cố gắng ngăn ngừa, cấm cản tình yêu giữa Hương và Sài Đồng
thời cố nối lại tình cảm của Sài với vợ "để giữ lấy yên ổn" "giữ lấy uy tín chính trị" Như
vậy là lại thêm một tầng nữa, một thế lực nữa đẩy Sài rơi sâu hơn vào vòng bi kịch
Với Sài, khi con người xã hội - công dân càng trưởng thành, càng được khẳng định thì con người cá nhân càng rơi vào bi kịch Lúc đầu, bi kịch của Sài chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình Sau đó mở rộng ra phạm vi làng xã Đến khi nhập ngũ, bất hạnh của anh lại càng lớn hơn Anh không chỉ trở thành nạn nhân của những định kiến hẹp hòi thiển cận
từ cấp chỉ huy trực tiếp mà đau đớn hơn, sỉ nhục hơn là anh phải chung đụng với người
"mình ghét cay ghét đắng"
Chưa hết, "tấn bi kịch" tưởng như kết thúc sau khi Sài được "tháo cũi sổ lồng", ly
hôn với "nỗi ám ảnh của một thời trai trẻ", anh lại rơi vào một bi kịch mới cũng không
kém phần chua chát đắng cay Hơn thế nữa, bi kịch lần này có phần nhục nhã, đau đớn hơn Sài hớn hở, hăng say đón nhận cuộc sống mới Bằng nhiệt huyết của một con người khao khát hạnh phúc, anh đã sống hết mình cho tình yêu Thế nhưng trái tim của anh một lần nữa bị bầm dập rách nát hơn Anh cho người tình yêu thương, anh trao tất cả những gì
có thể cho người mình yêu nhưng bù lại - vợ của anh và những người xung quanh với lối sống mới của xã hội mới- lại đẩy anh đến tận cùng của nỗi đau, nỗi nhục Châu - vợ anh đòi hỏi những điều anh không có Anh sống chân thật bằng trái tim mình thì lẽ ra anh phải được nhận lấy tình yêu thương như mong ước Vậy mà thật bi kịch, bởi anh càng yêu chiều vợ thì trong mắt vợ, anh lại trở thành một thằng hèn Đứa con mà anh yêu thương chăm bẵm, nâng giấc, đứa con mà vì nó, anh đã thức trắng suốt ngày đêm trong bệnh viện hoá ra không phải là con anh Anh không có chỗ dung thân trong mái nhà do mình tạo dựng Anh không có chỗ đứng trong trái tim vợ mình Anh hoàn toàn thất bại trong việc mưu cầu hạnh phúc ở thời đại mới bởi vì những điều anh khao khát, mong muốn lại không thể có ở một người phụ nữ như vợ anh
Như vậy, với cảm hứng bi kịch, Lê Lựu đã chỉ rõ cho ta thấy "tấn bi kịch" mà Sài phải gánh lấy trước hết chính là do hoàn cảnh xã hội mang lại
Tiếp tục với cảm hứng bi kịch, ở những tác phẩm tiếp theo, nhà văn đã khắc hoạ đậm nét những bi kịch xuất phát từ hoàn cảnh xã hội
Trang 32Bà Đất - nhân vật chính của tiểu thuyết Chuyện làng Cuội rơi vào thảm kịch hoàn
toàn do hoàn cảnh mang lại Cuộc đời của một người phụ nữ hiền lành chân chất đẹp người đẹp nết ấy là những chuỗi ngày đau đớn 18 tuổi, bước vào đời, chưa biết yêu là gì
bà đã bị một kẻ sở khanh hãm hiếp Hắn biến cuộc sống của một cô gái trong trắng ngây thơ thành địa ngục Một thân một mình bụng mang dạ chửa nơi đất khách quê người, nơi rừng sâu nước độc không người thân thích, không tình yêu thương, bà đã phải gắng gượng sống vì giọt máu của mình Người đàn ông mà bà đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng đã lừa gạt bà Trong khi bà phải trải qua bao ngày tháng vất vả nơi rừng thiêng nước độc sinh con, nuôi con thì hắn vẫn yên bề gia thất bên những bà vợ của hắn
Chuỗi ngày đau khổ tưởng như chấm dứt khi bà được trở về bên những người thân yêu Thế nhưng không! Vị thần hạnh phúc dường như cố tình trêu chọc bà Niềm vui bên người đàn ông đích thực của đời mình chỉ vỏn vẹn có một ngày Chiến tranh khốc liệt không trừ một ai Chồng bị bắt Chuỗi ngày tiếp theo bà sống trong lo lắng Ngày cũng như đêm, bà bị bọn chó săn canh giữ nghiêm ngặt Có lẽ cuộc sống của con người có bao nhiêu nỗi khổ thì bà cũng có bấy nhiêu Bà nếm trải tất cả sự đắng cay chua chát của cuộc
đời Khi có bầu đứa thứ ba, bà bị bọn "lòng lang dạ thú" áp dụng luật lệ khắc nghiệt hằng
đời là lột hết quần áo, trói lại và dẫn đi từ đầu làng đến cuối xã Bị đánh đập sỉ mắng tới ngất đi
Hoà bình lập lại, vợ chồng được đoàn tụ thì biến cố lại xảy ra Với chính sách cải
cách "thăm nghèo hỏi khổ" của đội, gia đình bà bị mọi người bỏ rơi, bị quy kết Chồng bà,
một con người yêu nước bị xem là kẻ phản quốc, kẻ bóc lột nên phải xử tử Đau đớn hơn không ai ngoài bà hiểu được nỗi oan không thể giãi bày cùng ai của chồng mình Một bên chồng một bên con, bà không biết chọn bên nào đây? Nếu bà nói ra sự thật cho mọi người biết rằng: Tổng Lỡi - tên đại địa chủ ác ôn, tên tay sai của giặc cho xây cất ngôi nhà mà hiện nay bà đang ở chỉ vì giọt máu của hắn bà đang nuôi nấng từng ngày Còn chồng bà, một người yêu nước không hề có mối quan hệ nào với tên đại địa chủ kia Như vậy liệu
có được chăng? Nếu bà dám nói ra sự thực thì mọi người sẽ nhìn thằng Hiếu như thế nào đây? Bà không thể "giết" con mình được! Thà mất chồng chứ không thể nào làm hại đến con Thế mà cuối cùng bà được những gì? Bà bị con trai, con dâu xa lánh vì sợ liên lụy Sau khi chồng được minh oan, bà được mọi người mở rộng vòng tay nhân ái chào đón Thế nhưng những ngày tháng hạnh phúc cũng nhanh chóng qua đi Lại một lần nữa
bà bị mọi người xa lánh, họ không dám nhắc đến bà vì có một đứa con phản quốc, làm tay
Trang 33sai cho giặc Nỗi oan tiếp nỗi oan Trong khi những bà mẹ có con ra chiến trận được mọi ngừơi quan tâm thì bà lại là người mà họ muốn quên đi Mai - đứa con trai thứ hai của bà
bị giặc tung tin đồn nhảm
Nỗi đau nối tiếp nỗi đau, bà nhận một lúc hai giấy báo tử của con trai mình Mất một lúc hai đứa con mà vẫn phải gồng mình lên chứ không dám khóc Bà phải đứng trên bục
để hứa với mọi người rằng phải noi theo gương các bà mẹ anh hùng miền Nam Rằng dù hai đứa con bà đã hy sinh cùng một lúc thì bà vẫn không bao giờ ngã gục
Chưa hết! Cuộc đời người đàn bà ấy quả là "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh" Vì
muốn bỏ vợ, Hiếu - con trai bà - bắt bà một lần nữa phải chịu sự hàm oan Bà phải tỏ ra mặt ghét bỏ dâu con Rằng bà không chấp nhận một đứa con dâu như chị Xuyến Hiếu bắt
mẹ phải vu oan cho vợ mình là chị ta đã xô mẹ ngã gãy chân mà thực chất là giúp đỡ mẹ khi mẹ bị ngã Con người chân chất hiền lành ấy phải gánh mọi tội lỗi xấu xa Một lần nữa mọi người xa lánh vì bà "ác độc quá", vì bà mà gia đình con cái phải tan đàn xẻ nghé, con mất mẹ, vợ mất chồng
Khi hoà bình lập lại, con bà ăn nên làm ra, những tưởng bà sẽ được đền đáp ở tuổi già Thế nhưng những năm tháng tiếp theo lại là cả một chuỗi ngày bà vất vả cực nhọc chăm sóc cho dâu, cho con, cho cháu thế nhưng luôn nhận được sự ghẻ lạnh từ chính những người ruột thịt của mình Người vợ thứ hai của Hiếu là một ả lăng loàn Những khi con trai bà bận đi công tác, cô ả lại mang trai về làm tình ngay trước mặt bà Bà phải chăm sóc con cháu mà nào được một lời cảm ơn Con dâu xem bà như một gánh nặng, như một cục nợ Sau khi con cứng cáp là cô ta lại tỏ thái độ khó chịu ra mặt Cô chỉ muốn bà lão cuốn xéo khỏi mắt mình
Thế nhưng nỗi đau đớn tận cùng nhất, tấn bi kịch xót xa nhất của người đàn bà này chưa phải là bị hãm hiếp, bị mất chồng, bị mất hai đứa con một lúc, bị dâu con khinh thường mà có lẽ chính là bị con phản bội Bị chính đứa con mà bà yêu thương nhất, cực nhọc nhất xem bà là mối nguy hiểm, là của nợ Những lời của đứa con trai như những mũi dao đâm nát trái tim bà:
"Bà Đất! Bà Đất!
Anh gọi mẹ?
Mẹ con cái con tôi hỏi bà
Nhưng bà là con lợn phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi
Trang 34Nếu chết được, bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ Bà tưởng tôi cần bà lắm đấy hả? Có chết bà cũng không yên thân với tôi đâu "[106, tr.506- 507]
Nếu như sự ra đi của bà, cái chết của bà nó đúng theo quy luật "sinh - lão - bệnh - tử"
thì không nói làm gì Đằng này, bà ra đi, bà chọn lấy cái chết vì "sợ làm ảnh hưởng đến
danh dự của con trai bà" Bà chết vì con bà không cần bà nữa Bà chết vì con bà muốn
thế Đau đớn, tội nghiệp thay cho người mẹ già nua ấy! Suốt một đời lo lắng cho con để rồi bà thu nhận được gì ngoài sự coi thường khinh rẻ của đứa con bất hiếu bà từng hy vọng
"Cả đời mẹ tối tăm oan khuất, bao nhiêu lừa gạt sỉ nhục mẹ chịu được tất Mẹ chỉ nghĩ còn
có con, như ngọn đèn soi sáng cho cái thân phận nhục nhã của mẹ để mẹ nương tựa." [106, tr.507] Niềm hy vọng, cái ngọn đèn tưởng là "soi sáng" cuộc đời bà lại chính là ngọn lửa độc thiêu cháy cả cuộc đời người đàn bà ấy
Bằng cảm hứng bi kịch, Lê Lựu đã tinh tế khám phá tận cùng chiều sâu của nỗi đau
mà người phụ nữ đáng thương ấy phải trải qua Từng dòng chữ như thấm đẫm nước mắt của người cầm bút Nhà văn đã đẩy bi kịch lên đến đỉnh điểm bằng cái chết đầy bất ngờ và
"không bình thường" chút nào của người mẹ đáng thương Bà đã chết, thế nhưng vẫn chưa được yên thân Xác bà không được chôn cất ngay mà phải đợi người ta xác minh Khi xác minh xong rồi còn phải đợi mọi người trong cơ quan và những "mối quan hệ" khác của con trai bà đến thăm viếng Suốt cả một cuộc đời sống hiền lành chân thật, lo lắng cho con, ngậm đắng nuốt cay ôm chứa bao nỗi hàm oan cho hạnh phúc, cho danh dự của con Con người ấy lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc bên con cháu, phải được con cháu yêu thương phụng dưỡng chăm sóc khi tuổi già sức yếu Vậy mà những gì bà nhận được
từ đứa con bà đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng lại là sự vô ơn bạc nghĩa, sự giả dối tởm lợm Bà không thể tiếp tục cuộc sống Cái chết là sự giải thoát cho kiếp người khổ cực của người đàn bà "xấu số" này
Tìm hiểu bi kịch do hoàn cảnh mang lại, chúng ta không thể nào bỏ qua cái hoàn cảnh đã đẩy đưa một con người hiền lành chất phác, sống có trách nhiệm với các em trở thành một tên đầu trộm đuôi cướp, tha hoá biến chất như nhân vật Núi trong tiểu thuyết
Sóng ở đáy sông
Con người ấy đã bị hoàn cảnh xô đẩy và ngã gục Bi kịch anh gánh lấy là bi kịch của
sự tha hoá Từ một cậu bé chăm chỉ học tập được sống trong vòng tay yêu thương chở che của gia đình, thế rồi khi chiến tranh nổ ra, gia đình anh phải tan đàn xẻ nghé Anh và ba đứa em phải về tạm trú bên ngoại Mười mấy tuổi đầu vừa lo cho mấy đứa em, vừa phải
Trang 35làm việc và đi học, ấy thế mà anh học giỏi có tiếng Cả làng cả xã ai cũng khen ngợi anh Thế nhưng hạnh phúc không phải là điều dễ dàng mà ai cũng có được Tấn bi kịch của anh bắt đầu từ những phút giây con tim anh biết rung động Người anh yêu thương, người anh
định lấy lại có quan hệ "họ hàng tám đời" với anh Anh phải gọi người ấy bằng "cô" Tục
lệ hà khắc Lề thói cổ hủ phong kiến đã không cho phép anh và người ấy đến với nhau Người ấy đã mang theo giọt máu của anh và bỏ xứ ra đi Còn lại mình anh với nỗi day dứt khôn nguôi Chuyện này chưa xong lại tiếp tục xảy ra chuyện khác Người mẹ lo lắng tảo tần đột ngột ra đi trong một lần sinh nở, để lại trên vai anh - cậu học trò lớp 9- một gánh nặng là phải chăm sóc cho mấy đứa em ăn học thành người Mất đi chỗ dựa tinh thần duy nhất, gánh nặng đè lên vai, anh sinh ra bệnh đau đầu phải nghỉ học triền miên Vì ngày nghỉ quá nhiều, anh đã không được lên lớp Học đúp một năm hai lớp lại là điều bố anh không chấp nhận Không còn cách nào khác, anh đã phải lừa dối mọi người rằng mình vẫn
đi học và trong quãng thời gian ấy lại đi bốc vác kiếm tiền để nuôi em
Cuộc đời của anh sẽ không rơi vào bi kịch nếu như mẹ anh còn sống và nếu anh không có một người bố tàn nhẫn, sắt đá Không ai khác, ông chính là người đã đẩy con trai mình vào chốn lao tù Ông chính là một tác nhân quan trọng làm thay đổi cuộc đời anh Khi biết con bị đúp lại một năm, bỏ học và đang bị tạm giữ tại đồn do một sự hiểu lầm, ông không cần suy nghĩ lấy một giây để từ bỏ anh, quyết tâm cắt đứt mọi mối quan hệ cha con Từ đó đến khi nhắm mắt xuôi tay, không bao giờ ông xem anh là con của ông nữa Ông thờ ơ, lạnh nhạt và đầy nhẫn tâm Ông không cho anh vào nhà Sáng đi làm, ông yêu cầu anh ra khỏi nhà để ông khoá cửa lại, tối ông về mới được vào Mọi nhu cầu ăn uống của bản thân, anh phải tự lo lấy Ông hoàn toàn rủ bỏ mọi trách nhiệm của kẻ làm cha Trong khi anh chờ đợi người ta gọi đi làm, ông cũng không cho anh tá túc tại nhà Anh đã
cố gắng để không trở thành một tên ăn cắp nhưng không thể được Không có một cắc dính túi mà cái đói và cái rét luôn bủa vây, anh đành nhắm mắt làm liều Ngày anh có giấy báo gọi đi làm tại xưởng đóng cá hộp cũng là lúc anh đang ở trong trại tạm giam
Khi anh chí thú làm ăn, muốn xây đắp một gia đình hạnh phúc, anh gặp phải ả giang
hồ Ả bỏ anh đi theo trai Thế rồi anh đến với Hồng - một người phụ nữ muốn lo lắng cho cuộc đời của anh bớt phần rách nát Anh đang sống những ngày tháng hạnh phúc nhất ngỡ như trong mơ thì con ả giang hồ lại quay về tìm anh, mang theo đứa con còn đỏ hỏn trên tay Trong lúc bối rối vì đứa con bấy lâu mong mỏi, anh đã để vuột mất hạnh phúc của mình nên chuỗi ngày tiếp theo lại còn "rách nát" hơn cả khi xưa Một thân một mình phải
Trang 36chăm sóc con Không một xu dính túi, anh bế con từ nơi này đến nơi khác tìm "mẹ" cho con bé, thế nhưng vẫn bặt vô âm tín Bà ngoại của đứa trẻ không nhận cháu Ông nội của đứa trẻ dù có hàng ngàn đô la trong tay, cho vay khắp nhưng quyết không cho anh vay một đồng nào để chăm con Vì sự sống còn của con, anh lại phải làm cái nghề trái với lương tâm mình: lợi dụng lòng tốt của bà con láng giềng, ăn cắp về nuôi con
Như vậy, bi kịch nhân vật Núi trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông trải qua chính là bi
kịch về sự tha hoá Do hoàn cảnh đẩy đưa, từ một cậu học trò học giỏi hiền lành, từ một người anh gương mẫu, anh trở thành tên ăn cắp Bi kịch về sự tha hoá của Núi cũng có sự tương đồng với bi kịch về sự tha hoá của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao Chí cũng từ một anh nông dân hiền lành chất phác, bị hoàn cảnh xô đẩy đã trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại Điều khác chăng là Chí không bao giờ được làm người bởi Chí sống trong xã hội phong kiến, còn Núi thì được quay trở lại với xã hội, với cuộc sống của một con người trong chế độ xã hội mới
2.1.3.2 Bi kịch trong bản thân mỗi cá nhân
Với cảm hứng bi kịch, nhà văn Lê Lựu đã đi thật sâu vào mọi ngõ ngách của mỗi cuộc đời, mỗi tâm hồn để suy nghĩ và từ đó chỉ cho mọi người thấy những bi kịch của con người trong thời đại mới Ngoài những bi kịch do hoàn cảnh mang lại còn có những bi kịch do chính bản thân con người tạo ra Đấy là sự lý giải khá nghiêm khắc ở ngòi bút Lê Lựu mà không phải nhà văn nào cũng có được Và phải chăng, thông qua những tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, nhà văn muốn cảnh báo với mọi người
trong cuộc sống phải tự chịu trách nhiệm về chính mình ?
Tìm hiểu bi kịch của "cu Sài", chúng ta nhận thấy, ngoài những hoàn cảnh đẩy đưa khiến Sài rơi vào bi kịch thì một phần những nỗi đau khổ còn do chính anh tạo nên
Phải thừa nhận rằng hoàn cảnh không mấy thuận lợi cho Sài, nhưng nếu Sài biết vượt lên trên hoàn cảnh, dám nghĩ dám làm thì anh đã không phải kéo dài chuỗi ngày đau khổ
Vì muốn rời bỏ mái nhà có người "vợ" mà Sài ghét cay ghét đắng, muốn chạy trốn cuộc sống gia đình Sài đã đi bộ đội Sài đã để vuột mất tình yêu của mình để suốt cả cuộc đời không bao giờ anh tìm lại được mặc dù anh biết đó là việc "hèn nhát" và "ngu xuẩn" Sài lên đường nhập ngũ với sự lặng thinh lầm lũi, với quyết định được coi là vô cùng "dũng
cảm" của mình: "Hãy im lặng chịu đựng!"
Khi thoát khỏi những ràng buộc gia đình, Sài lại rơi vào những ràng buộc mới Tại đơn vị, Sài phấn đấu rèn luyện hết mình và Sài đã gặt hái những thành công một cách dễ
Trang 37dàng mà không phải ai cũng có thể đạt được Sài được đi học đại học, được bồi dưỡng để
có thể trở thành đảng viên Sài mạnh mẽ biết bao nhiêu! Chúng ta ngỡ rằng lúc này Sài
sẽ dám sống với một tình yêu chính đáng Thế nhưng một lần nữa Sài lại không vượt qua
được bức tường thành dư luận, không vượt khỏi "nếp nghĩ tập thể" là phải yêu vợ, phải
gắn bó với vợ Anh đã "yêu" vợ theo ý muốn của cấp trên, không dám vượt lên hoàn
cảnh, bỏ Tuyết lấy Hương Anh đã "nhìn ý tứ mỗi người một tí, để bóp mình theo họ" chứ không dám "việc mình mình làm, việc gì cứ phải rình rập xem người khác khen hay chê"
Vì vậy, chính anh đã tự tạo ra bi kịch cho cuộc đời mình
Hoà bình lập lại, anh ly hôn với Tuyết - người mà anh "căm ghét từ đầu tới chân"
Giờ đây, khi nghĩ về quá khứ, Sài lại nặng nề đổ lỗi cho hoàn cảnh Anh có ý trách chính
uỷ Đỗ Mạnh: "Giá như cách đây vài chục năm gia đình tôi và các thủ trưởng đừng bó buộc tôi thì làm gì đến nỗi" Như vậy là ở đây, Sài chỉ mới nhìn thấy một chiều từ phía hoàn
cảnh Anh nhận ra bi kịch của chuỗi ngày đau khổ kia là do sự "bó buộc của hoàn cảnh"
mà không nhận ra rằng một phần của những bi kịch trên là do chính anh Lê Lựu đã thông qua chính uỷ Đỗ Mạnh để lý giải điều này: "Đúng thế! Đúng! Nhưng anh có biết tại sao? Chính bản thân anh đầy cách sống của một anh làm thuê Sẵn cơm thì ăn, sẵn việc thì làm, chỉ hong hóng chờ chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán định đoạt một việc gì Lúc
bé đã đành, khi học hành đỗ đạt anh đủ tư cách làm một công dân, một chiến sỹ tại sao anh không dám chịu trách nhiệm về nhân cách của anh? Sao anh không dám nói thẳng rằng: hoàn cảnh của tôi bị ép buộc như thế, tình cảm của tôi không thể nào chung sống được với người như thế, nếu các anh cứ bắt ức tôi, tôi sẵn sàng đánh đổi tât cả dù phải trở
về làm anh cày thuê, tôi cũng sẵn sàng để được sống tự do Kẻ bị trói buộc không dám cựa mình giẫy giụa, chỉ hong hóng chờ đợi, thấp thỏm cầu may."[107, tr.174-175]
Ngoài ba mươi, anh bắt đầu xuất phát từ con số không Anh yêu hối hả Anh không tỉnh táo xem tạng mình thích hợp với ai, hoắng lên chạy theo cái mình không có, không
phải của mình để rồi cay đắng nhận ra giữa mình và Châu "cọc cạch" quá Vợ chồng sống với nhau như sống với người hàng xóm trái tính trái nết Bây giờ đây anh cảm thấy "hụt
hơi", "chới với" và có lúc dường như mất luôn phương hướng Anh rất muốn bỏ Châu,
nhưng đã một lần bỏ vợ, anh không muốn "dư luận" hiểu mình lăng nhăng - lại vì "dư luận" mà anh đành cố gồng mình chịu đựng, cố mặc cái "áo" không phải của mình
Còn bà Đất (trong Chuyện làng Cuội) cũng thuộc dạng tương tự Những chuỗi ngày
đau khổ của bà một phần do hoàn cảnh mang lại nhưng phần khác cũng do chính sự cam
Trang 38chịu, nhẫn nhục của bà Giá như sau khi bị Tổng Lỡi cưỡng hiếp, bà không ngây thơ tin vào những lời đường mật của hắn thì đâu đến nỗi Bà tin lời hắn là sẽ được làm "bà tư" để rồi hậu qủa bà gánh lấy là phải bỏ quê hương ra đi Khi anh Kiêm - chồng bà bị vu oan, nếu bà dám thẳng thắn nói cho mọi người hiểu rằng chồng bà vô tội, chồng bà chẳng có mối quan hệ nào với tên phản động đó, rằng cái nhà mà Tổng Lỡi xây dựng cho mẹ con bà
ở là vì bà đang mang giọt máu của hắn thì đâu đến nỗi chồng bà phải chết oan ức như thế? Nếu bà không chiều theo ý của Hiếu - con trai bà, vu cáo cho con dâu xô mẹ chồng ngã trong lúc chị Xuyến đỡ bà thì bà đâu bị mọi người cho là người mẹ chồng ác nghiệt rồi xa lánh bà? Đến khi bị chính thằng con trai - niềm hy vọng suốt cuộc đời phản bội, xỉ mắng,
bà cũng không nên chọn cái chết thảm thương như thế Một cái chết "không bình thường",
đó là bi kịch mà bà lựa chọn Cho nên bi kịch suốt cuộc đời của người đàn bà ấy một phần
là do chính bà Nếu bà biết sống cho riêng bà, nghĩ đến bà một chút, không phải vì con đến mức "mù quáng" như thế thì bà đỡ khổ hơn
Với Núi trong Sóng ở đáy sông cũng vậy, tấn thảm kịch của anh một phần do hoàn
cảnh mang lại Cuộc đời của anh là chuỗi ngày bi kịch vì anh có một người cha quá vô tâm tàn nhẫn, vì mẹ chết để lại cho anh một gánh nặng trách nhiệm quá lớn là phải lo lắng cho mấy đứa em ăn học, vì anh bị lễ giáo phong kiến lỗi thời lạc hậu ngăn cách, giết chết tình yêu đầu đời vào năm 17 tuổi, vì anh có một người vợ "lăng loàn", có trái tim của loài
"quỷ dữ", vì anh phải chăm sóc cho đứa con gái tội nghiệp của mình Đó là do hoàn cảnh Nhưng một phần cũng do chính anh tạo nên Anh đã "ăn cắp" quen tay Bên cạnh anh còn biết bao nhiêu người thương yêu đùm bọc cha con anh Xóm làng và bà tổ trưởng bán nước sôi là chỗ dựa tinh thần cho anh Ai cũng mong anh hoàn lương, kiếm lấy cái
nghề lương thiện Thế nhưng anh vẫn "ngựa quen đường cũ" Có những người có hoàn
cảnh khó khăn hơn anh, họ không có thân thể đầy đặn như anh nhưng ý chí của họ hơn anh rất nhiều Trong truyện, nhà văn đã cho ta thấy có những người chừng "24, 25 tuổi
mà trông chỉ bằng đứa bé Đôi chân của anh, một bên nhỏ như ống nứa Chỗ đầu gối nhọn
ra như một nửa của hình thoi Một chân to, nhưng bàn chân vặn nghiêng, các ngón và lòng bàn chân chổng lên trời Mỗi khi anh bước đi trông rất khập khiễng và vất vả [105, tr.111] Thế nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt vẫn không thể quật họ gục ngã Họ đã vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn "Con giun, con dế nó còn dũi đất sống được, huống hồ mình còn hai bàn tay còn cái đầu Mình cứ đi bới rác, nhặt sắt vụn, ống bơ giấy ni lông, dép nhựa
Trang 39hỏng, có khi cả đồng hồ nhẫn vàng, tiền đánh rơi như thế này cũng được ba bữa no"[105,
tr.114] Thế còn anh? Anh đã không vượt qua hoàn cảnh để cuối cùng trở thành kẻ ăn cắp Như vậy, đi vào thế giới nghệ thuật của bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng
Cuội, Sóng ở đáy sông, có thể nhận thấy khác với những trang viết trước thời kỳ đổi mới,
ở đây, cảm hứng bi kịch đã thay thế cho cảm hứng lãng mạn, cảm hứng ngợi ca Mỗi một nhân vật hiện lên đều bộc lộ trọn vẹn sự day dứt, dằng xé, đau đớn khôn cùng Ở đấy không phải là sự đau đớn về thể xác mà là sự đau đớn về tinh thần Một anh lính gặt hái bao nhiêu chiến công hiển hách trong cuộc chiến để rồi thất bại thảm hại trong cuộc sống
đời thường Có lúc ta cảm thấy Sài không còn là Sài nữa mà là một tên nô lệ đáng thương
Một bà mẹ cả cuộc đời lo lắng chăm sóc cho con để rồi cuối cùng nhận một cái chết thảm thương Quả không sai khi tác giả ví von bà "giống như một cái rốn đựng không biết bao
sự đau thương khốn khổ, khốn nạn ở đời" [104, tr.715] Bao nhiêu cái khổ của một kiếp người đều có mặt trong suốt cuộc đời của người đàn bà này Bi kịch đánh mất mình, bi
kịch tha hoá của một nhân cách trong Sóng ở đáy sông
Mỗi nhân vật tiểu thuyết của Lê Lựu là một mảnh đời riêng nhưng lại có sức khái quát cao về tấn bi kịch đa dạng mà con người phải gánh chịu trong xã hội mới Đó là
những bi kịch từ trước đến nay hầu như văn học "không được phép" nói tới hay "phải lờ
đi" Cùng với hàng loạt tác phẩm có cảm hứng bi kịch lúc bấy giờ như Mùa lá rụng trong vườn, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Đám cưới không có giấy giá thú, Những thiên đường mù những bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa
sâu sắc về số phận con người, giúp con người nhận thức về cuộc sống của mình rõ hơn Nhà văn đã mạnh dạn nhìn vào sự thật, phản ánh sự thật như chủ trương của Đảng Lấy "bi kịch" làm cảm hứng sáng tác, Lê Lựu qủa đã góp phần làm thay đổi diện mạo nền văn học nước nhà lúc bấy giờ
2.2 Sự nhận thức lại hiện thực trong bộ ba tác phẩm "Thời xa vắng, Sóng ở đáy
Sông, Chuyện làng Cuội"
Nếu Mở rừng là cuốn tiểu thuyết đầu tay thì đến Thời xa vắng - tức là vào khoảng
mười năm sau trong địa hạt tiểu thuyết, Lê Lựu đã thực sự đứng trên đỉnh cao của sự thành
công Thời xa vắng với độ dày chỉ hơn ba trăm trang gây ra bao nhiêu cuộc tranh cãi, bàn
luận sôi nổi ngay khi vừa mới ra đời Nó ra đời vào đúng những năm thời kỳ đổi mới Hay
nói cách khác, tác phẩm “rơi đúng tầm đón nhận” của thời đại lúc bấy giờ Thời xa vắng
thực sự đã gây một tiếng vang lớn, gây nên một sự xôn xao, sửng sốt trong mọi người
Trang 40Tiếp tục đi sâu về đề tài những người lính sau chiến tranh cũng như hình ảnh người nông dân trong thời kỳ đổi mới, Lê Lựu tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình qua hai tác phẩm
Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông Có thể nói, cùng với sự trở lại của cảm hứng bi
kịch thì khuynh hướng nhận thức lại hiện thực, Lê Lựu thực sự đóng một vai trò không
nhỏ trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết nước ta lúc bấy giờ Nhà văn không những khẳng định được phong cách của mình trên văn đàn mà còn in dấu đậm nét tên tuổi trong quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
2.2.1 Nhận thức quan niệm duy ý chí
Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn từng cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy Nếu về văn xuôi hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm, thì
có mặt Thời xa vắng”[104, tr 663] Đấy là một ý kiến xác đáng bởi vì chính Lê Lựu là một trong những người đầu tiên nhìn nhận hiện thực đời sống xã hội một cách tỉnh táo và khách quan Bằng sự chân thật nhưng cũng không kém phần tinh tế, nhà văn đã đi sâu phân tích đời sống tinh thần con người, chỉ ra những tồn tại trong ý thức hệ tư tưởng để từ
đó cắt nghĩa và lý giải hiện thực
Một trong những "hiện thực" lúc bấy giờ được nhà văn nhận thức lại và phản ánh
một cách gay gắt, quyết liệt chính là "quan niệm duy ý chí một thời" Vậy quan niệm duy ý
chí là gì mà tác giả lại lên án như vậy?
Tìm hiểu bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, ta có thể
nhận thấy đấy là lối tư duy bảo thủ và thói vị kỷ Những kẻ nhân danh gia đình đoàn thể
có thể áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác Vậy để phản ánh quan niệm duy ý chí, tác giả đã làm gì?
Lê Lựu đã chọn cho mình một hướng đi riêng không trùng lặp với các nhà văn khác,
đó là tái hiện mâu thuẫn giữa các thế hệ Lần lượt tìm hiểu tác phẩm, ta sẽ thấy rõ điều đó
Trong thế giới nghệ thuật Thời xa vắng, trước hết, tác giả lên án, phê phán một thời
đã qua, một thời của những tục lệ lạc hậu lỗi thời như nạn tảo hôn Cuộc đời của Sài đã
chịu sự áp đặt một cách phi lý bởi những quan niệm, niềm tin của người khác Yếu tố đầu tiên đẩy Sài vào tấn thảm kịch cũng chính do quan niệm duy ý chí một thời này Sài lấy
vợ không phải bắt nguồn từ tình yêu mà do sự sắp đặt của cha Ông đồ Khang lo lắng cho hạnh phúc đứa con trai út bằng cách lấy cho Sài một người vợ hơn con đến mấy tuổi Ông lấy vợ cho Sài khi Sài còn là một cậu bé "ăn chưa no lo chưa tới" Lấy vợ cho con mà