- Hình dáng, kích thước cơ thể: hướng sản xuất khác nhau của mỗi giống gà quyết định sự khác nhau về ngoại hình và kích thước cơ thể, sự khác nhau đó biểu hiện rõ rệt trên các cơ quan,
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
PHÙNG VĂN CẢNH
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA TỔ HỢP GÀ LAI CHỌI × LV
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIA CẦM
THỤY PHƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2014
Trang 2BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
PHÙNG VĂN CẢNH
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA TỔ HỢP GÀ LAI CHỌI × LV
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIA CẦM
HÀ NỘI, NĂM 2014
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của tập thể trong và ngoài cơ quan
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về những
số liệu trong bản luận văn này
Học viên
Phùng Văn Cảnh
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Để có được công trình nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng tới TS Phùng Đức Tiến, PGS.TS Bùi Hữu Đoàn đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo bộ khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã dạy cũng như động viên tinh thần giúp tôi hoàn thành luận văn
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ công nhân viên Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương – Viện Chăn nuôi đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các nhà khoa học, thầy cô và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi nâng cao kiến thức, hoàn thành bản luận văn này
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã khuyến khích, động viên tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn
Tác giả luận văn
Phùng Văn Cảnh
Trang 51.3 Nguồn gốc, đặc điểm và tính năng sản xuất của đối tượng nghiên cứu 31
Chương 2 VẬT LIỆU, NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
Trang 62.1.3 Thời gian nghiên cứu 34
Trang 73.2.10 Chỉ số kinh tế 77
Trang 9DANH MỤC CÁC BẢNG
3.1 Tỷ lệ nuôi sống của gà sinh sản giai đoạn 0 -20 tuần tuổi 48
3.8 Một số chỉ tiêu chất lượng trứng của gà thí nghiệm ở 38 tuần tuổi 61
Trang 10DANH MỤC ĐỒ THỊ
Trang 11MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi gà là nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam, chúng cung cấp cho
xã hội một số lượng thịt tương đối lớn chiếm 17 – 18% tổng sản lượng thịt các loại
và chỉ đứng thứ 2 sau chăn nuôi lợn Những năm trước đây, chăn nuôi gà ở nước ta vẫn trong tình trạng nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu và năng suất thấp Tuy nhiên, những năm gần đây, chăn nuôi gà đã và đang phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, song song với chăn nuôi truyền thống thì chăn nuôi trang trại tập trung quy
mô lớn cũng phát triển nhanh Điều này đã đòi hỏi nước ta luôn phải đẩy mạnh công tác giống như nhập nội các giống gà năng suất cao, lai giữa các giống gà nhập nội với gà địa phương để đáp ứng nhu cầu của người dân Trong đó, lai giữa các giống
gà nội với các giống gà thả vườn nhập nội đã và đang được áp dụng, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng con lai có thể khắc phục được nhược điểm cả hai giống cũng như phát huy được các điểm mạnh của cả hai giống
Tại Việt Nam, các giống gà nội được chăn nuôi phổ biến hiện nay như gà Ri,
gà Mía, gà Chọi , những giống gà này được người tiêu dùng ưa thích do chất lượng thịt đặc biệt thơm ngon, tuy nhiên chúng lại có những nhược điểm là năng suất thịt và trứng thấp dẫn đến không đáp ứng được đủ nhu cầu của người dân cũng như xu hướng tập trung quy mô lớn Trong khi đó các giống nhập nội như gà Tam Hoàng, Sasso, Kabir, Lương Phượng có năng suất cao nhưng chất lượng thịt còn hạn chế
Gà Chọi có chân cao, mình dài, mào xuýt màu đỏ tía, màu lông đa dạng, con trống có màu lông mận chín pha lông đen ở cánh, đuôi và đầu; con mái có màu xám hoặc màu vàng nhờ điểm đen Gà trống 1 năm tuổi đạt 2,5 – 3,0 kg, gà mái đạt 1,8 – 1,9 kg Gà có sức khỏe tốt, sản lượng trứng đạt 50 – 70 quả/mái/năm, vỏ trứng màu hồng Gà thường được dùng để chọi nhau trong các lễ hội
Gà LV có màu lông vàng đốm đen, da vàng, chân vàng, mào cờ; khả năng chống chịu bệnh tật cao; năng suất trứng/mái/68 tuần tuổi đạt 165 – 172 quả, tỷ lệ phôi 96% - 97%; gà LV nuôi thịt 70 ngày tuổi đạt 1,8 – 1,9kg
Trang 12Từ những nguyên liệu có sẵn, để khắc phục những nhược điểm và phát huy các ưu điểm của gà Chọi và gà LV, tạo ra tổ hợp lai có năng suất chất lượng cao, phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau, đem lại hiệu quả kinh tế cho người
chăn nuôi, chúng tôi tiến hành đề tài “Khả năng sản xuất của tổ hợp gà lai Chọi ×
LV tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương”
2 Mục tiêu của đề tài
Tạo được gà lai có đặc điểm ngoại hình và năng suất, chất lượng thịt phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở lý luận ưu thế lai đề tài triển khai một số tổ hợp lai giữa các giống
gà lông màu tạo con lai có năng suất chất lượng cao
Luận văn là tài liệu tham khảo về công tác lai tạo giống gia cầm dùng cho nghiên cứu và sản xuất
Cung cấp thêm thông tin quan trọng về tổ hợp lai từ đó giúp hoàn thiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng loại gà này
Trang 13Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1 Cơ sở khoa học về đặc điểm ngoại hình của gia cầm
Ngoại hình là hình dạng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khỏe, hoạt động của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể, cũng như khả năng sản xuất của vật nuôi
và là đặc trưng của một phẩm giống Các giống gia cầm khác nhau có ngoại hình khác nhau, trong cùng 1 giống thì gà trống và gà mái cũng có ngoại hình khác nhau
- Hình dáng, kích thước cơ thể: hướng sản xuất khác nhau của mỗi giống gà
quyết định sự khác nhau về ngoại hình và kích thước cơ thể, sự khác nhau đó biểu hiện rõ rệt trên các cơ quan, bộ phận của cơ thể, dựa vào khả năng sản xuất mà gà được chia thành 3 loại hình: loại hình hướng trứng, loại hình hướng thịt và loại hình hướng kiêm dụng Gà hướng trứng có thân hình thon nhỏ, nhẹ cân, dáng đi nhanh nhẹn, cổ dài trong khi đó gà hướng thịt có thân hình to thô, ngực nở, dáng đi nặng
nề, khối lượng cao, cổ dài trung bình Gà kiêm dụng có ngoại hình trung gian của hai gà hướng trứng và hướng thịt
- Đầu: Cấu tạo xương đầu được coi như có độ tin cậy cao nhất trong việc
đánh giá đầu gia cầm Da mặt và các phần phụ của đầu cho phép rút ra kết luận về
sự phát triển của mô đỡ và mô liên kết Theo hình dáng của mào, mào dưới và mào tai
có thể biết được trạng thái sức khoẻ và điều kiện sống của chúng Gà trống có ngoại hình đầu giống gà mái sẽ có tính sinh dục kém, gà mái có ngoại hình của gà trống sẽ không cho năng suất cao, trứng thường không phôi (Nguyễn Chí Bảo, 1978)
- Mào: Mào (mòng, tích) của gia cầm là do gấp nếp của da tạo thành, tại đó
tập trung rất nhiều dây thần kinh, mạch quản và các hốc máu, làm cho chúng luôn
có màu đỏ tươi Mào gà đa dạng về hình dạng, kích thước và màu sắc đặc trưng cho từng giống gà, gà có 4 loại mào: mào đơn (mào cờ) thường có ở gà Ri, gà Mía; mào hoa hồng (mào giống như hoa mào gà) ở gà Hồ, Đông Tảo; mào quả dâu và mào hình hạt đậu (không có mào điển hình) ở gà Chọi Theo Phan Cự Nhân (1971), khi
có mặt gen Ab gà sẽ có mào dạng hoa hồng, gen aB sẽ có dạng mào nụ và gen ab có
Trang 14dạng mào cờ Mào và mào dưới thuộc về các đặc điểm sinh dục phụ, khi buồng trứng hoạt động bình thường thì mào lớn chứa nhiều máu Khi thay lông hoặc bị bệnh thuộc tuyến sinh dục sẽ tạm thời ngừng trệ sự cung cấp máu dẫn đến màu sắc của mào bị kém đi
- Mỏ: Những gà có mỏ dài và mảnh không có khả năng sản xuất cao Những
giống gà da vàng thì mỏ cũng vàng, ở gà mái màu sắc này có thể bị nhạt đi vào cuối thời kỳ đẻ trứng Mỏ gà cần chắc chắn và ngắn
- Da: Da của gia cầm bao phủ toàn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở gia cầm non Da gồm
2 phần chính, lớp biểu bì với lớp tế bào hình trụ cùng với lớp mô liên kết mỏng và sợi collagen tạo thành lớp da ngoài bền chắc, nghèo mạch máu và hầu như không có tuyến ngoại tiết Dưới lớp biểu bì là lớp mô liên kết mỏng gần giống như mô mỡ, có chứa nhiều mạch máu và dây thần kinh Đặc điểm lớn nhất của da gia cầm là mỏng, nghèo các tuyến dưới da, không có tuyến mồ hôi
- Bộ lông: Gà có dạng điển hình của lớp chim (aves), một động vật có xương
sống bậc cao đã thích ứng với điều kiện sống bay nhảy Toàn thân được bao phủ bằng lông và yếm Lông cườm và lông trên lưng có sự khác biệt giữa đực và cái Ở con đực lông cườm và lông lưng dài, mềm mại hơn ở con cái Ở gia cầm màu sắc lông rất đa dạng Màu lông phụ thuộc vào sự biểu hiện dưới dạng hạt hay phân bố đều của sắc tố mêlanin và dạng dịch của sắc tố lipocrôm Sắc tố mêlanin quy định từ màu càfê vàng đến màu đen; còn lipôcrôm quy định màu vàng, đỏ, xanh hoặc xanh sẫm Ở gia cầm màu sắc lông khác nhau có thể chia làm 2 nhóm lớn là lông màu và lông trắng
- Chân: chân của gia cầm được bao phủ bằng lớp vảy sừng và có sự khác nhau về màu sắc Chân vàng là do sự có mặt của lipôcrôm đồng thời thiếu vắng mêlanin Màu đen của chân là do sự xuất hiện của mêlanin Khi màu đen có mặt ở thể trội và màu vàng có mặt ở thể lặn thì chân sẽ xuất hiện màu lục (xanh lá cây) Khi đồng thời cả 2 màu đều không xuất hiện thì chân có màu trắng Về cường độ (độ đậm nhạt) của màu vàng tuỳ thuộc vào hàm lượng xantôphin trong khẩu phần
Trang 151.1.2 Tính trạng sản xuất của gia cầm
1.1.2.1 Bản chất di truyền của tính trạng sản xuất
Nghiên cứu về tính trạng di truyền ở gà đó là nghiên cứu về tính trạng di truyền số lượng và tính trạng di truyền chất lượng Hầu hết các tính trạng về năng suất của gia cầm như sinh trưởng, sinh sản, tăng trưởng, đẻ trứng đều là các tính trạng số lượng Cơ sở di truyền của các tính trạng số lượng là do các gen qui định Nguyễn Ân và cs (1983) cho rằng, các tính trạng sản xuất là các tính trạng số lượng thường là các tính trạng đo lường như khối lượng, kích thước các chiều đo, sản lượng trứng, khối lượng trứng, Các tính trạng số lượng bị chi phối bởi nhiều gen Các gen này hoạt động theo ba phương thức:
- Cộng gộp (A) hiệu ứng tích luỹ của từng gen
- Trội (D) hiệu ứng tương tác giữa các gen cùng một lô cút
- Át gen (I) hiệu ứng do tương tác, của các gen không cùng một lô cút
Hiệu ứng cộng gộp A là các giá trị giống thông thường (General breeding value) có thể tính toán được, có ý nghĩa trong chọn lọc nhân thuần Hiệu ứng trội (D) và át gen (I) là những hiệu ứng không cộng tính, có ý nghĩa đặc biệt trong các tổ hợp lai Ở các tính trạng số lượng giá trị kiểu hình cũng do giá trị kiểu gen và sai lệch môi trường qui định, những giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ cấu tạo thành Đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp lại sẽ ảnh hưởng rất rõ rệt tới tính trạng nghiên cứu
Khác với tính trạng chất lượng, tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố ngoại cảnh Tuy các điều kiện bên ngoài không thể làm thay đổi cấu trúc
di truyền, nhưng nó tác động làm phát huy hoặc kìm hãm việc biểu hiện các hoạt động của các gen Các tính trạng số lượng được qui định bởi kiểu gen và chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh, mối tương quan đó được biểu thị như sau:
P = G + E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình, G là giá trị kiểu gen, E là sai lệch môi trường
Giá trị kiểu gen (G) hoạt động theo ba phương thức: cộng gộp, trội và át gen
Từ đó, G cũng có thể biểu thị theo:
G = A + D + I
Trang 16Trong đó: G là giá trị kiểu gen, A là giá trị cộng gộp, D là giá trị sai lệch trội,
I là giá trị sai lệch tương tác
Ngoài ra, các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường
Có hai loại môi trường chính:
- Môi trường chung (Eg): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác động lên toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi Loại yếu tố này có tính chất thường xuyên như: thức ăn, khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
- Môi trường riêng (Es): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác động riêng rẽ lên từng cá thể trong nhóm vật nuôi, hoặc ở một giai đoạn nhất định trong cuộc đời con vật Loại này có tính chất không thường xuyên Nếu bỏ qua mối tương tác giữa
di truyền và ngoại cảnh, quan hệ của kiểu hình (P), kiểu gen (G) và môi trường (E) của một cá thể biểu thị cụ thể:
P = A + D + I + Eg + Es Trên cơ sở đó cho thấy các giống gia cầm cũng như các sinh vật khác, con cái đều nhận được từ bố mẹ một số gen quy định tính trạng số lượng nào đó Tính trạng
đó được xem như nhận từ bố mẹ một khả năng di truyền, nhưng khả năng đó phát huy được hay không còn phụ thuộc vào môi trường sống như: chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý,
Người ta có thể xác định các tính trạng số lượng qua mức độ tập trung (Χg), mức độ biến dị (CV%), hệ số di truyền của các tính trạng (h2), hệ số lặp lại của các tính trạng (R), hệ số tương quan (r) giữa các tính trạng
1.1.2.2 Sức sống và khả năng kháng bệnh của gia cầm
Tỷ lệ nuôi sống của gia cầm con sau khi nở là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá sức sống của gia cầm Hill và cs (1954), đã tính được hệ số di truyền về sức sống là 6% Sức sống được tính theo các giai đoạn nuôi dưỡng khác nhau Gavora (1990), hệ số
di truyền của sức kháng bệnh là 25% Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc rất lớn vào yếu tố dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng, khí hậu thời tiết, mùa vụ,…
Khả năng thích nghi, khi điều kiện sống bị thay đổi như thức ăn, thời tiết, khí hậu, quy trình chăn nuôi, môi trường sinh vật xung quanh thì chúng có khả năng thích ứng rộng rãi hơn đối với môi trường (Phan Cự Nhân và Trần Đình Miên, 1998)
Trang 171.1.2.3 Khả năng sinh sản của gia cầm
Khả năng sinh sản của gia cầm được thể hiện qua các chỉ tiêu về sản lượng, khối lượng, hình dạng, chất lượng trứng, thụ tinh và tỷ lệ ấp nở Đối với các giống gia cầm khác nhau, khả năng sinh sản là khác nhau
a, Năng suất trứng: Năng suất trứng là số lượng trứng một gia cầm mái sản sinh ra
trên một đơn vị thời gian, là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất đối với gia cầm chuyên trứng Năng suất trứng phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, giống, hướng sản xuất, mùa vụ, chăm sóc, dinh dưỡng và đặc điểm của cá thể
Sản lượng trứng được tính theo năm sinh học 365 ngày, kể từ ngày đẻ quả trứng đầu tiên Trong thời gian gần đây, sản lượng trứng được tính theo tuần tuổi Nhiều hãng gia cầm nổi tiếng như Shaver (Canađa), Lohmann (Đức), sản lượng trứng được tính đến 70 - 80 tuần tuổi
Năng suất trứng là tính trạng có mối tương quan nghịch chặt chẽ với tốc độ sinh trưởng sớm Do vậy, trong chăn nuôi gà sinh sản, cần chú ý cho gà ăn hạn chế trong giai đoạn gà dò, gà hậu bị để đảm bảo năng suất trứng trong giai đoạn sinh sản Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào thức ăn: mức năng lượng, hàm lượng protein và các thành phần khác trong thức ăn (Bùi Thị Oanh, 1996) Năng suất trứng có hệ số di truyền không cao, dao động lớn Theo Nguyễn Văn Thiện (1995),
hệ số di truyền năng suất trứng của gà là 12 - 30%
Trong mấy tuần đầu của chu kỳ đẻ, gà có tỷ lệ đẻ thấp, sau đó tăng dần và đạt tỷ
lệ cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và đạt tỷ lệ đẻ thấp ở cuối thời kỳ sinh sản Sản lượng trứng trong 1 năm của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện theo qui luật cường độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ Để tiến hành chọn giống về sức đẻ trứng, Hutt (1978) đã áp dụng ổ
đẻ có cửa sập tự động để kiểm tra số lượng trứng của từng gà mái Các tác giả cho rằng sản lượng trứng 3 tháng đẻ đầu và sản lượng trứng cả năm có tương quan di truyền chặt chẽ (0,7 - 0,9)
+ Tuổi đẻ quả trứng đầu là một chỉ tiêu đánh giá sự thành thục sinh dục, cũng được coi là 1 yếu tố cấu thành năng suất trứng (Khavecman, 1972) Tuổi đẻ quả trứng đầu được xác định bằng số ngày tuổi của gà mái kể từ khi nở ra đến khi đẻ
Trang 18quả trứng đầu
Tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào bản chất di truyền, chế độ nuôi dưỡng, các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm (Khavecman, 1972)
Dickerson (1952) và Ayob và Merat (1975) dẫn theo Trần Long (1994) đã tính toán hệ số tương quan di truyền giữa khối lượng gà chưa trưởng thành với sản lượng trứng có giá trị âm (từ - 0,21 đến - 0,16)
Việc sản xuất trứng của gia cầm có thể do 5 yếu tố di truyền mang lại:
+ Tuổi thành thục về tính dục, ít nhất có 2 cặp gen chính tham gia vào yếu tố này, cặp thứ nhất là gen E (liên kết với giới tính) và e, cặp thứ 2 là E’ và e’ Gen trội
E chịu trách nhiệm tính thành thục về sinh dục
+ Cường độ đẻ: yếu tố này do hai cặp gen R và r, R’ và r phối hợp lại để điều hành
+ Bản năng đòi ấp do 2 gen A và C điều khiển, phối hợp với nhau
+ Thời gian nghỉ đẻ (đặc biệt là đẻ vào mùa đông) do các gen M và m điều khiển Gia cầm có gen mm thì về mùa đông vẫn tiếp tục đẻ đều
Thời gian kéo dài của chu kỳ đẻ do cặp gen P và p điều hành
Yếu tố thứ 5 và yếu tố thứ nhất là 2 yếu tố kếp hợp với nhau, cũng có nghĩa là các cặp gen Pp và Ee có phối hợp với nhau Tất nhiên ngoài các gen chính tham gia vào việc điều khiển các yếu tố trên, có thể còn có nhiều gen khác tham gia phụ lực vào
b, Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng
Dẫn theo Nguyễn Trọng Thiện (2008), sức sản xuất trứng chịu sự chi phối của các tập hợp gen khác nhau; các gen quy định tính trạng này nằm trên nhiễm sắc thể thường và bị hạn chế bởi giới tính Số lượng trứng được truyền lại cho đời sau
từ bố mẹ Hayes và cs (1994) cho rằng sức đẻ trứng của gà mái chịu sự ảnh hưởng của 5 yếu tố di truyền cá thể là: thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, cường
độ đẻ, tính nghỉ đẻ mùa đông, tính ấp bóng, tuổi thành thục sinh dục
+ Tuổi thành thục sinh dục: Thường tuổi thành thục sinh dục của gà dao
động trong khoảng 19 – 24 tuần tuổi Tuổi thành thục sinh dục càng sớm thì thời gian đẻ trứng càng dài, năng suất trứng càng cao Tuy nhiên, nếu tuổi thành thục về
Trang 19sinh dục sớm thì sức bền đẻ trứng không cao vì cơ thể gà mái chưa thành thục về thể vóc do vẫn đang sinh trưởng phát dục để hoàn thiện cấu trúc, chức năng cơ thể
vì vậy chất dinh dưỡng không thể tập trung cho hoàn thiện cấu trúc cơ thể được mà phải cung cấp cho quá trình tạo trứng nên ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng về sau Sản lượng trứng ở 3 - 4 tháng đầu tiên có mối tương quan dương với sản lượng trứng cả năm Vì vậy, để xác định chỉ tiêu về sức đẻ trứng người ta thường tính sản lượng trứng 3 - 4 tháng đầu để có phán đoán sớm và kịp thời trong công tác giống Brandsch và Bülchel (Nguyễn Chí Bảo dịch, 1978) cho biết hệ số di truyền của tính trạng tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là 0,14 - 0,15%
+ Cường độ đẻ: cường độ đẻ trong 3 - 4 tháng đầu có tương quan rất chặt
chẽ với sản lượng trứng của gia cầm Nếu cường độ đẻ trứng càng cao thì sản lượng trứng cao và ngược lại
+ Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học được
tính từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên đến khi gia cầm nghỉ đẻ để thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất và lại tiếp tục chu kỳ thứ hai Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, thời gian này càng dài càng tốt Chỉ tiêu này
có tương quan dương với tuổi thành thục sinh dục, sức bền đẻ trứng, chu kỳ đẻ trứng khác nhau tuỳ từng cá thể Những gia cầm đẻ tốt có chu kỳ đẻ trứng dài, nhịp
độ đẻ trứng đều và thời gian nghỉ đẻ ngắn, còn những gia cầm đẻ kém có dấu hiệu ngược lại Nói chung, thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có tính di truyền
và phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau, nhất là chế độ chăm sóc, dinh dưỡng, mùa vụ
+ Tính nghỉ đẻ mùa đông: vào mùa đông, nhiệt độ thấp nên cơ thể phải huy
động năng lượng để chống rét Tuy nhiên, với những giống gà tốt thì thời gian nghỉ
đẻ rất ngắn thậm chí là không có Tính nghỉ đẻ có mối tương quan nghịch với năng suất trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông càng dài thì năng suất trứng càng thấp
+ Tính ấp bóng: ấp bóng là gà mái ấp không có trứng theo tập tính, tính ấp
bóng càng dài thì năng suất trứng càng thấp Hiện nay, quá trình chọn lọc nghiêm ngặt nên đã loại trừ bản năng ấp trứng của gà mái
Ngoài 5 yếu tố di truyền cá thể, sức đẻ trứng còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau như giống, dòng gia cầm, tuổi gia cầm, dinh dưỡng, chế độ chăm sóc,
Trang 20tiểu khí hậu chuồng nuôi…
Giống, dòng ảnh hưởng lớn đến sức sản xuất trứng của gia cầm Giống gia cầm khác nhau sức sản xuất trứng khác nhau Trong cùng một giống các dòng khác nhau cho năng suất trứng khác nhau, những dòng được chọn lọc kỹ thường cho sản lượng trứng cao hơn những dòng chưa được chọn lọc kỹ khoảng 15 - 20%
Tuổi gia cầm có liên quan đến năng suất trứng Ở gà, sản lượng trứng giảm dần theo tuổi, trung bình năm thứ hai giảm 15 - 20% so với năm thứ nhất
Mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gia cầm Ở nước ta, mùa hè sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân, mùa thu sức đẻ trứng lại tăng lên Nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng đến sản lượng trứng Nhiệt độ thích hợp đối với gia cầm đẻ trứng là 14 - 220C Khi nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ giới hạn thấp, gia cầm phải huy động năng lượng để chống rét; nếu nhiệt độ cao hơn nhiệt độ giới hạn trên, gia cầm thải nhiệt nhiều làm giảm sản lượng trứng
Ánh sáng ảnh hưởng đến sản lượng trứng qua thời gian chiếu sáng và cường
độ chiếu sáng Yêu cầu thời gian chiếu sáng với gà đẻ là 12 - 16 giờ với cường độ chiếu sáng là 3,0-3,5 W/m2 Ở nước ta, cường độ đẻ cao nhất vào khoảng 8-12 giờ, chiếm hơn 60-70% (Nguyễn Mạnh Hùng và cs, 1994)
Thay lông cũng biểu thị sự ảnh hưởng đến sản lượng trứng vì sau mỗi chu kỳ
đẻ trứng sinh học gia cầm nghỉ đẻ và thay lông Trong điều kiện bình thường, lúc thay lông lần đầu tiên là thời điểm quan trọng để đánh giá gia cầm đẻ tốt hay xấu Những đàn gà thay lông sớm, thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 6 - 7 và quá trình thay lông diễn ra chậm kéo dài 3 - 4 tháng là những đàn gà đẻ kém Ngược lại, có những đàn gà thay lông muộn thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 10 - 11, quá trình thay lông lại diễn ra nhanh là những đàn gà đẻ tốt Đặc biệt ở một số đàn cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và đẻ lại ngay khi chưa hình thành xong bộ lông mới,
có những con đẻ ngay trong thời gian thay lông Như vậy, thay lông liên quan mật thiết đến sản lượng trứng của gia cầm
c, Khối lượng trứng
Roberts (dẫn theo Phan Cự Nhân, 1998), cho rằng giá trị trung bình về khối lượng trứng đẻ ra trong một chu kỳ là một tính trạng do nhiều gen có tác động cộng
Trang 21gộp qui định, nhưng hiện còn chưa xác định rõ số lượng gen qui định tính trạng này Sau sản lượng trứng, khối lượng trứng là chỉ tiêu quan trọng cấu thành năng suất của đàn gà bố mẹ Khi cho lai hai dòng gia cầm có khối lượng trứng lớn và bé, trứng của con lai thường có khối lượng trung gian (Khavecman, 1972)
Tính trạng khối lượng trứng có hệ số di truyền cao, do đó có thể đạt được nhanh chóng thông qua con đường chọn lọc (Kushner, 1974) Ngoài các yếu tố về di truyền, khối lượng trứng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoại cảnh như chăm sóc, nuôi dưỡng, mùa vụ, tuổi gia cầm Trứng của gia cầm mới bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng gia cầm trưởng thành 20-30% Khối lượng trứng mang tính đặc trưng của từng loài và mang tính di truyền cao Hệ số di truyền của khối lượng trứng là 48 - 80% (Brandsch
và Bülchel) Nguyễn Chí Bảo dịch, (1978) Trong cùng giống, cùng đàn, nhóm có khối lượng trứng lớn nhất hoặc bé nhất đều cho tỷ lệ nở thấp Trứng gia cầm non cho
tỷ lệ nở thấp, khối lượng trứng lớn thì sẽ kéo dài thời gian ấp nở
d, Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá về khả năng sinh sản của con trống và con mái Tỷ lệ thụ tinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi, tỷ lệ trống mái, mùa vụ, dinh dưỡng, chọn đôi giao phối,
Tỷ lệ nở là một chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của phôi, sức sống của gia cầm non Đối với những trứng có chỉ số hình thái chuẩn, khối lượng trứng trung bình của giống sẽ cho tỷ lệ ấp nở cao nhất
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở như: chất lượng trứng, thời gian
và chế độ bảo quản trứng, chế độ độ ấp (nhiệt độ, ẩm độ, thông thoáng, đảo trứng, ) Hệ số di truyền về tỷ lệ trứng thụ tinh là 11% - 13%, hệ số di truyền của
tỷ lệ ấp nở 10% - 14% (Nguyễn Văn Thiện, 1995)
1.1.2.4 Khả năng sinh trưởng của gia cầm
a, Khả năng sinh trưởng
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ hữu cơ do đồng hoá và dị hoá là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở tính chất di truyền của đời trước
Sinh trưởng thông qua ba quá trình: phân chia tế bào để tăng số lượng, tăng
Trang 22thể tích của tế bào và tăng thể tích giữa các tế bào Tất cả các đặc tính của gia súc gia cầm như ngoại hình, thể chất, sức sản xuất đều không phải đã sẵn có trong tế bào Trong phôi cũng không phải đã có đầy đủ khi hình thành và hoàn chỉnh suốt quá trình sinh trưởng của cơ thể con vật Các đặc tính của các bộ phận hình thành quá trình sinh trưởng tuy khối lượng là một sự tiếp tục thừa hưởng các đặc tính di truyền của bố mẹ nhưng hoạt động mạnh hay yếu còn do tác động của môi trường Khi nói tới sinh trưởng người ta cần nói tới phát dục Thực chất phát dục là quá trình thay đổi về chất có nghĩa là tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất, chức năng của các bộ phận của cơ thể Phát dục của cơ thể con vật hình thành từ khi trứng thụ tinh, trải qua nhiều giai đoạn phức tạp cho đến khi trưởng thành
Sinh trưởng và phát dục là hai quá trình diễn ra trên cùng một cơ thể gia súc gia cầm Sinh trưởng được coi là quá trình thay đổi cấu tạo chức năng, hình thái, kích thước các bộ phận Phát dục diễn ra từ khi trứng thụ tinh, qua các giai đoạn khác nhau đến khi trưởng thành
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp, khá dài, từ lúc thụ tinh đến khi trưởng thành Do vậy, việc xác định chính xác toàn bộ quá trình sinh trưởng không phải dễ dàng Tuy nhiên các nhà chọn giống gia cầm có khuynh hướng sử dụng cách đo đơn giản và thực tế, Chambers (1990)
b, Một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của gà Theo Thammabood và
cs (1983) thì sự phát triển được kiểm soát bởi gen là 78% và môi trường (ví dụ: khí hậu, thức ăn, nước và chất lượng của người chăn nuôi) là 22%
Ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng: giống có ảnh hưởng lớn tới quá trình
sinh trưởng của gia súc, gia cầm Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định sự sinh trưởng của từng cá thể giữa các giống có sự khác nhau, gà thịt có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà kiêm dụng và gà hướng trứng, giữa các dòng của một số giống cũng có sự khác nhau về sinh trưởng
Letner và Asmundson (1938) đã so sánh tốc độ sinh trưởng của các giống gà Leghorn trắng và Plymouth Rock tới 24 tuần tuổi và cho rằng gà Plymouth Rock sinh trưởng nhanh hơn gà Leghorn ở 2 - 6 tuần tuổi và sau đó không có sự khác
Trang 23nhau Nguyễn Mạnh Hùng và cs (1994) cho biết sự khác nhau về khối lượng giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng khoảng
500 - 700g (13 - 30%) Khi nghiên cứu tốc độ sinh trưởng trên 3 dòng thuần (V1, V3, V5) của giống gà Hybro HV8, Trần Long (1994) cho rằng tốc độ sinh trưởng ở
3 dòng hoàn toàn khác nhau ở 42 ngày tuổi
Theo Godfrey và Joap (1952), sự di truyền các tính trạng về khối lượng cơ thể
do 15 cặp gen tham gia trong đó ít nhất có một gen về sinh trưởng liên kết giới tính (nằm trên nhiễm sắc thể X) Vì vậy, có sự sai khác về khối lượng cơ thể giữa con trống và con mái trong cùng một giống (gà trống nặng hơn gà mái 24 - 32%)
Nguyễn Ân và cs (1983) cho biết hệ số di truyền về khối lượng cơ thể ở 3 tháng tuổi ở gà là 26 - 50%
Ảnh hưởng của tính biệt: Các loại gia cầm khác nhau về giới tính thì có tốc độ
sinh trưởng khác nhau, con trống lớn nhanh hơn con mái, ngoại trừ chim cút (con trống nhỏ hơn con mái) Theo Jull (1923) (dẫn theo Phùng Đức Tiến, 1996), gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà mái 24 - 32% Tác giả cũng cho biết, sự sai khác này do gen liên kết giới tính, những gen này ở gà trống (2 nhiễm sắc thể giới tính) hoạt động mạnh hơn gà mái (1 nhiễm sắc thể) North và Bell (1990) cho biết khối lượng gà con 1 ngày tuổi tương quan dương với khối lượng trứng, song không ảnh hưởng đến khối lượng cơ thể gà lúc thành thục và cường độ sinh trưởng
ở 4 tuần tuổi Lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác nhau càng lớn, ở 2 tuần tuổi hơn 5%; 3 tuần tuổi hơn 11%; 8 tuần tuổi hơn 27%
Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông: tốc độ mọc lông của gà có ảnh hưởng tới
sinh trưởng Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã xác định trong cùng một giống, cùng tính biệt ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh trưởng, phát triển tốt hơn Theo Brandsch và Bülchel (Nguyễn Chí Bảo dịch, 1978) tốc độ mọc lông là tính trạng di truyền có liên quan đến đặc điểm trao đổi chất, sinh trưởng và phát triển của gia cầm
Gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh thì sự thành thục về khối lượng sớm hơn, chất lượng thịt tốt hơn gia cầm mọc lông chậm Song, dù có tốc độ mọc lông chậm thì 8 - 12 tuần tuổi cũng mọc lông đủ (Trần Long, 1994)
Trang 24Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng: Dinh dưỡng có mối liên quan chặt chẽ
với sự duy trì sự sống, khả năng sản xuất của gia súc, gia cầm Dinh dưỡng là một quá trình sinh học nhằm duy trì cơ thể và không ngừng đổi mới những vật chất tạo nên cơ thể Cơ thể đòi hỏi được cung cấp các chất dinh dưỡng để duy trì sự sống và phát triển Do đó, trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng việc xác định nhu cầu các chất dinh dưỡng hay chế độ dinh dưỡng hợp lý cho vật nuôi là rất cần thiết và có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng Sinh trưởng là tổng sự phát triển các phần của cơ thể như thịt, xương, da Tỷ lệ sinh trưởng các phần này khác nhau ở độ tuổi
và phụ thuộc vào mức dinh dưỡng
Kết quả nghiên cứu của của Bùi Đức Lũng và Trần Long (1994) chỉ ra rằng
để phát huy được tốc độ sinh trưởng tối đa cần cung cấp thức ăn tối ưu với đầy đủ chất dinh dưỡng dược cân bằng nghiêm ngặt giữa protein và các axit amin với năng lượng Ngoài ra, trong thức ăn hỗn hợp còn được bổ sung hàng loạt các chế phẩm hoá sinh học không mang ý nghĩa dinh dưỡng nhưng nó kích thích sinh trưởng làm tăng năng suất và chất lượng thịt
Mùa vụ: Ở nước ta, điều kiện khí hậu ở hai vụ Đông - Xuân và Hè - Thu cũng
gây ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng, sinh sản của gia cầm Đặc biệt khí hậu nóng
ẩm nhiệt đới gió mùa của nước ta tác động khá rõ rệt tới gia cầm
Vụ Hè thu, nhiệt độ, độ ẩm cao gây streess tới gia cầm làm cho khả năng thu nhận thức ăn giảm dẫn đến việc tăng khối lượng cơ thể kém nhưng thời gian chiếu sáng dài và cường độ sáng mạnh lại có tác động tích cực lên khả năng sinh sản của gia cầm
Ở chiều ngược lại về vụ Đông – Xuân, nhiệt độ thấp, khô hanh, thời gian chiếu sáng ngắn có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát dục và phát triển của gia cầm Ngoài ra, mùa vụ cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh ảnh hưởng tới khả năng kháng bệnh và sức sống gia cầm
Do đó cần có sự điều chỉnh về thời gian nuôi, biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau cho đàn gia cầm sinh sản và nuôi thịt cho phù hợp theo từng mùa vụ
Các yếu tố môi trường khác: Các yếu tố môi trường khác như nhiệt độ, ẩm
độ, ánh sáng, độ thông thoáng và mật độ nuôi có ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh
Trang 25trưởng của gia cầm nói chung và gà nói riêng
Ngoài ra, ẩm độ môi trường cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của gia cầm ẩm độ quá thấp sẽ làm tăng lượng bụi trong chuồng nuôi nên gia cầm dễ mắc một số bệnh hô hấp, bệnh về mắt Mặt khác, độ ẩm thấp còn làm da khô, gầy yếu và khó chịu nên làm tăng hội chứng mổ cắn nhau Song nếu ẩm độ cao dễ làm
gà mắc bệnh đường ruột, làm giảm khả năng sinh trưởng nhất là trong điều kiện nóng ẩm nước ta
c, Cách đánh giá khả năng sinh trưởng
Khối lượng cơ thể ở từng thời kỳ là một chỉ số sử dụng quen thuộc nhất về sinh trưởng (tính theo tuổi) song chỉ tiêu này không nói lên được mức độ khác nhau
về tốc độ sinh trưởng trong một thời gian Đồ thị khối lượng còn gọi là đồ thị sinh trưởng tích luỹ Khối lượng thường được theo dõi theo tuần tuổi và đơn vị tính là gam/con hoặc kg/con
Đối với gà broiler, đây là tính trạng năng suất quan trọng được tính bằng kg/con hoặc g/con và cũng là căn cứ để so sánh được khối lượng của các tổ hợp lai,
từ đó lựa chọn tổ hợp lai tốt nhất
Để đánh giá khả năng sinh trưởng chúng ta còn sử dụng sinh trưởng tuyệt đối
và sinh trưởng tương đối
+ Sinh trưởng tuyệt đối: là sự tăng lên về khối lượng cơ thể trong khoảng thời
gian giữa hai lần khảo sát (TCVN 2.39, 1977) Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng parabol, sinh trưởng tuyệt đối thường tính bằng g/con/ngày hoặc g/con/tuần
+ Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng cơ thể từ
lúc kết thúc khảo sát so với lúc bắt đầu khảo sát (TCVN 2.40, 1977) Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạng hyperbol Sinh trưởng tương đối giảm dần qua các tuần tuổi
+ Đường cong sinh trưởng: Đường cong sinh trưởng biểu thị tốc độ sinh
trưởng của vật nuôi Theo Chambers (1990), đường cong sinh trưởng của gà có 4 điểm chính gồm 4 pha sau:
- Pha sinh trưởng tích luỹ tăng tốc độ nhanh sau khi nở
- Điểm uốn của đường cong tại điểm có tốc độ sinh trưởng cao nhất
Trang 26- Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn
- Pha sinh trưởng tiệm cận với giá trị khi gà trưởng thành
Thông thường, người ta sử dụng khối lượng ở các tuần tuổi, thể hiện bằng đồ thị sinh trưởng tích luỹ và được thể hiện đơn giản theo đường cong sinh trưởng
d, Khả năng cho thịt
Khả năng cho thịt được phản ánh qua các chỉ tiêu năng suất và chất lượng thịt Khả năng cho thịt phụ thuộc vào khối lượng, sự phát triển của hệ cơ, kích thước và khung xương (Brandsch và Biilchel, Nguyễn Chí Bảo dịch, 1978) Hệ số di truyền rộng ngực gà là 25% (20 - 30%); góc ngực gà lúc 8 tuần tuổi là 24 - 30% (Nguyễn Văn Thiện, 1995)
+ Năng suất thịt: Năng suất thịt hay là tỷ lệ thịt xẻ chính là tỷ lệ phần trăm của
khối lượng thân thịt so với khối lượng sống của gia cầm Ở gà thịt thường tính cho
tỷ lệ thịt đùi, thịt ngực và mỡ bụng Mối tương quan giữa khối lượng sống và khối lượng thịt xẻ khá cao (0,9), giữa khối lượng sống và mỡ bụng thấp hơn biến động trong phạm vi 0,2 - 0,5 (Nguyễn Thị Thuý Mỵ, 1997) Năng suất thịt phụ thuộc vào dòng, giống, tính biệt, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh thú y Các giống, các dòng khác nhau thì năng suất thịt cũng khác nhau Giữa các dòng luôn có sự khác nhau di truyền về năng suất thịt xẻ hay năng suất các phần thịt đùi, thịt ngực và da, xương
+ Chất lượng thịt: Chất lượng thịt được phản ánh qua thành phần hoá học,
thành phần vật lý và giá trị dinh dưỡng của thịt như nước, protein, mỡ, hydratcacbon, vitamin, khoáng và một số chất cần thiết khác Thành phần hoá học của thịt được xác định qua phân tích các lượng chất trong thịt Tỷ lệ các chất này trong thịt phụ thuộc vào giống, giới tính và cấu trúc các mô ở các phần khác nhau ở thân thịt
Theo Chambers (1990), khi xác định thành phần thịt xẻ của gà Cornish, gà Plymouth Rock và con lai giữa chúng cho thấy: thịt của các dòng gà khác nhau có
sự khác nhau về tỷ lệ nước, protein, mỡ và cũng cho thấy tốc độ sinh trưởng có tương quan âm với tỷ lệ mỡ (-0,39) và tương quan dương với phần trăm protein (0,53), với độ ẩm (0,32) và khoáng tổng số (0,14) Tác giả cũng cho biết rằng hệ số
Trang 27di truyền về thành phần hoá học thịt gà là: ẩm độ 38%; protein 47%; mỡ 47%; khoáng 25%
Ngoài việc thông qua thành phần hoá học của thịt, có thể đánh giá chất lượng thịt theo các chỉ tiêu cảm quan (màu sắc, trạng thái, mùi vị) Khả năng giữ nước của thịt, vệ sinh an toàn thực phẩm (các chất tồn dư độc hại: hoocmon, kháng sinh, kim loại nặng)
e, Hiệu quả sử dụng thức ăn
Hiệu quả sử dụng thức ăn là mức độ tiêu tốn thức ăn/đơn vị sản phẩm Mức độ tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng là tỷ lệ chuyển hoá thức ăn để đạt được tốc độ tăng khối lượng, vì tăng khối lượng là một chức năng chính của quá trình chuyển hoá thức ăn
Trong chăn nuôi gia cầm, mức độ tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng là một chỉ tiêu quan trọng quyết định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi vì chi phí thức
ăn thường chiếm tới 70% giá thành sản phẩm Mức độ tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại
Lê Hồng Mận và cs (1993) cho biết nuôi gà broiler đến 9 tuần tuổi tiêu tốn 2,39 - 2,41kg TA/kg tăng khối lượng Lê Hồng Mận và cs (1993) nghiên cứu gà Hybro AV35, AV53, AV135 cho biết tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng ở 56 ngày tuổi
ở các công thức lai đạt tương ứng là 2,34 kg; 2,23 kg; 2,26 kg và 2,32 kg
Đối với gia cầm sinh sản, mức độ tiêu tốn thức ăn là tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 quả trứng hoặc 1 kg trứng Trước đây, khi tính toán người ta chỉ tính lượng thức ăn cung cấp trong giai đoạn sinh sản Hiện nay, nhiều cơ sở chăn nuôi trên thế giới đã áp dụng phương pháp tính mức tiêu tốn thức ăn bằng lượng chi phí cho gia cầm từ lúc 1 ngày tuổi cho đến kết thúc 1 năm đẻ Đối với gia cầm nuôi thịt, tiêu tốn thức ăn phụ thuộc vào tốc độ sinh trưởng, độ tuổi Giai đoạn đầu, tiêu tốn thức ăn thấp hơn giai đoạn sau Phương pháp áp dụng là tính mức tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng
Tiêu tốn thức ăn là chỉ tiêu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà Tiêu tốn thức ăn cho 1 đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc vào tính biệt, khí hậu, thời tiết, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, cũng như sức khoẻ của gia cầm
Trang 281.1.3 Cơ sở lý khoa học của công tác lai tạo
1.1.3.1 Cơ sở khoa học của việc lai kinh tế
Khái niệm về lai kinh tế
Lai kinh tế là phương pháp cho giao phối giữa những con đực và con cái khác giống hoặc khác dòng, trong đó con lai được sử dụng vào mục đích thương phẩm mà không vào mục đích giống
Mục đích lai kinh tế để sử dụng ưu thế lai, con lai có thể mang những đặc tính trội của giống gốc bố hoặc mẹ, con lai có thể phối hợp được những đặc tính của hai giống gốc, con lai có thể vẫn còn giữ nguyên tính bảo thủ của một trong hai giống gốc, như tính đòi ấp của gà Rhoderi được biểu hiện rõ rệt theo mùa vụ
Yếu tố di truyền (gen) và điều kiện ngoại cảnh là hai yếu tố cơ bản quyết định năng suất vật nuôi Con giống tốt được nuôi dưỡng trong điều kiện phù hợp sẽ phát huy được tối đa tiềm năng di truyền và ngược lại nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi thì sẽ ảnh hưởng đến sức sản xuất của con giống Nhưng nếu điều kiện ngoại cảnh tối ưu mà không có con giống tốt thì cũng không đem lại năng suất và chất lượng cao Vì vậy đối với ngành chăn nuôi phải coi giống là yếu tố quan trọng hàng đầu, là yếu tố quyết định đến năng suất vật nuôi
Để lai kinh tế có hiệu quả phải chọn lọc tốt các dòng thuần Trong quần thể dòng thuần các cá thể dị hợp tử sẽ giảm đi và các cá thể đồng hợp tử sẽ tăng lên, (Nguyễn Ân và cộng sự, 1983) Giống gia súc, gia cầm là một quần thể gia súc, gia cầm lớn Trong giống lại bao gồm các dòng, mỗi dòng có đặc điểm chung của giống, nhưng có đặc điểm di truyền riêng biệt Sự khác biệt mỗi dòng về kiểu gen chính là yếu tố quyết định sẽ làm xuất hiện ưu thế lai, nhưng nếu sự khác biệt quá
xa thì khi cho lai không có sự kết hợp (Nicking) Người ta lai các loại gen, nhưng lại có khả năng kết hợp đặc điểm được trong cùng một cơ thể sinh vật Chính vì vậy, phải chọn những dòng trong các giống, hoặc các dòng trong cùng một giống có khả năng kết hợp
Theo tài liệu của Aggarwal C.K and Ahuja S.D (1979) chỉ ra rằng, muốn đạt được ưu thế lai siêu trội thì phải cho giao phối giữa các dòng gà xuất phát khác nhau
về kiểu gen nhưng lại phải có khả năng kết hợp tốt với nhau
Trang 29Để có được sự phối hợp cao giữa các dòng thì trong công tác giống phải đi theo một hướng nhất định, nếu không thì sự phối hợp giữa các dòng sẽ kém và năng suất, chất lượng của thế hệ con lai sẽ bị giảm sút Bởi vậy, không thể tạo ra được những gia cầm lai tốt bằng cách cho giao phối một cách tình cờ và tuỳ tiện giữa các dòng Muốn gia cầm lai có năng suất cao, phải có giao phối giữa dòng đã được qui định, những dòng này đã được phối hợp về chất lượng, năng suất theo một phương pháp chọn giống nhất định và được thực hiện trong những cơ sở giống Bởi vậy, người ta chỉ cho lai giữa những dòng có khả năng kết hợp tốt Để xác định được khả năng phối hợp đó, dùng phương pháp cho phối giống giữa các dòng rồi kiểm tra đánh giá chất lượng thế hệ sau
Hiệu quả của phương pháp lai giữa dòng cao hơn nhiều so với phương pháp nhân giống thuần chủng Lai giống chủ yếu được dùng để có những cá thể có tính di truyền pha trộn, có mức ưu thế lai cao nhất, tức là đạt được hiệu quả của ưu thế lai (Branudsch A and Bülchel H., 1978) Theo phương pháp nhân giống thuần chủng, công tác chọn giống được kỹ càng, đàn giống sinh sản được chọn lọc ở những cá thể
có năng suất cao hơn hẳn năng suất bình quân toàn đoàn Tuy nhiên, không phải những cá thể có năng suất cao hơn năng suất bình quân toàn đoàn ấy đều có chất lượng tốt Bởi vậy, muốn nâng cao chất lượng, năng suất gia cầm, không thể không dùng phương pháp chọn giống theo dòng bằng cách đánh giá năng suất chất lượng của thế hệ sau Nhưng việc chọn giống theo dòng đó cũng có giới hạn nhất định, phụ thuộc vào những quy luật sinh vật học Một dòng khó có thể đạt được năng suất tối đa với mọi đặc trưng kinh tế có lợi, vì vậy người ta phải cho lai Lai nghĩa là cho giao phối giữa hai, ba hay nhiều dòng tuỳ theo chất lượng và mục đích chọn giống hoặc dùng để sản xuất thịt, trứng Phối hợp đó tạo ra con lai được gọi là những gia cầm lai giữa dòng
Phan Cự Nhân (1998), gà lai là một phương pháp phổ biến ở nhiều nước vì người ta đã xác định rõ về mặt di truyền, gà mang gen dị hợp tử có năng suất cao hơn gà mang gen đồng hợp tử
Như vậy cần lựa chọn những con giống có những giá trị di truyền cộng tính mạnh nhất Tuy nhiên, đối với một số tính trạng nhất là những tính trạng về sinh sản
Trang 30phần phương sai cộng tính trong phương sai tổng cộng là rất nhỏ, như vậy là có rất
ít sai khác về giá trị cộng tính giữa những cá thể cấu thành quần thể
Trong những điều kiện đó, điều logic là tìm cách sử dụng những thành phần không cộng tính của giá trị tức là những mối tác động qua lại (tính trội và những mối tác động qua lại giữa các lôcut) Những mối tác động qua lại này chủ yếu thể hiện qua hiện tượng ưu thế lai được quan sát thấy ở những cơ thể lai, những phương pháp chọn giống tìm cách sử dụng nguồn biến dị đó chủ yếu dựa vào sự lai giống Trong chăn nuôi gia cầm khi lai kinh tế có thể lai đơn hoặc lai kép
Lai đơn: Là phương pháp lai kinh tế để sử dụng ưu thế lai cao nhất Lai đơn thường được dùng khi lai giữa giống địa phương và giống nhập ngoại cao sản Phương pháp này là phổ biến và được sử dụng nhiều trong sản xuất gà kiêm dụng trứng thịt hoặc thịt trứng nhằm tận dụng khả năng dễ nuôi, sức chống chịu cao của
gà địa phương và khả năng lớn nhanh, sức đẻ cao, ấp nở tốt, khối lượng trứng cao,… của gà nhập nội Ở nước ta có nhiều công trình sử dụng phương pháp lai đơn
để lai tạo giữa các giống: gà Rode Island Red, gà Sussex, gà Plymouth Rock, gà Leghorn với gà Ri Tạ An Bình (1973) Trần Đình Miên (1981), Bùi Quang Tiến, Nguyễn Hoài Tao (1985) đã chứng minh hiệu quả của phương pháp này
Lai kép: Là phương pháp lai phổ biến để tạo gà thương phẩm trứng, thịt Đối với gà hướng trứng lai 4 dòng như Golline 54, Hisex, ISA Brown, Hyline Brown, Brownick, BB Cock B380, Lohman Brown, gà hướng thịt như BE88 Theo các tác giả thì lai 4 dòng là tốt nhất đối với gà hướng trứng và hướng thịt Ngoài việc tạo ưu thế lai đối với con thương phẩm còn có hiện tượng di truyền liên kết với giới tính phân biệt trống mái từ 1 ngày tuổi thông qua màu lông và tốc độ mọc lông cánh Đối với gà broiler ngoài lai đơn giản, người ta còn có thể lai kép 3 - 4 dòng
1.1.3.2 Cơ sở khoa học của ưu thế lai
a, Khái niệm về ưu thế lai
Ưu thế lai là hiện con lai có sức sống, sức chống đỡ bệnh tật và năng suất cao hơn mức trung bình của thế hệ bố mẹ của chúng Cũng có thể hiểu ưu thế lai theo nghĩa toàn bộ tức là sự phát triển toàn khối của cơ thể con vật, sự gia tăng cường độ trong quá trình trao đổi chất, sự tăng thêm của các tính trạng sản xuất,… Mặt khác
Trang 31có thể ưu thế lai theo từng mặt từng tính trạng một, có khi chỉ là một vài tính trạng phát triển còn các tính trạng khác giữ nguyên, có tính trạng giảm đi (Trần Đình Miên, Nguyễn Văn Thiện (1995))
Theo Lê Đình Lương và Phan Cự Nhân (1994), khi các loài, chủng, giống hoặc các dòng nội khác nhau phối với nhau thì dạng lai F1 thường vượt các dạng bố mẹ ban đầu về tốc độ sinh trưởng, về khả năng sử dụng chất dinh dưỡng, tính chống chịu bệnh tật Ưu thế lai làm tăng sức sống, sức chịu đựng và năng suất của đời con do giao phối không cận huyết và nuôi trong điều kiện khác nhau, Lebedev M.M (1972)
Nhìn chung ưu thế lai là một hiện tượng sinh học thể hiện trên nhiều mặt, thế
hệ lai hơn hẳn bố mẹ về tốc độ sinh trưởng, khả năng sinh sản, khả năng sống, khối lượng trứng, thời gian của chu kỳ đẻ trứng, sự chuyển hoá thức ăn và những đặc tính kinh tế có lợi khác, từ đó năng suất con lai được nâng lên
Ưu thế lai trong chăn nuôi thể hiện đa dạng, khó xếp loại thật rành mạch, nhưng một điều thể hiện rõ nhất là con lai F1 có ưu thế lai cao hơn so với bất kỳ con lai nào ở các thế hệ tiếp theo là F2, F3, …Fn, song dựa vào sự biểu hiện của tính trạng mà người ta thấy ưu thế lai của động vật có thể phân thành các loại như sau: + Con lai F1 vượt bố mẹ về khối lượng và sức sống
+ Con lai F1 có khối lượng cơ thể ở mức độ trung gian giữa 2 giống song khả năng sinh sản và sức sống có thể hơn hẳn bố mẹ
+ Con lai F1 trội hơn bố mẹ về thể chất, sức làm việc, song nó mất một phần hoặc hoàn toàn khả năng sinh sản
+ Một dạng ưu thế lai đặc biệt là từng tính trạng riêng rẽ có khả năng di truyền theo tuýp trung gian, song có khi liên quan đến sản phẩm cuối cùng thì lại khác
Để xác định mức độ biểu hiện ưu thế lai phần lớn các tác giả như Lasley J.F (1974), Nguyễn Văn Thiện, Trần Đình Miên (1995) cho rằng ưu thế lai là hiệu số giữa giá trị tính trạng của con lai với bố mẹ và thường là vượt lên trung bình của bố mẹ
Trung bình của con lai > (Trung bình của mẹ + Trung bình của bố)
2
Trang 32Theo Lasley J.F (1974): ưu thế lai thường được thể hiện bằng giá trị % và tính theo công thức sau:
XF1– (XP1+XP2):2
H (%) = - x 100
(XP1+XP2):2 Trong đó H(%) là ưu thế lai của con so với bố mẹ
XF1 là giá trị kiểu hình trung bình của tính trạng ở con lai F1
XP1, XP2 là giá trị kiểu hinh trung bình của tính trạng ở bố, mẹ
Trong lịch sử chăn nuôi ưu thế lai được biểu hiện trong việc lai Lừa với Ngựa tạo con La Kết quả con được tạo ra hơn hẳn gốc bố mẹ về nhiều mặt: tầm vóc, sức thồ, sức dẻo dai, sức chịu đựng (Trần Đình Miên, Nguyễn Văn Thiện, 1995)
b, Bản chất di truyền của ưu thế lai
Ưu thế lai càng cao khi bố mẹ càng xa nhau Vì vậy, bản chất của ưu thế lai được giải thích tập trung vào hai thuyết chính, Trần Đình Miên, Nguyễn Văn Thiện, (1995)
Theo thuyết gen trội: theo thuyết gen trội những tính trạng như sức sống, khả năng sinh sản là những tính trạng số lượng do nhiều gen điều khiển, nên rất hiếm có
tỷ lệ đồng hợp Thế hệ con được tạo ra do lai giữa hai cá thể sẽ được biểu hiện do tất cả các gen trội trong đó một nửa thuộc gen trội đồng hợp của cha mẹ và một nửa thuộc gen trội dị hợp Khi cha mẹ xa nhau trong quan hệ huyết thống (khác dòng, khác giống, khác loài) thì xác suất để mỗi cặp cha mẹ truyền lại cho con những gen trội khác nhau càng tăng lên, từ đó mà dẫn đến mức độ ưu thế lai càng tăng Ví dụ:
Số lô cut mang gen trội 2 2
Trong trường hợp trên tất cả các gen lặn (trừ e) đều bị át chế bởi gen trội Như vậy con lai hơn cha mẹ và có ưu thế lai là tác động hỗ trợ nhau của các gen trội
Tuy nhiên thuyết này chưa giải thích được hoàn chỉnh, vì bên cạnh những
Trang 33gen trội có lợi, cũng có gen trội có hại và ngược lại Thuyết gen trội này chưa giải thích được một hiện tượng thực tế là khi tạp giao các hợp tử với nhau để có con lai giữa bốn dòng thì chúng lại hơn con lai giữa hai dòng
Theo thuyết siêu trội: hiệu quả của một alen ở trạng thái dị hợp thường khác với hiệu quả của từng alen này biểu hiện ở trạng thái đồng hợp Cho nên có thể có tính trạng ở trạng thái dị hợp (trạng thái trội) sẽ vượt lên bất kỳ dạng nào Trạng thái siêu trội có thể là do ở thể dị hợp sự tương tác giữa 2 alen sẽ có tác động lớn vào kiểu hình Trong phần lớn các trường hợp alen trội là thắng thế (Trần Đình Miên, Nguyễn Văn Thiện, 1995) Theo tài liệu của Nguyễn Huy Đạt (1991), năm 1907 một số tác giả cho rằng cơ sở của ưu thế lai chính là ở ngay tính dị hợp tử theo nhiều nhân tố di truyền, Shull (1908 – 1952) và nhiều tác giả khác Các tác giả cho rằng ở cùng một cứ điểm nếu nhiều alen khác nhau thì sẽ tăng nhiều khả năng phụ trách các quá trình tổng hợp sinh hoá khác nhau, đảm bảo tốt hơn sự tiến triển các chức năng sinh lý cần thiết cho cơ thể, giúp cho cơ thể dị hợp tử phát triển hơn cơ thể đồng hợp tử Kết quả nghiên cứu của Hutt (1978) cho thấy cơ thể ở dạng Aa phát triển mạnh hơn cơ thể ở dạng AA và aa Ưu thế lai của Aa là ở chỗ mỗi alen trong quá trình tổng hợp sinh hoá đảm đương một chức năng ít nhiều khác với alen cùng loại, kết quả là gây ảnh hưởng bổ sung cho nhau, từ đó tăng hiệu quả tác động Kết hợp cả hai giả thuyết chúng ta thấy đó là quan niệm về sự thay đổi trạng thái hoạt động hoá sinh của hệ thống enzim,… trong cơ thể sống, đó là tính dị hợp
và tương tác với nhau của các cặp gen mới có ưu thế lai
Để hiểu rõ hơn hiện tượng của ưu thế lai Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường (1992) cho biết, ưu thế lai phụ thuộc vào hai yếu tố: trạng thái hoạt động của dạng dị hợp (d) và sự khác nhau giữa hai quần thể xuất phát (i):
HF1 = ∑dy2; HF2 = 1/2HF1; HF3 = 1/4HF1
Ưu thế lai cao nhất ở đời F1 sau đó giảm dần Như vậy, đến các đời sau ưu thế lai giảm bớt nhiều, có sự thay đổi trong tác động tương hỗ và tương quan giữa các gen thuộc các lô cut khác nhau, hơn nữa biểu hiện của một tính trạng như trên
đã nói bao giờ cũng chịu ảnh hưởng không những của kiểu di truyền mà còn cả của ngoại cảnh, cho nên sự thay đổi trong quan hệ giữa các gen cũng xảy ra trong điều
Trang 34kiện ngoại cảnh nhất định Nói cách khác mức độ ưu thế lai cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào sự tương quan âm hay dương giữa môi trường và kiểu di truyền
Ưu thế lai thể hiện mức độ khác nhau ở các tính trạng khác nhau: các tính trạng số lượng thường được thể hiện, còn các tính trạng chất lượng thường ít được thể hiện và các tính trạng có hệ số di truyền cao như tốc độ mọc lông, tăng trọng ít chịu ảnh hưởng của ưu thế lai
c, Khả năng phối hợp (Nicking)
Để có ưu thế lai phải chọn cặp bố mẹ có khả năng phối hợp tốt Theo Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường (1992) cho thấy, trong thực tế chăn nuôi không phải giống, dòng nào cho lai cũng có kết quả tốt, tức là khi chọn phối các cặp bố mẹ phải có khả năng phối hợp Khả năng phối hợp phụ thuộc vào mức độ chọn lọc các giống gốc, nếu các giống gốc có áp lực chọn lọc cao, có tiến bộ di truyền (∆g) lớn thì khi cho lai với nhau mới có khả năng phối hợp cao Trong chăn nuôi gà, với mỗi dòng khác nhau, đều phải được chọn lọc chặt chẽ để có tổ hợp lai cho năng suất cao Tuy nhiên, khả năng phối hợp cũng là một hiện tượng tổ hợp mới được tạo ra khi chọn phối, bởi vì khả năng đó đã có sẵn nằm ở gen con đực và con cái và khả năng sẵn có đó phải được những nhà chọn giống có nhiều kinh nghiệm phát hiện và chọn phối Ngoài quan niệm kết hợp chung như đã nói còn có khả năng kết hợp đặc biệt, khả năng kết hợp chung thường là do hoạt động của các gen trội, gen lấn át, có cả ảnh hưởng của sinh thái môi trường, có tương quan giữa môi trường và di truyền
d, Một số yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai
+ Môi trường: mức độ thể hiện ưu thế lai bị ảnh hưởng bởi môi trường sống, Barlaw R (1981) Ở gà những thay đổi trong ưu thế lai thường xảy ra những trường hợp có liên quan đến địa điểm nuôi, chế độ dinh dưỡng, vị trí địa lý Hull P.R và cs (1963) ưu thế lai còn chịu ảnh hưởng của chế độ chăm sóc chuồng trại, Blyth J.S.S và Sang J.H (1960) ưu thế lai còn chịu ảnh hưởng của mùa vụ ấp nở trong năm, nhiệt độ môi trường
+ Tuổi: theo Aggarwal C.K và cộng sự (1979) ưu thế lai đối với một số tính trạng bị ảnh hưởng bởi tuổi trong thời gian sinh trưởng đầu và ảnh hưởng bởi những chu kỳ đẻ cao
Trang 35+ Chọn giống: nghiên cứu của Hull và Cole (1973) về chọn lọc giữa các dòng đã minh hoạ làm sáng tỏ sự chọn lọc giống và ảnh hưởng của nó đến lai tạo Như vậy khi chọn lọc các dòng để lai tạo, mức độ biểu hiện ưu thế lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường, độ tuổi và chọn giống
1.2 Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
1.2.1 Tình hình nghiên cứu gia cầm trên thế giới
Người ta cho rằng gà được thuần hóa cách đây 5000 năm từ loài chim hoang dại ở phía Đông Bắc châu Á Đến nay, thế giới có hàng trăm giống gà đang tồn tại Giống gà thương phẩm “Label Rouge” là tổ hợp lai bốn dòng có lông màu vàng hoặc màu nâu vàng của công ty gà Kabir, đây là công ty lớn nhất của Israel do gia đình ZviKatz chủ sở hữu được thành lập năm 1962 Hiện nay, công ty Kabir đã tạo 28 dòng chuyên dụng thịt lông trắng và lông màu, trong đó 13 dòng nổi tiếng trên thế giới: dòng trống K100, K100N, K400, K400N, K600, K368, K66 và dòng mái K14, K25, K123 và K156 Đặc tính của những dòng này là lông màu, chân vàng, da vàng thích hợp nuôi chăn thả Hãng Kabir chicks Ltd (Israel) sử dụng trống GGK x mái K227 tạo con thương phẩm ở 63 ngày có khối lượng là 2460g, TTTA/kg tăng khối lượng là 2,28 kg
Hãng Sasso của cộng hoà Pháp đã nhân giống chọn lọc, lai tạo và cho ra nhiều
tổ hợp lai gà thịt lông màu có thể nuôi thâm canh, thả vườn hoặc trang trại Các tổ hợp lai của gà Sasso có khả năng thích nghi cao dễ nuôi ở những vùng có điều kiện khí hậu nóng ẩm, chất lượng thịt thơm ngon Hãng đã đưa vào sản xuất 16 dòng trống và 6 dòng mái Các dòng trống được sử dụng rộng rãi hiện nay là: X44N, T55, T55N, T77, T88, T88N và các dòng mái là: SA31 và SA51 Gà SA31 có màu lông nâu đỏ, khối lượng 20 tuần tuổi đạt 2,01-2,29 kg, TTTA/kg tăng khối lượng là 2,38-2,46 kg Gà SA51 có khối lượng ở 20 tuần tuổi là 1,42 kg, sản lượng trứng đạt 188-
190 quả/mái/năm Hãng sử dụng trống X44 x mái SA31L tạo con lai ở 63 ngày có khối lượng 2550g, TTTA/kg tăng khối lượng là 2,46kg (Hubbard S.A.S)
Hãng Grimaud Freres Selection SAS sử dụng trống G99 x mái GF tạo con lai
ở 63 ngày có khối lượng cơ thể 2100g, TTTA/kg tăng khối lượng 2,22 kg Trống G99 x mái GF26 tạo con lai ở 63 ngày có khối lượng đạt 1900g, TTTA/kg tăng khối
Trang 36lượng 2,49kg Trống L11 x mái GF86 tạo con lai ở 63 ngày có khối lượng 2730g, TTTA/kg tăng khối lượng 2,48kg Trống L11 x mái GF26 tạo con lai ở 63 ngày có khối lượng 2480g và TTTA/kg tăng khối lượng 2,47kg
Hiện nay hãng Hubbard - ISA có 119 giống gà chuyên thịt lông trắng và lông màu Trong đó có nhiều giống nổi tiếng đang được nuôi ở nhiều nước trên thế giới, các giống gà của hãng Hubbard - ISA gồm các giống ISA lông trắng siêu thịt đáp ứng nhu cầu thâm canh công nghiệp trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm Hãng cũng đã sử dụng trống S44 x mái JA57 tạo con lai ở 63 ngày có khối lượng 2209g, TTTA/kg tăng khối lượng là 2,24 - 2,30kg
Ở Nhật Bản, tạo các con lai để nuôi thịt có chất lượng cao rất được chú trọng Các giống gà này được nuôi thời gian dài 85 - 120 ngày, chúng được ăn bằng thức
ăn đặc biệt, trong khẩu phần ăn không có nguồn gốc động vật
Một số gà lông màu thả vườn như gà Tam Hoàng, Lương Phượng, Jiangcun,
Ma Hoàng có nguồn gốc từ Trung Quốc Gà Kabir có nguồn gốc từ Israel Gà Sasso của Pháp Các giống gà này đều là các giống gà thích nghi với nuôi bán công nghiệp hay nuôi thả vườn cho hiệu quả kinh tế cao
Ở Thái Lan, các con gà lai thương phẩm thường là gà hướng thịt với tốc độ sinh trưởng nhanh; chúng chạm tới mốc 2kg ở 8 tuần tuổi Các dòng gà Broiler được dựa trên sự lai giống giữa Cornish White, New Hampshire và White Plymouth Rock Gà Broiler chỉ tiêu tốn thức ăn 2kg cho 1kg tăng trọng lượng (Smith, 1990) Các giống gà lai cải thiện cấu trúc gen của gà địa phương, tăng sự sai khác gen trong quần thể và tăng sức sống con lai Sử dụng con lai mái đảm bảo sức sống con lai, tăng sản lượng trứng (Smith, 1900) Công thức lai giữa gà địa phương và gà nhập nội đã phát triển từ năm 1979 Mayawes (1985) thấy rằng xu hướng tăng trọng của con lai giữa gà địa phương với Rhode Island Red tăng lên với sự tăng của tỷ lệ protein (8 - 20%), tỷ lệ protein phù hợp ở 2 - 6 tuần tuổi, 6 - 14 tuần tuổi, 14 - 26 tuần tuổi lần lượt là 18%, 14% và 10% Khối lượng trung bình với tỷ lệ này là 239g
ở tuần thứ 6 và 1048g ở tuần thứ 16 Theo Jeendoung và cs (2001) cho thấy rằng sự phát triển của con lai 2 dòng giữa gà nội với gà Rhode Island Red và con lai 3 dòng giữa (Rhode Island Red x gà nội) với Barred Plymouth Rock là khác nhau, khối
Trang 37lượng ở 4, 8, 12 tuần tuổi của 2 con lai là không khác nhau nhưng ở 16 tuần tuổi thì
có sự khác khác nhau rõ rệt, con lai 2 dòng có khối lượng cao hơn con lai 3 dòng Theo Leotagagul and Pimkamlai (1999) cho rằng sự phát triển của gà lai giữa
gà địa phương và gà Rhode Island Red có sự phát triển khác nhau khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau Khối lượng cơ thể ở 12 tuần tuổi là 1,470kg; 1,395kg; 1,270kg và 585,75g lần lượt với 4 loại thức ăn khác nhau: khẩu phần cho gà thương phẩm thịt, khẩu phần cho gà thương phẩm trứng, phối hợp khẩu phần (50:50) giữa khẩu phần dành cho gà thương phẩm thịt với cám gạo và ngô bột, phối trộn ngô bột
và cám gạo (50:50)
Theo J.A Miguel và cs (2011) phân tích các đặc tính của thịt ngực và thịt đùi giữa gà Castellana Negra (CN) và con lai giữa gà Castellana Negra với gà Penedesenca Negra (CNPN) ở 18 tuần tuổi cho thấy rằng tỷ lệ protein của thịt đùi
gà CN là 20,77% và gà CNPN là 21,03%, tỷ lệ mỡ có sự sai khác (p ≤ 0,05) (2,6%
và 4,38%), đối với thịt ngực tỷ lệ protein là 23,91% và 23,86% (không có sự sai khác) và tỷ lệ mỡ có sự sai khác (p <0,05) ( giữa 0,46% và 0,72%), vật chất khô ở thịt đùi đối với gà CN là 24,82%, thịt ngực là 25,66%, đối với gà CNPN vật chất khô là 26,72% và 25,72 % lần lượt đùi và ngực
Tabinda Khawaja và cs (2012) so sánh sự sinh trưởng, chất lượng thịt và các thông số máu của gà Fayoumi và Rhode Island Red và con lai giữa chúng cho thấy khối lượng gà 1 ngày tuổi là 31g; 20,90g; 25,24g; 30,00g lần lượt của gà Rhode Island Red; Fayoumi; con lai giữa trống Rhode Island Red với mái Fayoumi (RIFI); con lai giữa trống Fayoumi với mái Rhode Island Red (FIRI), khối lượng ở 20 tuần tuổi lần lượt là 1640g; 1166,66g; 1213g và 1260g, thức ăn thu nhận ở 20 tuần tuổi
là 7620g; 6720g; 5080,94g; 5596,50g Chất lượng thịt ở 20 tuần tuổi như sau: thịt đùi có tỷ lệ vật chất khô lần lượt là 27,30%; 26,83%; 27,35%; 26,75%, tỷ lệ protein thô thịt đùi là 83,60%; 84,10%; 83,65%; 84,25%, tỷ lệ mỡ là 6,75%; 6,55%; 6,48%; 6,59% Nghiên cứu cũng cho rằng gà lai giữa Rhode Island Red với Fayoumi có sức sinh trưởng tốt hơn trong điều kiện nuôi ở nông thôn của Bangladesh khi so sánh với gà Fayoumi
Tabinda Khawaja, Sohiail Khan và cs (2013) nghiên cứu về khả năng sản
Trang 38xuất chất lượng trứng và các chỉ số hóa sinh của khi cho lai giữa các gà Rhode Island Red, White Leghorn và Fayomi cho biết gà RIFI (Rhode Island Red x Fayoumi) có tuổi để trứng đầu là 146 ngày, khối lượng trứng là 47g, sản lượng trứng/72 tuần tuổi là 178 quả, lòng đỏ là 15,82g, lòng trắng trứng là 23,65g, độ dày
vỏ là 0,27mm; con lai FIRI (Fayoumi x Rhode Island Red) có tuổi đẻ trứng đầu là
149 ngày, năng suất trứng đạt 198 quả, khối lượng trứng là 47,5g, khối lượng lòng
đỏ là 16g, khối lượng lòng trắng là 24,20g, độ dày vỏ là 0,28mm
1.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong những năm gần đây, nhiều giống gà lông màu chăn thả được nhập vào nước ta do có ưu điểm màu lông, dễ nuôi, thịt ngon, khả năng cho thịt cao, sinh sản tốt như gà Lương Phượng Hoa nhập năm 1995 từ Quảng Tây (Trung Quốc)
Song song với công tác nhập các dòng giống năng suất cao, chọn lọc nâng cao các dòng thuần thì công tác nghiên cứu về các tổ hợp lai cũng được tiến hành
Tạ An Bình (1973) đã cho lai giữa gà Plymouth và gà Ri, Mía x Rhode Island; Phù Lưu Tế x Susex Khối lượng con lai đều nghiêng về phía bố và cao hơn
gà Ri thuần
Nguyễn Hoài Tao và cs (1984) nghiên cứu lai kinh tế giữa gà Mía X Ri, Phù Lưu Tế x Ri; Chọi x Ri, kết quả cho thấy cho thấy con lai của Mía x Ri và Phù Lưu
Tế x Ri có khối lượng cao hơn gà Ri thuần
Giống gà Sasso dòng trống X44 và dòng mái SA31L của Cộng hòa Pháp được nhập vào nước ta năm 2003 Gà có khối lượng cơ thể 56 ngày tuổi đạt: 2,2 - 2,3kg Dòng mái SA31L năng suất trứng cao đạt 186 quả/mái/68 tuần tuổi, giống gà này đã góp phần tạo nguồn gen phong phú, là nguyên liệu cho công tác lai tạo giữa các giống gà ngoại nhập với ngoại nhập góp phần đẩy mạnh chăn nuôi gà thả vườn, tăng nguồn thực phẩm cho xã hội
Nguyễn Huy Đạt và Nguyễn Thành Đồng (2001) nghiên cứu trên gà Lương Phượng cho thấy năng suất trứng là 165 - 171quả/mái/10 tháng đẻ, tiêu tốn 2,53 - 2,65kg thức ăn/10 quả trứng, tỷ lệ trứng có phôi 96%, tỷ lệ nở/tổng trứng ấp 87 - 88% Nuôi thịt đến 65 ngày tuổi, khối lượng 1,5-1,6 kg, TTTA/kg tăng khối lượng 2,4-2,6 kg, nuôi sống 95% Từ gà Lương Phượng nhập các tác giả Trần Công Xuân,
Trang 39Phùng Đức Tiến và cộng sự (2004) đó chọn tạo được 3 dòng gà lông màu LV1, LV2 và LV3 đáp ứng nhu cầu của sản xuất
Nguyễn Huy Đạt, Hồ Xuân Tùng và cs (2004) cho biết con lai giữa gà Lương Phượng và gà Ri có năng suất trứng là 159,2 quả/mái – 161,17 quả/mái/68 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn/10 trứng là 3,21kg – 3,55kg
Phùng Đức Tiến và cs (2003) cho biết tổ hợp lai 3/4 Lương Phượng và 1/4 Sasso X44 nuôi thịt đến 70 ngày có tỷ lệ nuôi sống 96%, khối lượng cao hơn gà Lương Phượng 11,67%, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng lượng thấp hơn gà Lương Phượng nuôi thịt 0,19kg, các chỉ tiêu tỷ lệ thân thịt, thịt đùi, thịt ngực đều cao hơn gà Lương Phượng
Tác giả Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến và cộng sự (2004) cho lai giữa trống Sasso X44 với mái Lương Phượng đã cho con lai có chất lượng tốt: năng suất trứng đạt 173,8 quả - 175,7quả/mái; TTTA/10 trứng là 2,99kg - 3,0kg; tỷ lệ phôi 93,0% - 93,5%; gà lai nuôi thịt 63 ngày tuổi khối lượng đạt 2369,5g - 2377,39g/con cao hơn gà Lương Phượng 30,61 - 31,05%; tỷ lệ nuôi sống 95,94% - 96,66%; TTTA/kg tăng khối lượng là 2,46kg - 2,67 kg
Phùng Đức Tiến, Đào Thị Bích Loan và cộng sự (2007), cho thấy tỷ lệ đẻ của đàn gà lai (trống LV2 x mái SA31L) nuôi đến 68 tuần tuổi trung bình đạt 56,81%; năng suất trứng đạt 178,81 quả/mái; tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 trứng
là 2,56 kg; tỷ lệ trứng có phôi 97,27%; gà lai nuôi thịt lúc 70 tuần tuổi khối lượng
cơ thể đạt 2532,45g/con; tỷ lệ nuôi sống đạt 98%; tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng cơ thể là 2,49 kg
Phùng Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Thị Tình và
cs (2008) khi nghiên cứu trên công thức lai giữa gà ác Việt Nam và gà ác Thái Hòa cho biết con lai có ưu thế lai về năng suất sinh sản là 8,74%; tiêu tốn thức ăn là -3,93%; hiệu quả kinh tế đạt cao (849,000đ/6 tuần tuổi)
Phùng Đức Tiến, Nguyễn Quý Khiêm và cs (2009) nghiên cứu chọn tạo 4 dòng gà lông màu hướng thịt từ nguyên liệu gà Sasso (X44 và SA31L), gà LV2 và
gà LV3 để tạo ra 3 dòng mái TP1; TP2; TP3 và dòng trống TP4 Kết quả nghiên cứu qua 4 thế hệ đã ổn định về đặc điểm ngoại hình, màu sắc lông đặc trưng của
Trang 40từng dòng Dòng TP4 có khối lượng lúc 56 ngày tuổi đạt 2,2 - 2,3kg, hệ số di truyền
h2 = 0,3% - 0,37% Ba dòng mái TP1, TP2 và TP3 chọn lọc theo hướng năng suất trứng 3 tháng đẻ đầu cho NST/mái/68 tuần tuổi dòng TP3 đạt: 183,56 quả (đạt 98,69% so với gà SA31L), gà TP2 đạt 177,36 quả (cao hơn gà LV3 8 - 10 quả) và
gà TP1 đạt 181,38 quả (cao hơn LV2 16,08 quả) Hệ số di truyền về năng suất trứng
3 tháng đẻ đầu của 3 dòng mái là 0,13% - 0,18% Gà TP12 và TP21 nuôi sinh sản đến 68 tuần tuổi cho năng suất trứng tương ứng là 182,1 quả và 178,6 quả/mái, cao hơn gà LV2 14 và 11 quả, tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng là 2,53kg - 2,55kg
Tổ hợp lai giữa gà trống TP4 với gà mái TP12 và TP21 cho con lai TP412 và TP421 đến 63 ngày có tỷ lệ nuôi sống đạt 97,33%; khối lượng cơ thể đạt lần lượt là: 2420,34 và 2438,64g; ưu thế lai so trung bình bố mẹ về khối lượng cơ thể là 3,88%
và 4,08%; tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là - 2,86% và -2,47%
Nghiên cứu trên gà lai giữa Mía và gà Hung, theo Phùng Đức Tiến và Nguyễn Thị Tình (2011) cho biết việc lai gà trống Mía với gà mái Hung (MH) và gà trống Mía với gà mái LV2 (ML) thể hiện rõ ưu thế lai về tỷ lệ nuôi sống (2,11% và 2,10% lúc 13 TT), về khả năng cho thịt (17,77% và 12,56%), về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng (- 4,35% và - 2,46%), về năng suất thịt hơi tính trên 1 mái sinh sản (76,07%; và 51,85%), và về năng suất và chất lượng sinh sản ở tỷ lệ phôi (1,56% và 0,05%) và tỷ lệ nở tính trên tổng trứng ấp (10,58 và 9,78%)
Theo Bùi Hữu Đoàn nghiên cứu trên gà Hồ cho thấy gà mái lúc 12 tuần tuổi là 1,1kg gà trống là 1,3 kg, mức sinh trưởng của gà Hồ mức trung bình đạt 23,98%, cao nhất ở 1 tuần tuổi và thấp nhất ở 12 tuần tuổi; tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng tăng dần qua các tuần tuổi; chi phí thức ăn/kg tăng trọng hết 13.085đồng/kg; tỷ lệ thân thịt đạt 71,73% ở gà trống và 70,79% ở gà mái; tỷ lệ thịt lườn ở gà Hồ trung bình đạt 19,17%,
tỷ lệ thịt đùi trung bình đạt 24,03%; thịt màu trắng hồng, thơm ngon
Bùi Hữu Đoàn, Hoàng Thanh (2011) nghiên cứu trên gà lai kinh tế 3 giống (Mía – Hồ - Lương Phượng) cho thấy rằng tỷ lệ nuôi sống đạt 91,7% Khối lượng
cơ thể ở 12 tuần tuổi là 1915,49g, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng là 1,83kg ở 12 tuần tuổi Tỷ lệ thịt đùi gà mái cao hơn gà trống, tỷ lệ thân thịt là 69,38% Tỷ lệ thịt ngực
là 22,86%, thịt đùi là 22,16%, giá trị pH đùi tại thời điểm 15 phút và 24 giờ sau bảo