1. Khái niệm pháp luật Trong xã hội cần phải có một số trật tự nhất định, cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ xã hội – quan hệ giữa người với người trên các lĩnh vực. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng điều được thực hiện dựa trên cơ sở các quy phạm xã hội, nhưng nguyên tác về hành vi, nguyên tắc xử sự của con người. Các vi phạm xã hội ở nước ta hiện nay rất đa dạng bao gồm: các quy phạm chính trị do các cơ quan, tổ chức của đảng đề ra; các quy phạm do các tổ chức chính trị xã hội đặt ra; các quy phạm đạo đức, phong tục, tôn giáo…và pháp luật. Trong đó, pháp luật là những quy tắc sử dụng chung nhất, phổ biến nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội khác. Theo quan niệm phổ biến hiện nay: pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự) có tính chất bất buộc chung vả thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước và được nhà nước bảo đảm thực hiện bắng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động của đời sống xã hội và nhà nước, là công cụ để nhà nước thực hiện quyền lực. 2. Bản chất của pháp luật. Như bản chất của nhà nước, trước hết pháp luật nói chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hóa thành pháp luật. Nhờ có pháp luật, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý của nhà nước. Nhận xét về pháp luật tư sản, C. Mác và ph. Ăngghen trong tuyên ngôn Đảng Cộng Sản viết: “pháp luật của các ông là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, mà nội dung của do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”(1). Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nên pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác trong xã hội. pháp luật thể hiện và bảo vệ lợi ích số đông nhân dân trong xã hội. Thông qua pháp luật ý chí của nhân dân trở thành ý trí của nhà nước. Bản chất của pháp luật không chỉ thể hiện qua tính giai cấp của nó mà còn thể hiện qua tính xã hội của pháp luật. Ở nước ta, lợi ích của nhà nước phù hợp với lợi ích của dân tộc, lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động. Do đó, pháp luật phản ánh lợi ích chung, phổ biến của cả xã hội, cộng đồng. Bên cạnh, đó pháp luật còn là một giá trị xã hội, nhiều giá trị xã hội được đăng tải, phản ánh vào pháp luật. Xã hội thông qua nhà nước ghi nhận những xử sự “hợp lý, khách quan”, nghĩa là những xử sự được số động chấp nhận, phù hợp với lợi ích số đông trong xã hội. Pháp luật là thước đọ hành vi, cách xử sự của con người, là công cụ để kiểm nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội, hướng chúng vận động, phát triển phù hợp với quy luật khách quan, các quy luật vận động nội tại của đời sống xã hội. 3. Các thuộc tính của pháp luật. Tất cả các quy phạm xã hội đều được mang tính chất chung là những chuẩn mực về hành vi, cách xử sự của con người. Nhưng pháp luật do nhà nước ban hành do đó nó có những đặc điểm, đặc thù, ưu thế riêng, thể hiện qua các thuộc tính của pháp luật. Các thuộc tính đó bao gồm: Thứ nhất : pháp luật mang tính quy phạm phổ biến.
Trang 1NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
1 Khái niệm pháp luật
Trong xã hội cần phải có một số trật tự nhất định, cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ xã hội – quan hệ giữa người với người trên các lĩnh vực
Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng điều được thực hiện dựa trên cơ sở các quy phạm xã hội, nhưng nguyên tác về hành vi, nguyên tắc xử sự của con người
Các vi phạm xã hội ở nước ta hiện nay rất đa dạng bao gồm: các quy phạm chính trị do các cơ quan, tổ chức của đảng đề ra; các quy phạm do các tổ chức chính trị - xã hội đặt ra; các quy phạm đạo đức, phong tục, tôn giáo…và pháp luật Trong đó, pháp luật là những quy tắc sử dụng chung nhất, phổ biến nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội khác
Theo quan niệm phổ biến hiện nay: pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự) có tính chất bất buộc chung vả thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước
và được nhà nước bảo đảm thực hiện bắng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động của đời sống xã hội và nhà nước, là công cụ để nhà nước thực hiện quyền lực
2 Bản chất của pháp luật
Như bản chất của nhà nước, trước hết pháp luật nói chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị Ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hóa thành pháp luật Nhờ có pháp luật, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý của nhà nước Nhận xét về pháp luật tư sản, C Mác và ph Ăngghen trong tuyên ngôn Đảng Cộng Sản viết: “pháp luật của các ông là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, mà nội dung của do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”(1)
Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nên pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác trong xã hội pháp luật thể hiện và bảo vệ lợi ích số đông nhân dân trong xã hội Thông qua pháp luật ý chí của nhân dân trở thành ý trí của nhà nước
Bản chất của pháp luật không chỉ thể hiện qua tính giai cấp của nó mà còn thể hiện qua tính xã hội của pháp luật Ở nước ta, lợi ích của nhà nước phù hợp với lợi ích của dân tộc, lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động Do đó, pháp luật phản ánh lợi ích chung, phổ biến của cả xã hội, cộng đồng
Bên cạnh, đó pháp luật còn là một giá trị xã hội, nhiều giá trị xã hội được đăng tải, phản ánh vào pháp luật Xã hội thông qua nhà nước ghi nhận những xử sự “hợp lý, khách quan”, nghĩa là những xử sự được số động chấp nhận, phù hợp với lợi ích số đông trong xã hội Pháp luật là thước đọ hành vi, cách xử sự của con người, là công cụ để kiểm nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội, hướng chúng vận động, phát triển phù hợp với quy luật khách quan, các quy luật vận động nội tại của đời sống xã hội
3 Các thuộc tính của pháp luật
Trang 2Tất cả các quy phạm xã hội đều được mang tính chất chung là những chuẩn mực
về hành vi, cách xử sự của con người Nhưng pháp luật do nhà nước ban hành do đó nó
có những đặc điểm, đặc thù, ưu thế riêng, thể hiện qua các thuộc tính của pháp luật
Các thuộc tính đó bao gồm:
Thứ nhất : pháp luật mang tính quy phạm phổ biến
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật là tiêu chí rất căn bản để phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác So với các quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật
có tính phổ quát hơn, rộng khắp, phổ biến hơn Về nguyên tắc pháp luật có thể điều chỉnh bất kỳ quan hệ xã hội nào khi nhà nước nhận thấy có yêu cầu cần điều chỉnh, điều này thể hiện ưu thế của pháp luật so với các quy phạm pháp luật khác Mặc khác, khi ban hành pháp luật nhà nước đã bỏ qua những quan hệ xã hội phổ biến, chung nhất Từ đó mô hóa các quan hệ xã hội thành các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự
Các quy phạm pháp luật được áp dụng lâu dài, các phạm quy pháp luật chỉ bị đình chỉ khi các cơ quan nhà có thẩm quyền bải bỏ, hủy bỏ, sửa đổi hoặc thời hạn các quy phạm đã hết
Thứ hai : pháp luật được thể hiện dưới hình thức được xác định
Ở nước ta pháp luật được thể hiện chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật hơn nửa, nội dung của pháp luật phải được thể hiện rõ ràng, mạch lạc, chặt chẻ, khái quát trong các khoan của mọi điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung
Thứ ba : Tính cưỡng chế của pháp luật
Cưỡng chế là một thuộc tính thẻ hiện bản chất giai cấp và tính xã hội của pháp luật Mọi kiểu pháp luật đều mang tính cưỡng chế Cưỡng chế của háp luật là cần thiết khách quan của đời sống cộng đồng nhằm thiết lập một trật tự xã hội Bời trong xã hội luôn có những người không thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí chống lại sự thi pháp luật
Do đó, việc cưỡng chế buộc mọi người phải nghiêm chỉnh thi hành pháp luật là điều cần thiết ình thức biện pháp cưỡng chế của pháp luật phụ thuộc nhiều vào bản chất của pháp luật
Thứ tư : Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện
Khác với các quy phạm xã hội khác, pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và vì vậy được nhà nước bảo đảm thực hiện Sự bảo đảm thực hiện bằng nhà nước thể hiện ở chổ là nước tạo cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân Như vậy , pháp luật trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, nhờ vào sức mạnh, quyền lực nhà nước Hơn nữa, nhà nước tạo ra các tiền
đề, điều kiện, áp dụng các biện pháp khác nhau để bảo đảm cho pháp luật thực hiện
Ngoài các thuộc tính cơ bản nói trên, pháp luật còn thể hiện tính sáng tạo, tính truyền thống và tính thời đại, tính hệ thống
4 Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những hướng, phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp luật tới các quan hệ xã hội, phản ánh bản chất giai cấp và giá trị của pháp luật
Pháp luật có ba chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh; chức năng bảo vệ; chức năng giáo dục
- Chức năng điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thể hiện theo hai hướng chính: một mặt xã hội ghi nhận các quan chủ yếu trong xã hội, mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát triển của các quan hệ xã hội và bảo vệ các quan hệ xã hội khi bị xâm phạm chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật được thực hiện
Trang 3thông qua các hình thức: quy định, cho phép, ngăn cấm, quy định nghĩa vụ, quy định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
- Bên cạnh chức năng điều chỉnh, pháp luật có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội do nó điều chỉnh Khi có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ghi trong phần chế tài của quy phạm pháp luật đối ví người thực hiện hành vi vi phạm
- Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật tới ý thức con người làm cho con người hành động phù hợp với cách xử sự do pháp luật quy định Cách xử sự ghi trong pháp luật là cách xử sự phổ biến đã được lựa chọn phù hợp với đạo đức tiến bộ xã hội Vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tác động tới ý thức con người làm cho con người nhận thức được rằng cần phải
xử sự như thế nào khi ở hoàn cảnh, tình huống mà pháp luật mô tả bất lợi như thế nào Nhờ đó, mà con người hướng tới những hành vi, cách xử sự phù hợp với pháp luật, với lợi ích xã hội, nhà nước, tập thể và của cá nhân
5.Vai trò của pháp luật
Trước hết, cần phải khẳng định rằng bất kỳ một sự đánh giá thấp nào về vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa đều không những đối lập với kinh nghiệm lịch sử mà còn không phù hợp với luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta và Nhà nước ta
* Vai trò của pháp luật đối với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, vai trò chung nhất của pháp luật là sự biểu hiện về mặt pháp lý các quan hệ sản xuất, thành một hệ thống các quan hệ pháp luật tạo nên trật
tự pháp luật về kinh tế cho một nhà nước Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp trước hết tồn tại về kinh tế, chỉ trong mối quan hệ không tách rời với các đồi hỏi và nhu cầu của kinh tế, pháp luật trở thành phương tiện hàng đầu quản lý nhà nước về kinh tế Pháp luật trước hết tạo lập các khung hay còn gọi là hành lang pháp lý để cho người sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế bình đẳng trong “cách chơi”, đồng thời nhà nước là chủ thể quản lý cũng vào chuẩn mực đó
mà điều chỉnh “cách chơi”.Các quan hệ kinh tế thị trường rất đa dang, phong phú, năng động và phức tạp, ta phải định hướng xã hội chủ nghĩa Điều đó lại càng nảy sinh nhu cầu điều chỉnh để loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện, ngăn ngừa rối loạn khủng hoảng, thiết lập trật tự ổn định Bằng sự điều chỉnh pháp luật mà tạo ra môi trường thuận lợi tin cậy và chính thức trong sự tồn tại và phát triển của các quan hệ kinh tế Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi mà của cải vật chất chưa thật sự dồi dào, pháp luật chính là phương tiện thực hiện tốt nhất nguyên tắc: làm theo năng lực hưởng theo lao động Cúng vd[í điều đó pháp luật chính là phương tiện thể chế hóa các quan hệ tiền – hàng, hạch toán kinh tế, hợp đồng kinh tế, các quan hệ về lợi ích và đặc biệt là thể chế hóa và hoàn thiện
cơ chế quản lý về mặt tổ chức và hoạt động, làm cho nó có hiệu lực thực thi trong quy mô toàn xã hội
* Vai trò của pháp luật đối với xã hội
Là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật là một những nhân tố bảo đảm và bảo vệ sự tồn tại của xã hội Một mặt pháp luật ghi nhận và thể chế hóa các quyền
tự do của công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền tự do đó được thực hiện Mặt khác, bặng ghi nhận một cách chính thức các giá trị mà con người có, con người cần,
Trang 4vì con người mà các thành viên của xã hội bằng phương tiện pháp luật có điều kiện bảo
vệ lợi ích hợp pháp của mình
Các vấn đề xã hội như lợi ích xã hội, an toàn tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, tự do bình đẳng và công bằng… đều gắn liền với sự điều chỉnh của pháp luật Chính vì vậy pháp luật là một phương tiên không thể thiếu cho sự tồn tại và ổn định của một xã hội
* Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị - xã hội
- Trước hết đối với Đảng lãnh đạo, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng làm theo đường lối đó có hiệu lực thực thi và bất buộc chung trên quy
mô toàn xã hội Mặt khác xã hội là công cụ để bảo vệ đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
- Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở cho tổ chức và hoạt dộng của nhà nước, là
sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân,
là phương tiện quản lý có hiệu lực đối với mọi của đời sống xã hội hơn bất ký phương tiện nào, pháp luật là phương tiện chứa đựng trong mình nó có sự kết hợp giữa năng động sáng tạo với kỷ cương và kỷ luật Do đó khi thực hiện các chức năng của mình nhà nước không thể không sử dụng phương tiện pháp luật
- Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình Pháp luật là nhân tố thể chế hóa và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Nhân dân dựa vào pháp luật là phương tiện chống lại các hành vi lộng quyền, bạo lực, không có
tổ chức, tham nhũng
Như vậy: Đối với toàn hệ thống chính trị, có thể xem pháp luật là phương tiện thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ và hoạt động củ toàn hệ thống chính trị, là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo lý của mọi yếu tố tại nên hệ thống và của tất cả các thành viên trong hệ thống đó
* Vai trò của pháp luật với đạo đức
Pháp luật xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là chổ dựa và cơ sở của việc hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa Các nguyên tắc căn bản của đạo đức mới thể chế hóa các quy phạm pháp luật, hay nói cách khác giữa đạo đức xã chủ nghĩa và pháp luật có sự đan xen
về nội dung Do vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ và phát triển đạo đức xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người
* vai trò của pháp luật đối với tư tưởng
Có thể nói pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tư tưởng và các giá trị tiến bộ của loài người
6 Các nguyên tắc của pháp luật
Các nguyên tắc của pháp luật định hướng cho hoạt động sáng tạo pháp luật và thực hiện pháp luật và cho toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội
cụ thể, là những tiêu chuẩn cơ bản trong hành vi, cách xử sự của các công dân, cán bộ, công chức, của các cơ quan quyền lực nhà nước, hành chính và tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân có ảnh lớn đối với ý thức pháp luật và trật tự pháp luật, văn hóa pháp lý
Trang 5Các nguyên tắc pháp luật của nước ta được ghi nhận trong hiến pháp, các luật, các văn bản quy phạm pháp luật và trong thực tiễn xét xử Những cũng có những nguyên tắc được ghi nhận trong văn kiện của Đảng hoặc được thể hiện trong tư tưởng pháp luật nước ta
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước ta gồm :
Thứ nhất, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, nó đòi hỏi nội dung cuả pháp luật cũng như trong hoạt động
tổ chức thực hiện, áp dụng pháp phải thể hiện tính toàn quyền của nhân dân, quán triệt tư tưởng nhân dân là chủ thể cao của quyền lực Nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân là nguyên tắc hiến định, được trực tiếp ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa bổ sung năm 2001) ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông và đội ngũ trí thức” Vì vậy, khi ban hành pháp luật các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải mục tiêu vì lợi ích nhân dân, phục vụ đời sống nhân dân là tối cao, tối thượng, phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân
Thứ hai, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa
Pháp phải thể hiện và phản ánh đầy đủ, sâu sắc các mặt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: định ra những hình thức và biện pháp hữu hiệu bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân; tạo một cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý các công việc của nhà nước; xã hội nghiêm khắc xử lý những hành vi vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân bất luận hành vi đó do cơ quan, tỏ chức hay cá nhân thực hiện Mặt khác, pháp luật cần quy định chặt chẻ địa vị chính trị - pháp lý của các bộ phận cấu thành
hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước, đồng thời xác lập mối quan hệ đúng đắng giữa các bộ phận đó, tạo điều kiện để tất cả các bộ phận cảu hệ thống chính trị đồng thời thật
sự trở thành những thể chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, nguyên tắc nhân đạo
Nhân đạo là truyền thống quý báo của dân tộc Việt Nam, được nhân lên từ khi có Đãng lãnh đạo Vì vậy nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi nội dung của hệ thống pháp luật phải thám nhuần quan điểm tất cả vì con người và phục vụ cho con người Con người là mục tiêu trung tâm của xã hội, mọi đường lối, chính sách và pháp luật của nhà nước đều phải hướng tới phục vụ cho con người Pháp luật không chỉ là phương tiện bảo đảm tính mạng, tài sản, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người, mà còn tạo ra mọi điều kiện
để phát triển tự do của mỗi con người Khi quy định các biện pháp trách nhiệm pháp lý, pháp luật không nhằm mục đích hành hạ về mặt thể xác hoặc hạ thấp danh dự nhân phẩm của con người, mà nhằm giáo dục cải tạo những người vi phạm pháp luật trở thành người lương thiện Đồng thời pháp luật còn quy định các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ Phương pháp tác động của pháp luật phải lấy giáo dục, thuyết phục là chủ yếu, còn cưỡng chế được áp dụng khi giáo dục, thuyết phục không đem lại hiệu quả
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ
Nguyên tắc này bắt nguồn từ quan niệm “quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân” (Điều 51 Hiến pháp 1992) Vì vậy, khi xây dựng pháp luật, khi thuyết lập đại vị pháp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân (chủ thể pháp luật) cần quan triệt tư tưởng: quyền phải đi đôi với nghĩa vụ, có quyền phải có nghĩa vụ và ngược lại,
Trang 6quyền và nghĩa vụn phải tương ứng, phù hợp với nhau trong quan hệ pháp luật, quyền của bên này nghĩa vụ của bên kia, khi không thực hiện nghĩa vụ có nghĩa là vi phạm quyền của bên khác trong quan hệ Thông qua cách quy định này mà thiết lập quan hệ trách nhiệm qua lại giữa các thành viên xã hội, giữa nhà với công dân và ngược lại
Thứ năm, nguyên tắc công bằng
Pháp luật là công lý, là những đại lượng biểu thị sự công bằng trong đời sống xã hội dân sự giữa các thành viên xã hội Các luật thực định cần phải là công bằng được cũng cố về mặt quy phạm, nói cách khác sự công bằng trong pháp luật phia tiến tới sự công bằng xã hội theo nhận thức, ý nguyện của con người Công xã hội là sự công bằng trong quanu hệ giữa các thành viên xã hội mà tiêu chuẩn cơ bản của nó là lợi ích của con người
Trong phân phối sản phẩm công băng có nghĩa là tương quan hợp lý giữa một bên
là sự đóng góp sức lao động của cá nhân công dân cho xã hội và một bên là thái độ, sự đối xử của xã hội Trong xã hội các thành viên xã hội trao đổi lao động cho nhau, họ cống hiến cho xã hội một lao động thì cũng nhận được từ xã hội một lao động tương ứng với nhiều hình thức khác nhau
Trong hoạt động quản lý nhà nước, công bằng đòi hỏi sự xác laapjphamj vi tối thiểu nhất của công quyền và xác lập đầy đủ những đảm bảo cho người bị quản lý nằm chống những hiện tượng lạm dụng quyền lực, phạm vi các quyền tự do, dân của công dân
Trong cương chế nhà nước công bắng có nghĩa là chirphair chịu trách nhiệm pháp
lý khi có lỗi, mức độ vi phạm và mức độ trách nhiệm phải tương xứng với nhau Nguyên tắc này cugnx có nghĩa là bất kỳ ai, không kể giữ chức vụ nào, khi vi phạm pháp luật đều phải trách nhiệm pháp lý Từ sự công bằng dẫn đến sự bình đẳng mọi công dân trước pháp luật tọa ra một khả năng, cơ hội như nhau cho mọi thành viên trong xã hội, khi họ
có địa vị như nhau
II XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1 Khái niệm, nguyên tắc xây dựng pháp luật Xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động cơ bản của nhà nước, thể hiện thông qua hoạt động lập pháp, lập quy của các cơ quan nhà nước
Xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước, những người có thẩm quyền, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị được trao quyền, nhằm soạn thảo và ban hành các đạo luật và các vặn bản quy phạm pháp luật khác, thực chất là để thực hiện quyền lập pháp và quyền lập quy (ban hành theo văn bản quy phạm pháp luật dưới luật)
Quyền lập pháp là quyền ban hành các văn bản theo Hiến pháp Việt Nam 1992, Quốc hội là cơ quan có quyền làm hiến pháp, sữa đổi hiến pháp, làm luật, sữa đổi luật; nghĩa là Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh do Quốc hội giao trên cơ sở kế hoạch ban hành các lệnh được ghi vào chương trình làm luật của Quốc hội Như vậy, Quốc hội ủy quyền cho ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề mà luật chưa điều chỉnh (trừ những vấn đề phải điều chỉnh bằng luật) Chẳng hạn như các vấn đề về quyền chính trị, dân sự, kinh tế của công dân đã dược quy định trong Hiến pháp và luật; về hình sự; về lao động…
Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật củ các cơ quan hành chính nhà nước có hiệu lực dưới luật Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật phải trên cơ sở luật và để thi hành pháp luật Ban hành văn bản quy pháp
Trang 7luật dưới luật là hoạt động quan trọng của quyền hành pháp, nhờ đó mà các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện quản lý hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
Việc phân biệt quyền lập pháp và lập quy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sự phân biệt này, một mặt nhờ có quyền lập quy mà các luật được cụ thể hóa, chi tiết hóa
Xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo Đó là quá trình nhận thức các quan hệ xã hội, quy luật vận động của các quan hệ xã hội, đặc biệt quy luật lợi ích, xác định tầm quan trọng pháp lý của các quan hệ xã hội, từ đó thể chế hóa, mô hình hóa các quan hệ xã hội thành các quy phạm pháp luật Thông qua kỹ thuật lập pháp, nhà nước thể chế hóa, biến ý chí của giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức và những người lao động khác lên thành các chuẩn mực mang tính bắt buộc chung Các chuẩn mực
đó được thể hiện qua các văn bản luật hoặc các văn bản quy phạm dưới luật Do đó, hoạt động xây dựng pháp luật được gọi là hoạt hoạt sáng tạo pháp luật – sáng tọa ra giá trị tinh thần
2 Các nguyên tắc xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật phải tuân thủ những nguyên tắc quan trọng nhất của quá trình xây dựng pháp luật, gồm :
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, đường lối, chủ chương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, được đưa vào cuộc sống một cách thống nhất
Thứ hai, nguyên tắc khách quan
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện được các nhu cầu và điều kiện khách quan của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Để văn bản quy phạm pháp luật
có chất lượng cao đòi hỏi phải nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng các quá trình xã hội đang diễn ra và phát hiện được xu hướng vận động phát triển cuat chúng, Vì vậy, trong quá trình xây dựng pháp luật cần phải thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học thuộc mọi lĩnh vực, đặc biệt là các chuyện gia pháp lý, sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân
Thứ ba, nguyên tắc dân chủ hóa
Nguyên tắc náy thể hiện mức độ, trình độ tham gia của nhân dân lao động và các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật với xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội Cần phải đề cao vai trò của các tầng lớp nhân dân lao động và các tổ chức của họ trong hoạt xây dựng pháp luật, đặc là trong thảo luận, góp ý các dự án pháp luật
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm pháp chế
Xây dựng và ban hành pháp luật phỉa đúng thẩm quyền, phait tuân thủ nghiêm chỉnh ngặt trình tự, thủ tục do pháp luật quy định Văn bản luật phảo phù hợp với Hiến pháp, văn bản dưới luật phải phù hợp với văn bản luật, bảo đảm tính thứ bậc trật tự của
hệ thống văn bản và văn bản cấp độ dưới hơn được ban hành nhằm thực hiện văn bản ở cấp độ cao hơn
Hiện nay, cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta tiến hành xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước Tình hình mới đòi hỏi phải sữa đổi, bổ sung, hệ thống pháp luật cả về nội dung và hình thức, tăng cường sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan
Trang 8hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước, các quyền công dân Công tác xây dựng pháp luật đang được đẩy mạnh, càng phỉa tuân thủ các nguyên tắc của quá trình sáng tạo pháp luật
3 Văn bản quy phạm pháp luật
Hình thức của văn bản pháp luật bao gồm tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật Ở nước ta văn bản quy phạm pháp luật là hình thức cơ bản của pháp luật
a Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luận định, trong đó các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều là và hiệu lực của
nó không phụ thuộc vào sự áp dụng, được nhà nước bảo đảm thực hiện
Văn bản quy phạm pháp luật có một số đặc điểm:
- Đó là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành;
- Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những quy tắc xử sự mang tính quy định chung;
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống;
Sự thực hiện văn bản không làm chấm dứt hiệu lực của nó;
- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản pháp luật được quy định
cụ thể trong pháp luật;
- Văn bản quy phạm pháp luật có vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước Xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh, đồng bộ các hình thức văn bản quy phạm sẽ tạo ra cơ
sở pháp lý cho sự đảm bảo và tăng cường pháp chế, năng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
b Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- Quốc hội:
+ Làm Hiến pháp và sữa đổi Hiến pháp;
+ Căn cứ vào Hiến pháp, Quốc hội ban hành luật, nghị quyết
- Ủy ban thường vụ Quốc hội:
+ Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành pháp lệnh, nghị quyết
- Chủ tịch nước :
+ Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, quyết định của ban thường vụ Quốc hội ban hành lệnh, quyết định
- Chính phủ:
+ Căn cứ vào Hiến pháp, luật nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của chủ tịch nước ban hành nghị quyết
- Thủ tướng chính phủ;
+ Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quyết hội, pháp lệnh, nghị quyết của ban thương vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của chính phủ ban hành quyết định
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư căn cứ vào Hiến pháp, luật nghị định của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của chính phủ, quyết định, và chỉ thị của thủ tướng chính phủ
- Hội đồng thẩm tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết
Trang 9- Chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng, viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ban thường vụ Quốc hội, lệnh, nghị định của chủ tịch nước
- Giữa các cơ quan nhà cscos thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội ban hành nghị quyết, thông tư liên tịch
- Căn cứ vào Hiến pháp, luật , nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban thường vụ quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước, văn bản của các cơ quan nhà nước, cấp trên, Hội đòng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương về kế hoạch phát triển kinh té – xã hội và ngân sách; về quốc phòng và an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, làm tròn nghĩa đối với
cả nước
- ủy ban nhân dân ban hành quyết định và chỉ thị, quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân phải phù hợp với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan ành nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp
- Chủ ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp đồng thời đề nghị hội đồng nhân dân cấp mình bải bỏ nghị quyết
đó, đình chỉ việc thi hành hoặc bải bỏ những văn bản sai trái của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhan dân, của ủy ban nhân dân cấp dưới
4 Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật vào một hệ thống nhất định, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thực hiện áp dụng pháp luật
Nhờ công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật mà các cơ quan nhà nước
có thẩm quyeenfcos sự nhìn nhận, đánh giá một cách tổng quát đối với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, đặc biệt đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
do mình ban hành, phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo, những bất hợp lý, từ đó có những biện pháp để khắc phục, hoàn thiện về nội dung và hình thức của pháp luật
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp phục vụ cho việc thực hiện pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền Việc sắp xếp có trật tự và có hệ thống các văn bản quy phạm phá luật tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước, tổ chức người có thẩm quyền tìm kiếm nhanh chóng những quy phạm pháp luật cần thiế, làm sáng tỏ nội dung của chúng và nội dung đứng đắn
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục đích tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, đồng bộ khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, lỗi thời của các văn bản quy phạm pháp luật; làm cho nội dung của chúng phù hợp với thực tiễn xã hội
Có hai hình thức hệ thống hóa pháp luật, đó là : tập hóa và pháp điển hóa
- Tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật và sắp xếp các quy phạm pháp luật theo một trình tự lôgic nhất định Tập hợp hóa có thể tiến hành theo nhiều tiêu thức khác như: theo cơ quan ban hành hoặc lĩnh vực hoạt động nhà nước, theo ngành, theo cấp độ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật Việc tập hpj các văn bản quy phạm pháp luật không làm thay đổi nội dung văn bản, không bổ sung nội dung văn bản, mà chỉ loại bỏ những văn bản hoặc quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực pháp luật hoặc mâu thuẫn quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên Tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật
Trang 10có thể do cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tiến hành, trong đó tập hợp hóa các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành có một ý nghĩa rất lớn, nó
có tính chất hướng dẫn trong công tác thực hiện áp dụng pháp luật
- Pháp điển hóa là một hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền Hoạt động này gồm việc tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm, đồng thời loại những văn bản, quy phạm đã lỗi thời, mâu thuẫn, đưa thêm những quy phạm mới để thay thế, khắc phục những “ khoảng chống” của pháp luật, sữa đổi, bải bỏ những quy phạm hiện hành… Kết quả của công tác pháp điển hóa là một văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời hoặc có hiệu lực pháp lý cao hơn, tổng quát hơn, hoàn chỉnh hơn
Đó là một bộ luật, một đạo luật, một pháp lệnh, nghị định, một bộ tổng hợp pháp luật, trong đó các quy phạm pháp luật được sắp xếp một cách trật tự, lôgic, được thể hiện dưới hình thức chặt chẻ, nhất quán
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải tăng cường công tác tập hợp hóa và pháp điển hóa pháp luật nhằm tạo ra một hệ thống pháp luaatjhaonf thiện về nội dung và hình thức Tập hợp hóa và pháp điển là những công việc phức tạp, đòi hỏi phải được tiến hành phù hợp với những kỹ thuật lập pháp, lập quy Để có được hế thống pháp luật hoàn thiện, trước hết cần phải hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, lập quy, cần xác định rõ những loại quan hệ xã hội nào cần được điều chỉnh bằng văn bản luật, hay bằng văn bản dưới luật, cần hoàn thiện kỹ thuật xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
III THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1 Thực hiên pháp luật
Nhà nước ban hanh luật nhằm xác định những khã năng hành vi cách xử sự của mọi người, mọi tổ chức, cơ quan nhà nước Khã năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực trong đời sống khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế cảu các cá nhân, cơ quan, tổ chức
Tất cả những hành vi, xử sự được tiến hành phù hợp với các yêu câu của pháp luật đều được coi là thực hiện pháp luật, phù hợp với pháp luật
Căn cứ vào tính chất hoạt động thực hiện pháp luật, khóa học pháp lý đã chia ra các hình thức thực hiện pháp luật sau; tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật
- Tuân thủ pháp luật là việc thực hiện pháp luật mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức kiềm chế không thực hiện các hoạt động mà pháp luật ngăn cấm Ở hình thức nayfchir đòi hỏi con người tự kiềm chế mình thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm Chủ thể tuân thủ pháp luật là mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân, cán bộ, công chức …công dân Thí dụ: công dân kiềm chế không thực hiện những hành
vi vi phạm pháp luật
- Thi hành pháp luật là việc thực hiện pháp luật mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hoạt động tích cực
Hình thức chấp hành pháp luật đòi hỏi thực hiện nghĩa vụ pháp lý một cách tích cực Ở đây cần phải thực hiện hành động tích cực, cụ thể và chỉ có thể bằng hoạt động tích cực mới thực hiện nghĩa vụ của mình Chủ thể của hình thức chấp hành pháp luật là các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân, mọi cán bộ, công chức và mọi công dân