Chính vì vậy, đã đến lúc muốn khai thác một cách toàn diện và sâu sắc sự nghiệp của Xuân Diệu cũng như những đóng góp lớn lao của ông đối với nền văn học nước nhà, rất cần có những công
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÓNG GÓP CỦA XUÂN DIỆU TRONG SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA CÁC NHÀ THƠ CỔ ĐIỂN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2011
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******************
LƯƠNG THU THUỶ
ĐÓNG GÓP CỦA XUÂN DIỆU TRONG SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA CÁC NHÀ THƠ CỔ ĐIỂN VIỆT NAM
Trang 3MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài 3
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3 Phương pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu 6
4 Giới thiệu sơ lược cấu trúc luận văn 7
PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu.8 1.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ 8
1.1.1 Thơ trước hết là cuộc sống, cuộc sống trần thế nơi trần tục này 8
1.1.2 Thơ là trái tim chân thật, là qui luật tình cảm 11
1.2.Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ 13
1.2.1 Phương pháp phê bình nghiên cứu của Xuân Diệu 13
1.2.2 Những yêu cầu cần có ở một nhà phê bình thơ 21
1.3 Nhìn lại một số thành tựu nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu qua các chặng đường 23
1.4 Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển dân tộc 32
Chương 2: Đóng góp về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của Xuân Diệu với các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (qua Các nhà thơ cổ điển Việt Nam) 34
2.1 Bối cảnh văn hóa, tư tưởng chính trị những năm 1960, 1970 34
2.2 Những điểm hạn chế trong sáng tác phê bình của Xuân Diệu 37
2.3 Nghệ thuật viết phê bình của Xuân Diệu 45
2.3.1 Xuân Diệu- nhà thơ trong nhà phê bình………… 46
2.3.2 Xuân Diệu bình và giảng……….56
Trang 42.4 Những đánh giá của Xuân Diệu về các nhà thơ cổ điển Việt Nam với
các tác phẩm tiêu biểu: 70
2.3.1 Xuân Diệu với Nguyễn Trãi 70
2.3.2 Xuân Diệu với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du 75
2.3.3 Xuân Diệu với “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương 94
2.3.4 Xuân Diệu với nhà thơ các nhà thơ cổ điển khác (Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu) 99
PHẦN KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
Trang 5PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài:
Xuân Diệu là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam thế
kỉ XX Không chỉ là "hoàng tử thơ" mà ông còn là một nhà hoạt động kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực sáng tác văn học Chế Lan Viên đã có lần thốt lên rằng “năng suất của Diệu bằng cả một viện văn chương, mà Diệu vừa là viện trưởng, vừa là viện phó, vừa là loong toong, bởi vì chỉ một mình Diệu
đã viết hầu hết các danh nhân văn học” Cùng với sự nghiệp thơ ca nổi tiếng, ông còn để lại một khối lượng tác phẩm tiểu luận - phê bình phong phú, đồ sộ Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-
1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ
Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ”(1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II
(1982) và Công việc làm thơ (1984), Sự uyên bác với việc làm thơ”(1985)
Hơn ba nghìn trang sách, gần hai chục công trình, chỉ tính riêng các tác phẩm lí luận, phê bình, ta đã có thể gọi Xuân Diệu là một “đại gia”
Phê bình nghiên cứu văn học theo nghĩa như một hoạt động chuyên nghiệp, ở nước ta, lại ra đời khá muộn Tính cho đến nay thì trong thành tựu chung của văn học hiện đại nước nhà, phê bình vẫn phát triển chậm Xuân Diệu, đến lượt ông, khi viết phê bình, đã không ngần ngại lập nên danh sách năm tên tuổi lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thuỷ cho đến năm 1945: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú
Xương và Ðoàn Thị Ðiểm (nếu bà quả đúng là tác giả bản dịch Chinh phụ
ngâm hiện hành)
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là một công trình lớn của một nhà thơ
lớn viết về các nhà thơ lớn Tác phẩm chinh phục độc giả bằng những kiến giải uyên bác, những cảm nhận tinh tế của một nhà phê bình xuất sắc, một
Trang 6nghệ sĩ bậc thầy Xuân Diệu là một nhà nghiên cứu văn học sâu sắc, một nhà phê bình tinh tế, một nhà lý luận văn học độc đáo Bộ sách dày hai tập
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là một công trình đồ sộ về truyền thống thơ
ca nước nhà Những khám phá, những phân tích của ông về các nhà thơ cổ
điển cũng đã trở thành những nhận định "cổ điển" Ai đã đọc công trình Các
nhà thơ cổ điển Việt Nam”của thi sĩ Xuân Diệu mới thấm thía cái cách thi
nhân tự làm giàu mình bằng con đường học tập các bậc tiền bối của dân tộc Có thể thấy, Xuân Diệu là một tài năng lớn không chỉ ở lĩnh vực thi ca
mà cả ở lĩnh vực phê bình Với hai tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Xuân
Diệu đã xếp chỗ ngồi trang trọng và phù hợp cho các nhà thơ tiền bối mà tên tuỏi họ mỗi khi nhắc đến đều làm sống dậy trong lòng người Việt Nam một tình cảm yêu mến và tự hào Qua những trang bình thơ của Xuân Diệu,
ta được tiếp cận với một lối lý luận khúc chiết, sắc sảo, một cách thưởng thức và thẩm định đầy trách nhiệm đối với di sản văn học của tiền nhân Và
ta bị lôi cuốn bởi chất văn dào dạt thấm đẫm phong cách Xuân Diệu, khiến ông không lẫn với một ai khác Chất văn trong văn phê bình, không phải nhà phê bình nào cũng có được Chính vì thiếu chất văn nên một số bài phê bình lọt thỏm trên văn đàn và nhanh chóng rơi vào quên lãng Nhưng Xuân Diệu không thế, văn phê bình của ông là một thứ văn đầy hình tượng và thanh sắc
Tác phẩm Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là công trình chỉ có các nhà
phê bình lớn, nhà văn hóa thực sự uyên bác, tài hoa mới vươn tới được Hai tập sách thực sự là một công trình đồ sộ, một đóng góp lớn lao của nhà thơ Xuân Diệu trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học cổ điển dân tộc Tất nhiên, đó đây vẫn xuất hiện những nét cực đoan, quá khích, bị ảnh hưởng bởi quan điểm chính trị, giai cấp Đó là những hạn chế không thể tránh khỏi do bối cảnh của thời đại và do phương pháp phê bình theo lối xã hội học dung tục mang lại Nhưng không thể phủ nhận một điều rằng qua
Trang 7tâm hồn, tài năng và nghệ thuật, sự phân tích và diễn đạt của Xuân Diệu, những giá trị tinh hoa của văn học truyền thống từ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát đến Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn…đều hiện lên vô cùng gần gũi, thân thiết đối
với con người hôm nay Cùng với chân dung Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, người đọc đã nhận ra được chân dung của nhà thơ, nhà phê bình
Xuân Diệu uyên bác, cần mẫn, rất mực tinh tế và tài hoa
Tìm hiểu nghiên cứu đóng góp của Xuân Diệu ở lĩnh vực này sẽ giúp
ta rút ra được những bài học bổ ích, những kinh nghiệm quí báu cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền phê bình văn học hiện nay Mặt khác, Xuân Diệu là một tác gia văn học lớn Chính vì vậy, đã đến lúc muốn khai thác một cách toàn diện và sâu sắc sự nghiệp của Xuân Diệu cũng như những đóng góp lớn lao của ông đối với nền văn học nước nhà, rất cần có những công trình nghiên cứu chuyên biệt từng tác phẩm, từng chặng đường, từng phương diện sáng tạo của ông Và tất nhiên, trong đó chúng ta không thể không có những công trình chuyên sâu khám phá vẻ đẹp và những đóng góp của văn tài Xuân Diệu trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu văn học
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Luận văn muốn phân tích, tìm hiểu, phát hiện những đóng góp của Xuân Diệu trong việc đánh giá những giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của các tác giả văn học trung đại (bên cạnh những điểm còn hạn chế
trong phê bình của Xuân Diệu) qua Các nhà thơ cổ điển Việt Nam Qua đó,
chúng ta sẽ khẳng định được tài năng phong phú, đa dạng và vị trí tầm cỡ của Xuân Diệu trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XX
Trang 82.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu một cách hệ thống, tương đối toàn diện, đưa ra nhận xét, đánh giá về những thành tựu trong sự nghiệp
phê bình, nghiên cứu văn học trung đại của Xuân Diệu qua cuốn Các nhà
thơ cổ điển Việt Nam Để đạt được nhiệm vụ trên, chúng ta sẽ có sự so
sánh, đối chiếu với một số nhà phê bình văn học tiêu biêu cùng thời để bước đầu phát hiện những nét nổi bật và phong cách nghệ thuật phê bình Xuân Diệu Từ đó, ta khẳng định vị trí và đóng góp lớn lao của ông trong lĩnh vực sáng tạo này nói riêng và trong nền văn học nước ra nói chung
3 Phương pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1 Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận văn kết hợp vận dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
3.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Sự nghiệp phê bình văn học trung đại của Xuân Diệu rất phong phú Luận văn chỉ tập trung chỉ ra những đóng góp về mặt nội dung tư tưởng cũng như về giá trị nghệ thuật để từ đó làm nổi bật phong cách phê bình
của Xuân Diệu qua cuốn sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam Trong tác
phẩm này, rất nhiều gương mặt các tác giả cổ điển Việt Nam đã được nhắc tới, do khuôn khổ của luận văn nên chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại của một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…
Trang 94 Giới thiệu sơ lược cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của chúng tôi gồm hai chương sau đây :
Chương 1: Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu
Chương 2: Đánh giá về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của Xuân
Diệu với các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (qua Các nhà
thơ cổ điển Việt Nam)
Trang 10PHẦN NỘI DUNG Chương 1:
Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu 1.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ
Sở dĩ nói quan niệm văn học của Xuân Diệu trước hết và chủ yếu là quan niệm về thơ vì thơ chính là đối tượng xuyên suốt hoạt động phê bình nghiên cứu của ông
1.1.1 Thơ trước hết là cuộc sống, cuộc sống trần thế nơi trần tục này
Với Xuân Diệu, quan niệm bao trùm thơ đó là sự sống Quan niệm
này chi phối cả cuộc đời lao động sáng tạo của ông Nó không chỉ nhấn mạnh đến tầm quan trọng và mối quan hệ hữu cơ giữa thơ với cuộc sống
mà còn có tác dụng phê phán những quan niệm thần bí, thoát ly và dung tục hóa thơ Với ông, chân lý cuối cùng, chân lý cao nhất, suy đến cùng vẫn là cuộc sống Chân lý thứ hai mới là chân lý nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm thơ ở ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, từ ngữ, âm thanh Trước Cách
mạng, tuy nhiều lúc Xuân Diệu cảm thấy: “Rợn ở trong hồn một luồng gió
heo may lạnh toát” Hay:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
(Vội vàng)
Nhưng nỗi buồn và sự cô đơn đó xét ở chiều sâu của vấn đề lại là do quá yêu mê cuộc sống Yêu đến mức đắm say ngấu nghiến, cuồng nhiệt nên Xuân Diệu luôn có cảm giác e sợ, phấp phỏng Vì:
“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Trang 11Nói làm chi răng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.”
(Vội vàng)
Mặc dù là một nhà thơ lãng mạn, luôn say đắm trong tình yêu, thoáng qua,
tưởng là thơ thoát ly hiện thực nhưng trái lại đó chính là niềm khát khao
giao cảm với đời của Xuân Diệu Trong thơ ông không thiếu những vần thơ
thể hiện rõ quan niệm về mối quan hệ máu thịt giữa nhà thơ với cuộc đời
hay cuộc đời với nhà thơ:
“Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm.”
(Cảm xúc)
Hay:
“Kẻ đựng trái tim trìu máu đất Hai tay chín móng bám vào đời.”
Khái quát hơn, Xuân Diệu quan niệm bản chất của thơ “là sự cộng thêm
vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo” hay nói
cách khác, từ hiện thực cuộc sống, thông qua tâm hồn trí tuệ, biết lọc lấy
tinh chất và “đóng con dấu riêng” của cá tính sáng tạo và tác phẩm là
những khía cạnh thuộc bản chất của thơ Khi quan niệm về nhà thơ, Xuân
Diệu cho rằng làm thi sĩ là một cuộc đấu tranh, một sướng vui trong gian
khổ Người làm thơ không thể không trải qua một sự “rèn luyện cật lực”,
phải chân thực đừng mượn hơi người khác thổi cái bong bóng của mình
Trang 12Nhà thơ còn phải có tài, có vốn sống sâu rộng có bản lĩnh, phải biết hy sinh cho thi phẩm của mình Ông khẳng định: “Tôi sáng tác vậy thì tôi tồn tại”, hồn vía của nhà thơ là ở cây bút và tác phẩm Với Xuân Diệu, ngay từ thời
Thơ thơ và Gửi hương cho gió đến sau này Tôi giầu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh, Thanh ca ta thấy quan niệm về thơ của ông thường thì luôn có sự
nhất quán Khi đã ở tuổi sáu mươi, bản thân Xuân Diệu đã nói một cách tổng hợp về đời thơ và quan niệm làm thơ của mình: “Tôi muốn nói rằng tôi là cũ và tôi là hiện đại, và cả hai phương pháp sáng tác, hai “hồn thơ”, hai giai đoạn lịch sử của nước tôi hòa lẫn trong tôi Tôi không chút nào từ
bỏ các sáng tác về nước mình Tôi tìm thấy hạnh phúc giàu có hơn, sáng tạo hơn trong khi ở với cha tôi là Nhân dân và mẹ tôi là Tổ quốc”
Ở đây chúng ta có thể đối sánh quan niệm của Xuân Diệu và của Chế Lan Viên về thơ Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phức tạp, khúc khuỷu hơn Nếu như Xuân Diệu quan niệm thơ luôn phải là tiếng nói của tình cảm và sự nghiệp thơ ông cũng đã chứng minh điều đó, thì Chế Lan Viên dường như lại quan niệm thơ là tiếng nói của trí tuệ Từ trí tuệ mà tác động đến trái tim Trong quy trình sáng tạo thơ, theo Xuân Diệu cái chính không phải là vấn đề kỹ thuật mà cái chính phải là ở chất cảm xúc Nhưng nói như thế không có nghĩa là ông không coi trọng kỹ thuật làm thơ Trái lại, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ có quan niệm hết sức nghiêm túc, công phu, tỷ mỷ và sâu sắc về nghề thơ, “công việc bếp núc” của nhà thơ Tất cả những điều đó để đi đến một quan niệm có tính chất then chốt, điểm đến cuối cùng, hay điểm hội tụ các quan niệm về thơ của ông Đó là chất lượng của thơ Xuân Diệu quan niệm một bài thơ hay cũng cho biết được cả một tác giả, hay “tính sổ xong, cái còn lại của các nhà thơ
là những bài thơ hay” Ông quan niệm thơ hay là “một vấn đề quan trọng, một vấn đề nền tảng” Việc ông khẳng định thơ hay và phê phán thơ dở là làm tăng mỹ cảm cho người đọc, góp phần nâng cao chất lượng thơ Tóm
Trang 13lại, với Xuân Diệu, quan niệm nhất quán, bao trùm: Thơ là sự sống tươi trẻ, say mê, nồng ấm; thơ là sản phẩm của cảm xúc, của trí tuệ, là tinh chất cuộc đời Thơ là cuộc sống mà “Đã là cuộc sống, thì chẳng bao giờ chán nản”
Xuân Diệu càng quan tâm đến vấn đề chất sống, chất đời trong thơ bao nhiêu, Xuân Diệu càng đề cao tính chân thật của tác phẩm nghệ thuật bấy nhiêu Rất nhiều lần trong các bài nói chuyện, trong các công trình tiểu luận phê bình, Xuân Diệu vẫn hằng như một yêu cầu thường trục:
chủ quan, giữa sự am tường đời sống và một “nội tâm rất đầy” của nhà thơ, hay giữa ngoại cảnh và tâm cảnh Đối với Xuân Diệu, “cái giả” là một thứ hiểm hoạ và ông đã tuyên chiến với nó như tuyên chiến với cái xấu, cái ác,
“phải ghét cái giả như ghét rắn độc, thấy nó là phải triệt”
1.1.2 Thơ là trái tim chân thật, là qui luật tình cảm
Thơ vốn là thể loại thiên về phía bộc lộ cảm xúc, tình cảm « Thơ còn
là thơ nữa » là cách nói của Xuân Diệu về quy luật của nghệ thuật, quy luật của tác phẩm, cụ thể hơn là những đặc trưng của thơ, bí quyết của thơ-
« đức tính thơ » Xuân Diệu quan niệm nhà thơ lớn là nhà thơ nắm bắt được sâu sắc nhất qui luật của trái tim, con đường ngắn nhất để thơ đến với người đọc là con đường thẳng trực tiếp từ trái tim đến trái tim Cho nên
“đức tính” trước tiên của tác phẩm thơ cũng như của nhiều tác phẩm nghệ
Trang 14thuật khác là “sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình
cảm, một sáng tạo” Xuân Diệu cho rằng đây là một vấn đề khá tinh vi, “tất
cả chất liệu trong cuộc sồng đều có khả năng hoá thành thơ, nhưng không phải cái gì cũng ôtômatích ra thơ” cả Kế thừa và phát huy những quan niệm của thơ ca truyền thống dân tộc, Xuân Diệu cũng hết sức đề cao vai trò của tình cảm trong thơ
Xuân Diệu muốn qua đó để làm nổi bật “cái mà người ta đòi hỏi hơn cả ở văn học và đặc biệt là ở thơ, ở nhà thơ là dù nói đến người, đến vật, đến việc cũng phải tràn trề tình cảm” Thơ văn hay đối với Xuân Diệu bao giờ cũng ra đời trong nỗi niềm “đầy rẫy cảm xúc” như thế; nó là “quy luật của trái tim” Nhà thơ lớn, theo Xuân Diệu là người “nắm bắt sâu sắc nhất những quy luật của trái tim con người” Cùng quy luật với tình cảm, Xuân Diệu luôn có ý thức khẳng định quy luật thẩm mĩ như một phẩm chất đặc trưng của “đức tính thơ” : ”Không có giá trị thẩm mĩ, thì bất thành tác phẩm nghệ thuật”
Trong cuộc đời, cũng như trong nghệ thuật hình như bao giờ Xuân Diệu cũng muốn đến với mọị người, muốn làm sao cho mọi người hiểu mình và diễn đạt làm sao để những điều cao sâu nhất cũng vẫn dễ hiểu với nhiều người Có lẽ đây là một điểm khác nhau trong quan niệm về thơ giữa Xuân Diệu và Chế Lan Viên Một bên thiên về cảm xúc trực tiếp, một bên thiên về trí tuệ; một bên suốt đời làm quán để “tha hồ muôn khách đến”, để
“lắng nghe, dò xét tâm lí của con người, để mà bắt chộp cho được những trạng thái dặc biệt của tâm hồn, những thoáng run rẩy của nội tâm” Một bên suốt đời đi tìm ‘hương sắc lạ”, hướng về vẻ đẹp thơ gắn với cái đột biến, cái bất ngờ Cũng từ sự khác nhau ấy, mỗi nhà thơ đã mở ra một
Trang 15hướng thơ và tự làm nên những phong cách lớn trong nền thơ và nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại
Là trái tim chân thật, Xuân Diệu đòi hỏi văn học nghệ thuật không được giả dối một tí nào Đối với thơ, ông lại càng yêu cầu một cách riết róng, quyết liệt Xuân Diệu chấp nhận có thơ hay, thơ khá, thơ thường, thơ kém, thơ dở, thơ thành công nhiều ít hoặc thơ không thành công chứ nhất định đừng có thơ giả, cũng như “là vàng, là bạc, là đồng, là thiếc hay là chì, chứ nhất định đừng là vàng giả” Xuân Diệu coi đó là điều căn bản trước nhất vì đó không chỉ là chuyện văn chương mà còn thể hiện cả nhân cách người cầm bút Không phủ nhận thơ là một nghề, hiểu rất rõ “nghề thơ cũng lắm công phu”, nhưng Xuân Diệu không bao giờ coi cái tài, cái khéo
là quyết định tất cả… Cần phải “có hồn để sai khiến kĩ xảo”, cần phải có mạch đập trái tim sau từng con chữ thì thơ mới đi vào được cõi lớn rộng, dài lâu Muốn vậy, người làm thơ phải sống thật, yêu thật, phải hiểu việc đời, việc người vô cùng sâu sắc, còn “sống cạn như đĩa đèn” thì làm sao mà
có thơ hay được
1.2 Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ
1.2.1 Phương pháp phê bình nghiên cứu của Xuân Diệu
Phê bình có thể được nhìn như một phương tiện tập hợp vô số các văn bản và các hình thức diễn ngôn khác nhau vào một thế giới chung nhất có tên là văn học Trong chiều hướng này, người ta cũng có thể nói, như cách tóm tắt của Roger Webster: "Văn học có thể được nhìn như là sản phẩm của phê bình và lệ thuộc vào phê bình hơn là ngược lại” Nhà phê bình là kẻ đi tìm kiếm, mở rộng hoặc nâng cao các quy phạm chứ không phải là kẻ bảo vệ các quy phạm Một trong những nghịch lý lớn
Trang 16làm nên bản chất của phê bình là, một mặt, nó không thể không căn cứ trên một quan điểm thẩm mỹ nhất định nào đó, nhưng mặt khác, nó lại không được quyền trực tiếp nhân danh quan điểm thẩm mỹ ấy để tiến hành việc phê bình Nhà phê bình sẽ trở thành một kẻ nô lệ nếu xem một quan điểm thẩm mỹ nào đó như một chân lý có sẵn và bất biến, một thứ thước đo vượt thời gian và vượt không gian như một số người thường nói Ba chức năng phát hiện cái đẹp, quy phạm hoá cái đẹp và phủ định một số những quy phạm hiện có thường gắn liền chặt chẽ với nhau và cùng tồn tại trong mọi thời đại Tuy nhiên, tuỳ từng lúc, trong những điều kiện văn hoá đặc thù nào đó, một trong ba chức năng ấy sẽ được xem là quan trọng hàng đầu Phê bình, từ chức năng thứ nhất, tập trung vào những đối tượng cụ thể: một tác phẩm, một tác giả hoặc một trào lưu Nội dung chính của chức năng này là một phán đoán thẩm mỹ Ở đây điều kiện quan trọng hàng đầu nơi một nhà phê bình là khả năng biện biệt cái hay và cái dở
Trước hết, với Xuân Diệu, mỗi tác phẩm văn học nói chung, mỗi tập thơ nói riêng "là một cơ thể, một sinh vật", "một tác giả, một con
người", do đó "khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông, thấu hiểu"
Nghĩa là Xuân Diệu đã khẳng định sự cần thiết của khen, chê trong phê
bình văn học Bởi vì, theo ông, chê thơ mà không đúng thì rất có hại, sẽ
làm nản người viết; nhưng khen thơ không đúng thì cũng rất có hại vì
khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không
tốt, ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự
chân thật, sự thật thà Như vậy, khen, chê một cách xác đáng, phê bình
mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác
Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi cũng chính là ở chỗ này Bởi
lẽ, thái độ khen chê ấy không chỉ nói lên trình độ, tài năng, bản lĩnh mà còn
Trang 17thể hiện cả đạo đức của nhà phê bình Dù muốn hay không thì phê bình cũng phải lựa chọn và đánh giá Vốn đã từng tham gia giám khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là Chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấu hiểu cái khó khăn của công việc này Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là "nhà luật pháp" đầy
uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến việc khen, chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm Ý kiến của Xuân Diệu có lúc, có khi không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy Ở những mức độ khác nhau, cả người đọc và người được phê bình đều đón nhận
Tuy nhiên, để phê bình thực sự thuyết phục, Xuân Diệu rất coi trọng niềm thông cảm, thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác Xuân Diệu còn nhấn mạnh và giải thích rõ hơn, thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn cần phải thấu hiểu cả phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính của một nhà thơ Mặt khác, như trên đã nói, mỗi tác phẩm là "một cơ thể", "một sinh vật", "một tác giả", "một con người” - cũng có nghĩa là, ở trên đời không có những nhà thơ trừu tượng, mà chỉ có những nhà thơ cụ thể, bằng xương bằng thịt, làm thơ trong một hoàn cảnh
xã hội, gia đình, sức khoẻ cụ thể, trong một thời gian cụ thể của đời mình, tức là "một thi sĩ sống làm thơ, chứ không phải một thi sĩ trong óc người phê bình" Phê bình sở dĩ trở thành người bạn đường thường xuyên của văn học và không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá,
họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu Muốn làm được vai trò
ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác giả, tác phẩm và những kiến thức cần thiết khác Cũng theo Xuân Diệu, một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự
Trang 18thấu hiểu, sự cảm thấu Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba, nghĩa là sự sống tự nhân đến mức cao, là khám phá thấy loài người
ở trong một bản thân mình Vì thế, cần phải xác định, phê bình không phải
là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình,
mà nhiệm vụ chính của nhà phê bình trong quan niệm của Xuân Diệu
là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ" Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ của dân tộc, Xuân Diệu luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình Ông tra cứu, suy ngẫm từng bài thơ, ông gắn hoàn cảnh sáng tác với hoàn cảnh sống khi chưa có hướng đời của tác giả để cắt nghĩa một cách thấu đáo vẻ đẹp của nỗi buồn đau trong thơ ca xưa Vậy là, "đọc" có nghĩa là "sống" với tác giả, tác phẩm Sinh thời, trong phê bình, Xuân Diệu rất coi trọng việc đọc, đọc nhiều lần, nhiều cách để được cảm thấu bằng nhiều giác quan Phê bình văn học nói chung và bình luận thơ nói riêng còn thuộc phạm trù thẩm mỹ, phạm trù cái "gout", phạm trù khiếu thưởng thức Nhà phê bình, người đọc thơ có sở thích riêng của mình, còn người thi sĩ thì làm thơ với tư tưởng, tình cảm và với cả những tế bào của họ, không thể bảo anh ta đừng làm thơ với những tế bào riêng của anh ấy Xuân Diệu phân tích cặn kẽ và cho rằng, đây là những vấn đề rất tinh diệu và cũng rất tế nhị Nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, một nhận thức chung, nếu không thực sự tôn trọng cá tính của nhau và thông cảm với nhau
vì một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ Chính vì vậy, nhà phê bình không chỉ cần có lập trường quan điểm, vốn kiến thức, vốn hiểu biết nghề nghiệp kỹ thuật lao động thơ ca, mà còn phải có cái linh cảm của người nghệ sĩ chân chính, mới cảm được "cái hồn" toát ra từ tác phẩm; tức là phải có cái "linh nhãn" để "con mắt anh sắc hơn dao"; và theo ý Xuân Diệu, "con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc" Chỉ có như vậy, người phê bình mới tránh được bệnh hẹp hòi, mới vừa bộc lộ được cái
Trang 19"tạng" riêng của mình mà vẫn vượt qua được cái mình không được thích lắm, để phát hiện, biểu dương cái đẹp, cái khác lạ cùng với những ưu tú của một tập thơ, một thi sĩ Xuân Diệu biểu đạt ý tưởng này trong niềm đầy cảm hiểu của người sáng tạo: "Ta hãy khoan quy kết Cái người lặn mò ở trong biển thực tại ra một con sò không thông thường quen mắt, người đó
đã ở trong một cái thế chênh vênh rồi Muốn cầu an, người đó có thể ném cái con sò hiện tượng kia xuống biển trở lại; nhưng vì yêu chân lý, muốn
mở rộng tầm hiểu biết chung, người ấy đưa ra trình bày Nếu chúng ta vội quy kết thì sẽ làm cho bao nhiêu người khác coi cái việc gặp những con sò
lạ (chỉ lạ lúc đầu) là một cái tai vạ" Ở đây, dường như có sự gặp gỡ giữa Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn kiệt xuất và Nam Cao - nhà văn hiện thực sắc sảo nhất của nước ta, trong khát vọng "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa ai có" (Đời thừa) Phê bình văn học, ở một góc độ nào
đó, phải cùng chung khát vọng ấy mới thực sự là "người môi giới", là “bà đỡ” cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng không được "cầu an", phải "cải tạo cái lưỡi của mình" mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm
Quy luật lao động sáng tạo của con người bao gồm cả quy luật lao động nghệ thuật, là bao giờ cũng hướng tới cái đẹp Thơ vốn là tinh chất, là cái "nhụy" của đời sống, lại càng hướng tới sự biểu hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm con người Vốn là nhà thơ lớn của niềm khát vọng "vô biên" và "tuyệt đích", trong phê bình, Xuân Diệu muốn hướng người đọc tới cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ, tức là vẻ đẹp kết hợp hài hoà giữa
Trang 20giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung trong tác phẩm Đó cũng là cái bản lĩnh, bản sắc của tâm hồn và cuộc đời thi sĩ được biểu hiện qua văn chương của họ Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu rất tâm đắc, mến phục nhà phê bình nổi tiếng của văn học Trung Quốc - Kim Thánh Thán (1950-1648) Phải chăng, Xuân Diệu đã bắt gặp ở đây quan niệm phê bình văn học gần gũi với chính mình Phê bình dù đề cập đến xưa hay nay, đều không phải chỉ trả lời những vấn đề của quá khứ hoặc hiện tại mà còn là câu chuyện "tấc lòng" gửi đến mai sau; trong cái mục đích phục vụ vì mọi người, còn có cả "vì chính mình", vì "mình muốn làm duyên với người đời sau", muốn buộc người đời sau phải nhớ đến tên tuổi của mình Rõ ràng với
ý thức như vậy, phê bình văn học sẽ là nỗi niềm canh cánh bên lòng, là một nhu cầu của nội tâm; sẽ không đơn thuần lý lẽ mà tràn đầy cảm hứng Nó
xa lạ với thứ phê bình máy móc, áp đặt vì những mục đích ngoài văn học
Với Xuân Diệu, phê bình nghiên cứu văn học có hai mục đích: Một
là, để đưa thơ đến cho đại chúng, cho mọi người; hai là để “huýt nhụy mật” cho mình Vì thế Xuân Diệu rất coi trọng mối quan hệ giữa công chúng và nhà thơ, quan niệm về phê bình của Xuân Diệu là “khen chê chưa quan trọng bằng cảm thông và thấu hiểu”, nhiệm vụ của phê bình là phát hiện cho được cái hay, cái tuyệt vời, hoàn mỹ mà chúng ta cần phải vươn tới để nâng cao trình độ thẩm mĩ cho người đọc Thành tựu phê bình nghiên cứu văn học lớn về khối lượng và xuất sắc về chất lượng, cũng nói rằng Xuân Diệu đã sử dụng một hệ thống phương pháp có hiệu quả Chúng ta có thể thống kê một số phương pháp chính sau:
1.2.1.1 Phương pháp “mắt xanh điểm huyệt vào chất văn”
Là nhà thơ của “tôi giàu đôi mắt”, của “cái nhìn”, Xuân Diệu rất hay nói đến “mắt xanh” Trong quan niệm của Xuân Diệu “đôi mắt là cái giác
Trang 21quan trí tuệ hơn cả, chiếm lĩnh sự vật hơn cả, hình tượng đập vào mắt, đập vào tri thức, trí tuệ nên rất mạnh” Còn “mắt xanh” là mắt tinh nhạy, trẻ trung; là trẻ tri âm , tri kỉ, là gout, là sự thấu hiểu, là linh cảm để phát hiện trúng vấn đề” Thuật phê bình của Xuân Diệu có một loạt thao tác bắt đầu
từ “mắt xanh” ấy Xuân Diệu dùng mắt xanh như một công cụ đắc lực để tập hợp, lựa chọn, xác minh và xử lí văn bản Bước vào cõi linh diệu của thơ, để hiểu hồn thơ, Xuân Diệu dùng “mắt xanh điểm huyệt” để phát hiện nhãn tự, thần cú…
Lối phê bình này thường phát hiện tinh nhạy vấn đề, giàu chất văn và
có sức truyền cảm nhưng cũng dễ sa vào chủ quan, ấn tượng vì không ai có
“năng lực mắt xanh tuyệt đối cả Bản thân Xuân Diệu dù có năng khiếu thưởng thức thơ của một nhà phê bình, một siêu độc giả, có lúc không tránh khỏi hạn chế ấy
1.2.1.2 Phương pháp thể nghiệm đồng sáng tạo
Đây là một cách phê bình không đem những ý niệm có sẵn để áp đặt cho tác giả, tác phẩm mà luôn tìm mọi cách hoá thân vào hoàn cảnh sang tác cùng sống với những tâm tình vui buồn yêu ghét của tác giả từ đó để hiểu bằng cái nhìn của người trong cuộc
Xuân Diệu thường dựa vào những tài liệu có thực, tìm hiểu cặn kẽ hoàn cảnh lịch sử, xã hội, hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh cá nhân của mỗi nhà thơ; gắn liền thơ với đời mà hình dung tưởng tượng với tát cả niềm cảm hiểu và yêu mến “say sưa đầy rẫy” của mình Rõ nhất, thể hiện qua
công trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam
Có thể nói “vận mình vào chủ thể sáng tạo” là một cách thức phê bình giàu nội lực, phối hợp được nhiều thao tác ở ngòi bút Xuân Diệu Nhà phê
Trang 22bình đã vận mình được vào nhà văn nhà thơ, thì bản thân họ cũng là một chủ thể sang tạo, song đôi lúc, anh ta cũng dễ gán tâm lý mình cho người xưa Cách bình giảng một vài bài thơ, câu thơ của Hồ Xuân Hương…chừng
tỏ Xuân Diệu cũng vấp vào trường hợp như thế
1.2.1.3 Huy động triệt để vốn văn hoá, đờig sống vào trường liên
tưởng thẩm mỹ
Xuất phát từ khái niệm “trường liên tưởng thẩm mĩ”, có thể thấy được rằng Xuân Diệu có một trường thẩm mỹ rất rộng lớn, phong phú và sâu sắc Với đời sống, vốn văn hoá ấy Xuân Diệu không chỉ có tài liên tưởng so sánh trong thơ, mà còn vận dụng rất sinh động đắc đại vào văn tiểu luận, phê bình
So sánh đồng đại, so sánh lịch đại, so sánh để làm nổi bật vấn đề, để nhận thức sáng tỏ chân lí, để nhận diện bước tiến của từng nhà thơ và phong cách sáng tạo khác nhau giữa nhà thơ này và nhà thơ khác được Xuân Diệu với vốn tri thức và tình cảm đầy ắp của mình thể hiện một cách rất linh hoạt Nét đặc sắc ấy là trường liên tưởng so sánh trong văn tiểu luận- phê bình của Xuân Diệu rất uyên bác, phong phú nhưng không bao giờ tỏ ra sách vở bày biện hoặc “khoe chữ” Nó cứ diễn ra như một dòng chảy tự nhiên, bình dịh, dễ hiểu rất gần gũi với người đọc
Khát vọng bổ sung không ngừng nguồn tri thức, khát vọng “mở rộng văn chương” vẫn luôn là một nhu cầu tình cảm, trí tuệ của nhà phê bình Xuân Diệu cho rằng “một tâm trí uyên bác nhất định bao giờ cũng thấu tình đạt lí hơn một trí tuệ nông cạn”
1.2.1.4 Phương pháp phân tích tác phảm như một cơ thể sống, một
chỉnh thể nghệ thuật sinh động
Trang 23Với quan niệm sự sống bao giờ cũng có tính hoàn chỉnh; mỗi bài thơ là
“một cơ thể”, “một sinh vật”, “một tác giả”,”một con người”, Xuân Diệu thường dùng “mắt xanh” nhận xét bao quát toàn bộ thế giới nghệ thuật tác phẩm, ghi nhận ấn tượng chung của chỉnh thể nghệ thuật, sau đó mới đi vào
phân tích chi tíêt Ấy là cái nhìn “toàn cảnh lâu đài” Truyện Kiều, là ấn
tượng chung về ánh chiều thu buồn “tê đi tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui” trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, là thơ Nôm của Nguyễn Khuyến “lành và trong sang”
Xuân Diệu rất ghét lối cắt xén, cắt lìa câu chữ ra khỏi chỉnh thể rồi suy diễn, qui chụp Cách làm của Xuân Diệu là nếu có ‘điểm huyệt” cũng phải phân tích lan toả và cuối cùng phải xâu chuỗi, tổng hợp lại để mỗi chi tiết của tác phẩm nằm ở cái thế hồn nhiên của sự sống, mỗi đoạn văn được nằm trong văn mạch Đó là cách làm theo quá trình Tổng- Phân - Tổng như Chế Lan Viên từng nói Xuân Diệu là nhà phê bình coi trọng sự kĩ lưỡng của câu chữ, của văn bản, rất tâm đắc và vận dụng thuần thục phương pháp ấy
1.2.2 Những yêu cầu cần có ở một nhà phê bình thơ
Với Xuân Diệu, phê bình nghiên cứu có hai mục đích: Một là để đưa thơ đến cho đại chúng, cho mọi người Hai là để từ đó đúc rút những kinh nghiệm, bài học cho bản thân mình Vì thế Xuân Diệu rất coi trọng mối quan hệ giữa công chúng và nhà thơ Quan niệm phê bình của Xuân Diệu là
“khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông và thấu hiểu” Nhiệm vụ phê bình, theo Xuân Diệu là phát hiện cho được cái hay, cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ mà chúng ta cần phải vươn tới để nâng cao trình độ cho người đọc Vì thế, Xuân Diệu cho rằng phê bình không phải là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình, mà nhiệm vụ chính của
Trang 24nhà phê bình là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ"
Theo Xuân Diệu, nhà phê bình phải có ý thức về mục đích, nhiệm vụ
phê bình thơ Ông luôn xác định mục đích của phê bình thơ là làm cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và người đọc Phê bình thơ một mặt phải cổ vũ, động viên, khuyến khích được phong trào sáng tác; mặt khác phải đấu tranh chống những quan điểm cực đoan hoặc thô thiển dung tục về văn hoá văn nghệ Vấn đề quan trọng là vừa bảo vệ những giá trị đích thực của thơ, vừa giúp các tác giả có ý thức phán đấu nâng cao trình độ thưỏng thức, đánh giá thơ, hướng tới xây dựng một nền thơ hiện đại Về nhiệm vụ của phê bình thơ, Xuân Diệu khẳng định điều quan trọng nhất là phải đưa cái đúng, cái tốt, cái hay của thơ vào công chúng Muốn như thế , phê bình thơ phải có nhãn quan phóng khoáng Nhà phê bình phải có tầm nhìn rộng lớn, có quan niệm nghệ thuật chung về văn học và thơ một cách rõ ràng, phải có cái nhìn tổng quát trước khi đi vào phê bình chứ không phải trước mắt chỉ thấy tác giả, tác phẩm đó
Đối với Xuân Diệu, giới thiệu thơ cũng là một hoạt động phê bình thơ Ông giới thiệu nghệ thuật thơ ông, thơ của các tác giả lớn trong khu vực và nước ngoài Phê bình của ông không chỉ đóng khung với các tác phẩm đương đại mà đề cập cả những tác phẩm dân gian và cổ điển Về thơ
cổ điển, ông lại kết hợp phê bình và nghiên cứu, đánh giá tác phẩm trong đời sống đương đại - điều đó rất phù hợp quan niệm phê bình hiện đại Bên cạnh đó, theo Xuân Diệu, nhà phê bình thơ phải am hiểu đặc trưng của văn nghệ và đặc điểm của công việc sáng tác thơ Nhà phê bình phải phân biệt được phê bình thơ khác phê bình văn xuôi, hiểu sâu sắc
về nghệ thuật ngôn từ, nắm được những phép tắc trong nghệ thuật làm thơ
từ cổ truyền đến hiện đại…Thông thạo công việc làm thơ, cách thức làm thơ, đấy chinh là thế mạnh của nhầ phê bình thơ Xuân Diệu Mặt khác, đặc
Trang 25biệt quan tâm đến các hiện tượng và những quy luật sáng tạo ,theo ông, nhà phê bình phải am hiểu đặc điểm của sự sáng tác thơ, quá trình thi sĩ chế biến nguyên liệu chọn lọc từ cuộc sống để làm ra tác phẩm
Ngoài ra, để khắc phục sự khen chê tuỳ tiện không đúng trong phê bình thơ, Xuân Diệu cho rằng cần có trong đổi thống nhất về “thước đo” thơ, phải có những tiêu chuẩn thẩm mỹ vững vàng làm cơ sở cho việc đánh giá, bình luận Xuân Diệu đã vận dụng vào “công việc” phê bình thơ những tiêu chuẩn thẩm mỹ như thước đo về sự hài hoà giữa hình thức và nội dung, thước đo về tiểu tiết và tổng thể, thước đo về câu thơ hay, thước
đo về sự tương xứng của ngôn từ thơ…Hệ thống thước đo này càng phong phú, càng lập được nhiều giá trị của thơ Xuân Diệu đã vận dụng nhiều tiêu chí và đánh giá thơ có tình có lí Ông không ngại đấu tranh với những quan niệm sai để giữ vững chất lượng thơ trong phê bình
Đặc biệt, Xuân Diệu nhấn mạnh nhà phê bình thơ phải hiểu rõ và gần gũi với công chúng thơ Công chúng là mối quan tâm hàng đầu, là xuất phát điểm của Xuân Diệu khi đi vào sáng tác và nghiên cứu, phê bình, giới thiệu thơ Xem xét các vấn đề thực tiễn thơ, Xuân Diệu yêu cầu nhà thơ, nhà phê bình thơ phải hiểu rõ và gần gũi với công chúng thơ, mở rộng hoạt động phê bình viết và phê bình nói đến với công chúng càng nhiều càng tốt
1.3 Nhìn lại một số thành tựu nghiên cứu phê bình thơ của Xuân
Diệu qua các chặng đường
Chúng ta có thể thống kê những tác phẩm tiểu luận phê bình mà Xuân Diệu đã viết để có cái nhìn khái quát nhất về chặng đường sáng tác của ông:
Thanh niên với quốc văn (1945)
Trang 26Tiếng thơ (1951, 1954)
Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký)
Ba thi hào dân tộc (1959)
Phê bình giới thiệu thơ (1960)
Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961)
Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961)
Dao có mài mới sắc (1963)
Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966)
Đi trên đường lớn (1968)
Thơ Trần Tế Xương (1970)
Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971)
Và cây đời mãi xanh tươi (1971)
Mài sắt nên kim (1977)
Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978)
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982)
Tìm hiểu Tản Đà (1982)
1.3.1 Thời kì Thơ mới (1932- 1945)
Trang 27Thời 1930 –1945, Xuân Diệu sáng danh là một nhà thơ Cùng với
hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió và tập truyện ý tưởng Phấn thông vàng,
những bài tranh luận văn học sôi sổi của Xuân Diệu đăng trên các báo, tạp
chí Ngày nay, Phong hoá, Tao đàn…đã góp phần tích cực làm nên chiến
thắng của Phong trào Thơ mới nói riêng, và trào lưu văn học lãng mạn của nước ta bấy giờ nói chung Ngay từ khi đó, ông còn sáng danh là một nhà
phê bình mặc dầu ông viết không nhiều Trên báo Ngày nay thời ấy xuất hiện một loạt bài phê bình mang tên ông như : Thơ khó, Tính cách An Nam
trong văn chương, Mở rộng văn chương, Thơ Huy Cận, Công của thi sĩ Tản Đà…Xuân Diệu đã có nhiều bài tranh luận văn học sôi nổi đăng trên
các báo khác như Phong hóa, Tao đàn… Một số bài khác được tập hợp in lại trong “Thanh niên với quốc văn” Những tác phẩm nay đã nói lên quan
niệm sống, quan niệm thơ ca của Xuân Diệu, góp phần tích cực làm nên chiến thắng của Phong trào Thơ mới Có thể coi đây là chặng đường đầu tiên báo hiệu bản lĩnh của một nhà thơ, một nhà phê bình, một quan niệm cởi mở về tính dân tộc của văn chương
Không thể “thoát ra ngoài cuộc đời”, Xuân Diệu luôn dề cao vai trò tưởng tượng trong thơ, đồng thời vẫn phân biệt : ”có trí tưởng tượng sáng tạo và có trí tưởng tượng chỉ là “con mẹ điên ở trong nhà”, có cái điên của người thi sĩ do cảm xúc mãnh liệt quá mức, thường xuất phát từ niềm si mê, say đắm đời sống và cái điên bệnh hoạn, ồn ào “đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây, tôi điên đây!” Cái nhìn và lí lẽ của Xuân Diệu chưa hẳn đã toàn diện và hoàn toàn thuyết phục, song lí tưởng và giọng văn tranh luận của ông thường thẳng thắn chân tình hàm chứa khát vọng cách tân nền thơ dân tộc
Trang 28Theo Xuân Diệu, văn chương là một sự sáng tạo, người viết văn còn phải truyền sự sống, thêm sự sống vào cho người thường; nó không chỉ dừng lại
ở sự mô tả mà thôi, văn chương còn là sự dò xét, sự đoán hiểu…Vì vậy, Xuân Diệu nhiệt tình cổ vũ cho sự sáng tạo cái mới với mục đích văn học làm sao diễn tả, biểu hiện cho sự sống đa dạng, phong phú và phát triển không ngừng của tâm hồn con người Việt Nam Xuân Diệu hào hứng và sôi nổi :
“Chúng ta phải tạo thêm, bày đặt ra những cách dung mới mà xưa kia các
cụ không chịu tìm; và lại chúng ta ở thế kỉ XX, chúng ta có những cái phức tạp mà các cụ không có ”
…”đốt đi, củi sẽ cháy; tưới đi, đất sẽ ướt; ta cứ nói đến sự sống mãnh liệt, đầy đủ, tất nhiên những tâm hồn Á Đông sẽ có sự hưởng ứng…Người Á Đông giấu trong lòng một ngọn lửa thần như than lấp dưới tro, ta phải làm cho ngọn lửa ấy biểu lộ”
Tất nhiên, cũng phải thấy rằng, trong cái nhìn và quan niệm của Xuân Diệu về tính dân tộc thời bấy giờ đôi lúc chưa thể tránh khỏi phiến diện và cực đoan Chẳng hạn như ông viết: “Chúng ta nay chịu ảnh hưởng của văn học Âu Tây nhưng ta phải ngoan lên nhiều lắm, đã tỉnh dậy nhiều lần, đã không nô lệ cho văn học nước ngoài Ta đã biết làm như Laphontaine: “Sự bắt chước của ta không phải là sự nô lệ” chứ ngẫm cái quá khứ văn học của
ta mà xem, cha ông ta đã bắt chước Tàu một cách tệ hại dường nào Đành rằng ta gần Tầu hơn gần Tây ,nhưng chúng ta xưa đã ăn cắp hẳn chứ không chịu ảnh hưởng”
Có lẽ, cách nói quá lên này âu cũng là căn bệnh thường gặp của bất
kì một cuộc cách tân nào ở vào buổi đầu của nó
Trang 29Những bài viết về thơ Tản Đà, thơ Huy Cận có thể coi là bài mở đầu cho sự phê bình văn học của Xuân Diệu
Bằng niềm tin tri ân tinh nhạy giữa những tâm hồn đồng điệu, Xuân Diệu phát hiện những cái mà “lần đầu” thi sĩ Tản Đà đem đến cho thơ Việt Nam: lần đầu “người ta được nghe một giọng nói dịu dàng trong trẻo, nhẹ nhõm
có duyên” của một tấm lòng thực thà hé phơi và người ta cảm động”; lần đầu, Tản Đà dám vẩn vơ, dám mơ mộng, dám cho trái tim và linh hồn có quyền sống cái đời riêng của chúng, lần đầu “ông tự nhiên để cho bản ngã của mình tràn ra ngoài khuôn khổ Từ những nét đặc sắc ấy, chính là phong cách nghệ thuật và đóng góp của thơ Tản Đà: “say, ngông và mộng, ba điểm ấy làm cho thơ ông nhẹ nhàng phóng khoáng, Tản Đà đã có một bản ngã đó là công trình của ông trong thơ Việt Nam”
Có lẽ, Xuân Diệu là người viết đầu tiên và cũng là người viết kĩ lưỡng
nhất về thơ Huy Cận Thực ra Xuân Diệu biểu dương thơ Huy Cận qua Lửa
thiêng cũng chính là khẳng định sự chiến thắng của cả Phong trào Thơ mới:
nói “không phải là rượu đã rót vào chén” mà là “men đưa lên”, không phải
“hoa sẵn trên cành” mà là “dòng nhựa đương chuyển”, không phải là “lời hứa hẹn nữa “ mà đã là “lộc xanh tố”t, đem đến một hương sống lạ lùng Ở
đây đã có sự bắt gặp của cả một thế hệ nhà thơ, nhà phê bình trong cái nhìn
về vị trí của Tản Đà trong nền thơ ca dân tộc, và tác dụng của thơ Tản Đà đối với thế hệ mình Xuân Diệu kể lại xúc động “Một vài kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà: “Tôi sẽ là người bội bạc nếu tôi quên cả một thời tuổi nhỏ, thời toi đã yêu, đã mê thơ của thi sĩ Tản Đà….Cả một thời thơ ngây của tôi
đã nhuần thấm cái vẩn vơ, cái mộng của người trích tiên, tôi đã có một cớ
để yêu người đến mê say…
Trang 30Từ lúc mười ba tuổi, đã chép những bài thơ Tản vào sổ con, với “cảm giác mơ hồ như hứng lấy một bóng trăng thanh” và “mở mở hiểu ra rằng người thi sĩ là lạ, khác khác, không phải những người quen biết của Tản
Đà, và nhận ra “những bài thơ đạo mạo, hoặc sâu thẳm, nhưng bao giờ cũng khô khan nhạt nhẽo, đăng ở Nam Phong thì bì sao được những câu ca dao bay bổng cảu Nguyễn Khắc Hiếu đăng ở Hữu Thanh”
Xuân Diệu mê và phục Tản Đà từ “cách dùng chữ tinh xảo”,”mẹo luật
li kì và một âm nhach chảy trôi, bay bướm”, mê từ “những vần giản dị, êm ngọt, đọc nghe lanh lảnh bên tai”… đến “những câu thoát dịch thơ Tàu”
Yêu thơ, yêu lây đến văn, yêu đến làm độc giả trung thành và ngong ngóng đợi chờ từng số An Nam tạp chí để được đọc thơ Tản Đà [44, 310]
Tuy nhiên, cũng ở hồi ức này, đoạn cuối Xuân Diệu viết :”Càng lớn tôi càng cần sự tha thiết, sự mãnh liệt mà tôi không thấy trong thơ Tản Đà Cái thích hôm nay không giống cái thích ngày trước và một ngày mai lại không còn cái thích hôm nay” Vì thế, Xuân Diệu đã chọn một con đường khác cho hướng đời và hướng thơ của mình Phải chăng đó là biểu hiện bản lĩnh của một nhà thơ lớn, nhà phê bình lớn trong tương lai
Chúng ta thấy ngay từ đầu Xuân Diệu cũng như một só nhà thơ nhà phê bình thời ấy quan niệm Thơ mới sở dĩ thành công không chỉ là sự tiếp thu
của thơ ca Tây Âu mà còn là sự góp nhặt “bao nhiêu cái đẹp tốt của Á
Đông, nhất là cái lửa tro nồng ấm bên trong và cái xa vắng mênh mông của thời cũ” Bài học đáng quý vè sự đổi mới văn học có thể rút ra từ đây
là dám phê phán cái yếu kém của chính mình, biết hào hứng nồng nhiệt mở rộng giao lưu tiếp thu cái mình chưa có, nhưng không bao giờ rời xa nguồn cội Cũng như vậy có rễ càng sâu thì bóng cành mới có sức cao lan toả
Trang 311.3.2.Những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954)
Cách mạng tháng Tám thành công đã giải phóng dân tộc ra khỏi xiềng xích nô lệ và mở ra một chân trời mới cho sáng tạo văn học nước nghệ thuật Đối với một thế hệ nhà thơ đã từng “chín mấy mùa thương đau” trong xã hội cũ, những năm kháng chiến chống Pháp là giai đoạn chuyển mình, rèn luyện để hoà nhập với cuộc sống mớí Một số bài viết buổi đầu
của Xuân Diệu như Nhân xem quyển Nguyễn với bút danh Triều Mai, Văn
hoá Việt Nam sẽ không đi theo nấm mồ văn hoá Pháp đều nằm trong mạch
bày tỏ quyết tâm “lột xác” và “nhận đường” cảu nhiều nghệ sĩ lúc bấy giờ Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Xuân Diệu cùng nhiều anh chị em văn nghệ lên chiến khu Việt Bắc Năm 1947, Xuân Diệu công tác ở Đài
truyền hình Việt Nan, và theo hồi kí Những kỉ niệm chung quanh Tạp chí
văn nghệ thì bắt đầu từ số 5 (2/1948) ông viết mục Tiếng thơ cho tờ tạp chí
này Tuyển tập cái bài viết ấy, Nhà xuất bản Văn nghệ đã in thành sách
Tiếng thơ, ấn hành vào năm 1951 là đóng góp nổi bật của Xuân Diệu trong
lĩnh vực phê bình văn học ở giai đoạn đầu xây dựng nền văn nghệ mới “Tiếng thơ” ở đây cũng là “tiếng đời”, “tiếng của kháng chiến”, tiếng của sự sống” Xuân Diệu coi mình viết “tiếng thơ” là đã làm một thứ bút kí lấy giọng của nhiều người để dần dà nói cho được cái tiếng rất thơ của thời đại” Ông đã lắng nghe, lượm lặt thơ ca từ mọi miền đất nước Có hình dung những gian khổ, khó khăn của giao thông liên lạc và phương tiện
in ấn thời bấy giờ, mới thấy hết nhiệt tình và công phu của Xuân Diệu trong việc sưu tập tư liệu để “lọc những cái hay”,”cốt gợi một không khí ca hát”
và làm nên tiếng thơ
Xuân Diệu phát hiện một căn bệnh ấu trĩ thường gặp của thời đại là
bệnh sáo Ông phê phán mạnh mẽ những căn bệnh hình thức chủ
nghĩa, chạy theo câu chữ, sang hàng, chặt cắt câu thơ một cách tuỳ tiện mà cho là “mốt” Ông yêu cầu, mỗi chứ trong bài thơ đứng ở đầu đều có lí do,
Trang 32mỗi hình thức của thơ đều phải gắn với tư tưởng, tình cảm hoặc quan niệm của người thi sĩ; ông nhấn mạnh cái đức tính bậc nhất của thơ là vương vấn lấy người đọc in sâu vào trí nhớ, bắt người ta phải thuộc Thơ quyến rũ người đọc nhờ hình ảnh, nhịp điệu, âm nhạc, là một bài thơ hay thực sự bao giờ cũng hay “cả hồn lẫn xác”
Có thể khẳng định rằng, cùng với “nói chuỵện thơ kháng chiến “của nhà phê bình Hoài Thanh, “Tiếng thơ” của Xuân Diệu là những tác phẩm phê bình có vị trí xứng đáng mở đầu cho nền phê bình văn học nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám
Xuân Diệu đã sớm nhập cuộc kịp thời, hòa vào cuộc sống chung của dân tộc sau sự thành công của Cách mạng tháng Tám 1945 “Tiếng thơ” là
sự thể hiện thái độ và hành động nhập cuộc tích cực ấy Xuân Diệu coi mình viết “Tiếng thơ” là làm một thứ bút kí lấy giọng nhiều người để dần
dà nói lên cho được cái tiếng rất thơ của thời đại Có thể coi đây là một trong những tác phẩm mở đầu cho nền phê bình của văn học nước ta sau Cách mạng tháng Tám
1.3.3 Từ 1955- 1985
Đây là chặng đường Xuân Diệu vẫn tiếp tục ra mắt bạn đọc nhiều tập thơ mới, nhưng cũng là ba mươi năm Xuân Diệu dồn nhiều tâm sức cho hoạt động phê bình nghiên cứu văn học Các tác phẩm tiêu biểu của giai
đoạn này có thể kể đến như Những bước đường tư tưởng của tôi (1958),
Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Và cây đời mãi mãi xanh tươi ( 1971), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập I, tập
II (1981, 1982)…Các tác phẩm đã cho thấy bút lực dồi dào và sung mãn của Xuân Diệu
Có thể coi Công việc làm thơ như là một trong những giá tập giáo trình
của Xuân Diệu về nghề thơ mà suốt đời ông đã say mê và muốn truyền lại
cho lớp trẻ Bài tiểu luận cuối cùng Sự uyên bác với việc làm thơ (viết vào
Trang 33tháng 11/1985) mà Xuân Diệu chưa kịp đọc tại Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ ba (12/1985) cũng nằm trong mạch trí tuệ và cảm xúc ấy
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2 tập) (nhà xuất bản Hà Nội tập 1-
1981, tập 2 -1982) thực sự là một công trình đồ sộ, một đóng góp lớn lao của nhà thơ Xuân Diệu trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học cổ điển dân tộc Qua tâm hồn, tài năng và nghệ thuật phân tích, diễn đạt của Xuân Diệu, những giá trị tinh hoa của văn học truyền thống từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát đến Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn….đều hiệ lên vô cùng gần gũi, thân
thiết với con người hôm nay Cùng với chân dung Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, người đọc còn nhận ra được chân dung của nhà thơ, nhà phê bình
Xuân Diệu uyên bác, cần mẫn và rất mực tinh tế, tài hoa
Như vậy là, cùng với hệ thống tác phẩm thơ (từ thơ lãng mạn đến thơ cách mạng) Xuân Diệu còn có một hệ thống tác phẩm phê bình, nghiên cứu, giới thiệu thơ không kém phần đồ sộ, gắn liền với quá trình vận động và phát triển của nền thơ ca nước ta trên con đường hiện đại hóa, cách mạng hoá suốt hơn nửa thế kỉ Thơ vốn là thời sự, tâm hồn của dân tộc và thời đại Vì vậy nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong văn phê bình của Xuan Diệu cũng vô cùng phong phú Theo cách “xâu chuỗi” vấn đề của Xuân Diệu, để tìm hiểu sâu hơn đóng góp của ông ở lĩnh vực này, trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của chuyên luận, dưới đây chúng ta sẽ tập trung phân tích mảng phê bình (đề tài nổi bật) nhất, xuyên suốt các trước tác của ông để lại
Trên đây chúng ta đã cùng điểm lại một số tác phẩm, công trình tiêu biểu của Xuân Diệu qua các chặng đường lớn trước khi đi vào tìm hiểu
mảng đề tài lớn (gia tài văn học cổ điển dân tộc) của Xuân Diệu qua “Các
nhà thơ cổ điển Việt Nam” Có thể thấy một điểm chung là tất cả những
Trang 34bài phê bình tiểu luận này báo hiệu một năng lực cảm nhận tinh tế, giàu sức phát hiện của nhà phê bình Xuân Diệu, dự báo những đóng góp lớn của ông cho lĩnh vực phê bình văn học
1.4 Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển dân tộc
Xuân Diệu tiếp cận gia tài này với ý thức “để biết quá khứ mà lo liệu cho tương lai”, và cũng như một nhu cầu giải toả nội tâm, không phải để đánh giá mà chính là để cho “thoả lòng yêu thương dân tộc, yêu thương quốc văn, yêu thương những tài tử lớn, họ vượt qua những hạn chế của thời đại cũ, đóng góp tiếng nói lớn cho dân tộc Việt Nam, cho nhân loại”
Với tâm huyết ấy, nắm vững quan điểm lịch sử, nêu cao thái độ đối
với vốn cũ văn hoá dân tộc là “gạn đục khơi trong”, công trình Các nhà
thơ cổ điển Việt Nam của Xuân Diệu đã giới thiệu hầu hết các danh
nhân tiêu biểu cho tinh hoa văn học cổ điển nước nhà
Trong những cây đại thụ của làng thơ Việt Nam, Xuân Diệu vẫn được xem là một trong những người cẩn trọng trong việc khen - chê Nếu như Chế Lan Viên hay viết biểu dương phong trào thì hầu như Xuân Diệu chỉ đi vào nghiên cứu tìm hiểu tác giả, mà chủ yếu là những tác giả cổ điển Xuân Diệu đã nỗ lực tiến hành nghiên cứu các đỉnh cao trong thơ ca quá khứ dân tộc Ông tìm hiểu một cách có hệ thống và làm sống lại đẹp đẽ những nhà thơ cổ điển dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… Không chỉ sắc sảo trong nhìn nhận và đánh giá những bậc tiền bối về những đóng góp của họ cho văn học, Xuân Diệu còn phát hiện nhiều điều lý thú qua cái nhìn thi sĩ của ông về những tác phẩm của các nhà thơ cổ điển này Trước Xuân Diệu, chưa có một nhà phê bình văn học nào có những đánh giá một cách hệ thống và thấu đáo như ông về các nhà thơ cổ điển Việt Nam Qua những trang bình thơ của Xuân Diệu, ta được tiếp cận với một lối lý luận khúc chiết, sắc sảo, một cách thưởng thức
Trang 35và thẩm định đầy trách nhiệm đối với di sản văn học của tiền nhân Và ta bị lôi cuốn bởi chất văn dào dạt thấm đẫm phong cách Xuân Diệu, khiến ông không lẫn với một ai khác - dù là những người cùng nghiên cứu về cùng một đề tài cùng một tác giả văn chương
Xuân Diệu không có điều kiện để đi sâu, đi kĩ vào sự nghiệp sáng tác của từng tác giả với tất cả các mặt ưu và nhược rõ ràng hoặc uẩn khúc trong quá trình sáng tác Thiên hướng của Xuân Diệu là biểu dương cái hay, chọn sáng tác hay nhất của từng tác giả để khai thác, bình luận Ở đây, Xuân Diệu có thể phát huy khả năng bình luận sắc sảo và khá độc đáo của mình Anh không nghiên cứu toàn diện quá trình sáng tác mà chú ý bình cái hay về nội dung cũng như nghệ thuật Những ý kiến của Xuân Diệu đều có những khám phá riêng, độc đáo bổ sung vào những thành tựu mà giới nghiên cứu đã đạt được Công trình của ông không thay thế được nhiều khâu nghiên cứu quan trọng nhưng có những gợi ý, bổ sung đáng quý Ông
đã có những cảm thụ tinh tế, chính xác Ngoài ra, đó còn là tinh thần trách nhiệm và khám phá vẻ đẹp của sáng tác cổ Ngòi bút của Xuân Diệu như vượt khỏi giới hạn của thời gian mà hòa vào tác phẩm Người đọc hứng thú
ở những khám phá sâu sắc, những bình luận tinh tế của ông về các bài thơ, nhà thơ cổ điển Việt Nam
Trang 36Chương 2:
Đánh giá về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của Xuân Diệu với
các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (qua Các nhà thơ cổ
điển Việt Nam)
2.1 Bối cảnh văn hóa, tư tưởng chính trị những năm 1960, 1970
(Bối cảnh phê bình trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam)
Giai đoạn này, văn nghệ vẫn đi theo khuynh hướng triệt để của văn chương 1945- 1975 : khuynh hướng mácxít nhất quán Điều đó xuất phát
từ những mục tiêu cao quý và thiêng liêng mà những nhà văn hóa, và nói riêng là những người cầm bút chân chính, tình nguyện hướng tới : Độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, thống nhất của đất nước Nói như Chế Lan Viên : Nếu ông cha ta có để lại cho con cháu di sản văn chương phong phú
“ lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, mà lại để mất nước, thì ta chọn
di sản nào đây ? Hãy nhớ lại lời căn dặn của Hồ Chí Minh tại Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ ba :“Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự
do Văn nghệ muốn tự do thì phải đi theo cách mạng” Ngay sau sự ra đời
của Đề cương văn hóa 1943, trong bài Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận
động văn hóa Việt Nam lúc này (Tiên phong, số 2), Trường Chinh nhấn
mạnh :“ Các nhà văn hóa phải lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh thần trong dân tộc và dùng duy vật biện chứng làm kim chỉ nam Con đường của
họ phải là con đường tả thực xã hội chủ nghĩa duy nhất đúng và tiến bộ” Chúng ta có thể thấy sức ảnh hưởng lớn lao của cuộc Cách mạng tháng Tám tới các tầng lớp văn nghệ sĩ, Xuân Diệu của chúng ta không phải là một ngoại lệ
Xuân Diệu (1916-1985) là một nhà văn hóa lớn, song khi nói đến ông phần lớn ai cũng nhìn thấy ông là một nhà lớn của dân tộc Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp thơ rất lớn lao và giá trị Hơn 50 năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ ca Xuân Diệu đã có sự
Trang 37chuyển biến rõ nét từ nhà thơ lãng mạn thành một nhà thơ cách mạng Trước Cách mạng Tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn tiêu
biểu cho Phong trào Thơ Mới Tác phẩm nổi bật là Thơ thơ (1938), Gửi
hương cho gió (1945) Nội dung chính của thơ ông trong thời kỳ này là
niềm say mê ngoại giới, khao khát giao cảm cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời và tình yêu cuộc sống; Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái Tôi bé nhỏ; Nỗi ám ảnh về thời gian trôi nhanh và lẽ sống vội vàng; Một khát vọng tình yêu vô biên tuyệt đỉnh, nỗi đau của một trái tim đắm say, nồng nhiệt mà không được đền đáp xứng đáng…Sau Cách mạng Tháng Tám, từ một nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu trở thành một nhà thơ cách mạng Thơ ông thể hiện tâm hồn hân hoan tràn đầy chất men say lý tưởng của người nghệ sĩ trước
lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng Thơ ông mang cảm hứng mạnh
mẽ đối với những đề tài liên quan đến Đảng, Bác Hồ, Tổ quốc và công
cuộc thống nhất nước nhà Các tác phẩm tiêu biểu ở thời kỳ này là: Ngọn
quốc kỳ, Hội nghị non sông, Một khối hồng, Riêng chung,…Đặc biệt, ông
vẫn tiếp tục làm thơ tình với quan niệm tình cảm lứa đôi hoà quyện cùng tình yêu tổ quốc, tứ thơ vẫn tràn đầy chất sục sôi, đắm say, nồng nhiệt… Bên cạnh việc đem đến cho nền thơ ca Việt Nam một nguồn cảm hứng yêu đời dào dạt, một quan niệm nhân sinh mới mẻ, Xuân Diệu còn đóng góp vào nền thơ một thế giới thơ giàu giá trị thẩm mỹ cùng một cái tôi giàu bản sắc Ông là người đã tìm ra nhiều kiểu cấu trúc hiện đại cho câu thơ, nhiều hình ảnh độc đáo, tân kỳ cho thơ ViệtNam, Vì thế, ảnh hưởng của Xuân Diệu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại là rất to lớn và sâu đậm
Ăn chịu với kháng chiến tám năm ròng, rồi Xuân Diệu sẽ hiểu rằng
từ nay, đời mình chỉ có một phương hướng duy nhất:
“Lên non, em cũng theo lên Xuống bể, em cũng ngồi bên mạn thuyền”
Trang 38Nam Chi, một nhà nghiên cứu sống xa quê hương, từng nhận xét một cách thân tình về sự chuyển hướng của Xuân Diệu sau 1945: “Xuân Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần thế, cho những người ăn vì cần ăn chứ không phải ăn cho vui miệng Thơ Xuân Diệu ngày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay là manh áo nâu sứt chỉ đường tà” Chi phối bước đi của Xuân Diệu trên phương diện thi ca, cái hướng mà Nam Chi nói ở đây quả thật với một trí thức như Xuân Diệu là một bước rẽ ngoặt, một cuộc cách mạng Cuộc Cách mạng như vậy đến với người làm thơ một cách từ từ không gây ra những đảo lộn có tính chất đứt gẫy mà nó chỉ yêu cầu một sự thích ứng mỗi ngày một ít Mặt khác, Cách mạng luôn luôn có sự đền đáp, sự thưởng công thích đáng Trong xã hội mới người nghệ sĩ không thuộc ngạch bậc nào người nghệ sĩ có vẻ như đứng ngoài mọi sự sắp xếp thứ bậc song nói chung họ được coi trọng Đi kèm với danh hiệu cao quý là một sự đãi ngộ đáng kể đến mức một người hay tính toán như Xuân Diệu không cảm thấy mình bị thiệt
Như vậy bối cảnh để Xuân Diệu viết tác phẩm Các nhà thơ cổ
điển Việt Nam là giai đoạn tư tưởng dân tộc, tư tưởng giai cấp, chính trị
đang đè nặng lên vai các văn nghệ sĩ Xuân Diệu đã đi theo cách mạng Ông đã đi từ “thế giới của một người” đến với “thế giới của tất cả” Ông đã thành công trong việc thực hiện quá trình “lột xác” của mình Tư tưởng chính trị, cách mạng, kháng chiến đã thấm nhuần vào trong con người ông Và tất nhiên những sáng tác văn thơ nói chung của ông và những sáng tác phê bình nói riêng sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ điều này Do áp lực của công tác chính trị nên trong nhiều bài phê bình của Xuân Diệu, chúng ta sẽ thấy xuất hiện yếu tố cơ hội chủ nghĩa, cái nhìn có phần
cực đoan của tác giả Mặt khác, giai đoạn Xuân Diệu viết Các nhà thơ
cổ điển Việt Nam là khi phương pháp phê bình xã hội học dung tục
đang “chế ngự”, thống trị Chính vì thế nên trong tác phẩm này ta sẽ thấy
Trang 39được cái tinh tế trong phát hiện của Xuân Diệu về các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Nhưng đồng thời ở đây ta vẫn thấy còn sót lại những tàn dư của cái nhìn bảo thủ, dấu vết, sự tác động của bối cảnh thời đại Điều này xem ra cũng là khó tránh khỏi Làm được như thế, chúng ta sẽ có cái nhìn
đa chiều và khách quan hơn về sáng tác phê bình của tác giả này
2.2 Những điểm hạn chế trong sáng tác phê bình của Xuân Diệu
Chúng ta khi nhìn lại chặng đường sáng tác phê bình của Xuân Diệu có những điểm hạn chế cần phải chỉ ra Điều này là vô cùng cần thiết Những hạn chế này một phần là do tác động của bối cảnh xã hội mang lại , mặt khác bắt nguồn từ cá nhân Xuân Diệu
Như ta đã biết, Xuân Diệu là một đại diện tiêu biểu - là “nhánh” tạo được thanh thế lớn hơn cả, và đương thời, thành tựu của “nhánh” này cũng được phổ biến sâu rộng hơn cả Điều đó, cộng với sự tự ý thức rất cao về tài năng và vị thế cá nhân trong làng thơ (như nhiều câu chuyện đời thường cho thấy) có thể là nguyên nhân dẫn đến ở Xuân Diệu, trong những lúc nào
đó, có một lối nhìn thơ, thẩm thơ, định giá thơ rất Xuân Diệu! Nghĩa là, ông lấy chính ông, lấy chính những nguyên tắc sáng tạo thơ ca đã khiến ông đạt được thành công rực rỡ hồi những năm 1930 làm “vật chuẩn” để đo các tác giả, tác phẩm thơ khác - cụ thể là các tác giả, tác phẩm xuất hiện sau ông Cái gì “lệch chuẩn”, “vượt chuẩn” đều bị ông phê phán khá nghiêm khắc Oái oăm thay, trong số những cái “lệch chuẩn”, “vượt chuẩn” ấy lại có những cái đích thực là sáng tạo báo trước một chân trời mới của thi ca Nghĩa là, nói cách khác, ở nhà thơ “mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh) đã xuất hiện “điểm dừng bảo thủ”: ông không chấp nhận bị phủ định bởi cái mới hơn mình của các nhà thơ lớp sau Ví dụ rõ nhất cho phản ứng này là việc Xuân Diệu phê phán thơ không vần của Nguyễn Đình Thi trong Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc
Trang 40năm 1949 Lấy các bài Đêm mít tinh, Sáng mát trong như sáng năm xưa,
Đường núi, Không nói của Nguyễn Đình Thi làm căn cứ, Xuân Diệu phê
rằng: “Các ý đầu Ngô mình Sở”, “các đoạn trong tứ thơ không dính nhau ,
“những nét thơ rất đẹp nhưng chỗ này một nét chỗ kia một nét, tán loạn như trong một bức tranh siêu thực” Ông nhận xét: “Anh Thi rất tiết kiệm chữ, nhưng lại tiết kiệm quá”, và phê: “Nếu đúc quá độc giả không theo kịp được, thì cũng không còn là thơ nữa” Về chuyện không vần trong thơ Nguyễn Đình Thi, tuy Xuân Diệu không phản đối trực tiếp, song ông lại nêu chủ trương thơ phải có vần, vì những lẽ sau: vần như là chỗ nghỉ hơi, vần như là chỗ “để hồn thơ tựa vào câu thơ một cách vững chắc”, vần giúp công chúng và tác giả dễ nhớ dễ thuộc, vần gắn với thói quen của quần chúng và tiếng Việt Không khó nhận thấy sự phê phán và những yêu cầu của Xuân Diệu chính là được rút ra từ sự đối chiếu giữa các đặc điểm thi pháp của thơ Nguyễn Đình Thi với các đặc điểm thi pháp đã làm nên tên tuổi Xuân Diệu sáng chói giữa làng Thơ Mới: nếu thơ Nguyễn Đình Thi đã
là sự thể nghiệm “mang tính tiền phong nghệ thuật rõ rệt” trong văn nghệ kháng chiến thì sự định giá thơ Nguyễn Đình Thi của Xuân Diệu lại in đậm dấu ấn của thơ thuần túy lãng mạn chủ nghĩa, ở đây các yêu cầu về vần và
về sự liên hệ cú pháp - ngữ nghĩa vẫn được xem trọng Nói cách khác, nếu chỉ xét riêng chặng phê bình thơ Nguyễn Đình Thi trên cuộc đời thơ Xuân Diệu, thì với dấu ấn của nhà lãng mạn trong chặng này, Xuân Diệu đã bộc
lộ rõ phương diện bảo thủ của mình, sức cản của mình đối với sự sáng
tạo liên tục và mạnh mẽ trong thơ Trong thành phần tham gia thảo luận,
bên cạnh “khổ chủ” Nguyễn Đình Thi chỉ có một số rất ít người đứng về phía ông: đó là Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng Những người đứng về phía “chống” lại thơ Nguyễn Đình Thi gồm hầu hết số còn lại: Xuân Diệu trình bày đề dẫn và phát biểu thêm 2 lần nữa; Thanh Tịnh