Điều này giúp cho không những vạch ra được tính bất đẳng cấu ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ khác nhau, mà còn cho phép thâm nhập sâu hơn vào những quy luật ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ để từ
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- -
VŨ LINH CHI
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHỮNG TỪ NGỮ BIỂU THỊ PHONG TỤC
CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI VIỆT
(SO SÁNH VỚI NGƯỜI ANH)
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2010
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- -
VŨ LINH CHI
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHỮNG TỪ NGỮ BIỂU THỊ PHONG TỤC
CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI VIỆT (SO SÁNH VỚI NGƯỜI ANH)
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN
HÀ NỘI – 2010
Trang 3MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài 3
2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3 Phương pháp nghiên cứu 4
4 Ý nghĩa 6
NỘI DUNG Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản về đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ 1.1 Khái niệm văn hoá và ngôn ngữ 8
1.2 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và tư duy 9
1.3 Sự phản ánh đặc trưng văn hoá – dân tộc trong ngôn ngữ 12
1.3.1 Đặc trưng văn hoá-dân tộc trong ý nghĩa của từ 12
1.3.2 Đặc trưng văn hoá-dân tộc qua “bức tranh ngôn ngữ về thế giới” 13
1.3.3 Đặc trưng văn hoá-dân tộc qua định danh ngôn ngữ 16
1.3.4 Đặc trưng văn hoá-dân tộc trong cách biểu trưng 19
1.4 Tiểu kết 20
Chương 2: Đặc điểm định danh các hiện tượng thuộc phong tục cưới xin của người Việt (trong sự so sánh với người Anh) 2.1 Định nghĩa về phong tục 21
2.2 Lịch sử hôn lễ của người Việt 21
2.3 Đặc điểm định danh của nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin 24
2.3.1 Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc 24
2.3.2 Đặc điểm định danh xét từ góc độ cách thức biểu thị 33
Trang 42.3.2.1 Đặc điểm cấu tạo của tên gọi 33
2.3.2.2 Đặc điểm đồng nghĩa của tên gọi 35
2.3.2.3 Những đặc trưng được chọn để định danh 37
2.4 Tiểu kết 41
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của trường từ vựng biểu thị phong tục cưới xin của người Việt và người Anh 3.1 Cấu trúc ngữ nghĩa của trường từ vựng biểu thị phong tục cưới xin 43
3.1.1 Phân tích nghĩa vị 43 45
3.1.2 Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa 61 63
3.2 Mối tương quan giữa đặc trưng định danh và đặc trưng ngữ nghĩa 65
3.3 Ý nghĩa biểu trưng của tên gọi các hiện tượng thuộc phong tục cưới xin trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Việt 66 68
3.4 Tiểu kết 73 75
KẾT LUẬN Tài liệu tham khảo 78 81
Phụ lục 83 86
Trang 5MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Trong quá trình giao tiếp giữa các cộng đồng văn hoá dân tộc khác nhau, xảy ra không ít những trường hợp người ta không hiểu nhau, thậm chí hiểu lầm nhau Điều này một phần do những người tham gia giao tiếp chưa lĩnh hội được hết những kiến thức ngôn ngữ, một phần nữa là do sự thiếu hiểu biết về "phông" văn hoá xã hội của hành vi giao tiếp Chính vì vậy, hiện nay, trong lĩnh vực tâm lí ngôn ngữ học và lí thuyết giao tiếp, vấn đề đặc trưng văn hoá dân tộc của tư duy và giao tiếp ngôn ngữ ngày càng được nhiều người quan tâm nghiên cứu
Tuy nhiên, những vấn đề này ở Việt Nam còn khá mới mẻ và lần đầu tiên được bàn đến tại Hội thảo “Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá” được tổ chức vào năm 1992 tại Hà Nội Phần lớn các báo cáo của Hội thảo này đã tập trung nghiên cứu về mặt lí luận Có thể kể tên một số tác giả tiêu biểu như: Trần Ngọc Thêm, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Trịnh Thị Kim Ngọc, Ngoài ra, còn có một số tác giả khảo sát chuyên sâu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá như Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Quang,
Vấn đề đặc trưng văn hoá dân tộc của tư duy và giao tiếp ngôn ngữ là một lĩnh vực tuy còn khá mới nhưng có rất nhiều bổ ích và thiết thực nên chúng tôi đã chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này
2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nói tới đặc trưng văn hoá - dân tộc, chúng ta không thể không nhắc tới các thành tố văn hoá mà qua đó sắc thái đặc trưng dân tộc được thể hiện rõ nét như phong tục, truyền thống, nghi lễ, nghệ thuật
Phong tục cưới xin là một hiện tượng khá lí thú Trong phong tục cưới xin tồn tại nhiều hành vi thực tế mà chưa được định danh, chưa được ngôn từ
hoá Ví dụ như: tục giã cối đón dâu của người Việt Khi đám rước dâu về tới
đầu ngõ, một người lấy chày giã vào cối đá, đôi khi giã mạnh đến vỡ cả cối
Trang 6Chày cối, theo quan niệm dân gian, là hình giống của nam và nữ Giã cối có ý nghĩa tượng trưng cho hành vi giao phối và là tượng trưng cho sự sinh sôi nảy
nở Hay như tục mẹ chú rể cầm chiếc bình vôi lánh mặt trước khi cô dâu bước
vào nhà Có quan niệm cho rằng bình vôi tượng trưng cho của cải trong nhà Nhưng có quan niệm cho rằng bình vôi là vật tượng trưng cho bà chúa trong
nhà Tại sao bình vôi lại là uy quyền, của cải? Chữ vôi (chữ Nôm) được viết bằng chữ khôi (Hán-Việt) Khôi chính nghĩa là tro, là màu xám Chữ khôi có nhiều từ đồng âm Trong đó có chữ khôi (bộ quỷ) nghĩa là đứng đầu và chữ
khôi (bộ ngọc) nghĩa là quý báu Vì thế, hành vi bà mẹ chồng lánh mặt sang nhà hàng xóm có nghĩa là trao quyền lo công việc nhà cho cô con dâu Nhưng cầm bình vôi là có ý vẫn giữ vai trò nắm quyền điều hành
Đối với những hành vi chưa được định danh như trên, chúng tôi sẽ không xét tới trong luận văn này do thời gian có hạn Chúng tôi chỉ khảo sát những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin của người Việt trong sự so sánh với những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin của người Anh
Những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt và tiếng Anh
là đối tượng mà luận văn hướng tới để tìm hiểu Bởi thứ nhất, cưới xin là phong tục mà dân tộc nào cũng có nhưng các từ ngữ để biểu thị các hiện tượng thuộc phong tục này ở các dân tộc lại rất khác nhau; thứ hai, đây là nhóm từ ngữ hàm súc cả về nghĩa từ vựng lẫn các thành tố văn hoá và tương đối khép kín Điều này rất thuận lợi cho việc nghiên cứu Thêm vào đó, những
từ ngữ này chưa được khảo sát một cách toàn diện Vậy nên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn này là: xem xét đặc điểm quá trình định danh nhằm ghi lại kết quả của sự tri giác, phạm trù hoá khúc đoạn hiện thực khách quan phong tục cưới xin này và xem xét cấu trúc ngữ nghĩa của những từ ngữ biểu thị phong tục ấy
3 Phương pháp nghiên cứu
Trang 7Để giải quyết vấn đề được nêu ra, trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa Đây là phương pháp nghiên cứu mặt nội dung các đơn vị có ý nghĩa, được nêu ra trong phạm vi ngữ nghĩa học
cấu trúc và có mục đích là phân giải ý nghĩa của từ ngữ ra thành các nghĩa vị (hay còn được gọi là các nét nghĩa) Đối tượng phân tích bằng phương pháp
này là tất cả những từ liên quan với nhau về ngữ nghĩa Phương pháp này có
ưu điểm là có thể phát hiện ra được những mặt căn bản của ý nghĩa của từ và
có thể sử dụng một cách hiệu quả để nghiên cứu hệ thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ, giải quyết những vấn đề của ngữ nghĩa từ vựng như vấn đề đa nghĩa, đồng nghĩa; và sự phân tích thành tố nghĩa có thể được sử dụng vào phân tích đối chiếu một loạt ngôn ngữ Điều này giúp cho không những vạch ra được tính bất đẳng cấu ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ khác nhau, mà còn cho phép thâm nhập sâu hơn vào những quy luật ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ để từ đó
có thể nhận ra những đặc trưng văn hoá dân tộc của một trường từ vựng - ngữ
nghĩa cụ thể
Bên cạnh phương pháp phân tích thành tố vừa nêu ở trên, một phương pháp nữa thường được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ học đó là phương pháp thống kê Chúng ta biết rằng, các hiện tượng ngôn ngữ không chỉ có những đặc trưng về chất mà còn có cả đặc trưng về lượng Do đó, những đánh giá về lượng đã nhiều lần được sử dụng khi nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ khác nhau Trong nhiều trường hợp, những sự khác biệt về chất của các cấu trúc ngôn ngữ chỉ có thể giải thích bằng những sự khác biệt về lượng Thêm vào đó “cần áp dụng thường xuyên hơn tư duy toán học, định lượng trong ngôn ngữ học và bằng cách đó, sẽ ngày càng làm xích gần hơn ngôn ngữ học với các khoa học chính xác”- I.A.Boduen de Curtenê (dẫn theo [59, 90])
Phương pháp thứ ba mà chúng tôi áp dụng trong luận văn này là phương pháp đối chiếu Phương pháp này nhằm làm sáng tỏ những nét tương
Trang 8đồng và khác biệt giữa các ngôn ngữ Việt và Anh để từ đó giúp cho việc dạy
và học ngoại ngữ tốt hơn
4 Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Như đã nêu ở trên, phong tục cùng với truyền thống, nghi lễ, nghệ thuật, là những thành tố văn hoá mang đậm nhất sắc thái đặc trưng dân tộc
Có những phong tục chỉ có ở một dân tộc nhất định nào đó nhưng có những phong tục lại phổ biến cho nhiều tộc người Cưới xin thuộc loại thứ hai Phong tục cưới xin tồn tại ở tất cả các dân tộc trên thế giới Tuy nhiên, giữa các dân tộc, phong tục này có sự khác biệt Và không phải ai cũng có thể hiểu hết những ý nghĩa của phong tục đó Vì thế, tìm hiểu về những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin của người Việt và người Anh sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa những nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt và dân tộc Anh
Giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đề cập ở trên sẽ mở ra những hướng đi, những cách tiếp cận vấn đề mang tính thời sự của tâm lí ngôn ngữ học tộc người như tính tương quan giữa hành vi ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của các cá nhân thuộc cộng đồng văn hoá ngôn ngữ khác nhau và mối quan hệ tương hỗ giữa ngôn ngữ và tư duy Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa trong việc biên soạn từ điển như: cần thiết loại bỏ hay thêm vào những lời định nghĩa của các mục từ những yếu tố thuộc về văn hoá Thêm vào đó,
nó sẽ giúp ích rất nhiều cho việc học ngoại ngữ Ngoài ra, nó còn giúp ích trong công tác giảng dạy tiếng Việt và tiếng Anh như một ngoại ngữ Bởi dạy một thứ tiếng cho người nước ngoài như một ngoại ngữ hay học một thứ tiếng nước ngoài không chỉ dạy và học cách nói mà còn phải dạy và học cách tư duy cũng như truyền thống văn hoá của dân tộc nói thứ tiếng ấy Nếu không
sẽ xảy ra những trường hợp thường được gọi là “sốc văn hoá” trong khi giao tiếp giữa những người thuộc những cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ khác nhau
Trang 9Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản về đặc trưng văn hoá - dân
tộc của ngôn ngữ
Trong chương này chúng tôi sẽ bàn về một số vấn đề cơ bản như: khái niệm văn hoá và ngôn ngữ; mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và tư duy; sự phản ánh đặc trưng văn hoá - dân tộc trong ngôn ngữ
Chương 2: Đặc điểm định danh các hiện tượng thuộc phong tục cưới xin của người Việt (trong sự so sánh với người Anh)
Chương này đề cập tới những vấn đề như: định nghĩa về phong tục; lịch
sử hôn lễ của người Việt; đặc điểm định danh của nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của trường từ vựng biểu thị
phong tục cưới xin của người Việt và người Anh
Chương này được dành cho các vấn đề: cấu trúc ngữ nghĩa của trường từ vựng biểu thị phong tục cưới xin; ý nghĩa biểu trưng
của các hiện tượng cưới xin trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Việt
Trang 10
NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẶC TRƯNG VĂN HOA - DÂN TỘC CỦA NGÔN NGỮ
1.1 Khái niệm văn hoá và ngôn ngữ
Khi nghiên cứu về vấn đề đặc trưng văn hoá-dân tộc của tư duy và giao tiếp ngôn ngữ, câu hỏi đầu tiên được đặt ra cho các nhà nghiên cứu đó là: văn hoá là gì? nó có chức năng gì?
Để trả lời cho câu hỏi này, đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hiện
tượng được gọi là văn hoá Dưới đây là một vài định nghĩa mà được nhiều
nhà nghiên cứu chấp thuận:
Giáo sư Trần Quốc Vượng trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam đã khẳng định: “Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi thiên nhiên Thiên nhiên đặt ra trước con người những thử thách, những thách đố Văn hoá là sản phẩm của con người, là phản ứng, là sự trả lời của con người trước những thách đố của tự nhiên Văn hoá, xét ở mỗi cá nhân, cũng như ở mỗi cộng đồng còn là
do lịch sử hun đúc nên Những số phận, vận mệnh lịch sử khác nhau tạo nên những văn hoá khác nhau”
Giáo sư Phan Ngọc cho rằng Văn hoá không phải là kỹ thuật, không
phải là hoạt động tinh thần hay hoạt động chính trị xã hội, cũng không phải là
phong tục tập quán, mà “văn hoá là dấu ấn của một tập thể cộng đồng lên mọi
hiện tượng tinh thần, vật chất, mọi sản phẩm của tập thể cộng đồng này từ tín ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp bán ra thị trường.” [43, 21]
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã phân biệt khái niệm và cấu trúc giữa văn hoá và văn minh Theo ông, văn hoá
chứa đựng cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, mang tính dân tộc và có bề
Trang 11dày lịch sử Còn văn minh chỉ một trình độ thiên về giá trị vật chất và kĩ thuật,
có tính quốc tế
Theo Hà Quang Năng, “văn hoá theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được con người biến đổi, để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một cách nhìn, một quan niệm về vũ trụ, về thế giới với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những cách nhận thức Văn hoá bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ, mang tính lịch sử
và tạo cho nó một bề dày, một chiều sâu Được duy trì bằng cơ chế tích luỹ và truyền đạt kinh nghiệm trong cộng đồng qua không gian và thời gian nên văn hoá luôn tồn tại và phát triển”.[39, 66]
“Văn hóa là một tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần được con người tạo ra và được phát triển theo lịch sử, khác với các đối tượng của tự nhiên” (Từ điển bách khoa Xô Viết) (dẫn theo [59,16])
Qua một vài định nghĩa về văn hoá như đã nêu ở trên, có thể rút ra một nhận xét về văn hoá như sau: văn hoá với tư cách là một hiện tượng xã hội - bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã và đang được một cộng đồng người tích luỹ Văn hoá bao gồm những đặc trưng sau: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử Trong đó tính lịch sử thể hiện truyền thống văn hoá là những giá trị tương đối ổn định (kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội, được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người theo không gian và thời gian và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ
Còn về khái niệm “ngôn ngữ” cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau Nhưng quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu đồng ý nhất là coi “ ngôn ngữ
là một hiện tượng xã hội ( không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là hiện tượng xã hội đặc biệt) và ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, là công cụ của tư duy”
1.2 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và tư duy
Trang 12Giữa ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ trong sự phát triển, tác động qua lại lẫn nhau Ngôn ngữ vừa là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, vừa là thành tố cấu tạo nên văn hóa, đồng thời cũng là phương tiện lưu giữ giá trị văn hoá một cách bền chắc và khá đầy đủ Mặc dù chúng ta không thể có được nội dung trọn vẹn của một nền văn hoá nhờ ngôn ngữ, vì không phải lúc nào ngôn ngữ cũng truyền tải một cách đầy đủ nền văn hoá mà nó đang hành chức nhưng ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ khăng khít, cùng hình thành từ hoạt động giao tiếp, gắn liền với hoạt động nhận thức của con người Và nếu như ngôn ngữ là hình thức, là công cụ của hoạt động giao tiếp thì văn hoá chính là nội dung của nó Ngôn ngữ vừa là phương tiện trao đổi giữa các nền văn hoá, đồng thời là phương tiện liên hệ, kế thừa giữa các thế
hệ trong sự phát triển tinh thần của cộng đồng sử dụng nó Chính vì vậy
“ ngôn ngữ là tấm gương thực sự của nền văn hoá dân tộc" - E.S.Veresaghin, hay nói như A.T.Agaép “chính ngôn ngữ được một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này đã thực hiện chức năng đặc trưng dân tộc” Đồng thời,
“chính sự đặc thù của văn hoá được biểu hiện trong ngôn ngữ đã quy định đặc trưng văn hoá dân tộc của hành vi nói năng ở những người thuộc cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ khác nhau”- Nguyễn Đức Tồn [59,23] Chẳng hạn, nhìn vào tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt, chúng ta nhận thấy một nền văn hoá dân
tộc mang đậm màu sắc của những cư dân nông nghiệp như: chuồn chuồn bay
thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm/ ráng đàng đông vừa trông vừa chạy, ráng đàng nam vừa làm vừa chơi/ đom đóm bay ra trồng cà trồng đỗ/ ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng/ con trâu là đầu cơ nghiệp/ đổ thóc giống ra mà ăn/ chiêm khê mùa thối/ cổ cày vai bừa/ đầu trâu mặt ngựa/ một nắng hai sương/ ăn củ ủ nhiều/ ôm rơm nặng bụng/ ra môn ra khoai/ kéo cày trả nợ/ con sâu làm rầu nồi canh/ mò cua bắt ốc/ rẻ như bèo/ đắt như tôm tươi Đó là những lát cắt cuộc sống của cư dân có nền văn hoá
được xây dựng từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước
Trang 13Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, một vấn đề mà chúng ta không thể không nhắc tới đó là vấn đề tư duy của những người thuộc cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ đang được xem xét Bởi vì “nói đến khái niệm văn hoá - dù hiểu rộng hay hiểu hẹp - trong định nghĩa của nó bao giờ cũng có
chú trọng đến nét riêng biệt về mặt tinh thần, mặt tâm lí giữa các dân tộc; hay nói cho cụ thể hơn (như nhiều học giả quan niệm) đó là lối nghĩ riêng , cách
tư duy riêng của dân tộc đó về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh,
của tự nhiên, của xã hội và con người của đất nước đó, lãnh thổ đó” ”- Lý Toàn Thắng [53, 2] Vậy những biểu hiện của lối nghĩ ấy, cách tư duy ấy có thể tìm thấy ở đâu? Có thể thấy rằng không tìm ở đâu dễ dàng, nhanh chóng
và thực tế hơn là nghiên cứu và khảo sát ngôn ngữ của nền văn hoá đó Vì ngôn ngữ là phương tiện phản ánh tư duy con người Chẳng hạn, khi so sánh đại từ nhân xưng giữa tiếng Anh và tiếng Việt, chúng ta thấy có sự khác biệt rất lớn
+ Mày, ấy, cậu, bạn, + You
Chúng/bọn mày, bọn ấy, bọn cậu, + You
Trang 14tiếng Việt, ngoài yếu tố trung tính tương đương- “tôi”, người Việt còn sử dụng một loạt các yếu tố hàm chỉ thái độ, tình cảm tích cực- “tớ, mình” hay tiêu cực – “tao” Đối với các đại từ thuộc ngôi thứ nhất, số nhiều, ngôi thứ hai
và ngôi thứ ba, trường hợp cũng tương tự Điều này chứng tỏ người Anh thể hiện tính khách quan trong xưng hô còn người Việt biểu hiện tính chủ quan Bênfu cạnh đó, người Việt thường dùng danh từ thân tộc để xưng hô như
anh, chị, em, ông, bà, bác, chú, cô, dì, cháu, Như vậy có thể nhận thấy từ
xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú Qua cách xưng hô có thể nhận thấy
tư duy của người Việt rất coi trọng tôn ti trật tự, có trên có dưới Trong khi đó người Anh lại coi trọng hơn về sự bình đẳng, dân chủ
1.3 Sự phản ánh đặc trưng văn hoá dân tộc trong ngôn ngữ
Theo Nguyễn Đức Tồn, có thể nhận thấy đặc trưng văn hoá - dân tộc được thể hiện qua những bình diện sau đây:
1.3.1 Đặc trưng văn hoá - dân tộc trong ý nghĩa của từ
Như trong phần 1.2 đã khẳng định: lối nghĩ, cách tư duy của một dân tộc có thể dễ dàng tìm thấy qua sự nghiên cứu và khảo sát nền văn hoá của chủ thể cộng đồng ngôn ngữ của nền văn hoá đó Nhưng phải chăng tất cả các khía cạnh của ngôn ngữ đều thể hiện rõ bản sắc văn hoá của dân tộc “Hiện nay, dễ dàng chấp nhận hơn cả là nghiên cứu phương diện ngữ nghĩa để tìm hiểu bản sắc văn hoá của một ngôn ngữ” - Nguyễn Huy Cẩn [3,24] Và đi sâu thêm nữa thì đó trước hết là ngữ nghĩa của các từ Vì ý nghĩa của từ là một dạng tri thức về thế giới Trong ý nghĩa của từ có lưu giữ lại sự hiểu biết của con người đã thu nhận, tích luỹ được trong quá trình nhận thức thế giới khách quan Các tri thức đó phản ánh trình độ hiểu biết mà ý thức xã hội đã đạt được
ở giai đoạn hiện tại A.N.Lêônchép, A.R.Luria nhận xét: “Thông qua ý nghĩa của mình, từ thể hiện quá trình phản ánh trực tiếp, cảm giác về thế giới”,
“chính ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, đặc biệt là từ và từ tổ, đã thể hiện hình thức tồn tại tinh thần của thế giới sự vật, các thuộc tính và quan hệ của
Trang 15nó đã được thực tiễn chung của xã hội khám phá ra, nhưng đã được cải biến trong ý nghĩa của từ cũng còn lưu giữ lại cả những yếu tố của nền văn hoá dân tộc như: các hình ảnh, cách so sánh truyền thống, sự đánh giá, sự biểu trưng, Chẳng hạn, nhiều dân tộc dùng hình ảnh của các loài cây khác nhau để chỉ tính cách của con người, để chỉ phẩm chất của con người Người Việt dùng hình ảnh của cây tùng, cây bách để nói đến người quân tử Dùng cây liễu để nói đến dáng vẻ yểu điệu của phụ nữ Dùng hương thơm của bông hoa nhài để nói đến vẻ đẹp tinh khiết, trong trắng, thanh lịch của các cô gái thành thị (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An) Dùng cây tre để biểu thị sự cứng cỏi, kiên cường, Còn đối với người Nga, cây sồi là biểu trưng của sức mạnh, cây bạch dương thể hiện cho sự trong sạch, thanh thoát, cây liễu được dùng để biểu thị cho sự mảnh dẻ, yếu đuối, cây dương xỉ biểu trưng cho sự chết chóc
Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận: việc nghiên cứu phương diện ngữ nghĩa của một ngôn ngữ cho phép tìm hiểu được nét độc đáo về văn hoá- dân tộc của chủ thể ngôn ngữ ấy
1.3.2 Đặc trưng văn hoá - dân tộc qua “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”
Khi nghiên cứu về đặc trưng văn hoá - dân tộc, một vấn đề mà các nhà nghiên cứu thường đề cập tới đó là “bức tranh thế giới” Trong triết học và ngôn ngữ học hiện nay, hiện tượng “bức tranh thế giới” được hiểu theo những cách khác nhau Đó là “bức tranh ý niệm về thế giới ” hoặc “bức tranh ngôn ngữ về thế giới” Thậm chí nhiều học giả còn đối lập hai loại bức tranh này
Chúng ta biết rằng con người nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan rồi phản ánh vào trong trí óc của mình Khi được phản ánh vào trong trí óc, các sự vật, hiện tượng này trở thành thế giới tinh thần - thế giới của các hình ảnh, biểu tượng, khái niệm và bức tranh thế giới tinh thần đó được biểu đạt trong ngôn ngữ thông qua ý nghĩa của các từ ngữ
Trang 16Như vậy, muốn nghiên cứu “bức tranh ý niệm về thế giới” trong ý thức của con người cần phải khảo sát “bức tranh ngôn ngữ về thế giới” và khi làm công việc đó chúng ta sẽ nhận thấy là giữa các ngôn ngữ không có sự trùng khít với nhau “Bức tranh ngôn ngữ về thế giới” không trùng nhau ở các dân tộc, có nghĩa là mỗi dân tộc có “bức tranh” riêng về thế giới Quan niệm của từng dân tộc về thế giới xung quanh được khúc xạ độc đáo trong các bức tranh dân tộc đó Theo P.V.Sécba “ khi so sánh ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác, chúng ta thấy rõ ràng tính võ đoán của bức tranh về thế giới bên ngoài được phản ánh trong ngôn ngữ”(dẫn theo [59,31]) Để chứng minh cho điều này, chúng ta thử lấy một vài ví dụ: trong tiếng Anh, để chỉ bàn tay và cánh tay, người Anh dùng hai từ là “hand, arm”, còn người Việt lại biểu hiện nhất thể hoá hai biểu vật này chỉ bằng một từ là “tay” Khi cần cụ thể hoá, người Việt sẽ dùng đến từ tổ “bàn tay” và “cánh tay” Hay khi chỉ phần dưới của cái cốc, người Anh dùng một từ “bottom” nhưng người Việt lại phân biệt “đáy/đít
và trôn cốc” Người Trung Quốc có từ “chi” để biểu thị chung cho cả tay và chân, còn người Anh và người Việt thì không Xảy ra sự khác nhau này là do cách biểu hiện có phân biệt một nội dung nhất định trong ngôn ngữ này có thể
là bắt buộc, còn trong ngôn ngữ khác lại là không bắt buộc
Để có thể rút ra được đặc điểm về “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”, cần phải tập hợp các từ thuộc các trường ngữ nghĩa bao trùm những phạm vi khác nhau của hiện thực khách quan trên cơ sở định nghĩa từ điển của chúng
Để thực hiện tốt thao tác này, chúng tôi áp dụng lý thuyết về kiểu cấu trúc khung (frame) của Ch J.Fillmore
Lý thuyết về kiểu cấu trúc khung (frame) của Ch.J.Fillmore được trình bày trong cuốn “Cái mới trong ngôn ngữ học nước ngoài” tập XIV như sau:
Khung (tiếng Anh: frame) là một bộ các từ mà mỗi từ trong đó biểu thị một phần nhất định hoặc một bình diện của một chỉnh thể khái niệm hoặc hành động nào đó Nói cách khác, nội dung của một đơn vị từ vựng này hay
Trang 17khác của khung sẽ không thể hiểu được nếu như không biết cấu trúc nội tại của khung nói chung Khái niệm khung được minh hoạ bằng những thí dụ sẽ
dễ hơn so với miêu tả dưới dạng chung Chúng ta hãy xem xét một thí dụ liên quan tới thương mại: Hoàn cảnh mua bán gồm: một người nào đó, đổi tiền của mình để lấy hàng hóa hay dịch vụ nhận được từ người khác Có một tập hợp từ tiếng Anh miêu tả các bộ phận và các khía cạnh khác nhau của hoàn cảnh này, chẳng hạn, buy (mua), sell (bán), pay (trả tiền), spend (tiêu), cost (trị giá), charge (trả tiền), price (giá cả), money (tiền), change (đổi) và vài chục từ khác Bên trong tập hợp từ thuộc về một khung có thể tách ra những tập hợp nhỏ tạo thành các hệ hình, những sự phân loại và các kiểu cấu trúc khác Song sự miêu tả ngữ nghĩa của chúng chỉ có thể được tiến hành với điều kiện chi tiết hoá sơ bộ sơ đồ khái niệm làm cơ sở cho khung (dẫn theo [25,189])
Như vậy, với cách đặt mình vào các vị trí (các vai) trong bối cảnh giao tiếp, chúng ta sẽ có những cấu trúc khung cần thiết Vận dụng vào phạm vi hôn nhân, có thể nhận thấy các loại vai và các chu tố sau đây:
Thành phần tham gia/ Con người và quan hệ:
+ Tiếng Việt: cô dâu (dâu), chú rể (rể), phù dâu, phù rể, nhà gái, nhà trai, vợ, chồng, bố mẹ vợ (ông bà nhạc, ông gia, bà gia), bố mẹ chồng, thông gia, vợ
cả, vợ hai, vợ lẽ, hậu, phi, thê thiếp, nàng hầu, mối lái (bà mối, ông mai), ông
tơ, bà nguyệt (Nguyệt lão), chủ hôn, quan viên
+ Tiếng Anh: bride, bridegroom, bridesmaid, maid of honour, best man, wife, husband, concubine, fiancé, fiancée, match maker, mother-in-law, father-in-law, in-laws, consort, spouse, old man, matron of honour, …
Lễ vật/ Sính lễ:
+ Tiếng Việt: trầu, cau, chè, rượu, xôi, lợn, gà, bánh cốm, bánh đậu xanh, bánh phu thê (su sê), thiếp mời, hương, mâm/ quả/ tráp, đèn cầy/ nến, nhẫn,
Trang 18vòng, dây chuyền, kiềng, hoa tai/ bông tai, xuyến, và một số lễ vật khác tuỳ thuộc vào từng vùng miền
+ Tiếng Anh: champagne, dowry, engagement ring, wedding cake, wedding ring, wedding present, wedding invitation,…
Nghi lễ/ Nghi thức:
+ Tiếng Việt: nạp thái, vấn danh, nạp cát, thỉnh kỳ, nạp tệ, thân nghinh, hôn
lễ, chạm mặt/ngõ, dạm hỏi, ăn hỏi, thách cưới, dẫn cưới, sêu, lễ tơ hồng, xin dâu, đưa dâu, đón dâu, lễ gia tiên, đóng cửa(cổng), chăng dây, cheo, tân hôn, thành hôn, vu quy, lễ rót rượu, trao nhẫn, cỗ cưới, lễ hợp cẩn, lễ động phòng, lại mặt/ tứ hỷ/ nhị hỷ, lại quả, gửi rể, giá thú, tục huyền, tục hôn, song hỉ, + Tiếng Anh: banns, betroth, betrothal, propose, proposal, engage, affiance, engagement, marry, maritial, conjugal, connubial, wed, wedding, nuptials, nuptial rites, marriage rites, marriage, marriage licence, marriage certificate, white wedding, wedding breakfast, honey moon, remarriage, …
Lễ phục:
+ Tiếng Việt: áo the, áo tứ thân, áo nậu, nón dấu, áo mớ ba, yếm nhiễu điều, quần lĩnh, thắt lưng nhiễu điều, áo dài, nón thúng, comple, váy cưới,
+ Tiếng Anh: trousseau, suit, tailcoat, wedding dress, bow-tie,…
1.3.3 Đặc trưng văn hoá - dân tộc qua định danh ngôn ngữ
Về thuật ngữ “định danh” có rất nhiều cách hiểu khác nhau Nhưng quan niệm sau của T.V.Kolshansky được chúng tôi chấp thuận và lấy làm cơ
sở để nghiên cứu: “ Định danh (nomination) là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (signifikat) phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ” (dẫn theo [59,33]) Nói ngắn gọn, định danh là cách đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng, tính chất
Trang 19Khi định danh một sự vật, hiện tượng, tính chất hay quá trình, con người với tư cách là chủ thể định danh tiến hành quan sát, tìm hiểu kĩ càng, vạch ra một loạt những đặc trưng nào đó có trong nó Tuy nhiên, vấn đề là cần phải lựa chọn đặc trưng nào để định danh? Có hai quan niệm khác nhau khi bàn về vấn đề này:
Quan niệm thứ nhất cho rằng: để định danh, người ta chỉ chọn đặc trưng nào thấy là tiêu biểu, dễ khu biệt với đối tượng, tính chất hay quá trình khác và đặc trưng này đã có tên gọi trong ngôn ngữ Hay nói theo cách của Phoi-ơ-bắc “đặc trưng nào đó đập vào mắt mà ta lấy làm đại diện cho đối
tượng” [dẫn theo Lênin trong Bút kí triết học, tập 29, tr.87-88] V.G Gak gọi
hành vi này là hành vi phân loại Ông cho rằng “trong ngôn ngữ tự nhiên, quá trình gọi tên tất yếu gắn với hành vi phân loại Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X nào đó mà trong ngôn ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra trong đối tượng này, nó được quy vào khái niệm “A” hoặc “B” mà trong ngôn ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng Nhưng đồng thời cũng diễn ra sự “lắp ráp” bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi một cái gì đó khỏi sự hiểu biết ban đầu của mình, khi thì, ngược lại, bổ sung thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy” [59,35] Ví dụ để gọi tên loài động vật sống dưới nước, thở bằng mang và bơi bằng vây thì người Việt gọi là “cá” và tuỳ vào hình dáng hay màu sắc
người ta gọi tên cá vàng, cá hồng, cá bạc má, cá ngạnh, cá kiếm, cá kìm, cá
voi, cá chim trắng Hoặc để gọi tên loài cây cảnh cỡ nhỏ, thân có gai, lá kép
có răng, hoa màu hồng, có hương thơm, người ta gọi là “hoa” và chọn đặc trưng màu sắc nổi bật nên có tên gọi là “hồng” Khi đó loài cây này có tên gọi
là “hoa hồng” Nhưng sau đó, người ta thấy màu sắc của loài cây ấy không chỉ
có màu hồng, nó có thể là màu đỏ, trắng, vàng, Như vậy tên gọi đã được bổ sung thành: hoa hồng nhung, hoa hồng vàng, hoa hồng bạch, [59,35]
Trang 20Đặc điểm định danh còn được thể hiện cả ở việc quy loại khái niệm của đối tượng được định danh chứ không chỉ ở việc chọn đặc trưng nào để định danh Chẳng hạn, cùng một loại thức ăn làm bằng bột gạo nếp, viên tròn, có nhân đường, thường làm vào ngày Tết Hàn Thực, người miền Bắc quy vào loại “bánh” nên gọi là “bánh trôi nước”, còn người miền Nam quy vào loại
“chè” nên gọi là “chè trôi nước” (vì có nước nên gọi là chè)
Quan niệm thứ hai, tiêu biểu là B.A.Sereprennhicốp, lại cho rằng: “việc tạo ra từ theo đặc trưng nào đó chỉ là biện pháp thuần tuý kĩ thuật ngôn ngữ Đặc trưng được chọn chỉ để tạo ra vỏ ngữ âm của từ Đặc trưng được chọn để gọi tên hoàn toàn không nói hết toàn bộ bản chất của đối tượng, không bộc lộ hết tất cả các đặc trưng của nó Ngoài ra, đặc trưng được chọn để gọi tên thậm chí có thể là không cơ bản, không quan trọng về mặt thực tiễn” (dẫn theo [59,36]) Ví dụ: loại thức ăn làm bằng bột gạo nếp, thường có nhân ngọt, hoặc nhân mặn (nhân thịt, miến, ), rán chín, người Việt gọi là “bánh rán”, trong khi đó cũng có rất nhiều bánh được làm bằng cách rán như bánh chuối, bánh tôm, bánh gối, Tương tự như vậy chúng ta còn có “bánh nướng”
Thực ra, việc chọn đặc trưng bản chất hay không bản chất để làm cơ sở cho định danh là hai thái cực của quá trình định danh thống nhất Hay nói như Nguyễn Đức Tồn : đặc trưng được chọn có thể là đặc trưng cơ bản, thuộc bản chất của sự vật, mà cũng có thể là thuộc tính không căn bản, miễn sao đặc trưng được chọn có giá trị khu biệt sự vật ấy với sự vật khác
Ở mỗi dân tộc việc lựa chọn đặc trưng làm cơ sở cho sự định danh không phải bao giờ cũng giống nhau Chẳng hạn: loại phương tiện đi lại có hai hoặc ba bánh, dùng sức người đạp cho bánh quay để di chuyển, người Việt nhìn thấy ở sự vật đó đặc trưng cách thức (đạp) nên gọi là “xe đạp”, nhưng với cùng sự vật ấy, đặc trưng “đập vào mắt” người Anh lại là cấu tạo nên nó có tên gọi là “bicycle” (bi-hai, cycle- vòng tròn) Điều này cho thấy cách nhìn nhận về sự vật, hiện tượng của các dân tộc khác nhau là không
Trang 21giống nhau: Dân tộc này phát hiện ra đặc trưng hình thức cấu tạo, còn dân tộc kia lại nhận thấy đặc trưng chức năng Vì thế, đối tượng sẽ có tên gọi không như nhau Đó không phải là sự liên tưởng ngẫu nhiên mà có lí do của nó Lí
do chọn đặc trưng này chứ không phải đặc trưng khác phụ thuộc vào thiên hướng quan sát của chủ thể định danh Đây là cái làm nên đặc trưng riêng cho ngôn ngữ của mỗi dân tộc
1.3.4 Đặc trưng văn hoá-dân tộc trong cách biểu trưng
Biểu trưng là một hiện tượng khá lí thú và phổ biến ở các dân tộc Biểu trưng là lấy một sự vật, hiện tượng nào đó để biểu hiện một cách tượng trưng, ước lệ một cái gì đó có tính chất khái quát, trừu tượng.[59,223]
Biểu trưng phản ánh mối quan hệ giữa hiện thực khách quan với nhận thức và khả năng liên tưởng của người bản ngữ Điều này có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của khả năng tư duy, khả năng sáng tạo của con người Như vậy, tính biểu trưng, ở những mức độ khác nhau, có liên quan đến các hiện tượng trong đời sống xã hội, trong lịch sử và phong tục tập quán của con người Chẳng hạn, với người Việt Nam, màu trắng tượng trưng cho sự tang tóc, màu vàng chỉ sự cao quý, tượng trưng cho sự bất tử Nhưng đối với người Pháp, màu tang tóc là màu đen, còn màu vàng tượng trưng cho bệnh tật Hay như, con cò trong thơ ca của người Việt là hình ảnh tượng trưng cho thân phận người đàn bà chịu thương chịu khó (Cái cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng, Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông ), còn trong thơ ca của các dân tộc khác, con cò không được dùng làm hình ảnh tượng trưng như vậy Chính hình ảnh tượng trưng này làm thành nghĩa biểu trưng của tên gọi sự vật, hiện tượng tương ứng
Có thể nhận thấy giá trị biểu trưng được phản ánh không chỉ trong cấu trúc ý nghĩa của các từ ngữ mà còn nằm trong các ý nghĩa ngoại vi của cấu trúc nghĩa (đó là các hàm nghĩa) và ở mỗi dân tộc, nghĩa biểu trưng là khác
Trang 22nhau Tuy nhiên trong các định nghĩa từ điển không phải lúc nào nghĩa biểu trưng cũng được phản ánh một cách đầy đủ bởi sự hiểu biết về biểu trưng là một sự hiểu biết có tính chất văn hoá - văn học Vì vậy, muốn hiểu được nghĩa biểu trưng để từ đó nắm bắt được đặc trưng văn hoá-dân tộc, chúng ta
có thể dựa vào thành ngữ, tục ngữ, ca dao
1.4 Tiểu kết
Qua phần trình bày ở trên, có thể nhận thấy rằng giữa văn hoá, ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ Chính vì vậy, muốn thấy được văn hoá và tư duy của một dân tộc, người ta có thể tìm hiểu ngôn ngữ của dân tộc đó Nói cách khác, ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện văn hoá và
tư duy của dân tộc ấy
Trong ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa – dân tộc được phản ánh rõ nét qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất là ý nghĩa của từ : vì ý nghĩa của từ là một dạng tri thức về thế giới, trong đó lưu giữ lại sự hiểu biết của con người đã thu nhận, tích luỹ được trong quá trình nhận thức thế giới khách quan
Thứ hai là "bức tranh ngôn ngữ về thế giới": "bức tranh ngôn ngữ về thế giới" giữa hai dân tộc khác nhau không bao giờ trùng khít với nhau Bởi
sự phân cắt thế giới hiện thực khách quan giữa các dân tộc là khác nhau
Thứ ba là định danh ngôn ngữ: cùng một sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan nhưng mỗi dân tộc lại có những tên gọi riêng của mình bởi
họ thấy ở những sự vật hiện tượng đó những đặc điểm khác nhau Những điểm khác nhau, sự không trùng khít lên nhau đó tạo nên những đặc trưng văn hoá riêng cho từng dân tộc Đây cũng chính là những cơ sở để từ đó chúng tôi khảo sát những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin của người Việt và người Anh
Trang 23Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CÁC HIỆN TƯỢNG
THUỘC PHONG TỤC CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI VIỆT
(TRONG SỰ SO SÁNH VỚI NGƯỜI ANH)
2.1 Định nghĩa về phong tục
Phong tục là một từ có nguồn gốc Hán Theo Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ học,1991, thì phong ở đây có nghĩa là lề thói, tục là thói quen đã thành nếp lâu đời
Theo Phong tục làng xóm Việt Nam của Nhất Thanh & Vũ Văn Khiếu,
phong tục có nghĩa như sau: “phong” là sự gì người này xướng lên kẻ khác
nối theo rồi thành thói quen, như vật theo gió hoà vào nhịp điệu mà không biết; “tục” là thói bắt chước người trên, lâu dần hoá thành thuộc Nói cho gọn thì người trên cảm hoá người dưới gọi là Phong, người dưới tập nhiễm được gọi là Tục (thượng sở hoá viết Phong, hạ sở tập viết Tục)
Phong tục cùng với truyền thống, nghi lễ, nghệ thuật, thể hiện rõ nét
nhất những sắc thái đặc trưng cho từng dân tộc Vì thế, phong tục cưới xin có thể tồn tại ở tất cả các dân tộc trên thế giới Nhưng không phải ở đâu chúng cũng đều giống nhau Điều này có thể thấy được qua những từ ngữ biểu thị những hiện tượng thuộc phong tục cưới xin
Qua việc khảo sát đặc điểm định danh của trường từ vựng biểu thị phong tục cưới xin của người Việt trong sự so sánh với người Anh, chúng ta
sẽ hiểu được phần nào ý nghĩa những nét văn hoá đặc trưng của mỗi dân tộc này
2.2 Lịch sử hôn lễ của người Việt
Trước khi đi vào tìm hiểu đặc điểm định danh các hiện tượng thuộc phong tục cưới xin của người Việt, chúng ta cần biết phong tục này có từ bao
giờ
Trang 24Hôn lễ là một từ Hán – Việt Theo Từ điển yếu tố Hán – Việt thông dụng của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản tại Hà Nội năm 1991, “lễ” có nghĩa là những nghi thức được tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự kiện có
ý nghĩa nào đó; còn “hôn” có nghĩa là lấy vợ, lấy chồng Hiện nay, có một
quan niệm nữa cho rằng: theo tục lệ xưa, người ta làm lễ cưới vào buổi chiều
tối (lúc mặt trời vừa mới tối – hôn) Buổi chiều tối là lúc dương qua âm lại,
âm dương giao hoán với nhau được thuần, cho nên tổ chức cưới vào giờ này
là thuận theo lẽ tuần hoàn của trời đất Vì vậy, gọi là hôn lễ
Rất nhiều tài liệu về dân tộc học và nghiên cứu phong tục dân gian đã chứng minh được rằng hôn nhân và gia đình có lịch sử từ rất lâu đời nhưng hôn lễ thì xuất hiện khá muộn Những hình thức hôn nhân sớm nhất của loài người đó là:
Tạp hôn (loạn hôn): đây là hình thức hôn nhân đầu tiên của con người thời kỳ sơ khai Ở giai đoạn này, những người trong cùng một quần thể có thể
tự do giao phối, không có một luật lệ, quy tắc nào
Quần hôn: là hình thức hôn nhân của bầy người nguyên thuỷ Trong thời kỳ này, chỉ cho phép thực hiện kết hôn giữa các quần thể nhưng giữa hai quần thể thị tộc vẫn có thể kết hôn với nhau
Hôn nhân ngoại tộc: là hình thức hôn nhân của bầy người nguyên thuỷ
Nó tồn tại vào thời kì đầu của xã hội thị tộc mẫu hệ Hôn nhân ngoại tộc là để chỉ việc nghiêm cấm nam nữ trong cùng một thị tộc kết hôn với nhau Các thành viên trong thị tộc dù là nam hay nữ, cũng chỉ được phép kết hôn với một đối tượng ở thị tộc khác
Hôn nhân đối ngẫu: là hình thức hôn nhân nguyên thuỷ, quá độ từ quần hôn sang hôn nhân cá thể, trong đó đàn ông và đàn bà lấy nhau đã sống thành từng cặp, nhưng chưa bền vững, chưa thành gia đình một vợ một chồng Có thể coi đây là “cuộc cách mạng lần thứ nhất” về vấn đề hôn nhân của loài
Trang 25người Sự ra đời của nó đánh dấu chấm hết cho hình thức hôn nhân cùng huyết thống trong lịch sử và kể từ đây, quan hệ hôn nhân cũng ổn định hơn
Hôn nhân đa phu: là hình thức hôn nhân gia đình trong đó người đàn bà
có quyền lấy nhiều chồng
Hôn nhân đa thê: là hình thức hôn nhân gia đình trong đó người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ
Hôn nhân cá thể: là hình thức hôn nhân gia đình trong đó chỉ có một vợ một chồng
Trong những thời kỳ đầu của hình thức hôn nhân (tạp hôn, quần hôn, hôn nhân ngoại tộc), trong khuôn khổ nhất định nam nữ sinh ra đến lúc trưởng thành là đã có quyền tự do giao phối Nhưng từ khi loài người chuyển sang giai đoạn lịch sử hôn nhân đối ngẫu thì tình hình đã có nhiều thay đổi Khác với ngày trước, giờ đây khi hai người đã nên vợ thành chồng, mỗi người đều
có quyền và nghĩa vụ cần thiết đối với người kia, và giữa hai người bắt đầu có những ràng buộc nhất định về vật chất cũng như tinh thần Có lẽ chính vì vậy
mà hôn lễ không thể không ra đời
Mục đích tổ chức hôn lễ của người xưa cũng khá tương đồng so với ngày nay Đó là thông báo cho mọi người biết hai người đã nên vợ nên chồng tức là thuộc quyền sở hữu của nhau, và người khác phải tôn trọng, thừa nhận quan hệ vợ chồng của họ; đồng thời cũng muốn bày tỏ sự khẳng định quyền
và nghĩa vụ của hai vợ chồng đối với gia đình
Căn cứ vào đặc điểm nói trên, người ta ước đoán rằng hôn lễ ra đời vào thời kỳ quá độ từ “chế độ mẫu hệ” sang “chế độ phụ hệ” Và cùng với sự củng
cố bền vững của hình thức hôn nhân một vợ một chồng thì hôn lễ ngày càng phức tạp hơn
Trong thời kỳ chế độ mẫu hệ (con trai đến ở rể) thì hôn lễ thường được
tổ chức tại nhà gái Khi chàng trai mới tới ở rể, để biểu lộ sự vui mừng và chứng thực cho cuộc hôn nhân của hai người, nhà gái thường tổ chức một số
Trang 26nghi thức đơn giản như: gặp gỡ các thành viên trong họ nhà gái, trao tặng lễ vật cho nhau hay cùng nhau ăn uống vui vẻ, nghi thức này người ta gọi là hôn lễ Hôn lễ thời kỳ đầu diễn ra khá đơn giản nhưng phần nào cũng đã thể hiện được tính chất long trọng của một việc đại sự
Hiện nay ở một số vùng dân tộc thiểu số của nước ta vẫn còn lưu giữ được những đặc điểm của cách tổ chức hôn lễ tại nhà gái Về sau, khi xã hội xuất hiện chế độ phụ hệ, lúc này, con gái về nhà chồng thì đồng thời hôn lễ cũng được tổ chức tại nhà trai, nhưng nghi thức hôn lễ cầu kỳ và phức tạp hơn nhiều.[38,17-19]
2.3 Đặc điểm định danh của nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin
2.3.1.Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc
Từ xa xưa, ông bà ta đã rất chú trọng tới việc dựng vợ, gả chồng Ba
việc quan trọng nhất trong đời của người đàn ông là: tậu trâu, lấy vợ, làm
nhà Đối với một nước thuần nông như nước ta thì con trâu là đầu cơ nghiệp
cho nên việc tậu trâu là quan trọng nhất Đứng thứ hai sau việc tậu trâu là lấy
vợ Hôn nhân là đầu mối của muôn sự sinh hoá và cần thiết cho sự phát triển
dòng giống cũng như duy trì quy luật sinh tồn truyền thống của nhân loại Đối với người Việt Nam, việc duy trì và phát triển dòng giống còn có một ý nghĩa quan trọng đó là có người để thờ cúng tổ tiên Thời xưa có câu “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, có nghĩa là có ba điều bất hiếu với cha mẹ, trong đó không có con là điều nặng nhất Vì vậy, mỗi người đàn ông phải sớm lập gia đình để mau có con trai nối dõi, lo việc đèn nhang Luật pháp thời xưa không
ấn định tuổi được phép lấy vợ lấy chồng Nhưng thường thì nhiều nhà lo dựng
vợ gả chồng cho con từ rất sớm Điều này có thể thấy trong những câu ca dao, tục ngữ,
Gái thập tam, nam thập lục Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Trang 27Lấy chồng từ thuở mười ba Đến năm mười tám, thiếp đà năm con
Năm 1888, nhà nước bảo hộ Pháp ấn định con gái 14 tuổi, con trai 16 tuổi mới được làm đám cưới Tuy không thay đổi là bao so với 13 và 16 tuổi nhưng ít ra luật pháp cũng chính thức cấm tục tảo hôn (lấy vợ sớm) Tuy bị cấm, nhưng ở nông thôn miền Bắc, hủ tục này còn rơi rớt đến tận những năm
1940
Để phong tục tập quán có một nền gốc, có quy củ vững vàng, người xưa đã đặt ra nghi lễ hôn nhân Nghi lễ này ngoài sự nêu cao tầm quan trọng trong nghĩa vợ chồng, còn có mục đích bảo tồn tinh thần gia tộc, đề cao đạo hiếu thảo, rèn luyện con người biết tự trọng và tôn trọng lẫn nhau, biết giữ tròn nhân cách trong đời sống, phù hợp với đạo lý luân thường
Tôn trọng và tuân hành đúng theo nghi lễ tất nhiên gặp không ít những điều khắt khe, phiền toái, nhưng đó chính là yếu tố để bảo vệ tinh tuý phong hoá dân tộc theo đà văn minh tiến bộ, phân biệt cái dở biết bỏ, điều hay phải theo nhằm duy trì vĩnh cửu lễ giáo gia phong thuần phong mỹ tục lưu truyền đến ngàn sau
Ngày xưa, nghi lễ cưới xin của Việt Nam là theo Trung Quốc Theo
sách Văn công gia lễ thì cưới xin phải đầy đủ 6 lễ chính Có câu rằng: “ Lục lễ
bất bị, trinh nữ bất hành” nghĩa là sáu lễ không đủ thì gái trinh không đi Vậy
3 Nạp cát (bói được tốt) chọn được ngày tốt, báo cho nhà gái biết
4 Thỉnh kỳ ( định ngày) xác nhận ngày để làm lễ cưới
5 Nạp tệ ( đưa lễ cưới) đưa đồ thách cưới do nhà gái ấn định
Trang 286 Thân nghinh (đón dâu/ rước dâu)
Chính vì thế mà phần lớn những từ ngữ về nghi lễ hôn nhân đều có nguồn gốc Hán Những từ này có số lượng 18/33 chiếm 55 % và hầu hết là những từ ghép và cụm từ cố định
Trong tiểu trường “nghi thức hôn nhân”, bên cạnh phương thức định danh bằng cách vay mượn từ ngữ Hán, vẫn tồn tại song song cách gọi tên thuần Việt
Thí dụ:
Hán Việt Thuần Việt nạp thái chạm ngõ/ chạm mặt nạp tệ dẫn cưới/ ăn hỏi thân nghinh đón dâu/ rước dâu Song có những trường hợp, chúng ta vẫn chỉ dùng từ ngữ vay mượn Hán do ý nghĩa khái quát và sắc thái tu từ trang trọng của chúng mà từ ngữ
thuần Việt không có Thí dụ: tân hôn, kết hôn, lễ hợp cẩn, lễ động phòng, lễ
gia tiên, lễ vu quy, tế tơ hồng,
Có khi từ chỉ phong tục cưới xin của người Việt lại là sự kết hợp giữa
yếu tố Hán Việt và yếu tố thuần Việt như: lại quả, lại mặt, lễ rót rượu
Các nghi thức trên cũng có luật lệ quy định rõ ràng Năm 1477 nhà Lê quy định rằng: “Phàm người lấy vợ, trước hết phải mượn người mối đi lại bàn định, rồi sau mới định lễ cầu thân Lễ cầu thân xong rồi mới định lễ dẫn cưới Dẫn cưới xong rồi mới định ngày đón dâu Ngày hôm sau chào cha mẹ chồng, ngày thứ ba đến lễ nhà thờ Nghi thức tiết mục, phải theo đúng như điều đã ban xuống mà làm Không được như trước, nhà trai dẫn lễ cưới rồi để đến 3, 4 năm mới cho đón dâu”(dẫn theo [15,2])
Ngày nay, 6 lễ kể trên thường được tiết giảm còn 3:
1 Lễ chạm mặt
2 Lễ ăn hỏi
Trang 293 Lễ cưới
Trước đây, việc hôn nhân của con cái đều do cha mẹ quyết định: cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy Vì thế duyên phận của người con gái thời xưa
“trong nhờ đục chịu”:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống ruộng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Và trong hôn sự thời xưa, có một nhân vật không thể thiếu đó là ông mai, bà mối: đẹp như rối, chẳng có mối tối cũng nằm không (thành ngữ) Ngoài ông mai, bà mối ra còn có sự xuất hiện của những thành phần khác như: hôn thê, phu thê, nhà gái, nhà trai, cô dâu, chú rể, phù dâu, phù rể, vợ, chồng, bố mẹ vợ (ông bà nhạc, ông gia, bà gia), bố mẹ chồng, thông gia, sui gia, vợ cả, vợ hai, vợ lẽ, hậu, phi, thê thiếp, nàng hầu, chủ hôn, bà mối, quan viên Trong số những từ ngữ biểu thị về thành phần tham gia hôn lễ này có 24/35 là từ ngữ thuần Việt, chiếm 69%; còn lại là những từ ngữ Hán-Việt Những từ ngữ Hán- Việt ở đây thường mang nghĩa khái quát, trang trọng: thê thiếp (thê-vợ cả, thiếp- vợ lẽ), chủ hôn (người chủ trì lễ cưới), thông gia (gia đình có con cái kết hôn với nhau),
Về tiểu trường “lễ vật”, những từ ngữ biểu thị hầu hết là những đơn vị
thuần Việt, số lượng các từ ngữ là 23/28, chiếm tỉ lệ 82% Điều này hoàn toàn
dễ hiểu bởi người Việt đã dùng những sản vật sẵn có của nước mình để làm
đồ dẫn lễ, đi sêu, Tuy nhiên, những lễ vật này không phải hoàn toàn giống nhau giữa các vùng miền trên đất nước Thậm chí, ngay trong một vùng, địa phương, làng xóm, hay trong mỗi gia đình sính lễ cũng là khác nhau Nhưng
nó phải tuân theo và phù hợp với từng hoàn cảnh nhất định
Trang 30Năm 1663 vua Lê Huyền Tông ban 47 điều giáo hoá, điều thứ 44 nêu rằng: “Vợ chồng là gốc luân thường, lấy vợ, gả chồng phải theo lễ nghĩa, không được suy bì giàu nghèo, đòi nhiều tiền của Lấy nhau phải phân biệt họ hàng, nòi giống, không được tham giàu sang mà phối hợp loạn luân thường, không được cẩu hợp không có sính lễ để đến nỗi gần giống như giống cầm thú Bất cứ ở cùng một làng hay làng khác đều cho phép thu cheo một quan tiền cổ và một vò rượu Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái không được viện cớ người ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo quá lạm và tiền tiễn tống, hay hùa nhau ăn hiếp phụ nữ ở hoá lấy về làm vợ làm hầu.”(dẫn theo [49,345])
Năm 1804 vua Gia Long định lệ: “Trai lấy vợ, gái lấy chồng thì sính lễ phải châm chước Trong 6 lễ phải tuỳ sức nhà trai giàu nghèo, không được bắt
ép viết văn khế cầm ruộng Về tiền cheo thì nhà giàu phải nạp 1 quan 5 tiền, nhà bậc trung nạp 6 tiền, nhà nghèo nạp 3 tiền Nếu lấy người làng khác phải nạp gấp đôi ”(dẫn theo [49,346])
Trong tục hôn nhân thời trước có quy định về tiền cheo Theo tác giả
Tân Việt trong cuốn Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, thực chất
quy định này có nguồn gốc từ tục đóng cổng, chăng dây Khi nhà trai đem lễ đến nhà gái để đón dâu thì bên nhà gái cho trẻ con hoặc đứa đầy tớ ra đóng cổng không cho vào Nhà trai phải cho chúng dăm ba hào, một đồng bạc thì chúng mới mở cổng cho Ở một số nơi, trên đường sang đón dâu, một số người phía nhà gái lấy sợi chỉ đỏ hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang, cũng có khi bày hương án giữa đường để nhà trai đưa cho một ít tiền thì mới qua được Nhưng về sau một số kẻ xấu đã lợi dụng để đòi hỏi một cách quá đáng
và trở thành tục xấu vì thế triều đình phải ra lệnh bãi bỏ Thay vào đó, làng xã được thu tiền cheo Khoản tiền cheo này được dùng vào việc công ích như mua gạch lát đường, xây cổng làng, đào giếng, Tiền cheo rất quan trọng, có
Trang 31vai trò giống như giấy kết hôn bây giờ Nó chứng thực lễ cưới được sự chấp thuận của làng xã, họ hàng Vì thế:
Cưới vợ không cheo, tiền gieo xuống suối
Hay
Nuôi lợn thì phải vớt bèo, Lấy vợ thì phải nạp cheo cho làng Hay là
Có cưới mà chẳng có cheo, Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài
Hay như
Ai chồng ai vợ mặc ai, Bao giờ ra bảng ra bài mới hay
Bao giờ tiền cưới trao tay, Tiền cheo rấp nước mới hay vợ chồng
Không chỉ phải nộp tiền cheo cho làng, nhà trai còn phải đưa sính lễ đến cho nhà gái Ngày xưa, lễ vật mang sang nhà gái thường phải có:
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm Giúp em đôi chiếu em nằm Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo Giúp em quan tám tiền cheo Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
Nhưng đôi khi lễ vật lại bị cha mẹ bên nhà gái đòi hỏi một cách quá đáng (thách cưới) và điều đó đáng bị lên án:
Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
Cưới em trăm tấm gấm đào, Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
Trang 32Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi, Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
Sắm xe tứ mã đem sang,
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu;
Ba trăm nón nghệ đội đầu, Mỗi người một cái quạt Tàu xinh xinh
Anh về sắm nhiễu Nghi Đình, May chăn cho rộng, ta mình đắp chung
Cưới em chín chĩnh mật ong, Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
Cưới em tám vạn trâu bò, Bảy vạn dê lợn, trăm vò rượu tăm
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm, Răng nanh thằng cuội, râu cằm thiên lôi,
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi, Xin chàng chín chục con giơi hoá chồng
Thách thế mới thoả trong lòng, Chàng mà lo được thiếp cùng theo thân
(dẫn theo [49, 350-351]) Như vậy, xét từ góc độ nguồn gốc, có thể thấy rằng những từ ngữ biểu thị phong tục cưới hỏi có nguồn gốc Hán chiếm tỉ lệ khá lớn Điều này càng khẳng định ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam là rất sâu sắc Ngoài ra, ở đây còn xuất hiện từ vay mượn gốc Ấn – Âu mà chủ yếu là từ tiếng Pháp trong tiểu trường về trang phục, đó là: comple, sơmi, caravát….Tuy nhiên, số lượng từ ngữ thuần Việt được thể hiện trong nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới hỏi, đặc biệt trong tiểu trường “lễ vật”, cho thấy người Việt vẫn giữ những nét riêng của mình Điều đó cho thấy sự phong phú
và sự giao thoa trong văn hoá của người Việt
Trang 33Giống với đám cưới truyền thống của người Việt, đám cưới truyền thống của người Anh là do sự sắp xếp của bố mẹ Từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 19, cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ sắp xếp hôn nhân Các cô dâu, chú rể thường không biết nhau cho tới đám cưới của họ Các bậc cha mẹ thường thoả thuận hôn nhân hoặc hứa hôn cho con từ khi chúng còn nhỏ (ở Anh là từ 3 đến 7 tuổi) Trước khi cưới, ở Việt Nam, gia đình chú rể mang lễ vật đến nhà cô dâu
để xin phép kết hôn và được gọi là lễ ăn hỏi thì ở Anh, cô dâu và chú rể tổ chức một bữa tiệc (được gọi là lễ đính hôn) trong đó gia đình, người thân, bạn
bè của cô dâu, chú rể cùng tham gia để chứng nhận họ đã thuộc về nhau trong đám cưới sắp tới
Tất cả các đám cưới truyền thống của người Anh chỉ được thực hiện sau khi được thông báo từ 8 đến 12 ngày hoặc trong 3 chủ nhật trước đám cưới ở Giáo hội Anh giáo hoặc nhà thờ trước 2 hoặc nhiều nhân chứng
Nghi lễ cưới của người Anh thường được tổ chức tại nhà thờ Khi cô dâu bước vào nhà thờ (thường là bố cô dâu đưa vào), nhạc nổi lên Phía trước
cô dâu là những bé gái rải những cánh hoa dọc theo con đường vào nhà thờ với ý nghĩa mong muốn cho cuộc sống của cô dâu được hạnh phúc Phía sau
cô dâu là các phù dâu Các phù dâu mặc váy đôi khi tương tự như của cô dâu
để gây nhầm lẫn cho những linh hồn xấu xa và do đó bảo vệ cô dâu
Lễ thường bao gồm hai hoặc ba bài thánh ca Trong buổi lễ, cô dâu và chú rể đọc lời nguyện, khẳng định cam kết của họ với nhau Trong truyền thống Kitô giáo phương Tây, đây là thời điểm họ được chính thức kết hôn Sau đó, cô dâu và chú rể trao nhẫn cho nhau Trong buổi lễ, các cặp vợ chồng
sẽ rời khỏi nơi tôn nghiêm và nhập phòng thánh kí các văn bản đám cưới Khi các cặp vợ chồng mới cưới rời khỏi nhà thờ, con đường được rải các biểu tượng việc làm của chú rể, như thợ mộc đi bộ trên dăm, thợ đóng giày trên vụn da, thợ rèn trên miếng sắt cũ,…Chuông nhà thờ vang dậy những giai điệu
Trang 34khác nhau để xua đuổi những linh hồn xấu xa Trước khi rời nhà thờ, cô dâu tung bó hoa và ai bắt được sẽ là người kế tiếp để kết hôn
Mùa đẹp nhất đối với người Anh để kết hôn là giữa mùa thu hoạch và giáng sinh (khoảng từ tháng 9 đến tháng 12) khi đó thực phẩm dồi dào, phong phú “ cưới vào bóng của tháng 9, cuộc sống của bạn sẽ phong phú; nếu trong tháng 10 bạn kết hôn, tình yêu sẽ đến nhưng nán lại giàu sang; nếu bạn cưới vào tháng 11 ảm đạm, chỉ có niềm vui sẽ đến, hãy nhớ; khi tháng12 tuyết rơi nhanh, kết hôn và tình yêu sẽ đích thực; kết hôn khi năm mới, bạn sẽ được yêu thương tử tế và chân thật;…”
Đám cưới truyền thống của Anh được tổ chức vào giữa trữa, sau đó có bữa ăn trưa ngồi, gọi là “ breakfast wedding” Ở đó họ ăn uống và nhảy múa
Cô dâu và chú rể nhảy múa đầu tiên, không có giới thiệu các bên của đám cưới
Người Anh có những quan niệm chung về thời gian cho hôn nhân khác với người Việt Thời gian để tổ chức hôn lễ của người Việt phụ thuộc vào tuổi của cô dâu, chú rể và rất quan trọng bởi nó liên quan đến cuộc sống sau này của đôi vợ chồng
Một điểm khác biệt nữa trong cưới xin của người Việt và người Anh là chụp ảnh Cô dâu chú rể người Việt đi chụp ảnh tất cả thời gian trong đám cưới ngay cả khi khách đang ở bên Còn ở Anh, hình ảnh được lấy ở bên ngoài nhà thờ ngay sau buổi lễ hoặc bên trong nếu trời mưa Sau khi chụp ảnh, người thân và bạn bè tặng cô dâu móng ngựa, muỗng gỗ, chân lăn,… tất
cả được trang trí với ren và ruy băng
Có thể thấy hôn lễ của người Việt phức tạp, cầu kì hơn của người Anh Điều này cũng được thể hiện ở số lượng từ ngữ cưới xin của người Việt nhiều hơn của người Anh (106/72) Tuy nhiên, cũng giống như người Việt, từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin của người Anh được vay mượn rất nhiều và chiếm
số lượng lớn nhất là tiểu trường nghi thức Những từ ngữ vay mượn biểu thị
Trang 35về nghi thức cưới xin của tiếng Anh là 23/32, chiếm 72% (tiếng Việt là 55%) Tiểu trường có số lượng từ vay mượn ít nhất của tiếng Anh là tiểu trường về con người 7/27, chiếm tỉ lệ là 26% (trong khi đó của tiếng Việt là 31%)
Nếu những từ vay mượn trong tiếng Việt chủ yếu có nguồn gốc từ tiếng Hán thì trong tiếng Anh là từ tiếng Pháp và tiếng La tinh Những từ tiếng Anh vay mượn từ tiếng Pháp và La tinh như: marry, engage, affiance, nuptials, proposal, connubial, conjugal, marriage rite, marriage guidance, marriage certificate, trousseau, spouse, fiance, fiancée, consort, concubine, dowry, champagne, present,…Nguyên nhân của sự vay mượn này trong tiếng Anh là
do lịch sử Tiếng Anh vốn có nguồn gốc từ một tộc người Celtic sống trên các hòn đảo ở khối liên hiệp Anh – thường gọi là Britannic ngày nay Họ đã sinh sống và có ngôn ngữ riêng từ trước thế kỉ 5 công nguyên Vào khoảng năm
450 CN có 2 tộc người từ Bắc Âu thuộc tộc người Giecmăng (German) tên là Anglo và Saxon đến xâm chiếm và tạo nên dân tộc Anh và tiếng Anh ngày nay Trong quá trình lịch sử, người Anh bị người phương bắc, người gốc từ Normandie, tức là người Pháp có gốc văn hoá Latinh đến đánh chiếm gây ra cuộc chiến tranh hơn 100 năm và cuối cùng người Anh bị bại trận và chịu sự cai trị của người Pháp và văn hoá Pháp Do đó, trong tiếng Anh ngày nay có rất nhiều từ gốc Pháp
2.3.2 Đặc điểm định danh xét từ góc độ cách thức biểu thị
2.3.2.1 Đặc điểm cấu tạo của tên gọi
Chúng tôi sẽ xem xét cách định danh phong tục cưới hỏi của người Việt được tạo ra theo kiểu hoà kết thành một khối hay có thể tách biệt ra được các thành phần trong chúng
Kết quả thống kê cho thấy trong số 106 tên gọi, số tên gọi là từ đơn chiếm 24% (25/106) chiếm tỉ lệ rất nhỏ Số từ ghép và cụm từ cố định là chủ
yếu chiếm 76%
Trang 36Những đơn vị là từ đơn không thể chia cắt thành phần cấu tạo ra thành những yếu tố có nghĩa được nên có thể coi chúng là những tên gọi được cấu tạo theo phương thức tổng hợp Các đơn vị còn lại là từ ghép và cụm từ có thể phân chia nhỏ ra được các thành phần cấu tạo có ý nghĩa Thí dụ: nhà/ gái, nhà/ trai, phù/ dâu, phù/ rể, bánh/ cốm, bánh/ phu/ thê, giá/ thú, đưa/ dâu, xin/ dâu, nạp/ tệ, vấn/ danh, Đây là những tên gọi được cấu tạo theo phương thức “phân tích”
Như vậy, đặc điểm loại hình tiếng Việt - đơn lập, không biến hình, phân tích tính - đã thể hiện rõ sự chi phối trong các cấu tạo định danh phong tục cưới hỏi Cụ thể là do đặc điểm đơn lập cho nên số lượng vỏ âm tiết tiếng Việt bị hạn chế kéo theo số từ đơn cũng bị khống chế Do đó, tiếng Việt dùng cách ghép để tạo ra số lượng từ ngữ mới, đáp ứng nhu cầu giao tiếp Trong cách ghép để định danh, người Việt hầu như chỉ dùng lối ghép chính phụ mà
rất ít dùng lối ghép đẳng lập (chỉ có các từ : thê thiếp, mối lái, vợ chồng, cưới
hỏi, gả bán chiếm tỉ lệ rất nhỏ: 5/81)
Còn cách ghép ở đây chủ yếu là kết hợp 2 danh từ với nhau, trong đó danh từ chính chỉ chung cho loại sự vật, hiện tượng, danh từ phụ bổ sung ý nghĩa, cụ thể hoá cho danh từ chính (tập hợp ở những từ ngữ thuộc tiểu trường “con người và quan hệ, lễ vật, trang phục”) Cách ghép thứ hai là kết hợp giữa động từ và danh từ (xảy ra chủ yếu ở tiểu trường “nghi lễ”)
Trong tiếng Anh, đặc điểm cấu tạo của từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin là 11/72 từ đơn (chiếm 15%) gồm các từ như: bride (cô dâu), spouse (chồng/ vợ), suit (comple), engage (đính hôn), wed (cưới), champagne (rượu sâm panh), trousseau (quần áo tư trang của cô dâu), wife (vợ), marry (kết hôn), dowry (của hồi môn), gift (quà) Số từ ghép là 35/72 (chiếm tỉ lệ 49 %)
ví dụ : best man (phù rể), bridegroom (chú rể), bridesmaid (phù dâu), daughter-in-law (con dâu), father-in-law (bố chồng, bố vợ), match maker (người làm mối), wedding guest (khách dự đám cưới), tailcoat (áo đuôi tôm),
Trang 37wedding dress (váy cưới), marriage licence (giấy đăng ký kết hôn), marriage certificate (giấy giá thú), honeymoon (tuần trăng mật), wedding ring (nhẫn cưới), wedding cake (bánh cưới),… và những từ phái sinh như: bridal (thuộc
cô dâu hoặc đám cưới), concubine (thiếp, vợ lẽ), marriageable (đến tuổi kết hôn), maritial (thuộc chồng/ vợ, thuộc hôn nhân), connubial (thuộc hôn nhân, thuộc vợ chồng), conjugal (thuộc hôn nhân, thuộc quan hệ vợ chồng), engagement (sự đính hôn), remarriage (tái hôn), proposal (sự cầu hôn),… là 26/72 ( chiếm 36%)
So sánh tiếng Việt với tiếng Anh, có thể thấy rằng tỉ lệ từ đơn và từ ghép ở tiếng Việt cao hơn tiếng Anh Tuy nhiên, trong tiếng Anh có những từ phái sinh mà tiếng Việt không có và số lượng từ này chiếm một tỉ lệ khá lớn Điều này cho thấy đặc điểm loại hình tiếng Anh – ngôn ngữ biến hình, thể hiện rõ sự chi phối trong các cấu tạo định danh phong tục cưới hỏi của người Anh
2.3.3.2 Hiện tượng đồng nghĩa của tên gọi
Đồng nghĩa là hiện tượng phổ biến trong các thứ tiếng Đó là tập hợp hai hay nhiều từ ngữ có vỏ âm thanh khác nhau nhưng ý nghĩa lại giống nhau hoặc tương tự nhau Trong tiếng Việt và tiếng Anh, cụ thể là ở những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin, hiện tượng đồng nghĩa cũng xuất hiện khá nhiều
Ví dụ tiếng Việt : dâu - cô dâu, rể - chú rể, bố mẹ vợ - ông bà nhạc - ông bà gia, vợ - thê thiếp - vợ cả - vợ lẽ - vợ hai - nàng hầu - phi - hậu, mâm - quả - tráp,
Ví dụ tiếng Anh: wife – old woman - concubine, consort - spouse, husband – old man, bridesmaid - maid of honour - matron of honour, affiance
- engage - betroth, connubial – maritial, wedding - nuptials, wed - marry,…
Các tên gọi đồng nghĩa được chia thành nhiều kiểu loại khác nhau: + Đồng nghĩa giữa tên gọi chính danh chỉ dùng một mình với tổ hợp có dùng thêm từ chỉ quan hệ thân tộc
Trang 38Ví dụ:
Dâu - cô dâu
Rể - chú rể Mối - bà mối Điều này cho thấy khi gọi tên hay định danh một nhân vật nào đó trong quan hệ hôn nhân trong quá trình giao tiếp, người Việt có thể tri nhận nó tồn tại một cách độc lập (khi đó chỉ dùng một mình tên gọi chính danh) hoặc xếp
nó vào trong một quan hệ thân thuộc nào đó ( khi đó dùng tổ hợp “từ chỉ quan
hệ thân tộc + tên gọi chính danh”) Chúng ta thấy rằng người ta chỉ gọi tên
dâu, rể khi nó được định vị trong mối quan hệ gia đình với bố mẹ vợ hoặc bố
mẹ chồng Ví dụ: Đây là dâu lớn nhà tôi Còn cô dâu, chú rể là trong khoảng
thời gian cưới (trước cho đến sau đám cưới một chút) và trong mối quan hệ
với gia đình, họ hàng và người ngoài Ví dụ: Cô dâu xinh quá Không nói là:
Dâu xinh quá
+ Đồng nghĩa do biến thể: Đó là kết quả của quá trình biến đổi ngữ âm
thân nghinh - đón dâu - rước dâu hôn thê - vợ chưa cưới
hôn phu – chồng chưa cưới
Ví dụ tiếng Anh:
Concubine – wife Consort –spouse – wife/ husband
Trang 39Matron of honour – bridesmaid Nuptials – wedding – marriage Connubial – maritial
Affiance - engage – betroth Marry - wed
+ Đồng nghĩa giữa các từ địa phương:
đưa dâu - đón dâu - rước dâu
Nếu đứng từ phía nhà trai để nói thì dùng “đón dâu”, nếu từ phía nhà gái thì sẽ là “đưa dâu”, còn “rước dâu” là dùng chung từ phía những người tham gia đưa đón dâu (không kể phía nhà trai hay gái)
2.3.3.3 Những đặc trưng được chọn để định danh
Để tìm hiểu đặc trưng được chọn làm dấu hiệu khu biệt và làm cơ sở cho tên gọi, chúng ta phải xét tới từ nguyên của từ Nhưng hiện nay, chúng ta chưa có từ điển từ nguyên tiếng Việt, cho nên việc xác định đặc trưng chỉ có thể dựa vào hình thái bên trong của tên gọi Việc nghiên cứu hình thái bên trong của từ sẽ giúp phát hiện ra tính có lí do của các kí hiệu ngôn ngữ Không có lí do thì có lẽ khó mà đặt được tên gọi cho một sự vật mới (ở đây, chúng tôi đồng ý với quan điểm của Nguyễn Đức Tồn khi ông cho rằng “tất
cả mọi kí hiệu ngôn ngữ đều có lí do, chứ không phải là võ đoán” Lí do ấy có thể là lí do khách quan, khi tên gọi dựa trên một đặc trưng nằm trong chính bản thân đối tượng được gọi tên Mặt khác, lí do của tên gọi có thể là lí do chủ quan (không nằm trong bản thân đối tượng, mà nằm ở chủ thể định danh), khi
đó, tên gọi không phản ánh bản chất của sự vật được gọi tên) Do vậy, những
Trang 40đơn vị là yếu tố vay mượn (34/106 chiếm 32 %) sẽ không được xét, bởi theo quan điểm của chúng tôi, muốn biết lí do của chúng phải đi tìm ở dân tộc đã tạo ra các đơn vị ngôn ngữ ấy Ngoài ra, những tên gọi thuần Việt mà chưa rõ
lí do cũng không được xét tới (trong đó các tên gọi là từ đơn - từ đơn là những
từ không chia ra được các thành phần cấu tạo như: sêu, dâu, rể, vợ, chồng, -
có số lượng 23/106, chiếm tỉ lệ là 22%; các tên gọi là từ ghép và cụm từ cố định – là những đơn vị có khả năng phân chia ra được các thành phần cấu tạo-
có số lượng 4/106 chiếm 4 % ví dụ như: đèn cầy, nón dấu, nón quai thao, dây
chuyền.)
Các đơn vị được xem xét ở đây gồm những từ ngữ có thể thấy được rõ
lí do (tức là dựa vào ý nghĩa các thành phần được tách ra trong tên gọi, người
ta có thể giải thích được lí do tương đối) và là từ ngữ thuần Việt Số lượng tên
gọi này là 45/106 chiếm 42 %
Sau đây là những dấu hiệu đặc trưng mà người Việt lựa chọn để định danh các hiện tượng thuộc phong tục cưới xin
10 Đặc điểm vai trò, chức năng: 2,2 % (1/45)
11 Đặc điểm về địa điểm: 2,2 % (1/45)
Đối với tiếng Việt, những dấu hiệu đặc trưng này được đưa vào trong tên gọi theo mô hình chung là: