Hoặc theo nhà lý luận quản lý quốc tế Henri Fayol 1841-1925 người Pháp cho rằng: “Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực của nó”[13] Khi nói về vai trò
Trang 1Thế nào là khái niệm và phạm trù trong khoa học quản lý giáo dục Trình bày ví
dụ về 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục và xác định khả năng thực hiện các khái niệm đó
BÀI LÀM
I KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ
Khái niệm: là ý nghĩa phản ánh ở dạng khái quát các sự vật, hiện tượng của hiện
thực và những mối quan hệ giữa chúng
Phạm trù: Là khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ
chung, cơ bản nhất của các hiện tượng
II VÍ DỤ VỀ 5 KHÁI NIỆM TRONG KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1 Quản lý
1.1 Khái niệm quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển loài người, con người phải luôn luôn lao động để duy trì và phát triển nòi giống Trong khi lao động cần sự hợp tác của một nhóm người hoặc nhiều người, do sự hợp tác này mà xã hội xuất hiện một loại hình lao động mới mang tính đặc thù là tổ chức điều khiển các hoạt động lao động theo yêu cầu nhất định loại hình lao động, đó là hoạt động quản lý
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra Trong xã hội loài người, quản lý là một hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử
Theo Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
Trang 2đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[4]
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra,
nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người Chẳng hạn:
Theo Frederich Wiliam Taylor (1856-1915) người Mỹ: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[20] Hoặc theo nhà lý luận quản lý quốc tế Henri Fayol (1841-1925) người Pháp cho rằng: “Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực của nó”[13]
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Herscy và Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của
cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”[31]
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định”[29]
Theo Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy quản lý, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các cấp quản lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu quả”[14]
Quan điểm của Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt các mục tiêu đặt ra cho hệ và từng thành tố của hệ”
Trang 3Giáo trình “ Quản lý giáo dục và đào tạo ” của trường cán bộ quản lý GD&DT nêu rằng
- Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào
hệ thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội
- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng ổn định và phát triển đến mục tiêu đã định
- Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt các mục tiêu đề ra
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi trường [13]
Từ các định nghĩ trên có thể rút ra một số điểm chung:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động, hoạt động khác
- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý
- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, quan
hệ với nhau bằng những tác động quản lý Những tác động quản lý chính là những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối tượng quản lý Các Mác so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng đối với hệ thống nhạc công, trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc công là chủ thể bị quản lý (các nhạc công chịu sự tác động của nhạc trưởng) để đưa đến một sản phẩm “kép” một sản phẩm “siêu sản phẩm” - Đó là cả chủ thể quản lý và chủ thể bị quản lý đều phát triển (hoạt động tạo ra các chủ thể và về sự phát triển của con người)
Trang 4- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã hội Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển
- Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện Điều đó cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra
1.2 Các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý đương đại hàng đầu, đã
đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc “đúng”)
và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc) ông cho rằng, tính hiệu nghiệm
là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh của kế hoạch: xác định những mục tiêu “đúng” và lựa chọn những biện pháp “đúng” để đạt các mục tiêu này
Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình quản lý [32]
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta có thể định nghĩa như sau: chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu
và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hoá, với mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác Họ ví kế hoạch như một chiếc đầu tầu kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra” Như vậy, người quản lý, nếu không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực
Trang 5khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái gì nữa Không có
kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo người thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả mong đạt tới Cũng vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ
Trong QLGD, quản lý nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng
đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi kết thúc các hoạt động Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy bởi bản thân nó
có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó Đối với nhà trường đó là trạng thái về cơ sở vật chất, về đội ngũ giáo viên, về các kết quả về hoạt động sư phạm của các năm học trước đó, những mặt tốt và mặt tồn tại, nguyên nhân của chúng…Dựa trên những số liệu của năm học trước rút ra kết luận cụ thể về trạng thái xuất phát của nhà trường trong năm học mới
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên
cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó có tính tới nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu tiên,
dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan
- Chức năng tổ chức
Trang 6Bamard định nghĩa tổ chức như là “ Hệ thống các hoạt động hay tác động có
ý thức của hai hay nhiều người”
Cuốn “Cơ sở khoa học quản lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các
hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành)” [9]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
đã chỉ rõ: “Kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước” [42; 72] Xuất phát từ quan điểm trên, trong quản lý giáo dục, quản lý trường trung học, điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ vai trò của mỗi bộ phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ ngược, sự thống nhất
và đồng bộ về tổ chức trong quản lý giáo dục ở trường trung học
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý, đúng như V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, muốn quản lý tốt…còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa” [23] Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý
- Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi
và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để
họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu
Trang 7- Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi mới cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
2 Quản lý giáo dục
2.1 Khái niệm giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm, từ đó nảy sinh những nhu cầu truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục
Sơ khai, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành một hoạt động có ý thức Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế hoạch, có nội dung, phương pháp hiện đại và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ
có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc,
Trang 8nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội loài người không ngừng tiến lên
2.2 Khái niệm quản lý giáo dục
Nhà nước quản lý mọi hoạt động của xã hội, trong đó có hoạt động giáo dục Nhà nước quản lý giáo dục thông qua tập hợp các tác động hợp quy luật được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý, nhằm tác động đến các phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ
Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung cho nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục
Theo M.I.Kônđacôp: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của
xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em [21;124]
Theo P.V.Khuđôminxky (nhà lý luận Xô Viết): QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích bảo đảm việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn diện
và hài hoà của họ
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh…” [16]
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
Trang 9hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất [30]
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội Trong
hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý Mọi hoạt động giáo dục và QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD
2.3 Đặc điểm của quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục vừa có những đặc điểm chung của quản lý vừa có những đặc điểm của riêng lĩnh vực quản lý giáo dục :
+ Các đặc điểm chung của quản lý :
- Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối liên hệ ngược
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi)
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật
- Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng
+ Đặc điểm đặc thù của quản lý giáo dục
- Quản lý giáo dục gắn liền với việc điều hành quá trình giáo dục đào tạo con người, đặc biệt là lao động sư phạm của các nhà giáo
Trang 10- Quản lý giáo dục được gắn liền với quyền lực nhà nước trong việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, thông qua việc xây dựng, ban hành và chấp hành các văn bản như luật, điều lệ và các qui định, qui chế chuyên môn sư phạm
- Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù là hình thành và phát triển nhân cách cho người học, nên quản lý giáo dục phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được phép tạo ra
“phế phẩm” trong giáo dục
- Quản lý giáo dục gắn liền với phát triển quan điểm quần chúng, xã hội
- Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc
3 Quản lý nhà trường
3.1 Khái niệm nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho mọi nhóm dân cư nhất định của xã hội đó Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội
Quá trình sư phạm là quá trình kiếm tạo các điều kiện và cơ hội để cá thể người lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, thực hiện việc xã hội hoá nhân cách của mình Nhà trường thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội thông qua quá trình sư phạm hay nói cách khác, nhà trường là thiết chế chủ yếu
để thực hiện quá trình sư phạm
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho tương lai Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình
mà không một thiết chế nào có thể thay thế được Những nhiệm vụ của nhà