1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

98 531 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp luật về quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Mận
Người hướng dẫn TS. Đặng Minh Tuấn
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 731,22 KB

Nội dung

Để đáp ứng được những yêu cầu này, tổ chức tài chính trong lĩnh vực TGPL nêu trên còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm việc phát triển đồng bộ của hệ thống TGPL trên toàn quốc, c

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MẬN

PHÁP LUẬT

VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2013

Trang 2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MẬN

PHÁP LUẬT

VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số : 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Đặng Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2013

Trang 3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

8

1.1 Khái quát về trợ giúp pháp lý và Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 8

1.1.2 Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 19 1.2 Khái quát pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22 1.2.1 Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22 1.2.2 Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 24 1.3 Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới 25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP

Trang 4

2.2.2 Mối quan hệ công tác, phối hợp của Quỹ trợ giúp pháp lý

Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

61

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

Trang 5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TGPL : Trợ giúp pháp lý XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Trang 6

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam ra đời từ năm 1997 được xác định là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý không thu phí cho người được TGPL (là những người có hoàn cảnh đặc biệt như: người nghèo, người

có công với cách mạng, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số ) nhằm giúp

họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, đồng thời, góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật Hoạt động TGPL được xác định là trách nhiệm trước hết thuộc về Nhà nước, khuyến khích, thu hút sự tham gia đóng góp của xã hội và một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TGPL là không thu phí, lệ phí hay bất cứ một khoản thù lao nào từ người được TGPL Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, ngoài ngân sách nhà nước cấp, hệ thống TGPL đã nhận được sự quan tâm, tài trợ, viện trợ, đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế

Để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí cho hoạt động TGPL cần phải

có một tổ chức chịu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, phân phối, điều tiết nguồn kinh phí hỗ trợ đó cho các hoạt động TGPL trong toàn quốc nhằm bảo đảm đúng đối tượng, đúng mục đích và được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển Chẳng hạn, những địa phương khó khăn về kinh tế (thu không đủ chi hoặc gặp thiên tai đột xuất), không thể bảo đảm đủ kinh phí cấp cho hoạt động TGPL, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này thì các địa phương này có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ tổ chức này

Thực tế cho thấy, TGPL chính là một loại hình dịch vụ pháp lý công nhằm đáp ứng nhu cầu TGPL của những người yếu thế, hạn chế về điều kiện tiếp cận, khả năng nhận thức và sử dụng pháp luật Việc đáp ứng nhu cầu TGPL của mọi đối tượng ở các địa phương phải bình đẳng, công bằng và

Trang 7

khách quan, tổ chức thực hiện TGPL không được phép từ chối trợ giúp cho các đối tượng có nhu cầu nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, không

kể đó là tổ chức ở địa phương "giàu" hay "nghèo" Nhóm người được TGPL thường tập trung nhiều ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi Tuy nhiên, ngân sách các vùng này lại hết sức hạn hẹp, rất cần sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, trong khi ngân sách nhà nước nói chung (trong đó có ngân sách Trung ương) còn hạn chế, không thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, ngân sách dành cho hoạt động TGPL lại càng ít hơn Để đáp ứng được những yêu cầu này, tổ chức tài chính trong lĩnh vực TGPL nêu trên còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm việc phát triển đồng bộ của hệ thống TGPL trên toàn quốc, cân bằng giữa các vùng, miền trong việc thực hiện chính sách về TGPL của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho mọi người dân thuộc diện được TGPL có thể tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng loại hình dịch vụ công này

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, Quỹ TGPL Việt Nam đã được nghiên cứu, thành lập theo Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhằm hỗ trợ tài chính cho hoạt động TGPL miễn phí cho một

số đối tượng theo quy định của pháp luật trong phạm vi cả nước Thực hiện Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày 08/12/2008, Bộ trưởng Bộ

Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam

Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thành lập và đi vào hoạt động, Quỹ TGPL Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về địa vị pháp lý, về tổ chức, bộ máy và pháp luật về Quỹ Trong bối cảnh Việt Nam tuyên bố thoát khỏi danh sách các nước nghèo, các nguồn tài trợ, viện trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế cho hoạt động TGPL Việt Nam đã bị cắt giảm đáng kể, gây ra sự "hẫng hụt" rõ nét về kinh phí triển khai các hoạt động TGPL, rất cần thiết Quỹ TGPL Việt Nam

Trang 8

phải huy động được các nguồn hỗ trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL thì vai trò này thực hiện chưa hiệu quả Vì vậy, mục đích của Quỹ chưa đạt được, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động TGPL Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là

do pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam chưa hoàn thiện, quy định chưa đầy đủ,

còn chồng chéo, mẫu thuẫn Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về Quỹ

trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương

diện lý luận và thực tiễn nhằm xác định rõ, đúng mức vị trí, vai trò của Quỹ

và nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động Quỹ TGPL Việt Nam, góp phần bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển bền vững theo định hướng của chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030

2 Tình hình nghiên cứu

Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm Việc ban hành chính sách TGPL và triển khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về

cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật

Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ

và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận

và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:

Luận án Tiến sĩ "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý Luận án đã tập trung nghiên

cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về TGPL; thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới

Trang 9

Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp

pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến Luận văn tập trung nghiên cứu cơ

sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL

Luận văn Thạc sĩ "Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của

người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân Luận

văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm bảo đảm cho người nghèo ở Việt Nam luôn được tiếp cận pháp luật

Luận văn Thạc sĩ "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan

Thị Thu Hà Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được TGPL và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được TGPL của người dân

Luận văn Thạc sĩ "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của Đặng Thị

Loan Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mô hình TGPL ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô hình TGPL ở cơ sở

Luận văn Thạc sĩ "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt

Nam", của Phạm Quang Đại Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn

đề chất lượng hoạt động TGPL cũng như làm rõ thực trạng chất lượng TGPL hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng TGPL

Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của hoạt động TGPL Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý

luận và thực tiễn Vì vậy, với đề tài "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở

Việt Nam", tác giả luận văn đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và

thực tiễn, thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong

Trang 10

thời gian tới là hết sức cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để kiện toàn, nâng cao vị trí, vai trò và năng lực của Quỹ, đáp ứng sự phát triển của hệ thống TGPL

3 Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm xác định rõ vị trí pháp lý, vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam

4 Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây:

- Các khái niệm, đặc điểm của TGPL, Quỹ TGPL Việt Nam

- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện

- Trên cơ sở các yêu cầu khách quan, những quan điểm, đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi trên thực tế nhằm hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL để nâng cao vị trí, vai trò của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới

5 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về pháp luật điều chỉnh toàn diện về vị trí pháp lý tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu chung về mô hình Quỹ, nghiên cứu đặc thù về mô hình Quỹ TGPL ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, xác định các quan điểm, yêu cầu phát triển Quỹ TGPL Việt Nam làm căn cứ đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ để đáp ứng các yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn của Quỹ

Phạm vi nghiên cứu toàn bộ những vấn đề về Quỹ TGPL Việt Nam thuộc Cục TGPL, Bộ Tư pháp

Trang 11

6 Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng, quan điểm khoa học về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TGPL nói riêng

- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống

kê Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn

7 Đóng góp của luận văn

Luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống

về cơ sở lý luận, pháp lý về TGPL và tổ chức, hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam nhằm xác định rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của Quỹ đối với hệ thống TGPL; đánh giá được mức độ điều chỉnh của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quỹ mà gián tiếp là mức

độ đáp ứng về tài chính của Quỹ đối với toàn bộ hệ thống TGPL của Việt Nam; từ đó cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật làm "động lực" tạo

sự thay đổi, biến chuyển rõ nét về tổ chức của Quỹ cũng như chức năng, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL Luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế huy động các nguồn lực cho hoạt động TGPL ở Việt Nam và là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chính sách phát triển bền vững hoạt động TGPL trong thời gian tới Luận văn phải mang tính thực tiễn và có tính khả thi nhằm giải quyết được những tồn tại cũng như kiến nghị những vấn đề cần khắc phục

Trang 12

8 Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý và pháp luật về Quỹ trợ

giúp pháp lý Việt Nam

Chương 2: Thực trạng pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ

giúp pháp lý ở Việt Nam

Trang 13

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

1.1 KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM

1.1.1 Khái niệm trợ giúp pháp lý

Thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ

giữa thế kỷ XIX và xuất phát từ tiếng Anh là: Legal aid Theo Từ điển Anh -

Việt "Legal aid" được dịch là "Trợ cấp pháp lý" [32] Ngoài ra, trong một số tài liệu khác dịch "Legal aid" là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp" , như vậy, bản chất là một nhưng hiện đang có rất nhiều sách, báo… có cách dịch khác nhau, sử dụng thuật ngữ khác nhau về vấn đề này Ở

Việt Nam thuật ngữ"Trợ giúp pháp lý" đang được sử dụng chính thức trong

các văn bản pháp luật và sách báo, nó thể hiện rõ bản chất, nội dung và hình thức hoạt động của loại dịch vụ pháp lý miễn phí ở Việt Nam

Ở các nước trên thế giới, hoạt động TGPL cho người nghèo, người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL trên thế giới đang rất phong phú và đa dạng, có nhiều đặc thù do phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia Nhiều quốc gia đã có Chiến lược phát triển TGPL như Canada, Mỹ, Úc… nhưng chưa có một văn bản nào mang tầm quốc tế về TGPL nên chưa

có quan niệm chung, thống nhất về TGPL trên thế giới

Do có nhiều mô hình TGPL, với những quan niệm khác nhau về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí TGPL trên thế giới, nên ở mỗi nước

Trang 14

đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính chính trị- pháp lý, nghề nghiệp, nhân đạo và tính kinh tế của hoạt động TGPL Chẳng hạn, dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo, ở một số nước (như Đức) quan niệm TGPL là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước tòa án Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì TGPL là giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi

trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý Điều 2 Đạo luật về đại diện và

tư vấn pháp lý 1995 của Singapore và Đạo luật số 26 của Malaysia về bảo trợ

tư pháp năm 1971 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1992) cũng giải thích TGPL

theo nội hàm này Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động TGPL, người Úc

cho rằng TGPL là sự giúp đỡ cho một người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo ra sự

công bằng khi tiếp cận với pháp luật [42] Dưới góc độ chính trị, Mỹ, Trung

Quốc, Nga… cho TGPL là giải pháp yên lòng nhóm yếu thế, bần cùng, sử

dụng pháp luật làm công cụ để bảo vệ, nâng đỡ để tự tin, tự bảo vệ và vỗ về…

Nói chung, tính chính trị của TGPL thể hiện ở góc độ bảo đảm gỡ rối

và giải tỏa điểm nóng khiếu kiện; tính kinh tế thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý; tính pháp lý của TGPL thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức ); tính nhân đạo thể hiện ở góc độ đối tượng yếu thế trong xã hội được giúp đỡ theo cơ chế không phải hoàn trả lệ phí

Như vậy, khái niệm TGPL được quy định trong văn bản pháp luật của các nước nêu trên về cơ bản đều tương đối đồng nhất khi cho rằng TGPL là hoạt động giúp đỡ pháp luật cho người nghèo, người không có điều kiện về kinh tế để chi trả cho các dịch vụ pháp lý

Trang 15

Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng tổ chức và hoạt động TGPL của các nước trên thế giới đã có từ hàng trăm năm nay và thực tiễn hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra quan niệm chung về TGPL một cách đầy đủ, thể hiện những đặc trưng cơ bản của nó Theo quan niệm chung hiện nay thì TGPL hiểu là sự giúp đỡ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người có công với đất nước và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, hòa giải ), nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội

Việc thành lập tổ chức TGPL ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các sách, báo từ năm 1995, khi bắt đầu có nghiên cứu xây dựng Đề án hình thành

hệ thống TGPL ở Việt Nam và đã được sử dụng chính thức trong Quyết định

số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập

tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật đề cập khá nhiều đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý"

Theo quy định tại Điều 3 Luật TGPL năm 2006 thì khái niệm TGPL được định nghĩa như sau:

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng

xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [40]

Có thể khẳng định rằng, khái niệm về TGPL ở Việt Nam theo quy định của Luật TGPL năm 2006 đã bao quát đầy đủ nội hàm của TGPL

Trang 16

Đặc điểm trợ giúp pháp lý

Đặc điểm của hoạt động TGPL bao gồm: chủ thể thực hiện, đối tượng phục vụ, nguyên tắc hoạt động, hình thức thực hiện TGPL, phương thức TGPL, lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:

- Chủ thể thực hiện: Theo nghĩa rộng, chủ thể thực hiện TGPL gồm Nhà nước và xã hội; theo nghĩa hẹp thì chủ thể thực hiện TGPL là các tổ chức của Nhà nước (được giao nhiệm vụ thực hiện TGPL mà cụ thể là người thực hiện TGPL của Nhà nước) và các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tự nguyện tham gia TGPL Hiện nay, ở Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện hành chủ thể thực hiện TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước thông qua người thực hiện TGPL là trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên TGPL (cộng tác viên là luật sư và cộng tác viên không phải là luật sư); các tổ chức đăng ký tham gia TGPL (Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các

tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp) thông qua các luật sư, tư vấn viên pháp luật thuộc các tổ chức này Các chủ thể trên trực tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí thông qua các vụ việc TGPL cụ thể

Ngoài ra, còn có chủ thể khác tham gia vào một hoặc một số hoạt động TGPL mà không phải trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí như:

Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã, Phòng Tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, cơ quan báo, đài phát thanh, truyền hình tham gia TGPL lưu động; thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ TGPL; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng phối hợp trong việc giải thích quyền được TGPL và cung cấp các thông tin TGPL cho các đương sự…

- Đối tượng phục vụ của hoạt động TGPL là người được hưởng các dịch vụ TGPL miễn phí Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa và tính chất của hoạt động TGPL, không phải tất cả mọi người dân đều được hưởng dịch vụ TGPL

mà chỉ nhóm yếu thế mới được hưởng dịch vụ này Người được TGPL theo quy định tại Điều 10 của Luật TGPL bao gồm:

Trang 17

Người nghèo là người thuộc hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo

do Thủ tướng Chính phủ ban hành trong từng giai đoạn Hiện nay, hộ nghèo đang áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-

2015 thì hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000 đ/người/tháng ở nông thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị

Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hộ nghèo (sổ hộ nghèo) để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước [21]

Người có công với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công

với cách mạng năm 2005 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 bao gồm những người sau:

+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;

+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; + Người có công giúp đỡ cách mạng bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến [45]

Trang 18

Người già cô đơn không nơi nương tựa là những người từ 60 tuổi trở

lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng

Người tàn tật không nơi nương tựa là người bị khiếm khuyết một hay

nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc các bệnh khác làm mất khả năng dân sự mà không có ai nuôi dưỡng, chăm sóc

Trẻ em không nơi nương tựa là người dưới mười sáu tuổi, không có

gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện các quyền

cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng

Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ trong từng giai đoạn

Nạn nhân bị buôn bán là người bị xâm hại bởi hành vi mua, bán người

theo quy định tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011

Các đối tượng khác được TGPL theo các quy định tại Công ước quốc

tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên

- Nguyên tắc hoạt động TGPL: Đây là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hoạt động TGPL, là kim chỉ nam cho hoạt động TGPL buộc các chủ thể thực hiện TGPL phải tuân thủ trong quá trình TGPL Các nguyên tắc hoạt động TGPL bao gồm:

+ Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL: Theo nguyên tắc này, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL không được thu phí,

lệ phí và nhận thù lao từ người được TGPL dưới bất kỳ hình thức nào, vật chất (tiền, tài sản, quà,…) hay tinh thần, tình cảm Người được TGPL không phải trả bất cứ một khoản lệ phí nào, kể cả phí in ấn tài liệu hay làm thủ tục TGPL

Trang 19

+ Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Khi thực hiện TGPL bằng các hình thức khác nhau, người thực hiện TGPL phải trung thực, chí công, vô

tư, tôn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và không vì mục đích cá nhân ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL

+ Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo

vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL: Khi thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm, coi việc TGPL cho người được TGPL như việc của mình Người thực hiện TGPL phải thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư công sức, trí tuệ, không bỏ một công đoạn nào để tiến hành các hoạt động TGPL cho người được TGPL Chẳng hạn: Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng như gặp gỡ người làm chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để

có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo vệ tốt nhất cho người được TGPL Tuy nhiên, mặc dù lợi ích hợp pháp của người được TGPL là trên hết nhưng việc TGPL của người thực hiện phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp, không xúi giục người được TGPL làm trái quy định của pháp luật

+ Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL: Trong quá trình thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, quy tắc nghề nghiệp TGPL (là các chuẩn mực

về hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và trách nhiệm cụ thể của tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL khi thực hiện TGPL) Người thực hiện TGPL phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép Nội dung TGPL phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội

+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung TGPL: Việc thực hiện TGPL do người thực hiện TGPL chịu trách nhiệm cá nhân (Phiếu tư vấn do

Trang 20

mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư cách tham gia của mình) Do đó, nếu TGPL sai thì tùy theo mức độ vi phạm mà người thực hiện TGPL bị xử lý theo quy định của pháp luật Trong trường hợp TGPL sai, gây thiệt hại cho người được TGPL thì người thực hiện TGPL phải bồi thường hoặc chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định của pháp luật

- Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bao gồm: Tư vấn pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc TGPL); tham gia tố tụng (tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính); đại diện ngoài tố tụng (được thực hiện cho người được TGPL khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; việc đại diện ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được TGPL); các hình thức TGPL khác như: hòa giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của luật sư Ngoài ra, còn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của người dân Các tổ chức TGPL chỉ thực hiện các

vụ việc TGPL có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL

- Lĩnh vực pháp luật được TGPL bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm; pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu

Trang 21

đãi xã hội khác và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

- Phương thức thực hiện hoạt động TGPL: tại trụ sở của các tổ chức thực hiện TGPL, TGPL lưu động tại các xã, phường, thị trấn, Câu lạc bộ TGPL, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, TGPL qua các phương tiện thông tin…

Ý nghĩa, vai trò của TGPL

Có thể nhận diện rõ hơn đặc điểm của TGPL ở Việt Nam qua phân tích về ý nghĩa, vai trò và đóng góp của hoạt động này:

Một là, chính sách TGPL đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong

nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của pháp luật trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người nghèo và người có hoàn cảnh đặc biệt khác, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế những vấn đề tiêu cực phát sinh từ nền kinh tế thị trường Từ chỗ TGPL ban đầu còn được coi là nhiệm vụ của riêng ngành Tư pháp, đến nay, công tác này được khẳng định thuộc trách nhiệm của Nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị Trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện TGPL; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức,

cá nhân khác tham gia, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL

Hai là, TGPL góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách hành

chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Công tác này không chỉ nâng cao ý thức pháp luật, trình độ dân trí pháp lý, tạo lập thói quen, nếp sống và làm việc theo pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, tạo lập và củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn tăng cường nhận thức trách nhiệm pháp lý

Trang 22

của cán bộ, công chức đối với nhân dân Do đó, TGPL đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội Hoạt động này đã góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống, trở thành cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân, góp phần khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động công vụ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị, giảm thiểu các khiếu kiện sai trái, vượt cấp Đồng thời, góp phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo toàn diện của Đảng ta cũng như tham gia tích cực vào các hoạt động thiết thực đền ơn, đáp nghĩa, giữ gìn đoàn kết cộng đồng, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, thể hiện tính ưu việt của pháp luật và chế độ ta Từ đó, TGPL cũng hỗ trợ từng bước nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế trong việc bảo vệ nhân quyền, bảo đảm công lý trong phong trào giảm nghèo toàn cầu, phù hợp với

xu thế phát triển của thế giới

Ba là, TGPL góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã

hội, giữ gìn ổn định trật tự xã hội ở các địa phương, góp phần giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài hoặc liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều người dân, giảm số vụ khiếu kiện không cần thiết, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và uy tín của Nhà nước Nhiều Trung tâm TGPL nhà nước đã thực sự trở thành cầu nối tin cậy giữa chính quyền với người dân, giữa pháp luật với cuộc sống, tạo diễn đàn đối thoại để giải quyết các bất cập trong hoạt động công vụ, tăng niềm tin của người dân vào pháp luật Nhận thức của chính quyền các cấp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động TGPL

đã được nâng lên, chính quyền cơ sở ở hầu hết các nơi đã tích cực đề nghị hoặc tạo điều kiện để Trung tâm TGPL nhà nước tổ chức các hoạt động TGPL lưu động tại địa bàn, thành lập Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã, tạo diễn đàn quan trọng cho người dân, góp phần tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, tăng tính công khai, minh bạch trong giải quyết các vụ việc của người dân

Bốn là, thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, quyền và lợi ích hợp pháp

của nhiều người nghèo và các đối tượng yếu thế đã được bảo vệ kịp thời,

Trang 23

người dân tin tưởng hơn vào công lý, công bằng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước Nhiều người thuộc diện nghèo, yếu thế khi có vướng mắc pháp luật đã biết chủ động tìm đến tổ chức thực hiện TGPL thay vì sử dụng các biện pháp giải quyết bất hợp pháp (theo luật xã hội đen hoặc mua chuộc quan chức) Nhiều vụ được hòa giải thành trước khi phải đưa ra Tòa án đã giữ được tình đoàn kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm cho người dân, góp phần xây dựng điều kiện quan trọng để phát triển một nền văn hóa pháp lý và nếp sống văn minh tại cộng đồng TGPL còn góp phần quan trọng trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương, người dân được tư vấn các thủ tục pháp lý để vay vốn hoặc hưởng các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế gia đình, vươn lên thoát nghèo Việc các tổ chức thực hiện TGPL giải quyết kịp thời vướng mắc pháp luật của người được TGPL cũng giúp cho

họ tiết kiệm được đáng kể thời gian đi khiếu kiện để tập trung vào sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định trật tự xã hội

Năm là, TGPL góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật

Thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, người thực hiện TGPL phát hiện ra các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo và đề nghị tổ chức thực hiện TGPL kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan Hoạt động TGPL cũng góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách tư pháp thông qua sự tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên TGPL - người thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng, tăng đáng kể số lượng vụ án được đưa ra xét xử với sự có mặt của người bào chữa, đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, thực hiện tranh tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử

Sáu là, TGPL ra đời đã khắc phục một bước tình trạng thiếu luật sư

trong các vụ việc tranh tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ

Trang 24

quyền lợi trong các vụ việc tố tụng; đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, góp phần thực hiện cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp

1.1.2 Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Lân, thì khái niệm quỹ được định nghĩa là "số tiền bạc để dành lại để làm việc gì" [34, tr 1503] Xét

về góc độ là chủ thể trong các quan hệ pháp luật, Quỹ là tổ chức, đơn vị "giữ"

và "chi tiêu" tiền Nói đến Quỹ thường là nói đến vấn đề tài chính, Quỹ tài chính Quỹ tài chính có một số đặc điểm chính sau:

Một là, Quỹ là định chế tài chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

thành lập hoặc do tổ chức phi chính phủ, cá nhân thành lập nhằm tập trung nguồn lực để đáp ứng một số nhiệm vụ chi được xác định

Hai là, các yếu tố cơ bản để hình thành một quỹ bao gồm: quyết định

thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; các nguồn thu theo quy định và được huy động nguồn thu để sử dụng cho một số nhiệm vụ chi theo quy định

Ba là, Quỹ có thể được hình thành ở Trung ương và địa phương, là

nguồn lực tài chính quan trọng của đất nước, có quan hệ mật thiết với ngân sách nhà nước và hỗ trợ ngân sách nhà nước sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc hình thành các quỹ là rất cần thiết nhằm huy động các nguồn lực đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tạo lập cơ chế linh hoạt cùng với ngân sách nhà nước để thực hiện kịp thời một số nhiệm vụ trọng yếu, bức thiết, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, người yếu thế trong xã hội…, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giảm bớt sự bao cấp từ ngân sách nhà nước

Trang 25

Bốn là, các Quỹ hiện nay được thành lập theo nhiều văn bản quy

phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau, có Quỹ thành lập theo Luật, Pháp lệnh, có Quỹ thành lập theo Nghị định hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ… Trong đó, các quỹ tài chính ở Trung ương hầu hết được quy định trong các văn bản Luật, Pháp lệnh, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, sử dụng cho các mục tiêu chung của quốc gia hoặc của ngành, các quỹ tài chính ở địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, quản lý và sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

ở địa phương

Năm là, cơ chế tài chính của Quỹ sẽ do Bộ chuyên ngành về tài chính

hướng dẫn thực hiện Các quỹ tài chính phải lập kế hoạch thu, chi tài chính quỹ hàng năm, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện báo cáo quyết toán tài chính hàng năm

Quỹ tài chính có vai trò tác động tích cực đối với việc phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất, một số quỹ tài chính đã huy động bổ sung và tập trung

nguồn lực tài chính để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: huy động đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, sự tài trợ của một số tổ chức, cá nhân quốc tế, qua đó động viên thêm nguồn tài chính để thực hiện một số mục tiêu của cộng đồng hoặc của ngành, lĩnh vực, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội Trong điều kiện nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế thì việc tập trung một số nguồn thu riêng hoặc huy động thêm nguồn lực tài chính cho một số nhiệm vụ chi đã có tác động tích cực trong việc giải quyết một số nhiệm vụ quan trọng, các vấn đề an sinh xã hội Qua hoạt động của quỹ tài chính cùng góp phần thúc đẩy xã hội hóa, giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh, đặc biệt là các vấn đề xã hội bức xúc

Thứ hai, sự quản lý, điều hành các quỹ tài chính với cơ chế linh hoạt

đã kịp thời ứng phó với những tình huống đột xuất, yêu cầu cấp bách như

Trang 26

những tác động bất lợi từ kinh tế, xã hội và thiên tai, dịch bệnh…, góp phần phát triển, mở rộng, đa dạng các hoạt động tài chính của nhà nước Thông qua hoạt động của quỹ tài chính, thị trường tài chính, thị trường tiền tệ phát triển, tạo dựng được nguồn vốn nhàn rỗi và tăng khả năng đối phó với các rủi ro

Quỹ TGPL Việt Nam là một trong những loại hình Quỹ tài chính, là tổ chức tài chính công; hoạt động không vì mục đích lợi nhuận được hình thành

từ các nguồn đóng góp tự nguyện, tài trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ TGPL; hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện TGPL ở các tỉnh thuộc diện ngân sách trung ương phải hỗ trợ, có khó khăn đột xuất và một số trường hợp đặc biệt khác

Có thể khẳng định rằng, việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam đã khẳng định chủ trương của ngành Tư pháp là hoàn toàn đúng đắn, chủ trương giúp người nghèo thoát nghèo về pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau: tư vấn, giúp đỡ pháp luật trực tiếp cho người nghèo, hỗ trợ nâng cao năng lực cho người thực hiện TGPL, hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức thực hiện TGPL tại các địa phương còn khó khăn, cần ngân sách trung ương hỗ trợ giảm bớt áp lực ngân sách cho các địa phương này khi thực hiện các tác nghiệp cụ thể giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận pháp luật

Quỹ TGPL Việt Nam có một vai trò to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của hoạt động TGPL, hạn chế sự phụ thuộc về hỗ trợ tài chính của nước ngoài đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam Hoạt động của Quỹ TGPL còn góp phần giải quyết tình hình khó khăn về tài chính cho các tổ chức TGPL trong khi ngân sách của địa phương còn hạn chế Thông qua những nội dung hỗ trợ của Quỹ TGPL góp phần vào việc giúp các đối tượng được TGPL tiếp cận gần hơn với pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

Trang 27

người dân, đối tượng yếu thế nhất là những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, bảo vệ quyền công dân Tạo lập, củng cố và duy trì lòng tin của nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần khắc phục những vướng mắc, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện vượt cấp không đúng trình tự, thẩm quyền giải quyết Đồng thời, góp phần tạo ra sự đoàn kết, gắn bó giữa chính quyền địa phương với nhân dân, sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đảm bảo việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và ổn định trật tự ở địa phương

1.2 KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 1.2.1 Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên

cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [33, tr 288] Pháp luật ở Việt Nam thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội

"Pháp luật về Quỹ" được hiểu là những quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến việc thu hút, huy động, quản lý và phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính của một lĩnh vực nào đó "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý" là các quy định do các

cơ quan có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh, quy định các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển Quỹ, về tổ chức và hoạt động

Trang 28

của Quỹ, việc huy động, thu hút, "nắm giữ", cấp phát, chi tiêu và kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn tài chính của Quỹ TGPL Việt Nam

Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được xây dựng từ Luật TGPL năm 2006, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật TGPL, chiến lược phát triển hệ thống TGPL ở Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm

2030 Ngoài ra, các văn bản điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Quỹ bao gồm: 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Thông tư của Bộ Tài chính (Thông tư số 174/2012/TT-BTC ngày 22/10/2012 hướng dẫn quản

lý tài chính đối với Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Quyết định của Bộ trưởng Bộ

Tư pháp (Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam) Ngoài ra, thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã có 01 Quyết định của Thủ tướng (Quyết đính số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011-2020);

02 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp được ban hành có liên quan trực tiếp đến hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam (Quyết định số 2497/QĐ-BTP ngày 01/10/2010 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 4103/QĐ-BTP về lập, quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg)

Nhìn chung, công tác xây dựng thể chế về Quỹ TGPL Việt Nam nằm trong tổng thể công tác xây dựng pháp luật về TGPL nói chung, công tác xây dựng gắn với công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống Các văn bản này đều gắn với việc bảo đảm quyền được TGPL của công dân, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ những đối tượng thuộc diện nghèo, yếu thế trong xã hội Vì vậy, khi đi vào cuộc sống đã có tác động mạnh mẽ đến tầng lớp dân nghèo, đối tượng yếu thế, nhất

Trang 29

là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số nên đã nhận được sự ủng hộ tích cực, việc tổ chức thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trên thực tế

Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành trong đó các văn bản

về Quỹ TGPL được song song soạn thảo nên sớm được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và toàn diện để tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức

bộ máy tổ chức thực hiện TGPL; xây dựng đội ngũ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuẩn hóa các hoạt động TGPL trong đó có hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam nhằm tạo cơ chế quản lý nhà nước về TGPL để hướng đến mục tiêu cao nhất là bảo đảm quyền được TGPL của người nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội

1.2.2 Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

Thứ nhất, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam là một bộ phận của hệ

thống pháp luật nói chung Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam do cơ quan

có thẩm quyền ban hành dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật đặt trong

sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là những quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan đến Quỹ TGPL, có phạm vi áp dụng rộng, áp dụng nhiều lần Trong trường hợp các chủ thể vi phạm các quy định này có thể bị xử lý, bị áp dụng các chế tài theo quy định của pháp luật

Thứ hai, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được thể hiện dưới các

hình thức văn bản quy phạm pháp luật với hiệu lực pháp lý từ cao đến thấp tương ứng với phạm vi và đối tượng điều chỉnh của văn bản, phạm vi điều chỉnh rộng khắp trong cả nước, đối tượng điều chỉnh đa dạng từ các đơn vị tiếp nhận hỗ trợ đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân tài trợ cho Quỹ và các cơ quan quản lý về mọi mặt hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam

Thứ ba, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam ra đời sớm cùng với

pháp luật về TGPL và có vai trò là chế định bắt buộc với mục tiêu tạo ra định

Trang 30

chế tài chính bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển có hiệu quả Xác định vấn đề này cho thấy việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quan trọng và phải luôn song hành với việc hoàn thiện pháp luật về TGPL nói chung

Thứ tư, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quy định toàn diện các

vấn đề có liên quan đến Quỹ như vị trí pháp lý, nguyên tắc hoạt động, tổ chức

bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nguồn thu của Quỹ, nội dung chi

và phạm vi hỗ trợ của quỹ, chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, quy trình hỗ trợ tài chính của Quỹ, chế độ tài chính kế toán, trách nhiệm quản lý, điều hành Quỹ…

Thứ năm, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam có đối tượng áp dụng

là các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan đến Quỹ TGPL ở Việt Nam từ việc thu hút, vận động tài trợ, cấp phát, tiếp nhận các nguồn hỗ trợ của Quỹ, sử dụng và quản lý các nguồn tài chính của Quỹ đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm pháp

1.3.1 Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc

Năm 1997, Quỹ TGPL Trung Quốc và Trung tâm TGPL của Bộ Tư pháp đã được thiết lập và hai tổ chức này đã đóng một vai trò quan trọng

Trang 31

trong việc cung cấp TGPL Đồng thời, các địa phương cũng tạo ra luật pháp địa phương và các quy định liên quan đến TGPL và thiết lập các cơ quan TGPL, đào tạo cán bộ TGPL đặc biệt và thực hiện hợp tác, đưa TGPL phát triển

Quỹ TGPL có nhiệm vụ tìm kiếm tài trợ từ chính quyền địa phương của 100 huyện giàu nhất của Trung Quốc để hỗ trợ pháp lý cho 592 quận được xác định là "nghèo" Quỹ này hy vọng tài trợ 10.000 nhân dân tệ (USD 1.200) một năm trong vòng ba năm tiếp theo cho từng quận nghèo, để tạo bước nhảy trong dịch vụ TGPL Nhiều quận hạt nghèo, không có đến một luật sư TGPL

Tháng 9 năm 2003, Trung Quốc bắt đầu thực hiện quy định hỗ trợ các quy phạm pháp luật, trong đó thành lập các khuôn khổ cơ bản của hệ thống TGPL và làm rõ các trách nhiệm của chính phủ Chính phủ trên cấp quận nên

áp dụng các biện pháp tích cực để thúc đẩy TGPL và hỗ trợ tài chính cho hoạt động này để phát triển song song với việc phát triển kinh tế và xã hội Các quy định về TGPL là Nghị định chính thức đầu tiên của Trung Quốc về TGPL Việc ban hành các quy định đánh dấu sự thành lập chính thức của hệ thống TGPL, mà điều này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử hệ thống TGPL Trung Quốc Nó có ảnh hưởng to lớn trong việc thực hiện chiến lược cơ bản của việc cai trị đất nước theo quy định của pháp luật, tăng cường hệ thống pháp luật XHCN và thúc đẩy sự phát triển của pháp luật

Kinh phí TGPL chủ yếu do chính phủ phân bổ TGPL là trách nhiệm của chính phủ và do đó chính quyền các cấp dành ngân sách đặc biệt cho hoạt động này Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế, nó không thể đáp ứng nhu cầu thực tế mà chỉ dựa hoàn toàn vào chính phủ Trong hoàn cảnh như vậy, đóng góp đã không chỉ cần thiết mà còn rất quan trọng Để chuẩn hóa các hoạt động quyên góp, Bộ Tư pháp thành lập Quỹ TGPL Trung Quốc, đây là một tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân độc lập Nhiệm vụ của nó là

để nâng cao, quản lý và sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ cho công tác TGPL và tiếp nhận đóng góp từ trong và ngoài nước

Trang 32

Tăng cường đầu tư TGPL là cần thiết bằng cách tăng vốn thông qua nhiều kênh khác nhau và chính quyền địa phương phải gánh vác trách nhiệm của mình Ngoài ra, sự cần thiết phải tăng cường xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL để khuyến khích các chuyên gia pháp luật cung cấp dịch vụ pháp

lý trong thời gian cố định và số tiền cố định của công việc Nhân viên dịch vụ pháp lý cũng được đào tạo tốt hơn trong các kỹ năng xử lý các vụ án hình sự

và dân sự cần TGPL Nhà nước đã tổ chức các chương trình hành động TGPL để giảm bớt tình trạng thiếu nhân viên trong khu vực phía tây nghèo của đất nước

Bộ Tư pháp nhận thức đầy đủ các vai trò quan trọng của Quỹ TGPL

và tiếp tục để khuyến khích mạnh hơn các công đoàn thương mại, các tổ chức phụ nữ, Liên đoàn người khuyết tật và tổ chức học tập để cho thấy các nguồn lực và lợi ích khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho một số nhóm đặc biệt [51]

1.3.2 Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ

Quỹ TGPL ở Mỹ được thành lập ở một số bang như Colorado, Chicago, Los Angeles, Washington, Santa Barbara… Mục đích hoạt động chung của các Quỹ này đều nhằm giúp đỡ nhóm yếu thế trong xã hội tiếp cận bình đẳng

về tư pháp, sơ lược về Quỹ của các bang như sau:

Quỹ TGPL bang Santa Barbara

Nhiệm vụ của Quỹ TGPL bang Santa Barbara là cung cấp các dịch vụ pháp lý chất lượng cao nhằm bảo đảm rằng người có thu nhập thấp và người cao niên có quyền tiếp cận hệ thống tư pháp dân sự khi gặp tình huống khó khăn để bảo đảm an toàn, cư trú sinh sống, thu nhập xứng đáng và bảo vệ khỏi bạo lực gia đình, lạm dụng người cao tuổi Từ năm 1959, Quỹ TGPL Santa Barbara đã cung cấp TGPL miễn phí trong các vấn đề quan trọng dân

sự Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo tiếp cận bình đẳng và có ý nghĩa đối với hệ thống tư pháp dân sự quận Santa Barbara cư dân sinh sống bằng hoặc dưới mức nghèo khổ, những người phải đối mặt với rào cản ngôn ngữ hoặc khuyết tật, người cao niên và những người khác sống trên thu nhập cố định như an

Trang 33

sinh xã hội, các nạn nhân bị bạo lực và lạm dụng người cao tuổi Dịch vụ của Quỹ là việc cung cấp các thông tin pháp lý và tư vấn để hỗ trợ cho việc chuẩn

bị các văn bản quy phạm pháp luật và đại diện cho các thủ tục tố tụng tại tòa

án Do hạn chế về nguồn lực nên Quỹ TGPL ở Santa Barbara chủ yếu hướng vào trợ giúp người trong thời kỳ khủng hoảng Quỹ có 03 văn phòng ở Santa Barbara, Santa Maria và Lompoc

Quỹ hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình và lạm dụng người cao tuổi trong việc có được các biện pháp để bảo vệ chúng khỏi những kẻ lạm dụng của họ Quỹ hỗ trợ tất cả mọi người không phân biệt thu nhập trong các trường hợp này Thường thường, Quỹ cũng giúp các nạn nhân bạo lực gia đình trong việc có được quyền nuôi con và thăm viếng con cái

Quỹ TGPL của Santa Barbara là một tổ chức phi lợi nhuận tư nhân; hoạt động chủ yếu dựa vào tài trợ của cộng đồng Quỹ huy động tài trợ không chỉ tiền mà còn cả vật tư, thiết bị, xe hơi cũ hoặc quyên góp bằng cách mua nước đóng chai của Quỹ

Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo rằng tất cả mọi người, bất kể thu nhập,

có thể tiếp cận giống nhau trong hệ thống tư pháp dân sự Quỹ hoạt động để thực hiện chức năng cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí, chất lượng cao trong các vấn đề quan trọng của công dân Santa Barbara Năm 2010-2011, Quỹ đã hỗ trợ giúp đỡ về pháp lý cho 880 cư dân Santa Barbara trong lĩnh vực tố tụng, đại diện cho 4.175 người; giúp 572 nạn nhân của bạo lực gia đình

có được lệnh của tòa án để không bị rơi vào tình trạng nguy hiểm, giúp 1.026 người cao tuổi [48]

Quỹ TGPL bang Washington

Quỹ TGPL ở Washington là một tổ chức phi lợi nhuận được tạo ra dưới

sự chỉ đạo của Tòa án tối cao Washington để cung cấp tiền bạc và nguồn lực sẵn có khác với các chương trình TGPL dân sự như an toàn gia đình, nhà ở, y

tế và việc làm để hỗ trợ người thu nhập thấp trên toàn tiểu bang Washington,

Trang 34

các vấn đề pháp lý mà người thu nhập thấp gặp phải, làm ảnh hưởng đến đời sống của họ

Việc hỗ trợ tài chính của Quỹ để đảm bảo bình đẳng quyền lợi có thể đạt được cho người dân nghèo nhất của tiểu bang Washington Quỹ TGPL được thành lập vào năm 1991 bởi ba nhà lãnh đạo của bang Washington Dean Spokane, Mark Hutcheson Seattle, và Paul Stritmatter Ba nhà lãnh đạo đều công nhận sự cần thiết có một nguồn kinh phí ổn định cho các chương trình TGPL dân sự Lúc đầu, Quỹ TGPL tăng hỗ trợ cho các chương trình đội ngũ luật

sư của tiểu bang Washington như chương trình Dịch vụ pháp lý Columbia và

dự án công bằng Tư pháp khu Tây Bắc

Năm 2000, Ủy ban Tư pháp hoạch định chính sách cho các dịch vụ pháp luật dân sự được thực hiện bởi Tòa án Tối cao nên đã thành lập một ủy ban để giải quyết nhu cầu đối với các nguồn tài trợ ổn định cho các nhà cung cấp dịch vụ TGPL dân sự trên toàn tiểu bang Trong năm 2004, các bang đã thông qua đề nghị của ủy ban để hình thành một chiến dịch gây quỹ và tin tưởng rằng sẽ đem lại lợi ích cả nhân viên và tình nguyện viên chương trình viện trợ dân sự hợp pháp trên toàn tiểu bang

Mục tiêu ngắn hạn của Quỹ là tăng 10 triệu USD vào cuối năm 2012,

và sẽ phân bổ 500.000 USD hàng năm Để đảm bảo cơ sở tài chính ổn định cho các nhà cung cấp dịch vụ TGPL, Quỹ đã thiết lập một mục tiêu trung gian

là 200 triệu USD và mục tiêu cuối cùng là 500 triệu USD

TGPL thực hiện giúp đỡ miễn phí cho cá nhân, gia đình, cộng đồng có thu nhập thấp, cá nhân các dịch vụ: bảo vệ và thực thi quyền lợi hợp pháp; sử dụng hệ thống tư pháp dân sự để chống lại các luật, quy định, chính sách không công bằng; phát triển và thực hiện các luật, quy định, chính sách để cải thiện chất lượng cuộc sống Sứ mệnh của Quỹ TGPL Washington là tăng đóng góp từ thiện để đảm bảo công lý là một thực tế không chỉ cho những người đủ điều kiện mà còn cho tất cả mọi người trong tiểu bang

Trang 35

Dưới sự chỉ đạo của Tòa án Tối cao Washington, nhóm công tác về công bằng Tư pháp dân sự bình đẳng đã tiến hành một nghiên cứu toàn diện

về nhu cầu của pháp luật dân sự của người thu nhập thấp Họ đã chứng minh rằng những người có thu nhập thấp tại Washington và đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, phần lớn không có được TGPL cho các vấn đề pháp lý của họ mặc dù những vấn đề thường liên quan đến những nhu cầu cơ bản của con người như nhà ở và an toàn

Quỹ TGPL Washington có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và hàng trăm tình nguyện viên trên toàn tiểu bang để đảm bảo sự thành công của Quỹ Các chiến dịch công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công

ty luật, luật sư và công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng ngàn người khác có nhu cầu

Quỹ TGPL Chicago

Quỹ TGPL Chicago có nguồn gốc từ chiến tranh đói nghèo năm 1960 theo sáng kiến của Tổng thống Lyndon Johnson Chính thức hoạt động vào năm 1965, do Quốc hội liên bang cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và trong năm 1965 và 1966 các khoản trợ cấp liên bang ở Chicago được thực hiện do một tổ chức hỗ trợ cung cấp cho các dịch vụ pháp

lý cho người nghèo và để hỗ trợ các luật sư tham gia chương trình "cải cách luật pháp" - đại diện cho các nhóm người nghèo Trong vòng một thập kỷ, các khoản tài trợ đã được thực hiện và trao cho Quỹ TGPL của Chicago

Quỹ đã cam kết mở rộng dịch vụ của mình để tiếp cận với các nhóm

dễ bị tổn thương ở Chicago và năm này qua năm khác, Quỹ tìm kiếm và bảo đảm kinh phí cho các sáng kiến mới Năm 2000, Quỹ mở rộng địa bàn hoạt động của mình xuống các vùng ngoại ô, bằng cách tham gia vào các chương trình Trong suốt 40 năm qua, Quỹ đã để lại dấu ấn trên công lý cho người nghèo ở Chicago Quỹ đã tiếp xúc với cơ quan của liên bang và chính quyền địa phương nơi có hành động ảnh hưởng tiêu cực đến người nghèo Quỹ đã

Trang 36

thúc giục và khi cần thiết, khởi kiện các cơ quan này để cải cách chính sách và các hoạt động của họ để tuân thủ tất cả các luật pháp liên bang và tiểu bang

Quỹ hỗ trợ chi phí để bảo vệ quyền hợp pháp của những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội như phụ nữ bị đánh đập, những người khuyết tật, các cư dân nhà ở công cộng, người nộp đơn và người nhận lợi ích sinh kế, người nhập cư, trẻ em, người già, người lao động được trả lương thấp, những người có HIV-AIDS và cư dân nhà dưỡng lão Trong hơn 40 năm, Quỹ TGPL của Chicago đã cung cấp miễn phí TGPL dân sự đến hàng chục ngàn người

có thu nhập thấp và người cao tuổi ở Chicago và vùng ngoại ô

Đối với những người có thu nhập thấp, người già, hoặc bị khuyết tật, TGPL thường rất quan trọng đối với họ để bảo vệ nhà cửa, việc làm, lợi ích của họ, hoặc để bảo vệ quyền lợi của họ do hiến pháp hay luật định [50]

1.3.3 Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan

Tháng 7/2004, đánh dấu thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử phát triển hoạt động TGPL ở Đài Loan Trước đây, không có một tổ chức độc lập nào thực hiện TGPL cho những người yếu thế ở Đài Loan Một số tổ chức thuộc khu vực công và tư cũng thực hiện hoạt động này nhưng đa số là tư vấn miệng Việc đại diện, bào chữa ở Tòa án chỉ được thực hiện trong trường hợp đặc biệt Nhìn chung, chất lượng hoạt động TGPL chưa tốt và không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của người dân Tiếp theo sự dân chủ hóa và việc xây dựng chế độ pháp quyền, nhu cầu về nguồn lực tư pháp ở Đài Loan

đã tăng lên Năm 1998, Quỹ cải cách tư pháp, Đoàn luật sư Đài Bắc và Hiệp hội nhân quyền Đài Loan cùng vận động thông qua dự luật TGPL Với sự giúp đỡ của Bộ Tư pháp, Quốc hội đã xem xét Luật TGPL và thông qua năm

2004 Tháng 7/2004, Bộ Tư pháp đã bảo trợ và thành lập Quỹ TGPL (LAF)

Sự đa dạng các dịch vụ TGPL liên quan đến các loại vướng mắc pháp luật cụ thể hoặc những đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nói chung Một số dịch vụ giúp đỡ chỉ được đáp ứng khi tòa án đã xét xử mà không đảm

Trang 37

bảo quyền của đối tượng yếu thế trong quá trình tố tụng Từ tháng 7/2004, Bộ

Tư pháp thành lập Quỹ TGPL, tiếp tục hỗ trợ và giám sát hoạt động của tổ chức này Bất cứ ai có vụ việc chưa được bảo vệ và đáp ứng được điều kiện

về tài chính thì đều có thể yêu cầu TGPL, bất kể đó là loại vướng mắc pháp luật nào hay nhân thân của họ ra sao

Các đoàn luật sư ở Đài Loan cũng tham gia thực hiện TGPL TGPL

do đoàn luật sư Đài Bắc thực hiện bao gồm các hoạt động tư vấn tại chỗ định

kỳ Những công dân đáp ứng được những điều kiện nhất định như gia đình có thu nhập thấp hoặc bị hạn chế về thể chất và tinh thần thì dịch vụ TGPL miễn phí tại tòa án sẽ được thực hiện khi cần thiết Tùy thuộc vào tính chất công việc của mình, một số tổ chức phúc lợi xã hội cũng thực hiện TGPL Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính nên sự giúp đỡ của các tổ chức này chỉ dừng lại

ở việc tư vấn Khi có những vụ việc quan trọng thì các tổ chức này lại tìm luật

sư giúp đỡ miễn phí

Việc thực hiện TGPL được bắt đầu bằng việc kiểm tra điều kiện của người xin TGPL Nếu thu nhập của người nộp đơn dưới mức quy định và vướng mắc pháp luật của họ chưa sáng tỏ thì người nộp đơn có thể yêu cầu TGPL Nhân thân và tính chất của yêu cầu trợ giúp không được xem xét Khi tiếp nhận vụ việc, Quỹ TGPL giao vụ việc cho luật sư TGPL và trả chi phí cho họ, Tòa án sẽ miễn trách nhiệm trả chi phí xét xử

Điều kiện để được Quỹ TGPL hỗ trợ: (i) Vụ việc chưa sáng tỏ; (ii) Người nộp đơn thuộc hộ có thu nhập thấp theo quy định của Luật An sinh

xã hội hoặc có thu nhập và tài sản dưới một mức nhất định; (iii) Người nộp đơn không phải kiểm tra điều kiện trong vụ việc hình sự bắt buộc có luật sư; (iv) Người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Đài Loan có thể đề nghị TGPL nếu

họ đáp ứng đủ các điều kiện trên

Đài Loan là nước chú trọng đến công tác TGPL nói chung và Quỹ TGPL nói riêng (LAF) khá phát triển Theo Điều 1 của Luật TGPL, mục tiêu

Trang 38

của Quỹ TGPL là để bảo vệ quyền của người dân và cung cấp TGPL cần thiết cho những người không được bảo vệ bởi pháp luật do họ thiếu khả năng tài chính hoặc các lý do khác Nó có thể được hiểu rằng người nhận TGPL của Quỹ không giới hạn cho những người không có khả năng tài chính và tất cả những người không thể được bảo vệ bởi pháp luật vì những lý do khác là người nhận trợ giúp từ Quỹ Theo luật TGPL, người nào phạm tội bắt buộc phải có luật sư thì được miễn kiểm tra điều kiện TGPL Do đó, một người giàu nhưng phạm tội vẫn có thể yêu cầu được TGPL và việc này đã gây nên

sự tranh cãi Tất cả các yêu cầu TGPL khác đều phải kiểm tra điều kiện và kết quả là Quỹ TGPL không thể trợ giúp cho những vụ việc liên quan đến nhân quyền và vụ việc là kết quả của việc hạn chế về cơ cấu tổ chức trong hệ thống

tư pháp Quỹ TGPL đã thu thập nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến các tiêu chí về tài chính để được TGPL và bắt đầu xem xét những vấn đề này

Do đó, Quỹ đã luôn luôn giữ kết nối chặt chẽ với các nhóm phúc lợi

xã hội khác nhau và quan tâm về nhu cầu nhân dân có hoàn cảnh khó khăn của người được TGPL Tuy nhiên, với nguồn lực hạn chế của Quỹ, Quỹ không thể đáp ứng tất cả các nhu cầu của họ, trong khi những thay đổi của điều kiện xã hội và kinh tế đã gây ra tác động lớn đến nhóm có hoàn cảnh khó khăn Vì vậy, Quỹ liên tục cập nhật các nhu cầu cấp thiết của người dân có hoàn cảnh khó khăn để cung cấp viện trợ kịp thời Trong tương lai, Quỹ sẽ tiếp tục giữ mối quan tâm với những nhu cầu cụ thể của những người có hoàn cảnh khó khăn trong "Chương trình TGPL cho các trẻ em" và "Chương trình TGPL cho các nạn nhân của tội phạm buôn bán người"

Trong năm 2004, Luật TGPL có hiệu lực tại Đài Loan, một ngân sách

đã được chuẩn bị cho việc thành lập của Quỹ Quỹ được tổ chức theo mô hình Hội đồng Hội đồng quản trị là cơ quan quyết định cao nhất của Quỹ Giám đốc được bổ nhiệm bởi Tổng thống có thời hạn 3 năm và không nhận được thù lao Ban Giám đốc bao gồm hai đại diện từ Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Bộ

Trang 39

Quốc phòng, bốn luật sư do đề nghị của Đoàn luật sư quốc gia và luật sư địa phương là những người tích cực tham gia công tác TGPL, hai viện nghiên cứu hoặc các chuyên gia có kiến thức chuyên môn trong pháp luật hoặc trong các ngành liên quan, một đại diện của các nhóm có hoàn cảnh khó khăn và đại diện của các nhóm thổ dân Đại diện chính thức bao gồm ít hơn một nửa số thành viên Hội đồng [38]

Từ những phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật về mô hình Quỹ TGPL của một số nước trên thế giới cho thấy giá trị tham khảo rất hữu ích đối với việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam

Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng các loại hình Quỹ TGPL: Quỹ TGPL ở phạm vi toàn quốc và Quỹ TGPL ở phạm vi địa phương, Quỹ TGPL với tư cách là một tổ chức tài chính của Nhà nước, tổ chức tài chính phi Chính phủ hoặc có thể được tổ chức theo mô hình Hội đồng gồm đại diện của một số Bộ, ngành trực tiếp quản lý hoạt động TGPL, các luật sư do Đoàn luật sư cử, các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp luật, đại diện của nhóm người có hoàn cảnh khó khăn - đối tượng hỗ trợ của hoạt động TGPL Cách tổ chức của Quỹ TGPL như vậy giúp cho quá trình vận động, thu hút dễ dàng, thuận lợi và có nhiều kênh cũng như khách quan hơn trong quá trình cấp phát, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động TGPL

Quỹ TGPL của các nước có chung mục tiêu là hỗ trợ để thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển đối với những địa phương còn khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp Quỹ TGPL góp phần đắc lực trong việc giúp nhà nước huy động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách để trang trải, đầu tư nhằm bảo đảm cho hệ thống TGPL phát triển đồng đều ở các vùng, miền

Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng, phong phú về nguồn được hỗ trợ, có thể là tiền hoặc tài sản, vật tư, thiết bị, xe hơi cũ… hoặc quyên góp bằng cách mua sản phẩm hàng hóa do Quỹ sản xuất Như vậy, ngoài việc tiếp nhận các nguồn tài trợ, Quỹ TGPL còn có hoạt động

Trang 40

kinh doanh thương mại với mục đích là thu lợi nhuận để hỗ trợ cho hoạt động TGPL Quỹ TGPL theo mô hình này thể hiện sự năng động, linh hoạt, chủ động mà không chỉ thụ động nhận viện trợ, tài trợ của các tổ chức và cá nhân

Quỹ TGPL của các nước trên thế giới rất chú trọng đến việc hỗ trợ các

vụ việc đặc thù cụ thể, những vụ việc có đối tượng đặc biệt hoặc có ảnh hưởng, tác động lớn tới xã hội, được sự quan tâm của dư luận xã hội Với phương thức hỗ trợ như vậy một mặt giúp cho việc hỗ trợ của Quỹ thiết thực,

đi trực tiếp vào các vụ việc có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng hỗ trợ, mặt khác tạo ra được danh tiếng, uy tín của Quỹ để

dễ dàng thu hút được các nhà hảo tâm, "mạnh thường quân" hỗ trợ cho Quỹ

Quỹ TGPL có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và có các tình nguyện viên khắp nơi để đảm bảo sự thành công của Quỹ Các chiến dịch công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công ty luật, luật sư và công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng ngàn người khác có nhu cầu

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Để làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm và đặc điểm TGPL, quỹ, Quỹ TGPL và pháp luật về Quỹ TGPL, tham khảo một số mô hình quỹ TGPL theo pháp luật hiện hành của một số nước trên thế giới Đây là những vấn đề nền tảng, mấu chốt, giúp hiểu rõ, hiểu đúng để định hình, khẳng định bản chất của các vấn đề nghiên cứu cũng như cung cấp cách nhìn nhận, đánh giá, khái quát hóa được những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến Quỹ TGPL và pháp luật về quỹ TGPL Vì vậy, những vấn đề lý luận ở Chương 1 là cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam và nhận diện

rõ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân Đồng thời, là cơ sở để căn cứ vào quan điểm và yêu cầu hiện nay để hoàn thiện pháp luật Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới

Ngày đăng: 25/03/2015, 15:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Ngoại giao (2007), Quyết định số 2985/QĐ-BNG ngày 29/11 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài
Tác giả: Bộ Ngoại giao
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2007
2. Bộ Ngoại giao (2003), Quyết định số 491/2003/QĐ-NG ngày 27/3 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động Quỹ hỗ trợ, vận động cộng đồng người Việt Nnam ở nước ngoài, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 491/2003/QĐ-NG
Tác giả: Bộ Ngoại giao
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2003
3. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 41/2009/TT-BTC ngày 09/3 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 41/2009/TT-BTC ngày 09/3 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Tác giả: Bộ Tài chính
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2009
4. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 174/2012/TT-BTC ngày 22/10 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 174/2012/TT-BTC ngày 22/10 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2012
5. Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp (2012), Thông tư liên tịch số 209/2012/TTLT- BTC-BTP ngày 30/11 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư liên tịch số 209/2012/TTLT- BTC-BTP ngày 30/11 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước
Tác giả: Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2012
6. Bộ Tư pháp (2002), Quyết định số 257/2002/QĐ-BTP ngày 10/7 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 257/2002/QĐ-BTP ngày 10/7 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2002
7. Bộ Tư pháp (2002), Quyết định số 2582002/QĐ-BTP ngày 10/7 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 2582002/QĐ-BTP ngày 10/7 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2002
8. Bộ Tư pháp (2007), Tài liệu Hội nghị Tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách (1997-2007), Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu Hội nghị Tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách (1997-2007)
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2007
9. Bộ Tư pháp (2008), Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ngày 08/12 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2008
10. Bộ Tư pháp (2010), Quyết định số 2497/QĐ-BTP ngày 01/10 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 2497/QĐ-BTP
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Bộ Tư pháp
Năm: 2010
11. Bộ Tư pháp (2011), Quyết định số 4103/QĐ-BTP ngày 19/10 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 4103/QĐ-BTP
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2011
12. Bộ Tư pháp (2011), Quyết định số 4413/QĐ-BTP ngày 08/12 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Bộ Tư pháp
Năm: 2011
13. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo sơ kết 02 năm thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo sơ kết 02 năm thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2011
14. Chính phủ (1997), Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 1997
15. Chính phủ (2004), Quyết định số 191/2004/QĐ-TTG ngày 08/11 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 191/2004/QĐ-TTG ngày 08/11 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2004
16. Chính phủ (2006), Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10 về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10 về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2006
17. Chính phủ (2007), Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2007
18. Chính phủ (2008), Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2008
19. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2008
20. Chính phủ (2010), Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011-2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011-2020
Tác giả: Chính phủ
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2010

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN