Nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 đề ra chươ
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT -
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT -
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.GVC: Nguyễn Lan Nguyên
Hà Nội - 2008
Trang 3MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành KDBH trên thế giới 6
1.1.3 Sự hình thành và phát triển ngành KDBH tại Việt Nam 17
1.2 Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản trong KDBH 19
1.3 Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế – xã hội 30
1.3.1 Nhanh chóng bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất gây ra cho đối tượng
1.3.2 Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra trong sinh
1.3.3 Là kênh huy động vốn lớn để đầu tư trở lại nền kinh tế quốc dân 32 1.3.4 Ngành bảo hiểm góp phần hỗ trợ các khoản chi ngân sách nhà nước
1.3.5 Tạo tâm lý an tâm của tổ chức, cá nhân khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những ngành nghề có hệ số rủi ro cao khi đã
1.3.6 Góp phần đảm bảo an toàn vốn cho các ngành kinh tế khác, có khả
Chương 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
2.1 Quy định pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo
Trang 42.1.8 Hợp đồng bảo hiểm 51 2.1.9 Giải thể, phá sản, thu hồi giấy phép hoạt động 52
2.2 Tác động của việc gia nhập WTO đến tổ chức và hoạt động kinh
2.2.2 Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam lĩnh vực bảo hiểm 55 2.2.3 Tác động của cam kết gia nhập WTO vào ngành kinh doanh bảo hiểm
2.2.4 Phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam sau 2 năm gia
2.3 Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về tổ chức, hoạt động
2.3.1 Cam kết gia nhập WTO ngành kinh doanh bảo hiểm phát sinh sự kiện
2.3.2 Một số quy định của pháp luật chưa có văn bản hướng dẫn triển khai
2.3.3 Điều kiện để DNBH nước ngoài đầu tư thành lập DNBH tại Việt Nam thấp hơn so với tiêu chuẩn một số nước thành viên WTO 68 2.3.4 Quy định ràng buộc trách nhiệm của DNBH tham gia hoạt động đầu
2.3.7 Một số quy định, thuật ngữ pháp lý chưa được giải thích, hướng dẫn
cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các DNBH 71 2.3.8 LKDBH còn chứa đựng những nội dung không còn hiệu lực thi hành
Chương 3: TIẾP TỤC VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ
3.1 Kinh nghiệm phát triển ngành bảo hiểm của EU và Trung Quốc 74
3.1.1 Kinh nghiệm phát triển ngành KDBH các nước thuộc khối liên minh
3.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
3.2.2 Một số điểm cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và
Trang 5Kết luận chương 3 100
Trang 6CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
IAIS International Association
Trang 7DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
I DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng,
Bảng 1.1 Doanh thu bảo hiểm của các nước thuộc EU năm 2007 11 Bảng 1.2 Một số chỉ tiêu ngành bảo hiểm Châu Á 2004-2007 (USD) 15
Bảng 3.1 Tiêu chí xem xét đánh giá công ty bảo hiểm 76
II DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên bảng,
Biểu đồ 2.1 Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 2001-2007 (tỷ đồng) 63 Biểu đồ 2.2 Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 2007 64 Biểu đồ 2.3 Thị phần bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2007 65 Biểu đồ 2.4 Số lượng Công ty bảo hiểm một số nước Châu Á năm 2006 69 Biểu đồ 3.1 Sự phát triển các công ty bảo hiểm Trung quốc 2001-2006 80
Trang 8Gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam một cơ hội lớn trong giao thương, hợp tác phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Các quy định ưu đãi dành cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, hệ thống các nguyên tắc như nguyên tắc ưu đãi tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, công khai minh bạch… là những thuận lợi cơ bản cho Việt Nam trong quá trình hội nhập Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức trên hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, đề ra các giải pháp hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa thúc đẩy ngành sản xuất, dịch vụ trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh với nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư chính đáng vào hoạt động tại Việt Nam
Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một phần không tách rời trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung Tuy nhiên, nó cũng có những điểm khác biệt so với các ngành khác do những nét đặc thù riêng của ngành bảo hiểm Theo phân loại của WTO thì bảo hiểm là một trong ba phân ngành lớn của dịch vụ tài chính và thuộc ngành nhậy cảm của nền kinh tế Chính vì vậy, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, lĩnh vực dịch vụ
Trang 9bảo hiểm là một trong những lĩnh vực được các nước thành viên quan tâm và yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài Nguyên nhân chính vì đây là ngành có thế mạnh của các nước phát triển, tiềm năng khai thác thị trường bảo hiểm tại Việt Nam còn rất lớn, nhất là trong điều kiện nền kinh tế tiếp tục có bước tăng trưởng tốt như hiện nay
Kết quả đàm phán của Việt Nam đã đưa ra các cam kết được coi là ưu đãi hơn nhiều so với các thành viên khác (ngay cả Campuchia là nước kém phát triển hơn Việt Nam cũng chấp nhận cam kết mở cửa tự do hơn) Từ kết quả đàm phán đó chúng ta có những thuận lợi cơ bản đó là:
- Lộ trình thực thi các cam kết cũng như những gì chúng ta đã chuẩn bị trước đó giúp các công ty bảo hiểm trong nước chủ động tổ chức, sắp xếp lại hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối tác nước ngoài
- Việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam sẽ làm cho thị trường sôi động hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm
- Công ty bảo hiểm trong nước có cơ hội học hỏi, nâng cao năng lực quản lý và điều hành của các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới khi tham gia cùng hợp tác đầu tư
Bên cạnh đó cũng có những khó khăn hạn chế cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đó là:
- Thế mạnh về kinh doanh bảo hiểm của các nước phát triển là áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước
- Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm, vì sự thâm nhập thị trường Việt Nam kèm theo đó là việc các công ty nước ngoài thu hút nhân lực
có kinh nghiệm đang làm việc tại Việt Nam
- Thị trường với sự có mặt của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là sức ép đối với các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, khả năng giải quyết
Trang 10tranh chấp, thị trường bị chia cắt là vấn đề khó khăn trong việc ngăn ngừa rủi
ro mang tính hệ thống
b Về thực tiễn
Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Việt Nam được quy định chủ yếu trong LKDBH và một số Luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng, Luật giao thông đường thuỷ nội địa và các văn bản hướng dẫn thi hành thời gian qua đã góp phần ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ bảo hiểm đạt 23%/năm Tính đến tháng 6/2008, toàn thị trường đã có 41 DN hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, gồm 23 DN bảo hiểm phi nhân thọ, 9 DN bảo hiểm nhân thọ, 8 DN môi giới bảo hiểm và 1 DN tái bảo hiểm Nhiều DNBH nước ngoài được thành lập và hoạt động như AIG (Mỹ), Prevoir (Pháp), ACE life (Mỹ), NewJork life (Mỹ), Daiichi (Nhật Bản) Phạm vi hoạt động của các DN chủ yếu trên thị trường nội địa, doanh thu xuất khẩu các dịch vụ không cao, đạt khoảng 0,5 triệu USD, chủ yếu là dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu và tái bảo hiểm [45]
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã cho phép thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động từ trước khi chúng ta thực hiện cam kết gia nhập WTO Nhưng theo cam kết gia nhập WTO, phương thức kinh doanh bảo hiểm không chỉ đơn thuần là thành lập các DNBH tại thị trường nội địa mà còn
có những phương thức kinh doanh khác như hoạt động của các chi nhánh, cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới mà không có sự hiện diện của các DN tại Việt Nam Những phương thức mới đó hiện nay chưa phát triển mạnh và chúng
ta cũng chưa có cơ chế để điều chỉnh, giám sát Bên cạnh đó, tác động của hội nhập làm cho các DN đẩy nhanh cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường Chất lượng đang bị xếp thứ hai sau số lượng Đằng sau sự cạnh tranh là sự vi phạm các cam kết của các DNBH với nhau, vi phạm các quy định về cạnh tranh của pháp luật
Trang 11Nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 đề ra chương trình hành động trong
thời gian tới, trong đó nêu: “Ngành tài chính cần phải điều chỉnh bổ sung các
quy định về điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư và các dịch vụ tài chính khác, phù hợp với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao khả năng dự báo, phòng ngừa, giảm thiểu các rủi ro và bất ổn có thể xảy ra, bảo đảm sự phát triển lành mạnh, hiệu quả của thị trường tài chính tiền tệ”
Tháng 3/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 45, 46 sửa đổi Nghị định 42, 43 năm 2001 hướng dẫn LKDBH Đồng thời Bộ Tài chính cũng đã
có các Thông tư, Quyết định triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới, phù hợp với cam kết gia nhập WTO Tuy nhiên, trước sức ép phát triển của thị trường tài chính hiện nay cũng như so sánh với các chuẩn mực quốc tế chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại Để tạo đà cho sự phát triển, phát huy thế mạnh hiện có của các doanh nghiệp trong nước yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đủ mạnh để kiểm soát được hoạt động đa dạng của các DNBH, tạo điều kiện để các DN cạnh tranh lành mạnh Đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng các sản phẩm bảo hiểm Việc nghiên cứu và tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện luật kinh doanh bảo hiểm là yêu cầu hết sức cấp thiết
Để góp phần trong việc nghiên cứu, đưa ra các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong thời gian tới,
tác giả chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO” Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài
được chia thành 3 chương gồm:
Trang 12Chương 1 Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động kinh doanh
bảo hiểm
Chương 2 Nội dung chủ yếu của pháp luật về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam
Chương 3 Tiếp tục việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm
2 Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu, cung cấp cho người đọc những kiến thức pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam hiện hành và định hướng hoàn thiện do tác động của cơ chế hội nhập cũng như đáp ứng sự phát triển của kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra là:
- Nghiên cứu các quy định của WTO liên quan đến ngành KDBH
- Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển ngành bảo hiểm trên thế giới, tình hình phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam hiện nay, thực trạng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này Từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới Đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường này cũng như các cam kết gia nhập WTO
3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các loại hình kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam; không bao gồm các tổ chức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm do Nhà nước thực hiện không nhằm mục đích kinh doanh
4 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thị trường bảo hiểm các khu vực trên thế giới, kinh nghiệm pháp luật của các nước EU và Trung Quốc, so sánh đối
Trang 13chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt, đánh giá vị trí ngành bảo hiểm Việt Nam so với thế giới và khu vực Sử dụng kết hợp các phương pháp tổng hợp, thống kê,
so sánh, phân tích để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề Dùng phương pháp suy luận và tư duy biện chứng để đưa ra các đề xuất mang tính định hướng về pháp luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam
Trang 14ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc sống Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về quy mô, mức
độ và thời hạn Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cũng phát triển một cách tương ứng Các hoạt động này dần dần được tổ chức ngày càng có quy chuẩn và chuyên nghiệp hơn, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa các đối tượng tham gia hoạt động này và có tên gọi chung là bảo hiểm
Đúc rút từ quá trình hình thành và phát triển của hoạt động của con người mang bản chất của hoạt động bảo hiểm, các nhà nghiên cứu chia hình thái bảo hiểm trong lịch sử phát triển thành 3 giai đoạn cơ bản đó là: Dự trữ thuần túy, cho vay nặng lãi và thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm các bên
Trang 151.1.1.1 Dự trữ thuần túy:
Xuất hiện từ thời Cổ đại, khi người nông dân nhận thấy rằng đôi khi xảy
ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân thu hoạch mùa màng Mặc dù mỗi hộ dân có thể tự dự phòng cho gia đình họ, nhưng họ sớm nhận
ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo cộng đồng có hiệu quả hơn Mỗi người có khả năng sẽ đóng vào một khoản nhỏ những năm được mùa, khi giá lương thực xuống thấp Và khi xảy ra các rủi ro làm giá lương thực lên cao, kho dự trữ sẽ thực hiện việc cấp lương thực cho các hộ dân, góp phần ổn định được đời sống trong cộng đồng dân cư Hoặc điển hình như vào những năm 2.500 trước công nguyên (TCN), ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập quỹ để giúp đỡ những người trong hội bị tai nạn
Trong hình thái này, giữa các chủ thể tham gia không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm hỗ trợ giữa các thành viên trong cộng đồng Một phần do việc tạo lập các quỹ là hoàn toàn tự nguyện giữa các thành viên Ngoài ra, do quy mô hoạt động của quỹ nhỏ, chủ yếu là những người có quan hệ gắn bó mật thiết về mặt huyết thống, trong phạm vi nhỏ hẹp nên yếu tố lợi nhuận chưa được đề ra [39,tr.37]
1.1.1.2 Bảo hiểm dưới hình thức cho vay nặng lãi:
Song song với việc phát triển của hoạt động ngân hàng để phục vụ mục đích tiêu dùng và sản xuất kinh doanh, mở rộng thương mại và buôn bán giữa các quốc gia, các vùng, các Châu lục Ở Babylon (khoảng l.700 năm TCN) và AThen (khoảng 500 năm TCN), các hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hoá trên biển, qua sa mạc, giữa các thương nhân đã hình thành nên một điều kiện vay vốn đặc thù, và có thể coi đó là một hình thái của bảo hiểm Theo đó, khi hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển thì người đi vay sẽ không
phải trả khoản tiền đã vay Chình bởi đặc điểm: khi gặp rủi ro người vay
Trang 16không phải hoàn trả khoản tiền đã vay, làm bản chất của hoạt động này không
phải là hoạt động vay vốn tín dụng mà là một loại hình bảo hiểm lúc sơ khai Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 50% và phải trả trước một lần
Hoạt động cho vay mạo hiểm lớn này tồn tại khá lâu và phổ biến ở nhiều khu vực trên thế giới, tại Rôme nó kéo dài đến tận thời kỳ Trung cổ – thời kỳ thống trị của nhà thời Thiên chúa giáo [39, 44]
1.1.1.3 Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên:
Bảo hiểm dưới dạng cho vay nặng lãi đã bị lạm dụng và vào năm 1434, Giáo hoàng Grégoire IX đã ra sắc lệnh cấm hình thức này Đồng thời, vào cuối thế kỷ XV, khi các thương gia Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới Châu Á và Châu Mĩ, mở đường cho “cuộc cách mạng thương mại” Ý tưởng về rủi ro và thành lập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc Khi những đội tàu tìm cách đi từ Châu Âu tới Inđônêxia để mua bán hàng hoá Có những tàu trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại có những chuyến tàu không hoàn thành chuyến đi của mình do gặp bão biển, cướp biển, hư hỏng tàu, hàng hoá trong quá trình vận chuyển Những người tham gia các chuyến đi thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng bị mất trắng Dẫn đến nhu cầu có một sự thoả thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên có liên quan Từ những thoả thuận đó, có 2 phương pháp đã được đưa ra để thực hiện đó là:
* Hình thức cổ phần
Chuyến hàng được tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều người Mỗi người góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) và cùng chịu trách nhiệm theo phần đóng góp đó Khi chuyến hàng về đến đích, lợi nhuận sẽ được chia cho mọi người theo tỷ lệ đóng góp cổ phần Nếu chuyến hàng
Trang 17chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng được chia sẻ cho nhiều người Hình thức này giảm được gánh nặng tổn thất cho nhiều người cùng gánh chịu Nhưng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: kêu gọi cho đủ người tham gia góp
cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm
và quyền lợi
* Hình thức thông qua tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp
Hình thức này có sự tham gia của bên trung gian, ngoài các thành viên có nhu cầu trực tiếp, còn có các Công ty, thương nhân làm dịch vụ (Người bảo hiểm)
Theo hình thức này, các nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng do một số nguyên nhân nhất định thì bên người bảo hiểm sẽ trả một khoản tiền nhằm bù đắp cho những thiệt hại đã xảy ra Bút tích bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất còn lưu lại được phát hành tại thành phố cảng Gênes - Italia, vào năm 1347 Năm 1424, cũng tại cảng Gênes, công ty bảo hiểm đầu tiên của ngành vận tải đường biển và đường bộ được thành lập Sau bảo hiểm hàng hải, tiếp đến là sự ra đời của các loại bảo hiểm khác:
- Bảo hiểm hỏa hoạn: Vụ cháy lớn ở London - Anh vào năm 1666 đã thiêu hủy trên 13.000 tòa nhà, trong đó có 87 nhà thời là thảm họa lớn nhất từ trước cho đến thời điểm đó Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản trước rủi ro cháy dẫn tới sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa hoạn Năm 1684, Công
ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nước Anh, lấy tên là Friendly Society Fire Office, hoạt động trên nguyên tắc hỗ trợ, với hệ thống phí cố định, người được bảo hiểm phải chịu một phần thiệt hại xảy ra Tiếp sau đó, nhiều công ty bảo hiểm cháy khác tiếp tục ra đời ở Anh như Amicable (1696), Sun (1710, Union (1714) Tại Pris, Pháp, văn phòng đại diện bảo hiểm mang tên “La Royal Incendie” được thành lập năm 1786 [47,tr.39]
Trang 18- Bảo hiểm nhân thọ: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cổ xưa nhất được lưu giữ đến ngày nay được ký năm 1583 tại London Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên là Equitable được thành lập ở Anh vào năm 1762 Sản phẩm bảo hiểm đầu tiên công ty này cung cấp là hợp đồng bảo hiểm trọn đời
- Các loại bảo hiểm khác: Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát rất nhanh như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm ô tô, máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự [39, 47]
1.1.2 Sự phát triển ngành KDBH thế giới:
1.1.2.1 Thị trường bảo hiểm Châu Âu:
Châu Âu được mệnh danh là cái nôi của bảo hiểm hiện đại, với bề dày kinh nghiệm và quy mô tổ chức lớn nhất thế giới, tốc độ phát triển nhanh, ổn định với nhiều tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới như AXA, UAP (Pháp), Allianz (Đức), Prudential (Anh)
Nổi bật trong khu vực là hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc các nước EU cũ1, tính riêng năm 2007, tổng phí bảo hiểm các nước này đạt 1,4 tỷ Euro, bằng 8,64% GDP, phí bảo hiểm bình quân đầu người đạt 2.447 Euro Trong đó, tỷ trọng nguồn thu phí từ bảo hiểm nhân thọ cao hơn so với bảo hiểm phi nhân thọ, với tỷ lệ đạt 61% [xem bảng 1.1]
Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, hai sản phẩm đóng vai trò chủ chốt là bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm tài sản với tỷ trọng trung bình 55-60% (ví dụ như ở Bun ga ry năm 2007 là 60,3%, Ba Lan 62,4%, Hung ga ry 58,3%; bình quân phí bảo hiểm tài sản chiếm tỷ lệ từ 18-25% (Bungary năm 2007 là 25%,
Ba Lan 18%, Hung ga ry 29,5%) Đối với các nước EU cũ, phí bảo hiểm được
Trang 19dàn đều hơn cho các sản phẩm, trong đó, phí bảo hiểm xe cơ giới bình quân hàng năm là 30% và bảo hiểm tài sản là 20%
Bảng 1.1 Doanh thu bảo hiểm của các nước thuộc EU năm 2007
(Euro)
Dân số (Triệu người)
Phí BH/GDP (%)
Phí BH/dân
số (Euro)
Tổng phí
BH (Triệu Euro)
Tỷ lệ phí BHNT/tổng phí BH (%)
(Nguồn: Word Insurance report 2007 – www.capgemini.com)
Thị trường bảo hiểm ở Châu âu có đặc điểm chung là:
- Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thông qua hình thức phối hợp giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng (Bancassurance) chiếm ưu thế hơn so với kênh phân phối truyền thống Tỷ lệ thu phí bảo hiểm nhân thọ qua kênh phân phối này năm 2007 ở Tây Ban Nha chiếm 72%, Pháp 62%, Italia 59%, Bỉ 58%, Đức 25%, Hà Lan 22%[76]
Các nước thuộc EU cũ (gia nhập trước 1995) có 15 nước gồm: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức,
Hy Lạp, Ai Len, Italia, Hà Lan, Lúc xăm bua, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Anh
Trang 20- Nhiều thị trường bảo hiểm trưởng thành trở nên bão hoà, và về cơ bản, hầu hết các nhu cầu bảo hiểm hiện nay của khách hàng đã được đáp ứng
Do đó, số lượng hợp đồng bảo hiểm không tăng mạnh trong những năm gần đây Trung bình, khách hàng ở thị trường này sở hữu 5,2 hợp đồng bảo hiểm, trong đó 1,5 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, 3,7 hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ và họ nắm giữ cùng một mức tham gia bảo hiểm trong 9,2 năm [63]
- Thị trường bảo hiểm Châu Âu đang chuyển dần từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, thể hiện qua việc thay đổi các hợp đồng bảo hiểm của khách hàng tăng lên ở một số quốc gia Ví dụ như ở Anh, tỷ lệ thay đổi bình quân trong 5 năm 2003-2007 đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là 10%, hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là 63% Mỗi khách hàng thay đổi bình quân 3 năm cho một hợp đồng bảo hiểm ôtô và 5 năm cho hợp đồng bảo hiểm nhà, tài sản Nguyên nhân chủ yếu do sự cạnh tranh phí bảo hiểm, khách hàng muốn lựa chọn công ty có độ an toàn cao hơn, lựa chọn loại sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp hơn [64]
- Theo nghiên cứu của các chuyên gia bảo hiểm thời gian qua, khách hàng của ngành bảo hiểm được chia thành 4 nhóm gồm: Khách hàng truyền thống, khách hàng cơ hội, khách hàng trung lập và khách hàng trung bình Tâm lý khách hàng đang có sự ưu tiên nhiều cho Internet và có nhiều khả năng kênh phân phối truyền thống sẽ sớm bị thay thế bởi các kênh phân phối trực tuyến
- Dân số các nước Châu Âu đang ngày càng già đi, số dân ở độ tuổi 65
và trung bình dân số trong độ tuổi từ 15-65 hiện nay có tỷ lệ từ 25-30% và ước tính đến năm 2050 sẽ ở con số 50%, điển hình như nước Italia, Thổ Nhĩ
Kì con số này là xấp xỉ 70% [64] Do đó, trong tương lai ngành bảo hiểm sẽ
Trang 21đẩy mạnh hướng kinh doanh phù hợp với độ tuổi của dân số trong tương lai như đẩy mạnh các hoạt động đầu tư vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giải trí…
- Các Công ty bảo hiểm ở thị trường bão hoà đang tập trung mở rộng thị trường thông qua việc đầu tư góp vốn liên doanh hoặc thành lập các Công
ty bảo hiểm ở thị trường tiềm năng (đặc biệt là khu vực Châu Á) hoặc thực hiện các vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nhằm tạo lập các doanh nghiệp lớn, có uy tín để thu hút khách hàng ở thị trường bão hoà chuyển các hợp đồng bảo hiểm sang các công ty lớn Những vụ mua bán lớn đã được chuẩn bị
và thực hiện phổ biến từ năm 2006, ví dụ như vụ Công ty bảo hiểm Assicurazioni Generali SpA mua Công ty bảo hiểm Toro Assicurazioni SpA tại Italia với trị giá 3.850 triệu Euro và mới đây (9/2008) là việc Tập đoàn bảo hiểm AXA của Pháp, là Công ty bảo hiểm lớn thứ ba thế giới (sau AIG của
Mỹ và ING của Anh) đã công bố mua lại đối tác Winter thur, một công ty bảo hiểm lớn thứ hai của Thuỵ sỹ và có thị trường ở 17 quốc gia khác [68] Mục tiêu của AXA là để củng cố hoạt động kinh doanh tại Châu Á và tăng cường xâp nhập vào các thị trường đang phát triển mà hiện nay Winter thur đang chiếm lĩnh
1.1.2.2 Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ:
Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ được chia thành Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh, trong đó phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến là ngành bảo hiểm Mỹ và Canada
- Thị trường bảo hiểm Mỹ: Là thị trường bảo hiểm có quy mô lớn nhất
thế giới với gần 6.000 công ty bảo hiểm tham gia, trong đó có hơn 150 công
ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp, điển hình là các tập đoàn hàng đầu thế giới như AIG, Metropolitan Life, Newyork Life…[20,tr.183] Năm 2007, doanh
Trang 22thu phí bảo hiểm của Mỹ đạt 1.668 tỷ USD, bằng 9% GPD nước Mỹ và chiếm 41% tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thế giới [63]
- Thị trường bảo hiểm Canada: Thị trường bảo hiểm Canada là một
trong 10 nước phát triển của thế giới, doanh thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt 100.398 triệu USD, bằng 7% GDP, chiếm 2,47% tổng phí bảo hiểm thế giới Thị trường bảo hiểm ở đây có sự pha trộn, đan xen giữa đặc tính của Mỹ và Anh Số lượng công ty bảo hiểm nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, xấp xỉ 60%, chủ yếu từ Anh, Mỹ, Hà Lan, Pháp, Thuỵ sỹ [47,63]
- Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ La Tinh: Do ảnh hưởng của cơ chế
ngặt nghèo về việc thành lập công ty bảo hiểm và sự áp đặt, điều kiện, biểu phí bảo hiểm, tỷ lệ hoa hồng trả cho các trung gian bảo hiểm đối với các công
ty bảo hiểm trong một thời gian dài, nên thị trường bảo hiểm ở đây còn kém phát triển, tỷ lệ phí bảo hiểm trên GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 1% Phát triển mạnh nhất ở khu vực là Baraxin với tổng thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt 38.786 triệu USD, tăng 27,7% so với năm 2006, chiếm 3%GDP; sau đó là thị trường bảo hiểm Mexico, Chilê [47,63]
1.1.2.3 Thị trường bảo hiểm Châu Á - Thái Bình Dương:
Do trình độ phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng hoạt động kinh doanh và môi trường pháp lý có nhiều hạn chế hơn so với Châu Âu, ngành bảo hiểm khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có lịch sử phát triển chậm hơn khu Châu
Âu Tuy nhiên, với tốc độ tự do hoá, mở cửa thị trường trong khu vực ngày càng tăng, thị trường bảo hiểm thời gian qua phát triển khá mạnh mẽ và có tác động sâu sắc đến thị trường truyền thống của các nước Sự phát triển thị trường bảo hiểm khu vực này có thể đánh giá ở một số điểm sau:
- Tốc độ phát triển ngành bảo hiểm những năm gần đây đạt khá cao, bình quân hàng năm từ 10-15% với thị trường phát triển mạnh mẽ nhất là Nhật
Trang 23Bản, Hàn Quốc, Hồngkông, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc Riêng tổng phí bảo hiểm của Nhật bản năm 2007 đạt 424,83 tỷ USD, chiếm 10,46% tổng phí bảo hiểm thế giới, đứng thứ 3 sau Mỹ và Anh Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa các nước phát triển trong khu vực so với các nước đang phát triển như Việt Nam, Philippin, Inđônêxia đang còn một khoảng cách khá xa (Chi tiết xem bảng 1.2) [77]
Bảng 1.2 Một số chỉ tiêu ngành bảo hiểm Châu Á 2004-2007 (USD)
USD/
Người
Tổng phí (triệu USD)
USD/
Người
Tổng phí (triệu USD)
USD/
Người
Tổng phí (triệu USD)
(Nguồn: World Insurance report 2004-2007- website: www.Swissre.com)
- Các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng và được cải tiện phù hợp với chuẩn hoá của quốc tế Đặc biệt là sản phẩm liên kết đầu tư (Unit-link) được sự chấp nhận và ưa chuộng của khách hàng Hiện nay, sản phẩm này đang được coi là sản phẩm chính của thị trường Châu Á, với giá trị tài sản đầu
Trang 24tư của các quỹ hình thành từ sản phẩm này năm 2007 đạt 166 tỷ USD, tăng xấp xỉ 8 lần so với năm 2003 (19,5 tỷ USD), và dự kiến sẽ tăng gấp đôi lên
309 tỷ USD vào năm 2019 [80]
- Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới vẫn chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường do hầu hết các nước đều quy định chế độ tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới Doanh thu phí bảo hiểm từ sản phẩm này hàng năm chiếm trung bình từ 50-70% tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ [79]
- Kênh phân phối phối hợp giữa ngân hàng-bảo hiểm (bancassurance), đang dần chiếm ưu thế Điển hình là tại Malaysia với tỷ lệ thu phí qua kênh này năm 2005 đạt 45%, Đài Loan, Hồng Kông đạt 39%, Singapore 33%, các nước khác như Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia đạt 22%2
- Quá trình tự do hoá cạnh tranh ngày càng được các nước nới rộng, tạo điều kiện cho sự liên doanh, liên kết giữa các Công ty bảo hiểm trên thế giới
và sự thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm lớn Quá trình tự
do hoá đó được thực hiện thông qua các cam kết khu vực và đặc biệt là cam kết gia nhập WTO
- Mô hình quản lý các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng chuyên nghịêp hơn thông qua sự chuyển đổi cơ chế quản lý vốn dựa trên khả năng thanh toán sang cơ chế quản lý dựa trên phân tích rủi ro (risk-based capital regulatory regime) Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phải đạt yêu cầu tối thiểu về vốn sao cho phù hợp với loại hình kinh doanh hoạt động và cơ cấu rủi ro của doanh nghiệp Các nước như Nhật Bản, Singapore, Đài Loan đã áp dụng cơ chế này và ở Việt Nam, năm 2007, Bộ Tài chính cũng đã ban hành
2 Xem tạp chí Insurancedigest 2007 trên website: www.pwc.com
Trang 25thông tư 156 quy định về chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng áp dụng cơ chế này3
- Bên cạnh những thuận lợi, bảo hiểm khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng có những hạn chế nhất định Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm diễn ra gay gắt, kể cả hình thức cạnh tranh hợp pháp và bất hợp pháp Sự cạnh tranh đó bên cạnh những mặt tích cực, đem lại lợi ích cho người tham gia bảo hiểm thì cũng chứa đựng những rủi ro cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm Vì để cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng hạ mức phí bảo hiểm xuống rất thấp, vượt quá ngưỡng an toàn, và điều này sẽ gây tổn thất cho doanh nghiệp nếu rủi ro được bảo hiểm xảy ra vượt một cách bất ngờ so với dự tính của DNBH
1.1.3 Sự hình thành và phát triển ngành KDBH tại Việt Nam:
1.1.3.1 Trước năm 1986:
Ở Miền Nam, dưới chế độ cộng hoà, hoạt động bảo hiểm khá phát triển nhằm phục vụ cho các thương nhân nước ngoài và tầng lớp tư sản, tiểu tư sản trong nước Toàn thị trường có 57 công ty trong và ngoài nước hoạt động, triển khai các loại hình nghiệp vụ khá đa dạng như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm chuyên chở, bảo hiểm xe tự động, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn lao động Các công ty bảo hiểm trong nước thường được thành lập dưới dạng Hội vô danh và Hội tương hỗ, các công ty nước ngoài thành lập dưới hình thức chi nhánh công ty Các công ty bảo hiểm đã sớm thành lập hiệp hội nghề nghiệp, có chức năng thông tin tư vấn, đào tạo, tạo ra một môi trường hợp tác
Ở miền Bắc, để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong hoạt động ngoại thương, ngày 17/12/1964, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập
Trang 26Công ty Bảo hiểm Việt Nam, gọi tắt là Bảo Việt Đến ngày 15/01/1965, Bảo Việt chính thức đi vào hoạt động Đây cũng là công ty bảo hiểm Nhà nước duy nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam Từ ngày thành lập cho đến trước năm 1975, do những điều kiện khó khăn của chiến tranh, hoạt động của Bảo Việt chưa phát triển chủ yếu thực hiện 3 nghiệp vụ do Nhà nước giao là: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm
Năm 1976, khi hoàn toàn thống nhất đất nước, các công ty bảo hiểm ở Miền Nam đã giải thể hoặc rút về nước, toàn thị trường chỉ có Bảo Việt độc quyền hoạt động Các sản phẩm bảo hiểm trong suốt thời kỳ từ 1976-1986 chủ yếu là bảo hiểm cho các công ty nhà nước và bảo hiểm hàng hải [39,tr.19-21]
Ngày 18/12/1993, Nghị định 100/CP của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế Trên cơ sở quy định của Nghị định này, một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới đã ra đời [46]:
Trang 27- DNBH phi nhân thọ Việt Nam: Bảo Minh (1994), PJICO (1995), Bảo Long (1995), PVI (1996), PTI (1998)…
- DNBH phi nhân thọ có vốn nước ngoài: VIA (1996), UIC (1997), Allianz (1999), Việt úc (1999)…
- DNBH nhân thọ Việt Nam: Bảo việt nhân thọ (1996)
- BNBH nhân thọ có vốn nước ngoài: Bảo Minh CMG (1999), Prudential (1999), Manulife (1999)…
- DN môi giới bảo hiểm AON (1999)
- DN tái bảo hiểm VINARE (1994)
Năm 2000, Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2001, và năm 2003, Vụ bảo hiểm được thành lập trên cơ sở tách bộ phận quản lý bảo hiểm từ vụ quản lý ngân hàng và các tổ chức tài chính Từ đó tạo nên sự quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm chuyên trách
và sâu sát hơn, thích ứng với nhu cầu phát triển thị trường và hội nhập quốc tế Đánh dấu bước khởi đầu phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam
1.2 Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh bảo hiểm: 1.2.1 Khái niệm:
Dự trên những góc độ nghiên cứu khác nhau (xã hội, pháp lý, kinh tế, kỹ thuật nghiệp vụ…) các chuyên gia nghiên cứu bảo hiểm đã đưa ra những khái niệm khác nhau về bảo hiểm, trong đó phải đến các khái niệm phổ biến sau:
Khái niệm của Dennis Kessler, người Mỹ: Bảo hiểm là sự đóng góp của
số đông vào sự bất hạnh của số ít
Khái niệm của Dr.David Bland – Insurance Principles and Practice: Bảo
hiểm là một hợp đồng theo đó một bên, (gọi là công ty bảo hiểm) bằng việc
Trang 28thu một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm), cam kết thanh toán cho bên kia (gọi
là người được bảo hiểm) một khoản tiền hoặc hiện vật tương đương với khoản tiền đó khi xảy ra một sự cố đi ngược lại quyền lợi của người được bảo hiểm
Còn theo Monique Gaullier, người Pháp: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua
đó, người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê."
Theo Giáo trình bảo hiểm - Trường Đại học Ngoại thương: Bảo hiểm là
một sự cam kết bồi thường của Người bảo hiểm đối với Người được bảo hiểm
về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một số rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về góc độ kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao quát, hoàn chỉnh Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, dựa trên cơ sở tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người, nhiều đơn vị cùng tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thường thiệt hại về tài chính do tài sản hoặc tính mạng của người được bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro bất ngờ Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) định
nghĩa: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh
nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty
đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo
Trang 29hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”
[47,tr.14-17]
Tóm lại, về khái niệm bảo hiểm mặc dù có những điểm khách nhau, tuỳ theo người đưa ra khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế, khoa học hay kỹ thuật Tựu chung, các khái niệm đều đưa ra đặc trưng cơ bản của hoạt động bảo hiểm, đó là:
- Có sự hình thành một quĩ tiền tệ (quĩ bảo hiểm);
- Có sự hoán chuyển rủi ro giữa người được bảo hiểm và đơn vị nhận bảo hiểm rủi ro đó;
- Có sự kết hợp số đông các đơn vị đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu
cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác
Phù hợp với khái niệm chung về bảo hiểm, LKDBH, tại khoản 1 Điều 3
đã giải thích: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
1.2.2 Một số thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm:
Người mua bảo hiểm: Là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm
với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm Bên mua bảo hiểm có thể
đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng
Người được bảo hiểm: Là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân
sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm Người được bảo hiểm
có thể đồng thời là người thụ hưởng
Trang 30Người thụ hưởng: Là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ
định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người
Sự kiện bảo hiểm: Là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc
pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
Phí bảo hiểm: Là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho
doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm
Bảo hiểm nhân thọ: Là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống hoặc chết
Bảo hiểm sinh kỳ: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm
Bảo hiểm tử kỳ: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm
Bảo hiểm hỗn hợp: Là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ
và bảo hiểm tử kỳ
Bảo hiểm trọn đời: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó
Trang 31Bảo hiểm trả tiền định kỳ: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm
Bảo hiểm phi nhân thọ: Là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách
nhiệm dân sự và các nghiệp vụ BH khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ [4]
1.2.3 Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm:
1.2.3.1 Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (fortuity not certainty):
Nguyên tắc này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm các rủi ro, tức
là bảo hiểm một sự cố, một tai nạn, hoả hoạn xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát
do rủi ro gây ra chứ không bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra
Bởi lẽ, bảo hiểm được thực hiện chính là nhằm giải quyết hậu quả của những sự cố rủi ro ngoài ý muốn của con người, những rủi ro mà con người không thể hạn chế được hoặc chỉ hạn chế được phần nào Người khai thác bảo hiểm không nhận bảo hiểm khi biết chắc chắn rủi ro được bảo hiểm sẽ xảy ra,
ví dụ như xe cơ giới không đảm bảo an toàn kỹ thuật, con tàu không đủ khả năng đi biển Người ta cũng không bảo hiểm cho những gì đã xảy ra, ví dụ như bảo hiểm cho tàu, xe sau khi chúng đã gặp tai nạn
1.2.3.2 Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith):
Trong hoạt động kinh doanh, pháp luật đều quy định trách nhiệm của các bên phải đảm bảo tính trung thực trong giao kết hợp đồng Tuy nhiên, trong
Trang 32bảo hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và ràng buộc cao hơn về mặt trách nhiệm Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối quan hệ bảo hiểm (người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung thực, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối Các bên chịu trách nhiệm
về tính chính xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia Nếu một bên
vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực Nguyên tắc này thể hiện như sau:
- Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc,
thể lệ, giá cả bảo hiểm cho người được bảo hiểm biết Ví dụ, trong bảo hiểm hàng hải, mặt một của đơn bảo hiểm bao gồm các nội dung như điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ bảo hiểm , mặt hai bao gồm quy tắc, thể lệ bảo hiểm Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm
- Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên quan đến
đối tượng bảo hiểm Họ cũng phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm, về rủi ro, về những mối đe dọa nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro mà mình biết được hoặc đáng lẽ phải biết Người được bảo hiểm cũng không được mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đó đã bị tổn thất
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên nhân trong quá trình giao dịch giữa các bên, chỉ có người chủ (hoặc người quản lý, sử dụng) mới biết được tất cả mọi yếu tố của đối tượng bảo hiểm, biết rủi ro mình yêu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm thường không biết rõ rủi ro mà chỉ dựa vào những thông tin
do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp để xét đoán mức độ rủi ro và quyết định thái độ của mình đối với rủi ro: nhận hay không nhận bảo hiểm, nhận bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản như thế nào và tính tỉ lệ phí bảo hiểm bao
Trang 33nhiêu Do đó, người yêu cầu bảo hiểm phải có trách nhiệm khai báo mọi yếu
tố liên quan một cách đầy đủ và trung thực và phải khai báo sự phát sinh các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến đối tượng được bảo hiểm trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực hoặc khi tái tục hợp đồng
1.2.3.3 Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest):
Quyền lợi có thể được bảo hiểm, hay lợi ích bảo hiểm là quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm Như vậy, quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan, gắn liền hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm Người nào có quyền lợi có thể được bảo hiểm ở một đối tượng bảo hiểm nào đó có nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo nếu đối tượng đó được an toàn, và ngược lại, quyền lợi của người đó
sẽ bị phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó gặp rủi ro Người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người có quan hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận Đó có thể là người chủ sở hữu của đối tượng bảo hiểm đó, người chịu trách nhiệm quản lý tài sản hoặc người nhận cầm cố tài sản Quyền lợi có thể được bảo hiểm có ý nghĩa rất to lớn trong bảo hiểm, có quyền lợi có thể được bảo hiểm thì mới được ký kết hợp đồng bảo hiểm Đó
là cơ sở để thực hiện bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất
1.2.3.4 Nguyên tắc bồi thường (indemnity):
“Bồi thường” có thể được hiểu là “sự bảm bảo cho thiệt hại hoặc tổn thất phát sinh từ trách nhiệm pháp lý” Mục đích của bảo hiểm chính là nhằm khôi phục vị trí tài chính như ban đầu cho người được bảo hiểm ngay sau khi tổn thất xảy ra Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều trường hợp các công ty bảo hiểm không thể khôi phục được hoàn toàn vị trí tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm mà chỉ có thể cố gắng khôi phục được gần như thế
Trang 34Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi Trong bảo hiểm, số tiền bồi thường
mà một công ty bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm trong một rủi ro được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm và không được lớn hơn thiệt hại thực tế Người được bảo hiểm cũng không thể được bồi thường nhiều hơn thiệt hại do tổn thất gây ra, không được kiếm lời thông qua bảo hiểm, tối đa người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn thiệt hại
1.2.3.5 Nguyên tắc thế quyền (subrogation):
Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình Tất cả các khoản tiền nào có thể thu hồi được để giảm bớt thiệt hại đều thuộc quyền sở hữu của người bảo hiểm, tức là người đã trả tiền bồi thường tổn thất Khi số tiền phải bồi thường càng lớn thì việc áp dụng nguyên tắc thế quyền càng quan trọng và có ý nghĩa Thế quyền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất Trong trường hợp này, người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm
để làm việc với các bên liên quan Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ cần thiết cho người bảo hiểm
Điều cần chú ý là, ngoài khoản tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm cũng có thể được bồi thường từ một nguồn khác ngoài nguồn bồi thường từ công ty bảo hiểm Trong trường hợp đó, bất cứ số tiền nào mà người được bảo hiểm thu được cũng phải đặt dưới danh nghĩa của công ty bảo hiểm đã thực hiện bồi thường Do mối quan hệ chặt chẽ giữa thế quyền và bồi thường,
Trang 35một công ty bảo hiểm không được phép thu nhiều hơn số tiền họ đã bồi thường Người bảo hiểm chỉ được thực hiện thế quyền ở mức độ tương đương với số tiền đã trả hoặc sẽ trả Điều này cũng có nghĩa là không chỉ người được bảo hiểm mà cả công ty bảo hiểm đều không được phép thu lời từ việc thực hiện quyền của mình [39,tr.31-35]
1.2.4 Các loại hình bảo hiểm:
Các loại hình bảo hiểm hiện nay khá đa dạng, tuy nhiên, chúng ta có thể phân loại chúng dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:
1.2.4.1 Phân theo mục đích hoạt động:
Bảo hiểm xã hội (social insurance): Là chế độ bảo hiểm của nhà nước,
của đoàn thể xã hội hoặc của các công ty nhằm trợ cấp cho các viên chức nhà nước, người làm công trong trường hợp ốm đau, bệnh tật, bị chết hoặc tai nạn trong khi làm việc, về hưu Đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này
là nhằm mục đích phúc lợi xã hội, không nhằm mục đích lợi nhuận (không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này)
Bảo hiểm thương mại (commercial insurance): Là loại hình bảo hiểm
mang tính chất kinh doanh, kiếm lời Khác với BHXH, loại hình bảo hiểm này có những đặc điểm: không bắt buộc, có tính đến từng đối tượng, từng rủi
ro cụ thể; nhằm mục đích kinh doanh
1.2.4.2 Phân theo đối tượng được bảo hiểm:
Bảo hiểm con người: Là loại nghiệp vụ bảo hiểm hướng tới con người,
bao gồm các nghiệp vụ chủ yếu: Bảo hiểm trọn đời; bảo hiểm sinh kỳ; bảo hiểm tử kỳ; bảo hiểm hỗn hợp; bảo hiểm trả tiền định kỳ
Bảo hiểm tài sản: Là loại nghiệp vụ bảo hiểm hướng tới tài sản, trách
nhiệm dân sự của một tổ chức, cá nhân và các nghiệp vụ bảo hiểm khác
Trang 36không thuộc bảo hiểm nhân thọ Ví dụ như bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ…
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm
mà đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm phát sinh theo quy định về trách nhiệm dân sự của pháp luật Ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển, của người vận chuyển hàng không,
của chủ xe cơ giới, chủ sử dụng lao động…
1.2.4.3 Phân theo trách nhiệm pháp lý:
Bảo hiểm bắt buộc: Là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm
và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện Loại bảo hiểm này chỉ áp dụng với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an
toàn xã hội
Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm khác, không thuộc bảo
hiểm bắt buộc Người mua bảo hiểm có quyền lựa chọn các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật [47,4]
1.2.5 Các hình thức kinh doanh bảo hiểm:
1.2.5.1 Kinh doanh bảo hiểm gốc:
Là một loại hình kinh doanh truyền thống của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp ký hợp đồng bảo hiểm với khách hàng là các tổ chức, cá nhân (không phải là doanh nghiệp bảo hiểm khác) và cam kết trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Ở hình thức này không xuất hiện bên trung gian giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm
1.2.5.2 Kinh doanh tái bảo hiểm:
Trang 37Là một loại hình kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện đối với khách hàng là các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm Có hai hình thức tái bảo hiểm chính đó là:
- Tái bảo hiểm tạm thời: Được thực hiện khi doanh nghiệp bảo hiểm
gốc có hợp đồng bảo hiểm và mời chào các Công ty tái bảo hiểm tham gia nhận tái bảo hiểm Trong trường hợp này, doanh nghiệp tái bảo hiểm có quyền xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận ký hợp đồng tái bảo hiểm
- Tái bảo hiểm cố định: Một thoả thuận sẽ được lập giữa Công ty bảo
hiểm gốc và Công ty tái bảo hiểm trong đó cam kết rằng, tất cả những rủi ro đáp ứng một số tiêu chuẩn đã thoả thuận sẽ được thực hiện việc tái bảo hiểm cho Công ty nhận tái bảo hiểm Có hai dạng tái bảo hiểm cố định:
+ Tái bảo hiểm cố định theo tỷ lệ: Theo phương pháp này, Công ty
bảo hiểm gốc quyết định tỷ lệ rủi ro giữ lại là bao nhiêu và thoả thuận chuyển nhượng phần còn lại cho các Công ty tái bảo hiểm theo một hợp đồng cố định
Có hai loại hợp đồng tái bảo hiểm theo tỷ lệ:
* Tái bảo hiểm cố định số thành: Theo đó, một tỷ lệ cố định của bất cứ
tổn thất nào đã xác định trong hợp đồng sẽ được tái bảo hiểm Ví dụ: Một công ty bảo hiểm gốc đồng ý tái bảo hiểm tỷ lệ 80% Khi đó, nếu số tiền bảo hiểm cho một rủi ro là 100 đồng, thì Công ty bảo hiểm gốc giữ lại 20 đồng và tái bảo hiểm 80 đồng
* Tái bảo hiểm mức dôi: Trên cơ sở tính toán khả năng tài chính,
doanh nghiệp bảo hiểm gốc quyết định một mức giữ lại để thực hiện trách nhiệm với người được bảo hiểm Khi giá trị tiền phải chi trả bảo hiểm vượt trên mức giữ lại của doanh nghiệp sẽ thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm để đảm bảo an toàn cho hoạt động của doanh nghiệp
Trang 38+ Tái bảo hiểm cố định phi tỷ lệ: Nghiệp vụ này được dựa trên cơ sở
các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm Hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ
lệ có hai loại:
* Vượt mức bồi thường: Theo phương pháp này, các bên thoả thuận là
doanh nghiệp tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định đầu tiên của các tổn thất phát sinh từ một sự cố và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm thanh toán số tiền vượt quá mức còn lại theo tính toán bồi thường thực tế
* Vượt tỷ lệ bồi thường: Theo phương pháp này, doanh nghiệp nhận
tái bảo hiểm cho toàn bộ các rủi ro chứ không phải bảo vệ cho một tổn thất đơn lẻ Khi tỷ lệ tổn thất cho một loại nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể vượt quá con
số cụ thể thì doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm đồng ý thanh toán Để kiểm soát được doanh nghiệp tái bảo hiểm, khuyến khích họ thận trọng trong việc đánh giá rủi ro và giải quyết khiếu nại, thông thường các doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm quy định khi tỷ lệ này vượt qua một con số nhất định, công ty tái bảo hiểm sẽ không bồi thường cho phần vượt quá đó
1.2.5.3 Kinh doanh môi giới bảo hiểm:
Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các thông tin có liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu cầu bên mua bảo hiểm
Người môi giới bảo hiểm có thể là một cá nhân hoặc một pháp nhân, ký kết hợp đồng nhận môi giới với các Công ty bảo hiểm để được hưởng hoa hồng từ hoạt động môi giới của mình
Ngày nay, vai trò của hoạt động môi giới bảo hiểm rất quan trọng, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm chiếm lĩnh được thị trường và khách hàng, đặc
Trang 39biệt là những khách hàng tiềm năng Khi mà, bản thân doanh nghiệp bảo hiểm không có đủ nhân lực, vật lực để tiếp xúc với từng khách hàng [39,tr.53-72]
1.3 Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội:
Xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm trong tương quan chung với sự phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nước, nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu của bảo hiểm đối với nền kinh tế Thực tế cũng cho thấy, sự tồn tại của một thị trường bảo hiểm mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh tế thành công nào Theo Mehr và Commack, người Mỹ đã viết:
"Việc Anh Quốc nổi lên như một cường quốc thương mại và đồng thời loại
hình bảo hiểm hoả hoạn cũng phát triển trong cùng một thời kỳ không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên." [47,tr.17] Vai trò của ngành bảo hiểm có thể
được xem xét, đánh giá ở những khía cạnh sau đây:
1.3.1 Nhanh chóng bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất gây ra cho đối tượng thụ hưởng bảo hiểm khi gặp rủi ro được bảo hiểm:
Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm
và cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người Khi có tổn thất xảy đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo hiểm là khắc phục những hậu quả đó, ổn định đời sống và quá trình sản xuất - kinh doanh
Tất cả các đối tượng khi tham gia mua bảo hiểm đều không mong muốn mình gặp rủi ro, tuy nhiên rủi ro là không lường trước được Và bằng việc mua bảo hiểm, cho phép họ chuyển rủi ro sang các công ty bảo hiểm
Trang 40Các cá nhân khắc phục được khó khăn về tài chính, dễ dàng ổn định cuộc sống hơn Các tổ chức kinh doanh bảo toàn vốn, tài sản, giữ cho chu kỳ sản xuất - kinh doanh không bị gián đoạn dẫn đến phá sản khi gặp thiệt hại quá nặng nề Chi phí bồi thường của các công ty bảo hiểm thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh, khoảng 60 - 80% Thậm chí, chi phí bồi thường còn có thể lớn hơn, nhất là với những rủi ro do thiên tai có sức tàn phá lớn trên diện rộng Điển hình như thiên tai năm 2005, là năm có thiệt hại lớn với tổng số người thiệt mạng toàn thế giới trên 112.000 người, thiệt hại về tài chính lên tới hơn 200 tỷ USD Trong đó có khoảng 80 tỷ USD đã được các công ty bảo hiểm bồi thường, chiếm 40% tổng giá trị thiệt hại Năm
2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 75 tỷ USD, trong đó có 30 tỷ USD đã được các công ty bảo hiểm bồi thường [52]
1.3.2 Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra trong sinh hoạt, sản xuất kinh doanh:
Dựa trên cơ sở các rủi ro xảy ra hàng năm, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi ro, thống kê các tai nạn, tổn thất, từ đó xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại Những nghiên cứu này giúp các công ty bảo hiểm đề ra các biện pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra
Để giảm thiểu chi phí cho chính mình, các công ty bảo hiểm cũng luôn đôn đốc các cá nhân, tổ chức tham gia mua bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản Ví dụ như việc các công ty bảo hiểm tích cực tham gia tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ an toàn giao thông, an toàn lao động Từ đó tăng cường công tác đề phòng, hạn chế các rủi ro xảy ra
1.3.3 Là kênh huy động vốn lớn đầu tư trở lại nền kinh tế quốc dân: