Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.Điều này thể hiện ở chỗ: Về lý luận, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm bảo
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN NGỌC HUYỀN
MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
VÒ TéI MUA B¸N NG¦êI TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luâ ̣t hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: Thiếu tướng, TS BẠCH THÀNH ĐỊNH
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
ĐOÀN NGỌC HUYỀN
Trang 3MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8
1.1 Khái niệm tội mua bán người và ý nghĩa của việc quy định tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam 8
1.1.1 Khái niệm tội mua bán người 8
1.1.2 Ý nghĩa của việc quy định tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam 10
1.2 Những dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội mua bán người 13
1.2.1 Khách thể của tội mua bán người 13
1.2.2 Mặt khách quan của tội mua bán người 14
1.2.3 Chủ thể của tội mua bán người 15
1.2.4 Mặt chủ quan của tội mua bán người 17
1.2.5 Về hình phạt của tội mua bán người: 20
1.3 Tội mua bán người trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 24
1.3.1 Pháp luật hình sự Trung Quốc 24
1.3.2 Pháp luật hình sự Thái Lan 27
1.3.3 Pháp luật hình sự Philippin 29
Trang 4Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI MUA BÁN NGƯỜI 32
2.1 Tình hình xét xử tội mua bán người 32
2.1.1 Tình hình xét xử tội mua bán người ở Việt Nam 32
2.1.2 Thực tiễn xét xử tội mua bán người trên địa bàn Hà Nội 43
2.2 Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 52
2.2.1 Một số tồn tại, hạn chế 52
2.2.2 Các nguyên nhân cơ bản 54
Kết luận chương 2 76
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI 77
3.1 Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người 77
3.1.1 Về cơ sở lý luận 77
3.1.2 Về cơ sở thực tiễn 78
3.2 Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người 79
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người 83
3.3.1 Nâng cao nhận thức và tuyên truyền pháp luật 83
3.3.2 Giải pháp về kinh tế - xã hội 87
3.3.3 Giải pháp về văn hóa - giáo dục 89
3.2.4 Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan thi hành pháp luật và hợp tác quốc tế 93
3.3.6 Giải pháp về phía nạn nhân và gia đình họ 99
Kết luận chương 3 101
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
Trang 5Trang Tiến sĩ Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm Toà án nhân dân tối cao
Trang 6DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tội mua bán người theo số vụ và số bị cáo trong 5 năm
Bảng 2.2: Tổng hợp, so sánh số vụ và số bị cáo phạm tội mua bán
người, mua bán trẻ em trong 5 năm (các năm 2009 -
Bảng 2.3: Tỷ lệ số vụ mua bán người trong tổng số vụ phạm tội
Bảng 2.4: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua
Bảng 2.5: Đặc điểm nhân thân bị cáo phạm tội mua bán người
Bảng 2.6: Cơ cấu độ tuổi của bị cáo phạm tội mua bán người
Bảng 2.7: Số vụ án và bị cáo phạm tội mua bán người trên địa
Bảng 2.8: Số vụ án, số bị cáo phạm tội mua bán người so với
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người và so với các tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 5 năm (các
Bảng 2.9: So sánh số vụ mua bán người trên địa bàn Hà Nội với
số vụ mua bán người, trẻ em trên toàn quốc trong 5
Bảng 2.10: So sánh số vụ và số bị cáo phạm tội mua bán người với
số vụ và số bị cáo phạm tội mua bán trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong 5 năm (các năm 2009 -
Bảng 2.11: Tình hình tội phạm mua bán người trên địa bàn thành
phố Hà Nội theo hình thức phạm tội trong 5 năm) các
Bảng 2.12: Chế tài hình sự áp dụng đối với người phạm tội mua
bán người trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 5 năm (các năm 2009 - 2013)
Trang 7DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tội mua bán người theo số vụ và số bị cáo trong 5
Biểu đồ 2.2: So sánh số vụ phạm tội mua bán người (MBN)với số
vụ phạm tội mua bán trẻ em (MBTE) trong 5 năm
Biểu đồ 2.3: So sánh số người phạm tội mua bán người (MBN)
với số người phạm tội mua bán trẻ em (MBTE) trong
Biểu đồ 2.4: Số vụ và số bị cáo phạm tội mua bán người trên địa
Trang 8MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới đã đem lại cho đất nước ta nhiều thành tựu quan trọng, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt trên nhiều mặt, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mặt trái của nền kinh
tế thị trường cũng làm phát sinh những yếu tố tiêu cực cho đời sống xã hội Tình hình tội phạm nói chung và tội mua bán người nói riêng trở thành một vấn nạn, mang tính thời sự nóng bỏng và gây bức xúc trong toàn xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn thế giới với diễn biến ngày càng phức tạp; tính chất và thủ đoạn hoạt động ngày càng nghiêm trọng, tinh vi, xảo quyệt; nhiều trường hợp có tổ chức chặt chẽ và có tính xuyên quốc gia Đáng chú ý đã xuất hiện một số đường dây đưa người sang Trung Quốc bán nội tạng cho các bệnh viện tư, dẫn đến nạn nhân bị tử vong
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong công tác phòng, chống mua bán người, đặc biệt là mua bán phụ nữ và trẻ em Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.Điều này thể hiện ở chỗ:
Về lý luận, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
nhằm bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của phụ nữ và trẻ em nói riêng như: Hiến pháp; Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ luật hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012… góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm mua bán người Chính phủ cũng đã ban hành một số văn bản liên quan đến các lĩnh vực mà bọn tội phạm có thể lợi dụng để lừa gạt phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài bán Chúng ta đã tăng cường phối hợp với các nước, các tổ chức quốc tế,
Trang 9nhất là hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan và các tổ chức Cơ quan Phòng, chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Dự án Liên minh các tổ chức Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người (UNIAP), Tổ chức Di cư quốc tế (IOM),… để triển khai nhiều hoạt động liên quan đến phòng, chống buôn bán người Tuy nhiên, các điều luật quy định về tội này trong Bộ luật hình sự năm 1999 còn tồn tại một số bất cập, thiếu sót, còn chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Bên cạnh đó, vẫn còn một số kẽ
hở, thiếu sót trong một số lĩnh vực pháp luật như lĩnh vực kết hôn với người nước ngoài, cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, sử dụng lao động, xuất khẩu lao động… Ngoài ra, các quy định hiện hành liên quan đến hồi hương, tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán hoà nhập cộng đồng vẫn còn lẻ tẻ chưa tập trung thống nhất, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục, nguồn cấp kinh phí dẫn đến việc áp dụng còn gặp nhiều lúng túng
Về thực tiễn, trong 5 năm (2009 - 2013), Lực lượng Công an, Biên
phòng đã điều tra, khám phá 947 vụ, bắt 1.948 đối tượng Trong đó gần 70%
số nạn nhân bị bán sang Trung Quốc, 11% số nạn nhân bị bán sang Campuchia, số còn lại bị bán qua Lào và một số nước khác Tòa án nhân dân các cấp xét xử 877 vụ, với 1764 bị cáo[30] Ngoài ra, trong những năm qua Nhà nước ta đã tích cực triển khai thực hiện nhiều biện pháp, như: các biện pháp về kinh tế, xã hội; các biện pháp tuyên truyền, giáo dục trong hệ thống nhà trường và trong cộng đồng; biện pháp phục hồi, hỗ trợ nạn nhân hoà nhập cộng đồng, các chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phòng chống tội phạm, nhằm phòng ngừa tệ mua bán người Tuy vậy, công tác điều tra cơ bản nắm tình hình chưa thường xuyên, chưa kịp thời, chưa đánh giá đúng thực trạng và làm rõ được nguyên nhân, điều kiện, quy luật, thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm Hiệu quả
Trang 10công tác phòng ngừa, truy tố, xét xử tội phạm này chưa cao Trong những năm gần đây, tội phạm này có xu hướng gia tăng và có diễn biến ngày càng phức tạp, tỷ lệ ẩn cao
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và thực tiễn để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này không chỉ có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần
thiết để học viên lựa chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
mua bán người theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do tội mua bán người có diễn biến phức tạp và có tính chất”xuyên quốc gia” nên ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về tội mua bán người như:
Phát hiện, điều tra các tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới của lực lượng cảnh sát nhân dân (Luận án tiến sĩ luật học (2006) của Trần
Minh Hưởng bảo vệ tại Học viện Cảnh sát nhân dân) Đấu tranh phòng
chống mua bán phụ nữ ở Việt Nam (Luận văn tiến sĩ luật học (2008) của
Nguyễn Văn Hương bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội) Đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (Luận văn Thạc sĩ luật học (2006) của Nguyễn
Quyết Thắng bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội Tội mua bán phụ nữ -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Luận văn cử nhân luật (2007) của Trần
Thị Lý bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội Đấu tranh phòng,
chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới tại tỉnh An Giang (Luận
Trang 11Trường Đại học Luật TP.HCM)… Các bài viết: Cần từng bước hoàn thiện pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em của
tác giả Lương Thanh Hải (Tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2006); Luật Phòng,
chống mua bán người - Cơ sở pháp lý đấu tranh chống tội phạm mua bán người trong thời gian tới của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (Tạp chí CAND số
chuyên đề tháng 8 năm 2011); Một số giải pháp phòng ngừa tội phạm mua
bán phụ nữ và trẻ em của tác giả Đặng Thu Hiền (Tạp chí Kiểm sát số
21/2006); Nội dung cơ bản của Luật Phòng, chống mua bán người của tác
giả Ngô Đức Thắng (Tạp chí Công an Nhân dân số 8/2011)…
Trong các công trình kể trên một số tác giả đã nghiên cứu về thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội mua bán phụ nữ, trẻ em trên toàn quốc hoặc ở một số địa phương nhất định, một số tác giả đề cập đến những vấn đề chuyên sâu như: các giải pháp phòng ngừa tội phạm hay vấn đề hoàn thiện pháp luật để phòng ngừa tội phạm mua bán phụ
nữ, trẻ em dưới góc độ tội phạm học Tuy nhiên, kể từ khi sửa đổi, bổ sung
Bộ luật hình sự năm 2009 và Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 ra đời đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu tội mua bán người một cách toàn diện và có hệ thống dưới góc độ luật hình sự Vì vậy, việc nghiên cứu tội mua bán người một cách toàn diện để làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự đồng thời đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội mua bán người nói riêng là hết sức quan trọng, nhất là trong tình hình loại tội phạm này đang có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp Đây cũng là luận chứng cho việc học viên lựa
chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán người theo
luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình
Trang 123 Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội mua bán người dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định về tội mua bán người trong Bộ luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này trong thực tiễn
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng khái niệm tội mua bán người và phân tích ý nghĩa của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích những dấu hiện pháp lý hình sự và hình phạt của tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích tội mua bán người trong pháp luật một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử tội mua bán người, đồng thời phân tích làm rõ một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và nâng cao hiệu quả áp dụng
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp việc phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người trong phạm vi cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội, các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp trên phương diện lập pháp hình sự và phương diện thực tiễn, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn tình hình tội mua bán người từ năm 2009 - 2013 trong phạm vi cả nước, có phân tích, đánh giá so
Trang 134 Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thông kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thực khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn
5 Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội mua bán người từ khi tội phạm này được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm tội mua bán người và phân tích ý nghĩa của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích những dấu hiện pháp lý hình sự và hình phạt của tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích tội mua bán người trong pháp luật một số nước trên thế giới;
Trang 14- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử tội mua bán người, đồng thời phân tích làm rõ một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và nâng cao hiệu quả áp dụng
6 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
cơ cấu của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Các vấn đề chung về tội mua bán người trong luật hình sự
Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội mua bán người
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người
Trang 15Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tội mua bán người và ý nghĩa của việc quy định tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1 Khái niệm tội mua bán người
Tội mua bán người là một trong những loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội do đó nó mang tính chất chung của tội phạm, được quy định trong Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật của xã hội chủ nghĩa [28, Điều 8]
Hiện nay, Bộ luật hình sự năm 1999 mới chỉ có định nghĩa về tội phạm chung mà chưa có định nghĩa thế nào là tội mua bán người? Tuy nhiên, một
số nghiên cứu cũng đã có định nghĩa về vấn đề này như sau:
GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa quan niệm rằng “Mua bán người là những
hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại tệ… để trao đổi mua bán người như một thứ hàng hóa” [14, tr.428]
Theo TS.Trần Văn Biên thì“Mua bán người, được hiểu là hành vi dùng
tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để trao đổi lấy người hoặc ngược lại để thu lợi bất chính” [13, tr.213]
Trang 16Trong khi đó tại Điều 3 Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội BBN, đặc biệt là phụ nữ trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hiệp quốc
về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam là quốc gia thành viên thì quy định:
Buôn bán người là việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay
đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng
ý của một người có quyền kiểm soát đối với người khác [20]
Tại Điều 1 Thông tư liên tịch số BCA-BQP-BTP giữa Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-Bộ Công an, 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-Bộ Quốc phòng, 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-Bộ Tư pháp ngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, đã xác định hành vi mua bán người như sau:
Mua bán người là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây:
1 Bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua
2 Mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào;
3 Dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán;
4 Mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác;
5 Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người
Trang 17các khoản 1,2,3 và 4 Điều này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội mua bán người [3, Điều 1]
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, hiện nay trong pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm đầy đủ về tội mua bán người Tuy chưa có một định nghĩa chuẩn từ các nhà lập pháp nhưng xuất phát từ những phân tích về mặt lý luận trên đây và qua thực tiễn xét xử, có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội mua bán người như sau:
Tội mua bán người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, gây tổn hại hoặc đe dọa đến quyền bất khả xâm phạm, tự do thân thể, nhân phẩm của con người
1.1.2 Ý nghĩa của việc quy định tội mua bán người trong luật hình
sự Việt Nam
Về chính trị - xã hội, đó là sự cụ thể hóa chính sách hình sự trong
giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Tại Điều 1, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã nêu lên nhiệm vụ của Bộ luật hình sự Việt Nam là:
Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo
vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [28, Điều 1]
Quyền con người luôn là mục tiêu phấn đấu của tất cả loài người tiến bộ
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đặt con người vào trung tâm của các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, quyền con người là nhân tố cơ bản tạo nên động lực của sự phát triển đất nước Công dân không chỉ có quyền bất khả xâm phạm về
Trang 18thân thể mà còn được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự Tuy nhiên, hiện nay, các tội xâm phạm đến quyền con người đang ngày càng phát triển, diễn biến vô cùng phức tạp Trong đó, tội mua bán người là một trong những tội phạm nguy hiểm, gây nhức nhối cho toàn xã hội Đặc biệt trong những năm gần đây, tình hình mua bán người xảy ra ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, có xu hướng gia tăng và xuất hiện nhiều thủ đoạn mới mua bán nội tạng, mua bán nam giới để cưỡng bức lao động, mua bán trẻ em còn ở trong bào thai Việc mua bán người không chỉ xảy ra ở một số tỉnh, thành phố mà
đã lan rộng ra nhiều khu vực khác trong cả nước Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều đường dây mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự câu kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nước với nước ngoài, có nhiều trường hợp mua bán người qua biên giới…
Tội phạm mua bán người xâm phạm nghiêm trọng đến quyền được bảo
vệ thân thể, nhân phẩm của con người Hiện nay, tội phạm này diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp, có tính chất xuyên quốc gia Vì vậy, để bảo vệ quyền con người, việc quy định tội mua bán người trong Bộ luật hình sự Việt Nam mang tính tất yếu và cần thiết, nhất là trong tình hình hiện nay không chỉ một vài quốc gia đơn lẻ mà cả thế giới đang cùng nhau hợp tác để phòng chống loại tội phạm này
Về mặt lý luận, đóng góp thêm một tội phạm vào kho tàng các tội
phạm trong luật hình sự Việt Nam Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định Tội mua bán người tại Điều 119 Chương XII Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người Tội mua bán người có tiền thân là tội mua bán phụ nữ được quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 và đã được đổi tên thành tội mua bán người trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 Trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985, đã có những quy định về hành vi mua bán phụ nữ tại
Trang 19Điều 115 Chương II Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm này Đồng thời cũng đã có các chế tài cụ thể đối với những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán người Chúng ta đã xây dựng được một khung pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi mua bán người Nhiều văn bản pháp luật của chúng ta hàm chứa các quy định về vấn đề này như Luật phòng, chống mua bán người năm 2011; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Luật Bình đẳng giới năm 2006; Luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2005); Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012… và hành loạt văn bản có liên quan dưới góc độ phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội mua bán người
Về thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi mua bán
người Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ luật hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999 quy định về tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định trong Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự Vì vậy, việc quy định tội mua bán người trong
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với các chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống, bảo
vệ con người khỏi nạn mua bán người Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 coi tội mua bán người là tội phạm hết sức nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, thể hiện ở mức hình phạt quy định đối với tội phạm này rất nghiêm khắc, hình phạt cao nhất được quy định là bị phạt tù đến 20 năm Mức hình phạt tối đa được áp dụng đối với những trường
Trang 20hợp phạm tội có các tình tiết tăng nặng như: vì mục đích mại dâm, có tổ chức,
có tính chất chuyên nghiệp, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, đối với nhiều người, phạm tội nhiều lần Ngoài việc bị phạt tù, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm
1.2 Những dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội mua bán người
Tội phạm là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, qua đó chúng ta có thể phân định trong tư duy mà khoa học pháp lý hình sự gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm Những yếu tố đó là: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm Tội mua bán người cũng vậy, việc nghiên cứu nó sẽ bắt đầu từ các yếu tố này
Việc xác định cấu thành tội phạm tội mua bán người chính là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định tội và định khung hình phạt
1.2.1 Khách thể của tội mua bán người
“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên(hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định” [7, tr.349]
Khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc truy cứu TNHS vì sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm là nhằm xác định xem hành vi phạm tội được thực hiện đã xâm hại đến quan hệ xã hội nào được bảo vệ bằng pháp luật hình sự và vai trò của các dấu hiệu đó trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
đã được thực hiện trong thực tế “Quan hệ xã hội là khách thể bị xâm phạm
ở đây chính là quyền bất khả xâm phạm, tự do thân thể, nhân phẩm của con người” [13, tr.214]
Trang 21Tội mua bán người xâm phạm đến quyền con người Trong lịch sử từ
xa xưa đến nay, quyền con người luôn được cha ông ta quan tâm và bảo vệ Tiêu biểu là chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bản tuyên ngôn độc lập năm 1945
Người đã nhấn mạnh: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [21] Với
Người, quyền con người là quyền vốn có của người dân, do nhân dân đấu tranh mà giành được Đây là một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
là sự thể hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước chân chính của Người nhằm giải phóng toàn diện con người khỏi bị áp bức, bóc lột về phương diện dân tộc, giai cấp, xã hội, tạo điều kiện để con người phát triển tự do, hoàn thiện nhân cách của mình Điều 71 Hiến pháp năm 1992
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định: “Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” [24]
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tội phạm mua bán người vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, đòi hỏi Nhà nước ta phải có những giải pháp toàn diện, đồng bộ và hiệu quả hơn Bởi vậy, việc bảo vệ quyền con người không chỉ dừng lại ở những tuyên bố trong các văn bản pháp luật khác mà còn là những chế tài nghiêm khắc được quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự Việt Nam
1.2.2 Mặt khách quan của tội mua bán người
“Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại
cụ thể nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự” [7, tr.65].
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
Trang 22dưới hình thức dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để đổi lấy người (nhằm đem bán) hoặc ngược lại để thu lợi
Trên thực tế việc mua bán người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, thông thường được thực hiện một cách lén lút với các hình thức thanh toán đa dạng có thể bằng tiền, bằng tài sản khác, bằng hàng hóa…
Người bị hại phải là người đạt đủ mười sáu tuổi trở lên Trường hợp người bị hại dưới mười sáu tuổi thì cấu thành tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự)
Tội phạm này được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện xong hành vi mua bán người Nếu việc mua bán người chưa xảy ra thì được coi là phạm tội chưa đạt [13, tr.214]
Nạn nhân có thể biết hoặc không biết mình là đối tượng bị mua bán Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không phụ thuộc vào việc bị hại có biết hay không biết mình bị mua bán
Hậu quả của hành vi mua bán người là nạn nhân đã bị mua, bị bán Nhưng việc mua bán chưa xảy ra thì được coi là phạm tội chưa đạt Tệ nạn mua bán người đã đe dọa nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm, tự do thân thể và nhân phẩm của con người, gây những tác hại nặng nề về thể chất hoặc tinh thần cho nạn nhân, đe dọa đến sức khỏe nhân loại toàn cầu
và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
1.2.3 Chủ thể của tội mua bán người
“Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định” [7, tr.357]
Đối với tội mua bán người, chủ thể phải có dấu hiệu lỗi cố ý
Chủ thể của tội phạm là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Trang 23và đã thực hiện một tội phạm Cơ sở pháp lý để xác định của thể của Tội mua bán người là các điều 12,13 và Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 Trong đó, Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
1 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm
2 Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [28, Điều 12]
Điều 13 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự cụ thể như sau:
1 Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
2 Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi
bị kết án thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự [28].Như vậy, theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự năm 1999, chúng ta
có thể hiểu những người có năng lực trách nhiệm hình sự là những người không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi Người có hành vi mua bán người chỉ trở thành chủ thể của tội mua bán người khi họ có đủ khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự của hành vi do mình thực hiện hoặc điều khiển được hành vi của mình
Trang 24Đối với tội mua bán người, chủ thể phải có dấu hiệu lỗi cố ý Đó là thái
độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình và với hậu quả xảy ra
Họ có mục đích mua bán người trước khi hành động, mong muốn hậu quả xảy
ra và hành động tự nguyện để đạt được mục đích của mình
Điều 119 Bộ luật hình sự quy định hai khung hình phạt Cụ thể:
Khung 1 có mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm;
Khung 2 có mức hình phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm
Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, tội mua bán người quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý Căn cứ Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 thì chủ thể của tội mua bán người là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên trong cấu thành cơ bản
và từ đủ 14 tuổi trở lên trong cấu thành tăng nặng
Hiện nay, đã xuất hiện những trường hợp mua bán người được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức như dưới hình thức xuất khẩu lao động, kết hôn có yếu tố nước ngoài, văn phòng con nuôi… Trong các trường hợp tội phạm được thực hiện thông qua một tổ chức như thế này thì việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân không thể đảm bảo việc chấm dứt việc phạm tội và trừng trị nghiêm minh tội phạm Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, lợi nhuận mà các tổ chức này thu được từ việc mua bán người còn cao hơn, nhiều hơn so với các cá nhân Vì vậy, để đảm bảo các chế tài hiệu quả sẽ được áp dụng trong việc phòng chống tội phạm thì cần phải quy định trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức này Đây là vấn đề trách nhiệm pháp lý của pháp nhân hiện chưa được quy định ở Việt Nam
1.2.4 Mặt chủ quan của tội mua bán người
Nếu mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý
Trang 25của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và với hậu quả do hành vi ấy gây ra cho xã hội
Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong của cách xử sự có tính chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành
vi đó (lỗi) [7, tr.376]
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các nội dung: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội Các nội dung này có ý nghĩa và vị trí không giống nhau trong các cấu thành tội phạm
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó Lỗi là một dấu hiệu chủ quan bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm.Người phạm tội thực hiện tội phạm mua bán người với lỗi
cố ý Đó là việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy
ra Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm đối với xã hội nhưng đã mong muốn bằng hành động của mình để đạt được mục đích là mua bán người
Động cơ được hiểu là “động lực (các nhu cầu và lợi ích) bên trong thúc
đẩy quyết tâm của người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [7, tr.380] Động cơ của người phạm tội mua bán người có
thể là vì lợi nhuận, vì những động cơ đê hèn như trả thù cá nhân…
Mục đích phạm tội có thể được hiểu là “kết quả trong tương lai mà
người phạm tội hình dung ra và mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [7, tr.382]
Trang 26Điều luật không quy định động cơ cũng như mục đích phạm tội Điều đó có nghĩa là dù với bất kỳ động cơ và mục đích gì thì hành vi nguy hiểm cho xã hội mua bán người cũng cấu thành tội phạm Tuy nhiên nếu với những động cơ mua bán người vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể, để đưa ra nước ngoài thì sẽ cấu thành tăng nặng [13, tr.214]
Điều 119 Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định động cơ cũng như
mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này Như vậy, hành vi
mua bán người vì động cơ gì cũng như nhằm mục đích gì đều phạm tội này Tuy nhiên nếu với những động cơ mua bán người vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể, để đưa ra nước ngoài thì sẽ cấu thành tăng nặng Trong khi đó tại Điều 3 Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội BBN, đặc biệt là phụ nữ trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia thì quy định:
Mục đích bóc lột nạn nhân (bóc lột - exploitation ở đây có thể hiểu là khai thác sức lao động hoặc khai thác bản thân nạn nhân) bao gồm các hình thức bóc lột mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể, là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này [20, Điều 3]
Vì đây chính là yếu tố lột tả bản chất nguy hiểm của tội buôn bán người với tính chất là loại tội phạm nhằm vào con người, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự và quyền tự do của con người Mục đích mà bọn tội phạm hướng tới khi thực hiện loại tội phạm này không chỉ là khoản tiền hay lợi ích vật chất thu được từ việc mua bán người
mà còn cả những lợi ích lớn và lâu dài thu được từ việc bóc lột nạn nhân như bóc lột mại dâm, lấy các bộ phận cơ thể, cưỡng bức lao động… Mặt khác,
Trang 27mục đích “bóc lột còn là một trong những dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm mua bán người với một số tội khác như tội tổ chức, cưỡng éo người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép Trong thực tế điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian qua cũng có những trường hợp môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài, cho nhận con nuôi, môi giới lao động, về hình thức thì hoàn toàn đủ dấu hiệu cấu thành của Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự Việt Nam nhưng nạn nhân trong một số trường hợp này không bị thiệt hại gì
về vật chất và tinh thần mà còn có cuộc sống đầy đủ, sung sướng hơn trước Đối với những trường hợp người bị mua bán không bị bóc lột như vậy thì xử
lý về tội mua bán người hay mua bán trẻ em thì có khiên cưỡng hay không?
Trong thời gian tới, chúng ta nên có sự sửa đổi, bổ sung về vấn đề này
để tránh sự mâu thuẫn với pháp luật quốc tế
1.2.5 Về hình phạt của tội mua bán người:
Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành hai khung cụ thể như sau:
a) Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm Được áp dụng đối với trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan
b) Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
- Vì mục đích mại dâm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 119 của Bộ
luật hình sự là trường hợp mua bán người nhằm phục vụ cho hoạt động mua bán dâm (như: mua bán người rồi đưa họ đến các ổ mại dâm hoặc tổ chức cho
họ bán dâm )
- Có tổ chức Đây là trường hợp phạm tội có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người (đồng phạm) cùng thực hiện tội mua bán người Trường hợp phạm
Trang 28tội này có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội thông thường vì chung thể hiện ở cả trong mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm Về mặt khách quan, phạm tội có tổ chức thường có số đông người tham gia vào việc thực hiện tội phạm, có sự phân công chặt chẽ trong hành động phạm tội, mỗi người phạm tội thực hiện công việc nhất định do người chủ mưu, cầm đầu giao cho, đồng thời hỗ trợ hành động cho những người đồng phạm khác Về mặt chủ quan, những người phạm tội có tổ chức có sự thống nhất tư tưởng, ý chí, quyết tâm phạm tội cao
Mua bán người có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia, trong đó
có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua bán người Đây là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phân công, câu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán người và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình
- Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 119
của Bộ luật hình sự là trường hợp người phạm tội mua bán người từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy các lần mua bán người làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc mua bán người làm nguồn sống chính
Đối với trường hợp phạm tội từ 05 lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng các tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng
nặng “phạm tội nhiều lần”, “đối với nhiều người”, “tái phạm” (hoặc
“tái phạm nguy hiểm”) và “có tính chất chuyên nghiệp"
Trang 29- Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân quy định tại điểm d khoản 2 Điều
119 của Bộ luật hình sự là trường hợp mua bán người nhằm lấy một phần của
cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định của người đó
Đây là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2009
- Để đưa ra nước ngoài quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 của Bộ
luật hình sự là trường hợp mua bán người để đưa nạn nhân ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, kể cả trong trường hợp nạn nhân chưa bị đưa ra nước ngoài nhưng
có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa nạn nhân ra nước ngoài
- Đối với nhiều người quy định tại điểm e khoản 2 Điều 119 của Bộ
luật hình sự là trường hợp mua bán từ 02 người trở lên trong cùng một lần phạm tội
- Phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 2 Điều 119 của Bộ luật
hình sự là trường hợp mua bán người từ 02 lần trở lên, không phân biệt các hành vi mua bán đó được thực hiện đối với một người hay đối với nhiều người và trong các lần mua bán đó người phạm tội chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Hình phạt bổ sung (Khoản 3)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm
- Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
+ Trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép
Người sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước
Trang 30ngoài trái phép phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người môi giới dùng thủ đoạn cưỡng bức, đe dọa hoặc lừa gạt để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và đã giao người đó cho người nước ngoài để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Biết mục đích của người nước ngoài là thông qua hoạt động xem mặt, chọn vợ (hoặc chồng) hoặc kết hôn chỉ là phương thức, thủ đoạn để người nước ngoài đưa người được chọn ra nước ngoài bóc lột sức lao động, bóc lột tình dục hoặc bán cho người khác nhưng vẫn tiến hành môi giới để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác của người nước ngoài
` + Trường hợp sử dụng thủ đoạn đưa người đi lao động nước ngoài trái phép
a) Trường hợp người môi giới, đưa người đi lao động nước ngoài biết người lao động (từ đủ 16 tuổi trở lên) ra nước ngoài sẽ bị cưỡng bức lao động, bóc lột trái phép (như: người bị đưa ra nước ngoài bị buộc phải làm việc trong môi trường độc hại, không bảo đảm an toàn lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe; phải làm việc mà không được trả lương; bị buộc phải hoạt động mại dâm) nhưng vẫn lừa gạt hoặc ép buộc người lao động và giao họ cho phía nước ngoài để lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác thì người môi giới, đưa người đi lao động nước ngoài bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật hình sự
b) Trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới đưa lao động ra nước ngoài để chuyển giao người lao động cho phía nước ngoài bán
Trang 31người lao động cho người khác thì người môi giới phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều
119 của Bộ luật hình sự
c) Trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài để lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (sau khi nhận tiền của người lao động đã chiếm đoạt và bỏ trốn, không thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài) thì tùy từng trường hợp cụ thể có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 của
Bộ luật hình sự hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật hình sự [3, Điều 3]
1.3 Tội mua bán người trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
1.3.1 Pháp luật hình sự Trung Quốc
Trong Bộ luật Hình sự Trung Quốc, tội mua bán người được quy định tại Chương IV “Tội xâm phạm quyền tự do cá nhân và quyền dân chủ của công dân” Nếu như Việt Nam quy định tội mua bán phụ nữ tại Điều 119, còn tội mua bán đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em tại Điều 120 thì luật Hình sự Trung quốc lại quy định hai loại tội này cùng vào một điều luật Cụ thể như sau:
Điều 240 Người nào buôn bán phụ nữ, trẻ em thì bị phạt tù
từ năm năm đến mười năm và phạt tiền; phạm tội thuộc một trong những tình tiết dưới đây thì bị phạt tù từ mười năm trở lên, hoặc tù chung thân, phạt tiền và tịch thu tài sản; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì xử tử hình và tịch thu tài sản:
1 Người cầm đầu tổ chức buôn bán phụ nữ, trẻ em;
2 Buôn bán phụ nữ, trẻ em từ ba người trở lên;
3 Hiếp dâm phụ nữ bị đem bán;
Trang 324 Lừa gạt, cưỡng bức những phụ nữ bị đem bán phải bán dâm hoặc bán họ cho người khác mà những người này cưỡng bức
Hình phạt đối với hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em được quy định tại Điều 241 như sau:
Người nào phạm tội mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán thì bị phạt tù đến ba năm, bị giam giữ hoặc quản chế Phạm tội mua phụ
nữ bị đem bán, cưỡng chế để quan hệ tình dục với họ thì bị xử phạt theo quy định của Điều 236 Bộ luật này
Người nào có những hành vi phạm tội như mua phụ nữ, trẻ
em bị đem bán rồi tước đoạt, hạn chế trái phép quyền tự do thân thể hoặc làm tổn hại làm nhục nạn nhân, thì bị xử phạt theo quy định của những điều luật có liên quan của Bộ luật này
Người nào mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán và phạm các tội quy định ở các khoản 2 và 3 của Điều này sẽ bị trừng phạt về phạm nhiều tội cùng một lúc
Phạm tội mua phụ nữ, trẻ em và bán họ, thì bị xử phạt theo quy định của Điều 240 Bộ luật này
Trang 33Người nào mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán nhưng không cản trở phụ nữ bị đem bán trở về quê cũ theo nguyện vọng của
họ, hoặc không lạm dụng trẻ em bị đem bán hoặc không ngăn cản các nỗ lực giải thoát số trẻ em đó thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự [11, Điều 241]
Điều 242 quy định:
Người nào dùng bạo lực uy hiếp, ngăn cản nhân viên, người thi hành công vụ để giải thoát cho phụ nữ, trẻ em bị đem bán thì bị
xử phạt theo Điều 277 của Bộ luật này
Người nào cầm đầu một tổ chức ngăn cản nhân viên Nhà nước thi hành công vụ giải thoát cho trẻ em, phụ nữ bị đem bán, thì
bị phạt tù đến năm năm, hoặc bị giam giữ; những người tham gia khác mà sử dụng biện pháp bạo lực hay uy hiếp thì bị xử phạt theo khoản 1 Điều này [11, Điều 242]
Có thể nhận thấy, Bộ luật hình sự Trung Quốc không có quy định tội đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em Đặc biệt, luật Hình sự Trung Quốc quy định thành hai điều luật riêng biệt là tội buôn bán phụ nữ, trẻ em và tội mua phụ
nữ, trẻ em Luật Trung Quốc còn có quy định thêm hành vi: Dùng bạo lực, uy hiếp ngăn cản nhân viên, người thi hành công vụ khi họ giải cứu cho nạn nhân
bị đem bán Về hình phạt, pháp luật hình sự của Trung Quốc quy định nghiêm khắc hơn pháp luật hình sự của Việt Nam Trung Quốc quy định hình phạt chính bao gồm: quản chế, giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân hoặc thậm chí cả tử hình Trong khi pháp luật Việt Nam thì quy định hình phạt tối đa chỉ đến 20 năm tù Bên cạnh đó, người phạm tội còn bị hình phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu tài sản Pháp luật Trung Quốc quy định cụ thể tình tiết tăng nặng và quan tâm nhiều đến hậu quả mà nạn nhân gặp phải
Trang 34Ý thức được hiệu quả hợp tác song phương trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống nạn buôn bán người, đồng thời nhằm tăng cường hợp tác thực thi pháp luật giữa hai nước, phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị hiệu quả các hoạt động phạm tội buôn bán người qua biên giới và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, ngày 15/9/2010 tại Bắc Kinh, hiệp định giữa Chính phủ nước ta và Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tăng cường hợp tác phòng, chống buôn bán người đã được ký kết
1.3.2 Pháp luật hình sự Thái Lan
Thái Lan đã có một hệ thống pháp luật gồm Luật chống buôn bán người, bảo vệ trẻ em, mại dâm mới, rửa tiền, bảo vệ nhận chứng, dẫn độ, hợp tác quốc tế những vấn đề về hình sự, bảo vệ người lao động và đang dự thảo Luật Chống tội phạm có tổ chức Luật chống buôn bán người của Thái Lan quy định các biện pháp đấu tranh chống buôn bán người và đặc biệt chú trọng vào việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân Đặc biệt, luật đã hợp pháp hóa hành vi nhập cảnh bất hợp pháp, mại dâm và sử dụng giấy tờ giả mạo của nạn nhân bị buôn bán Do đó, nếu không có sự cho phép bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp thì cảnh sát không được buộc tội nạn nhân bị mua bán trở về các tội danh trên Đồng thời luật dành hẳn một chương để quy định về các hình phạt
từ và tiền nghiêm khắc đối với cá nhân, pháp nhân phạm tội buôn bán người, cản trở quá trình tố tụng về tội buôn bán người, các hành vi khác như tiết lộ thông tin điều tra, thông tin liên quan đến người bị buôn bán… Pháp luật hình
sự Thái Lan quy định cụ thể và nghiêm khắc hơn pháp luật hình sự Việt Nam
về tội này Theo đó, các hành vi được coi là hành vi mua bán người kể cả việc
có sự đồng ý của người đó Mua bán người bằng cách đe dọa dùng vũ lực xúi dục bằng nhiều thủ đoạn đồi bại hoặc bằng bất kỳ hình thức nào khác chống lại ý muốn của người đó, bắt cóc hoặc che giấu người bị bắt cóc
Trang 35Hình phạt cao nhất là chung thân và phạt tiền từ 200.000 bạt Luật cũng quy định trừng phạt đối với những người hỗ trợ việc thực hiện tội phạm buôn bán người, giúp đỡ bằng việc cung cấp tài sản, nơi hội họp cho những kẻ buôn bán người Tất cả những tội phạm quy định tại Luật này sẽ được xem là những tội phạm nguồn quy định tại Luật Rửa tiền nhằm tịch thu tất cả tiền thu được của tội phạm buôn bán người Không chỉ có luật, Thẩm phán, công
80.000-tố viên, cảnh sát cũng có vai trò quan trọng trong quá trình 80.000-tố tụng đối với nạn nhân trong các vụ án buôn bán người Nếu những người này có hiểu biết về bản chất của buôn bán người, nhân thức không đúng đắn về nạn nhân bị buôn bán thì khó có thể giải quyết đúng vụ
án và bảo vệ được nạn nhân [1]
Thái Lan có luật bảo vệ người đi tìm việc, nhằm ngăn chặn tội mua bán phụ nữ dưới các hình thức tuyển người Ngoài ra, cơ quan hành pháp Thái Lan còn ban hành quy định về việc cấp hộ chiếu cho phụ nữ Thái Lan
ra nước ngoài có thể bị đình chỉ, nếu có cơ sở cho rằng động cơ ra nước ngoài không trung thực
Về hôn nhân giữa phụ nữ và người nước ngoài, chính phủ Thái Lan quy định: Người nước ngoài phải có một bảng kê khai về thu nhập, tình trạng hôn nhân với sự chứng nhận của sứ quán mà người đó có quốc tịch hoặc cơ quan
có thẩm quyền và hai người sống tại nước anh ta cư trú chứng nhận Ngoài ra, chính phủ Thái Lan cũng thực hiện nhiều chiến lược để ngăn ngừa các hình thức giới thiệu, ép buộc hoặc buôn bán người cho công nghiệp tình dục như thiết lập hệ thống giải đáp thắc mắc, trợ giúp những người phụ nữ nước ngoài đang bị bắt buộc mại dâm ở Thái Lan Hệ thống này đã đưa nạn nhân trở về nước họ Thực hiện kiểm tra các ga tàu xe và tuyến gần biên giới Hỗ trợ Chính phủ các nước trong việc thực thi pháp luật đối với những công dân
Trang 36Đặc biệt, ngày 24/3/2008, tại Hà Nội, Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về hợp tác song phương nhằm loại trừ nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán đã được ký kết nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, thúc đẩy song phương để trấn áp nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em
1.3.3 Pháp luật hình sự Philippin
Khác với quy định của pháp luật Việt Nam về tội mua bán người (mà trong đó nạn nhân bao gồm cả phụ nữ và nam giới), Philippin có một đạo luật riêng về tội mua bán phụ nữ Tất cả những hành vi vận chuyển, dụ dỗ để mua bán phụ nữ lấy tiền, có được lợi nhuận hay tư liệu sản xuất, đạt được mục đích kinh tế hay vì mại dâm khai thác tình dục hoặc lao động cưỡng bức đều
là hành vi phạm tội và bị nghiêm cấm, kể cả mọi hình thức tạo điều kiện cho việc mua bán người
Bộ luật hình sự Philippin nhấn mạnh và đưa ra hình phạt nghiêm khắc đối với mua bán người có tổ chức, có sự liên minh, liên kết và phân công vai trò rõ ràng trong tổ chức thực hiện tội phạm Điều này cũng giống như trong
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định tình tiết phạm tội “có tổ chức” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Bộ luật hình sự Philippin còn quy định thêm người phạm tội là người bảo trợ của nạn nhân kể cả công chức Nhà nước, quân nhân tại ngũ, người thi hành pháp luật nếu mua bán người thì đều xét xử tăng nặng về trách nhiệm hình sự Cũng như luật hình sự Việt Nam, hành vi buôn bán người đặc biệt là phụ nữ, hình phạt cao nhất có thể đến 20 năm tù và phạt tiền từ 1 triệu pesos đến 2 triệu pesos tương đương với khoảng 250 triệu đến 500 triệu Việt Nam đồng Như vậy, so với mức phạt tiền của Luật Philippin thì mức phạt từ 5 triệu đến 50 triệu đồng trong Bộ luật hình sự Việt Nam là quá ít,
Trang 37chưa phù hợp với tình hình trượt giá và lạm phát như hiện nay Trong thời gian tới, chúng ta cần sửa đổi tăng mức phạt tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
Về hôn nhân giữa phụ nữ Philippin với người nước ngoài, luật Philippin quy định việc môi giới kết hôn với người nước ngoài thông qua đặt hàng qua mạng là phạm pháp để hạn chế việc lợi dụng môi giới kết hôn với người nước ngoài để buôn bán phụ nữ Hành vi môi giới kết hôn với người nước ngoài thông qua đặt hàng qua mạng được xếp vào tội buôn bán người, với mức án phạt tù có thể lên đến 20 năm đối với kẻ phạm tội [47]
Họ còn có quy định hình phạt đối với người không tham gia mua bán phụ nữ nhưng có sử dụng phụ nữ bị mua bán Vi phạm lần đầu tiên, lao động công ích 6 tháng phạt 50 nghìn pesos (khoảng 12,5 triệu Việt Nam đồng), tái phạm phạt 1 năm và 100 nghìn pesos (khoảng 25 triệu Việt Nam đồng)
Trang 38nó không những xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
mà còn chà đạp lên các giá trị đạo đức tốt đẹp, ảnh hưởng đến cuộc sống lâu dài của các nạn nhân.Qua nghiên cứu chương I, chúng ta hiểu hơn những vấn
đề lý luận chung về tội mua bán người: khái niệm, những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, đồng thời so sánh pháp luật của các nước về tội này cho thấy tùy từng nước mà pháp luật hình sự quy định khác nhau Việt Nam cũng cần học tập quy định một số nước để áp dụng vào nước ta một cách phù hợp, từ đó góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về tội này
Trang 39Chương 2
THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI MUA BÁN NGƯỜI
2.1 Tình hình xét xử tội mua bán người
2.1 1 Tình hình xét xử tội mua bán người ở Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm ở Việt Nam đang có diễn biến hết sức phức tạp với quy mô ngày càng gia tăng, tính chất ngày càng nguy hiểm và hậu quả mà tội phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng Trong đó, tội phạm mua bán người được đánh giá là loại tội phạm có diễn biến phức tạp, quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức chặt chẽ và bị quốc tế hóa mạnh mẽ Mua bán người là tội phạm chà đạp lên nhân phẩm, quyền lợi của con người, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống gia đình và
xã hội, gắn liền với lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục, mại dâm với mục đích thu lợi nhuận, giải trí cho một số người trên cơ sở kinh doanh Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thông kê về tình hình mua bán người cho thấy:
2.1.1.1 Số vụ án mua bán người và số bị cáo phạm tội
Từ năm 2009-2013, ở nước ta xảy ra 947 vụ buôn bán người với 2637 nạn nhân Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 877 vụ,1764 bị cáo Cụ thể:
Năm 2009, thụ lý 205 vụ mua bán người với 440 bị cáo, lừa bán 574 nạn nhân Trong đó xét xử sơ thẩm 183 vụ, 400 bị cáo đạt tỷ lệ 89,26% về số
vụ và 90,9% về số bị cáo; đình chỉ xét xử 01 bị cáo; hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 17 vụ, 33 bị cáo; còn lại 5 vụ và 7 bị cáo
Năm 2010, thụ lý 172 vụ mua bán người với 312 bị cáo, lừa bán 508 nạn nhân Trong đó xét xử sơ thẩm 153 vụ, 274 bị cáo đạt tỷ lệ 88,9% về số
vụ và 87,8% về số bị cáo; đình chỉ xét xử 02 bị cáo; hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 10 vụ, 20 bị cáo; còn lại 8 vụ và 17 bị cáo
Trang 40Năm 2011, thụ lý 176 vụ mua bán người với 347 bị cáo, lừa bán 478 nạn nhân Trong đó xét xử sơ thẩm 164 vụ, 315 bị cáo đạt tỷ lệ 93,18% về số
vụ và 90,7% về số bị cáo; đình chỉ xét xử 01 bị cáo; hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 10 vụ, 27 bị cáo; còn lại 2 vụ và 5 bị cáo
Năm 2012, cả nước xảy ra 196 vụ mua bán người với 406 bị cáo, lừa bán
512 nạn nhân Trong đó xét xử sơ thẩm 185 vụ, 386 bị cáo đạt tỷ lệ 94,38% về
số vụ và 95,07% về số bị cáo; hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 9 vụ, 14 bị cáo; còn lại 2 vụ và 6 bị cáo
Năm 2013, cả nước xảy ra 198 vụ mua bán người với 443 bị cáo, lừa bán nạn 565 nhân Trong đó xét xử sơ thẩm 192 vụ, 389 bị cáo đạt tỷ lệ 96,96 %về
số vụ và 89,84% về số bị cáo; hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 5 vụ, 48 bị cáo; còn lại 1 vụ và 6 bị cáo
Có thể xem chi tiết tình hình mua bán người trong thời gian 5 năm (2009-2013) theo bảng sau:
Bảng 2.1: Tội mua bán người theo số vụ và số bị cáo trong 5 năm