1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chức năng Công tố của Viện Kiểm sát

108 1,5K 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 809,91 KB

Nội dung

Một số tác giả đã có những nghiên cứu, bài viết về vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền tạp

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LẠI VĂN THÁI

CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

Trang 2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LẠI VĂN THÁI

Chuyên ngành : Luật hình sự

Mã số : 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI - 2013

Trang 3

1.1.3 Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố 18 1.2 Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự 19

1.2.2 Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố 22 1.3 Chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự

tiêu biểu trên thế giới

25

Chương 2: CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG PHÁP LUẬT TỐ

Trang 4

2.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 32 2.1.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003 ra đời

33

2.2 Chức năng công tố theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 34 2.2.1 Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố ở Việt Nam 34 2.2.2 Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

35

2.2.3 Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự

37

2.2.3 Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong

giai đoạn xét xử vụ án hình sự

52

Chương 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ Ở VIỆT

NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

3.2.2.1 Nâng cao chất lượng khởi tố vụ án hình sự, thực hiện có

hiệu quả các biện pháp thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra các vụ án hình sự

Trang 5

3.2.2.4 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,

mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với các ngành

hữu quan trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm

3.2.3.2 Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của

lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đối với các Viện kiểm sát

Trang 6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra

VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Trang 8

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX

đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10] Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003

Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật Trong đó việc tăng cường chất lượng công tố của VKS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp Nghị quyết 08/NQ-TW

ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công

tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ:

Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước

và với các cơ quan tư pháp [11]

Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08/NQ-TW đã có ý kiến chỉ đạo:

Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng công

Trang 9

tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [11]

Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW "Về

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020", trong đó có nội dung: "Hoàn thiện pháp

luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố" [12]

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…

Trong những năm vừa qua, quá trình thực hiện đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, Nghị quyết 49/NQ-TW

ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã chỉ ra:

Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế Chính sách hình

sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu [13]

Trang 10

Những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm

2002, BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng Các văn bản trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng công tố của VKS Vì vậy, cần nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung

Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm VKS thực hiện tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần

thiết Đây cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài "Chức năng công tố của Viện

kiểm sát" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình

2 Tình hình nghiên cứu

Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình

sự đã được một số sách, báo, công trình nghiên cứu đề cập Một số tác giả đã

có những nghiên cứu, bài viết về vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài

Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (nhìn nhận từ góc độ nhà

nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết

Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sĩ luật học), Hà Nội, 2002; Tiến sĩ Trần Văn Độ có bài Một số vấn đề về quyền công tố; một số bài viết của các tác giả khác trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý

luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội, 1999…

Một số luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố tại Khoa luật - Đại học

quốc gia Hà Nội: Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận

dụng vào điều kiện Việt Nam, của Lý Văn Chính (năm 2004); Quan hệ giữa

Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, của Lang Văn Bảo (năm 2005); Tranh

Trang 11

tụng tại phiên tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Mạnh Tiến

(năm 2005); Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định

của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Đào Thị Diệp (năm 2008)

Những luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu trên về tổ chức và hoạt động của VKS nói chung, đồng thời đề cập đến các vấn đề liên quan đến quyền công tố Từ khi BLTTHS 2003 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chức năng công tố của VKS; ngoài ra việc thực hiện các quy định về chức năng công tố có những nơi, địa bàn còn có nhận thức, áp dụng chưa thống nhất Chính vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu về chức năng công tố của VKS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả

ở nước ta hiện nay

* Nhiệm vụ của đề tài

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự

- Nghiên cứu việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình

tố tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới

- Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Trang 12

- Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được

và những tồn tại, hạn chế

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, thực trạng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây ở Việt Nam

5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình

sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài

- Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ

về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND

6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa

học góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về chức năng công tố của VKS, đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKS trong công

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay

Trang 13

Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể dùng làm tài liệu

tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKS Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động trong

cơ quan VKS

7 Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận về chức năng công tố của Viện kiểm sát

Chương 2: Chức năng công tố trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3: Thực trạng hoạt động công tố ở Việt Nam và các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả

Trang 14

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT

1.1 QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1.1 Sự xuất hiện quyền công tố

Công tố là hiện tượng xã hội xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại, nó gắn liền với các nhà nước trong các chế độ chính trị - xã hội và ngày càng phát triển Trong nhà nước pháp quyền "công tố", "quyền công tố" và

"thực hành quyền công tố" là những phạm trù đi liền với chức năng nhà nước trong quá trình quản lý xã hội, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm Đồng thời, quyền công tố cũng được xem xét trong mối quan hệ với phạm trù bảo đảm quyền con người, nên nó là vấn đề khá "nhạy cảm" nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này Là hiện tượng trong cơ cấu thực hiện quyền lực nhà nước nhưng quan niệm về sự xuất hiện quyền công tố cũng như nội hàm của hiện tượng này có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và

cơ sở triết học cũng như thực tiễn khác nhau Sự đa dạng của các quan điểm

về sự ra đời của quyền công tố giúp chúng ta xem xét nó ở trên nhiều bình diện để có sự nhìn nhận, đánh giá khoa học nhất

Chúng tôi, khái quát những quan điểm tương đối về sự ra đời của quyền công tố trong lịch sử, cụ thể là:

Thứ nhất, quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát

triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra bảo

vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp [39, tr 11] Như vậy, quan điểm này đã thể hiện một nội dung quan trọng là quyền công tố không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước trong lịch sử xã hội loài mà chỉ xuất hiện khi nhà nước đó phát triển ở mức độ tương đối cao, khi mà "các khái

Trang 15

niệm dân chủ và quyền con người được đề cao" Với lập luận này quyền công

tố chỉ xuất hiện trong nhà nước có tính chất pháp quyền

Thứ hai, quan điểm coi quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có

trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu của Tối cao pháp viện) Cơ quan công tố là "mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích của các bên theo quy định của pháp luật" Đại diện cho trường phái này là E.Hermann và tập thể tác giả trong cuốn "Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính trị" Các tác giả nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì phải có một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng "chống" lại quyền xét

xử để nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án xét xử Đó là quyền công tố [39, tr 12]

Thứ ba, quan điểm cho rằng, đến cuối thể kỷ XIII đầu thế kỷ XIV

(thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến), với việc tách các cơ quan Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì lịch sử công tố mới xuất hiện Tuy không xuất hiện cùng với Nhà nước nhưng lịch sử quyền công tố gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và phân chia quyền lực nhà nước, gắn liền với sự phát triển và văn minh của pháp luật Trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và là người đại diện cho Vua để xét xử, chứ không phải đại diện cho công quyền Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra Tòa án), do đó quyền công tố không thể xuất hiện cùng với nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [39, tr 13]

Trang 16

Thứ tư, quan điểm cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý,

gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nước, từ nhà nước chủ nô đến các nhà nước đại diện [39, tr 14] Quan điểm này, khá cởi mở và coi quyền công tố như một đặc tính vốn có của nhà nước như dân

cư, lãnh thổ

Như vậy, đa số các quan điểm (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) đều có cơ sở chung là khẳng định quyền công tố chỉ xuất hiện khi có nhà nước pháp quyền,

và gắn việc xuất hiện quyền công tố với vấn đề dân chủ Theo đó, quyền công

tố là kết quả trực tiếp và tất yếu của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế Những quan điểm thuộc loại này

đã phản ánh một thực tại là việc phân công rành mạch chức năng của các cơ quan nhà nước chỉ gắn liền với nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền Nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại nhà nước chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước Song không phải vì thế mà đồng nhất sự ra đời của cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (là một khái niệm pháp lý)

Từ những phân tích trên, quan điểm thứ tư là có cơ sở hơn cả Quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất của nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền Với quan điểm coi quyền công tố

là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội (theo quan điểm của giai cấp thống trị xã hội), chúng tôi cho rằng khi nhà nước xuất hiện thì cùng đồng thời xuất hiện quyền công tố Nhà nước nào cùng ban hành pháp luật để quản

lý xã hội (nói chính xác hơn là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo ý muốn, theo khuôn mẫu tư tưởng của

Trang 17

giới thống trị xã hội) Đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại những mâu thuẫn đối kháng (mang tính giai cấp) không thể điều hòa được Điều đó có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào (khi đã xuất hiện nhà nước), bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một (hoặc nhiều) lực lượng (bị thống trị) có thái độ, có hành động thù địch chống lại lực lượng thống trị xã hội (nắm quyền lực nhà nước), biểu hiện cụ thể ở những hành vi vi phạm pháp luật (chống lại ý chí của giai cấp thống trị) đến mức nguy hiểm (đe dọa đến quyền thống trị nhà nước) cần phải bị trừng trị Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc được tội của họ Quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện sự buộc tội này chính là quyền công tố Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền công tố, nội dung quyền công tố, và phạm vi thực hành quyền này được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể Ngay trong một nhà nước cụ thể với một chế độ chính trị xác định, ở mỗi giai đoạn phát triển của nó cũng có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ chức và xác định phạm vi thực hiện quyền công tố

Thời kỳ đầu khi nhà nước mới ra đời, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn đơn giản và hệ thống pháp luật mới được hình thành quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ các lợi ích công, như các lợi ích của nhà nước (của giai cấp thống trị) và lợi ích của cả cộng đồng Do

đó chức năng nhà nước chưa được phân định rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, quyền công tố có thể do một cơ quan, thậm chí một quan chức nhà nước duy nhất thực hiện từ đầu đến cuối Ví dụ, trong nhà nước chủ nô hoặc phong kiến, việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm

Càng về sau cùng với sự phát triển, hoàn thiện của bộ máy nhà nước

và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn hóa Mặt khác nhận thức xã hội về lợi ích công, lợi ích tư, về trách nhiệm của

Trang 18

nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể Dần dần, nhà nước (giai cấp thống trị) nhận thức một cách đầy đủ và rõ ràng rằng, trong nhiều trường hợp khi có lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công (như trật

tự công cộng, an ninh xã hội ) cũng bị xâm hại hoặc bị đe dọa Bởi vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích cá nhân khi chúng bị xâm phạm Chính vì lẽ đó, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, trong khi vai trò của tư tố ngày càng mờ nhạt dần trong hoạt động tố tụng hình sự

Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu nhất Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội Trong quan hệ này nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước (quyền lực công) để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, còn người phạm tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài do pháp luật hình sự quy định và áp dụng Quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) và chỉ

phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra Sự buộc tội nhân danh công quyền

đó được gọi là quyền công tố

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng "quyền công tố là một

khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của nhà nước Nó xuất hiện cùng với

sự ra đời của nhà nước và pháp luật, tồn tại khi có nhà nước và mất đi khi không còn nhà nước" [39, tr 17]

1.1.2 Khái niệm quyền công tố

Thuật ngữ "công tố" là một thuật ngữ Hán-Việt, theo cuốn từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do GS Hoàng Phê chủ biên, công tố có

Trang 19

nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [59], như vậy về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, công tố được hiểu là việc nhân danh nhà nước để buộc tội một người bị tình nghi là phạm tội

Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa

ra thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của

VKSND (Điều 138) Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981 Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh

khái niệm truyền thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" Trong thời gian vừa qua

đã có rất nhiều tài liệu, bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến khái niệm này, song đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao trong nhận thức về vấn đề này Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản chính thức nào của Nhà nước ta (từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến VKSNDTC) chính thức giải thích nội dung quyền công tố Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, tựu chung lại có những quan điểm về nội hàm của quyền công tố, có thể kể đến các quan điểm tiêu biểu sau:

a) Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001) Có thể thấy quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND

để xem xét quyền công tố Quan điểm này cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố Điều đó có nghĩa

là ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những

vi phạm pháp luật của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (một thời chúng ta gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành quyền công tố Theo quan điểm này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [45, tr.85-87] Có thể nói đây là quan điểm phổ biến, đặc biệt là trong ngành kiểm sát từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức VKSND năm

2002 ra đời Những người theo quan điểm này lập luận trên cơ sở nội dung

Trang 20

các điều luật được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1981, 1992 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng 6 mặt công tác: đó là công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét xử; công tác kiểm sát giam, giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và công tác điều tra tội phạm Việc Hiến pháp năm 1992 đã bỏ đi chức năng kiểm sát chung của VKS nhưng chức năng công tố vẫn giữ lại cho thấy quan điểm đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát chung là không có cơ

sở Chức năng trọng yếu của VKS là công tố nên không thể quan niệm quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình tức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự;

b) Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ việc

vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân

sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác Theo quan điểm này, trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa, khái niệm quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố nhà nước, công tố xã hội và tư tố Quyền công tố là quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho VKSND thực hiện theo luật định Nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp Quyền công tố là một nội dung hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình sự

và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm bảo đảm mọi hành vi vi pháp pháp luật, hành vi phạm tội đều được phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất

Trang 21

Chúng tôi cho rằng, quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, phạm vi, nội dung của quyền công tố, dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác Quan điểm nêu trên đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng của VKS trong quá trình giải quyết các

vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động Quyền công tố là quyền nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và dùng các chế tài hình sự đối với người phạm tội Nói cách khác quyền công tố giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phật đối với người phạm tội [58, tr 380] Theo chúng tôi, quan điểm trên đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới: Mọi tội phạm đã xảy ra đều xâm hại đến lợi ích chung của toàn xã hội, do đó kẻ phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị trừng trị bằng chế tài hình sự Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cơ quan điều tra (CQĐT), Cơ quan công tố, Cơ quan xét xử và

Cơ quan thi hành án) Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên đã dẫn đến việc nhầm lẫn giữa các hoạt động buộc tội, xét xử và bào chữa trong

tố tụng hình sự Mỗi một hoạt động trên được thực hiện bởi một hoặc một số chủ thể nhất định, tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình tố tụng hình sự Theo quan điểm trên thì không chỉ CQĐT và Cơ quan công tố mà cả

Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án đều là chủ thể của quyền công tố;

c) Quyền công tố bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố

và buộc tội bị cáo trước Tòa án Đại diện cho quan điểm này là các luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp Quyền công tố luôn gắn với hoạt động buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) Do vậy, quyền công tố

Trang 22

chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình

sự Chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố chỉ bao gồm CQĐT (Điều tra viên) và Viện công tố (Công tố viên) Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước phiên tòa chỉ thuộc về Viện công tố Quyền công tố được sử dụng không chỉ để bảo vệ các lợi ích công (lợi ích chung của toàn xã hội) mà

cả lợi ích cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại Trên cơ sở quan điểm này

hệ thống tư pháp hình sự của Cộng hòa Pháp được tổ chức theo hình thức tố tụng thẩm cứu (dự thẩm), trong đó Viện công tố là cơ quan trực tiếp chỉ đạo hoạt động điều tra, có quyền yêu cầu cảnh sát thực hiện các hành vi tố tụng để thu thập các chứng cứ buộc tội

d) Quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự Và, quyền công tố là quyền của nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó [18, tr 82-88] Theo quan điểm này quyền công tố chỉ thuộc về nhà nước, nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính nhà nước là người ban hành ra pháp luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời nhà nước là chủ thể tham gia vào nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau Với tính cách là một quyền năng của nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kính tế, tố tụng lao động,

tố tụng hành chính Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan, bởi vì, nhà nước không thể không thể hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật; và sự hiện diện công tố như một điều kiện đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết các

vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán Theo quan điểm trên quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền của VKS như quyền khởi tố vụ án (dân sự, hành chính, hình sự, lao động), quyền tham gia

tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào khi xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế ), quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ

Trang 23

trong vụ án v.v Quyền công tố trong các hoạt động tố tụng khác nhau không giống nhau về nội dung cũng như hình thức thực hiện Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có nghĩa là nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với con người phạm tội cụ thể, còn trong hoạt động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc nhà nước trực tiếp hay gián tiếp (bằng văn bản) quy lỗi cho một người hay một pháp nhân nào đó trong việc thực hiện một hay nhiều hành vi vi phạm pháp luật tương ứng Như vậy, sự buộc tội chỉ là một trong những nội dung của công tố, bởi công tố ngoài buộc tội (quy lỗi hình sự) còn là việc quy lỗi cho người khác

e) Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án xét xử, vì nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật Sự can thiệp của nhà nước vào vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật

tự công cộng mà trách nhiệm của nhà nước là phải đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công Quyền lực công được nhà nước giao cho cơ quan nào phụ thuộc vào từng kiểu nhà nước Theo quan điểm này, quyền công

tố là quyền lực công, quyền đó thuộc nhà nước được bắt đầu từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường tồn tại của nhà nước, là trách nhiệm xã hội của nhà nước, vì nhà nước nhân danh xã hội để duy trì các xung đột trong vòng trật tự Quyền công tố là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Tòa án Vì thế quyền công tố thường gắn với quyền tài pháp của Tòa án [17, tr 138-140]

Từ những phân tích trên, những người theo quan điểm này đưa ra kết luận: Quyền công tố là quyền nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đến cùng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành

vi vi phạm pháp luật, mọi hành động xâm hại đến lợi ích chung, nhằm mục đích duy trì trật tự của cộng đồng, trật tự pháp luật mà nhà nước đặt ra để duy

Trang 24

trì, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội Và như vậy, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực hình sự mà còn có trong các lĩnh vực khác như dân sự, hành chính, kinh tế, lao động

Trên đây là một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố Mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý của riêng nó Tuy vậy, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các nước khác cho thấy các quan điểm trên đã bộc lộ một số bất cập sau:

- Hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đến tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, lao động, hành chính, kinh tế

- Hoặc là coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực công

- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự

Có thể thấy rằng, điểm hạn chế chung của hầu hết các công trình nghiên cứu về quyền công tố là không phân định rõ được khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật Đa số các tác giả đều cho rằng hai chức năng của VKS (chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật) như pháp luật trước đây quy định vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên

hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung hòa nhập vào nhau, đan xen lẫn nhau, không thể tách rời, tạo nên sự thống nhất trong chức năng của VKS

Trang 25

Qua quá trình nghiên cứu các công trình viết về quyền công tố, chúng tôi đồng ý với quan điểm của TS Lê Hữu Thể khi nghiên cứu về những vấn

đề liên quan đến quyền công tố, theo tác giả Lê Hữu Thể thì:

Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Quyền này thuộc về nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [39, tr 40] 1.1.3 Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố

Do hiện nay vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố

- Đối tượng của quyền công tố: được hiểu là cái mà quyền công tố tác

động vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó (nhằm buộc được tội của người phạm tội để trừng phạt; nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại)

Với quan điểm về quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người phạm tội, chúng tôi cho rằng đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội

- Nội dung của quyền công tố: Trên cơ sở quan niệm về quyền công tố

đã được nêu ở trên, chúng tôi cho rằng, nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm

- Phạm vi quyền công tố: Trên cơ sở quan niệm về quyền công tố đã

được nêu ở trên, chúng tôi cho rằng phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội

Trang 26

phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị

1.2 THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.2.1 Khái niệm thực hành quyền công tố

Khi nghiên cứu về thực hành quyền công tố, trong giới luật học hiện

nay còn tồn tại hai xu hướng khác nhau: Một là, họ gắn việc thực hành quyền

công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của những Công tố viên trong

tố tụng hình sự Cơ sở lý luận mà họ dựa vào là việc tổ chức và hoạt động của

cơ quan công tố ở nước ngoài, cơ sở pháp lý mà họ đưa ra là các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta, nhưng chỉ bó hẹp ở phạm vi truy tố hoặc buộc tội của VKS trước Tòa án (vốn là những nét hoạt động công tố tương đồng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới) Một số khác thì lại mở rộng phạm vi thực hành quyền công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn tố tụng

bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [23, tr 100] Hai là, họ chỉ

nêu ra một số biện pháp pháp lý như: Lập cáo trạng và luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí có người còn cho rằng thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm [27, tr 28-38]

Gần đây có một số công trình khoa học nghiên cứu về thực hành quyền công tố hoặc nghiên cứu về các vấn đề pháp lý khác trong đó có một số vấn đề liên quan đến thực hành quyền công tố mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra được một số biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát giam, giữ và cải tạo, kiểm sát thi hành án Các công trình này vận dụng những nguyên lý của V.I Lênin về pháp chế xã hội chủ nghĩa và vai trò của VKS, về vai trò và bộ phận của ủy viên công tố làm cơ sở lý luận và lấy các quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND từ năm 1960 đến nay làm cơ sở pháp lý Bởi vậy trong nhận thức của không ít những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn

Trang 27

trong cũng như ngoài ngành kiểm sát đã nhầm lẫn quyền công tố với thực hành quyền công tố trên nhiều phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi Đồng thời các công trình này luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là quyền của VKS Do đó đã không lý giải được một số vấn đề là khi một số cơ quan khác (CQĐT, Tòa án ) sử dụng một số biện pháp như khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì có phải các cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay không

Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đây

là quyền của nhà nước, gắn liền với bản chất của từng kiểu nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội

Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm thì nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố Các quyền năng đó được giao cho các cơ quan nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố

Để thực hiện quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể thì nhà nước tổ chức ra một hệ thống cơ quan nhất định để thực hiện quyền lực đó

Hệ thống cơ quan này đóng vai trò chính trong sự phối hợp cùng với cơ quan nhà nước khác để thực hiện quyền lực nhà nước đã được xác định Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật, VKS là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố, "không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm cho tốt" [8] Không cơ quan nào có thể thay VKS thực hành quyền công tố, bởi lẽ:

Trang 28

- Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền độc lập phát động quyền công tố Các quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can của CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động quyền công tố sau khi sau khi được VKS xem xét Nếu quyết định khởi tố vụ án của CQĐT không có căn

cứ, trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ Nếu quyết định không khởi tố vụ

án của CQĐT không có căn cứ VKS cũng có quyền hủy bỏ quyết định đó và

ra quyết định khởi tố vụ án Tòa án (Hội đồng xét xử) cũng có quyền khởi tố

vụ án hình sự nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, tuy nhiên nếu quyết định của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì VKS vẫn có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên

- VKS có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, CQĐT chỉ có quyền đề nghị

- Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm đảm bảo

đủ các chứng cứ để truy tố bị can CQĐT có quyền thu thập chứng cứ, nhưng VKS chịu trách nhiệm về việc chứng cứ đó có đủ để truy tố bị can một cách

có căn cứ Trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung tài liệu hoặc đình chỉ vụ án, yêu cầu CQĐT khắc phục

và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức liên quan xử lý hành vi vi phạm pháp luật

- Khi có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa Tại phiên tòa, VKS có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo

là có căn cứ, đúng pháp luật Bản án kết tội của Tòa án chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội

Thực tiễn hoạt động điều tra và xét xử ở nước ta mấy chục năm qua cho thấy, CQĐT và Tòa án cũng thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự Thậm chí số vụ án do CQĐT thực hiện việc khởi tố vụ án chiếm hơn 95% số vụ án được khởi tố Số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ

Trang 29

lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố CQĐT có quyền bắt người phạm tội, điều tra thu thập chứng cứ nhưng đây thực chất chỉ là những hoạt động

hỗ trợ phục vụ cho công tác công tố Trên cơ sở kết quả điều tra, lời luận tội của Kiểm sát viên và kết quả tranh tụng dân chủ công khai tại phiên tòa, Tòa

án áp dụng pháp luật để quy trách nhiệm đối với bị cáo Bản án kết tội của Tòa án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội

Từ những nội dung được trình bày trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự như sau:

Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội và tội phạm, không làm oan người vô tội [38]

1.2.2 Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố

- Phạm vi thực hành quyền công tố

Khi xem xét vấn đề này cần phải phân biệt cụ thể, đầy đủ chính xác giữa phạm vi của quyền công tố với phạm vi thực hành quyền công tố Xét về mặt nguyên tắc thì chúng đồng nhất về phạm vi, tức là từ khi có tội phạm xảy

ra cho đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý theo pháp luật Do đó, về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động Song, để có cơ sở phát động công tố quyền phải có một giai đoạn để thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra như tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người biết việc, lấy lời khai người bị tạm giữ

Trang 30

Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thì khởi tố vụ

án hình sự chỉ cần có dấu hiệu của tội phạm (Điều 100 BLTTHS) chứ không nhất thiết phải khi tội phạm đã rõ mới được khởi tố Như vậy pháp luật tố tụng hình sự đã cho phép thực hành quyền công tố sớm hơn một bước để tạo điều kiện chủ động và phát hiện có hiệu quả mọi hành vi phạm tội Khởi tố vụ

án khi có dấu hiệu của tội phạm chỉ mang tính dự báo, tạo cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động điều tra do BLTTHS quy định để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không, chống bỏ lọt tội phạm và đấu tranh chống tội phạm kịp thời

Không phải trong mọi trường hợp quyền công tố kéo dài đến khi bản

án có hiệu lực pháp luật mà nó có thể triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Điều đó có nghĩa là không phải mọi vụ án đều được đưa ra xét xử trước Tòa án Bởi vậy, khi quyền công tố bị triệt tiêu thì cũng có nghĩa là không còn việc thực hành quyền công tố Những căn cứ dẫn đến việc triệt tiêu quyền công tố và theo đó dẫn đến chấm dứt việc thực hành quyền công tố là: không có sự việc phạm tội, người thực hiện hành

vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án của Tòa án tuyên có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ

theo quy định của pháp luật

- Nội dung quyền công tố

Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất

cả những quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người

vô tội Theo đó nội dung quyền công tố bao gồm:

Thứ nhất, đó là những hoạt động phát động quyền công tố: khởi tố vụ

án, khởi tố bị can

Trang 31

Khởi tố vụ án: là việc nhà nước chính thức công khai trước toàn xã hội

có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện tội phạm đó

Khởi tố bị can: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu phạm tội và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Khi quyền công tố đã được khởi động, đòi hỏi CQĐT phải tiến hành điều tra để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không, chỉ ra người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm

Thứ hai, trong giai đoạn điều tra vụ án VKS tiếp tục thực hiện quyền

công tố bằng các biện pháp cụ thể sau: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số biện pháp điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy

bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, phạm vi thực hành quyền công

tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi VKS quyết định việc truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra Tòa, hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Thứ ba, những hoạt động thực hành quyền công tố của VKS trong giai

đoạn xét xử vụ án hình sự: Đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của VKS tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm

Trang 32

1.3 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TIÊU BIỂU TRÊN THẾ GIỚI

Mô hình tố tụng hình sự hiểu theo nghĩa chung nhất là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động

tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng hình sự của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án Lịch sử tố tụng hình sự thế giới ghi nhận ba cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự để tìm đến sự thật khách quan của vụ án: Mô hình

tố tụng hình sự thẩm vấn, mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và mô hình tố tụng hình sự pha trộn Chức năng công tố được thể hiện trong mỗi mô hình tố tụng hình sự khác nhau

1.3.1 Mô hình tố tụng tranh tụng

Loại hình tổ chức và thực hành quyền công tố trong tố tụng tranh tụng

ra đời trong các nền dân chủ tư sản Tuy nhiên không phải tất cả các nhà nước

tư sản đều chấp nhận loại hình này Do những yếu tố đặc thù của truyền thống luật án lệ ở Anh và Mỹ, nơi đây là quê hương hình thành loại hình tổ chức và thực hành quyền công tố theo kiểu tố tụng tranh tụng Ngày nay, khi nói đến

tố tụng hình sự tranh tụng thì hệ thống tố tụng hình sự của Anh và Mỹ có thể được coi là điển hình

- Chức năng công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng của Mỹ

Các cơ quan công tố của Mỹ được phân chia theo cấp bang và liên bang Ở cấp bang, do pháp luật ở mỗi bang khác nhau nên nhiệm vụ, quyền hạn của Công tố viên ở từng bang cũng khác nhau Tuy nhiên cơ quan công tố các cấp đều có nhiệm vụ truy tố tội phạm ra trước Tòa án Ở cấp liên bang việc truy tố tội phạm liên bang do Chưởng lý liên bang truy tố Các tội phạm liên bang thường là các tội nghiêm trọng như buôn bán ma túy, giết người, quan chức chính quyền phạm tội hoặc tham nhũng, các tội xâm phạm lợi ích

an ninh quốc gia như phản quốc v.v Các thông tin về chứng cứ đã được

Trang 33

Điều tra viên thu thập sẽ được trình lên Bộ Tư pháp hoặc Chưởng lý liên bang Sau đó, Công tố viên liên bang sẽ quyết định có truy tố vụ việc ra Tòa hay không ở cấp bang, các Công tố viên tiến hành truy tố các tội phạm xâm phạm pháp luật của bang, quyền hạn và trách nhiệm của các Công tố viên địa phương được phân chia theo cấp quận, mỗi bang đều có một Tổng chưởng lý

và viên chức này có toàn quyền truy tố tất cả các tội phạm theo pháp luật bang quy định Nhìn chung, Công tố viên không giám sát quá trình điều tra

mà thường nhận vai trò là luật sư chủ nhà đối với cảnh sát để chỉ dẫn việc tìm kiếm bằng chứng, hướng dẫn thủ tục bắt giam và bảo đảm việc thu thập chứng cứ theo đúng thủ tục Nói chung, trong quá trình điều tra, dù ở cấp bang hay liên bang thì Công tố viên Hoa kỳ đều có quyền lực đáng kể Họ có thể không chấp nhận hồ sơ buộc tội do cảnh sát gửi tới cho đến khi những yêu cầu về chứng cứ của họ được cảnh sát đáp ứng, họ cũng có thể từ chối phê chuẩn lệnh bắt giam của cảnh sát Ngoài ra, Công tố viên còn có thể hủy bỏ hoặc đình chỉ vụ việc khi xét thấy việc điều tra của cảnh sát không đúng thủ tục hoặc chứng cứ yếu, không đủ để buộc tội hoặc có khả năng Tòa án sẽ không chấp nhận các chứng cứ đó Nếu Công tố viên quyết định truy tố vụ việc ra Tòa thì họ có trách nhiệm buộc tội gì, bao nhiêu tội và mức độ nghiêm trọng của tội phạm Quyết định truy tố của Công tố viên có ảnh hưởng quan trọng đối với hình phạt mà kẻ phạm tội có thể bị Tòa án tuyên phạt nếu bị kết tội Công tố viên Hoa Kỳ còn thực thi quyền hạn đáng kể về các vấn đề hình phạt thông qua quyết định buộc tội

Quyền tùy nghi truy tố là quyền đặc biệt của Công tố viên Với tư cách là một nhân viên được bầu hoặc được bổ nhiệm, Công tố viên là người

có quyền lực nhất trong hệ thống tư pháp hình sự Các Công tố viên thực hiện quyền tự quyết không bị ràng buộc, có quyền quyết định ai là người bị truy tố, đưa ra những lời buộc tội nào, khi nào thì bỏ qua lời buộc tội, có thực hiện việc mặc cả thú tội hay không và cần phải tổ chức thực hiện việc truy tố như thế nào Các Công tố viên thực hiện quyền tự quyết khi ra quyết định trong ba

Trang 34

lĩnh vực chủ yếu là: Quyết định đưa ra lời buộc tội, quyết định đình chỉ vụ

án (bãi bỏ lời buộc tội) và mặc cả thú tội

Quyết định việc truy tố dựa trên ba yếu tố: Thứ nhất, truy tố khi có đủ

chứng cứ pháp lý (đủ các yếu tố tối thiểu để phát động truy tố hình sự), theo

đó, một văn phòng công tố có thể tiếp nhận nhiều vụ án để truy tố nhưng xử

lý phần lớn các vụ án đó thông qua thủ tục mặc cả thú tội Những căn cứ để xem xét truy tố bao gồm: - Có đủ chứng cứ liên quan đến việc người bị tình nghi đã phạm tội; - Tính nghiêm trọng của tội phạm; - số lượng án tại Tòa án;

- Sự cần thiết phải duy trì các nguồn lực công tố để giải quyết những vụ án nghiêm trọng hơn; - Tính sẵn sàng (thực tế) của những lựa chọn đối với hình thức truy tố; - Sự có lỗi của bị cáo (đáng khiển trách về mặt đạo đức); - Hồ sơ hình sự của bị cáo (tiền án tiền sự) - Sự mong muốn của bị cáo trong việc hợp

tác tại giai đoạn điều tra hoặc truy tố những người khác Thứ hai, để đẩy

nhanh tiến trình tố tụng đối với các vụ án, giảm sự ùn tắc số lượng án tại các Tòa án, duy trì quyền công tố và giảm các phí tổn từ các nguồn lực của Tòa

án, các Công tố viên bỏ qua những vụ án chứng cứ yếu từ ngay đầu vào và giảm mức độ nghiêm trọng xuống thành tội ít nghiêm trọng nhằm giải quyết

các vụ án thông qua mặc cả thú tội Thứ ba, các Công tố viên chỉ truy tố khi

có đủ khả năng để xét xử, bao gồm cơ sở truy tố, điều tra của cảnh sát và đối chứng của luật sư Các Công tố viên chỉ đệ trình bản buộc tội trong trường hợp có đủ bằng chứng để đảm bảo việc kết án và chỉ sử dụng tối thiểu thủ tục mặc cả thú tội

Trên cơ sở cân nhắc rất nhiều yếu tố bao gồm cả tính nghiêm trọng của tội phạm và sự thuyết phục của chứng cứ, Công tố viên quyết định việc có truy tố người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án hay không Sau khi Công tố viên đã đệ trình bản buộc tội, Công tố viên có thể giảm buộc tội để đổi lại việc bị cáo nhận tội hoặc tiến hành thủ tục không truy tố Thủ tục không truy

tố là một hình thức Công tố viên ra bản tuyên bố nêu rõ rằng vụ án sẽ không được tiếp tục tiến hành tố tụng Những lý do cho việc thực hiện thủ tục này

Trang 35

bao gồm không đủ chứng cứ, chứng cứ không được thừa nhận, không buộc tội được và bản chất của một số tội phạm là không đáng kể

- Chức năng công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng của Anh

Cảnh sát có nhiệm vụ chính trong hoạt động điều tra nhưng do kết quả hoạt động tố tụng phụ thuộc vào giá trị của chứng cứ có được chấp nhận tại Tòa hay không nên mọi hoạt động của cảnh sát phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với cơ quan công tố- cơ quan đảm nhận việc buộc tội trước tòa Cảnh sát phải thực hiện theo yêu cầu của Công tố viên về yêu cầu điều tra nhưng họ có toàn quyền quyết định việc điều tra như thế nào Trước năm 1985, việc quyết định truy tố và thực hành quyền công tố do cảnh sát đảm nhiệm và nhân danh cơ quan cảnh sát Nhằm tách riêng hai hoạt động điều tra và truy tố, Đạo luật về việc truy tố tội phạm đã thiết lập cơ quan công tố với chức năng thực hiện tất

cả các hoạt động công tố thay thế cảnh sát tại Anh và xứ Wales Viện trưởng Viện công tố là người đứng đầu hệ thống cơ quan công tố và các Công tố viên dưới quyền Cơ quan công tố Hoàng gia là một cơ quan thuộc nhánh hành pháp chịu trách nhiệm cho hầu hết các quyết định truy tố trên cơ sở sử dụng tài liệu cung cấp bởi cảnh sát Viện công tố được truy tố một tội phạm với hai điều kiện: yêu cầu về chứng cứ và dựa trên lợi ích hay đòi hỏi của công chúng Yêu cầu về chứng cứ đòi hỏi phải truy tố một tội phạm Yêu cầu này bắt buộc đối với cả cảnh sát khi phát hiện ra một tội phạm Yêu cầu thứ hai là xem xét lợi ích của công chúng Chỉ duy nhất cơ quan công tố có quyền xem xét và thực hiện Tòa án không có thẩm quyền này khi vụ án đã được truy tố

ra Tòa án để đưa ra xét xử Trước khi xét xử, thủ tục tố tụng mang tính hành chính tư pháp cho phép Tòa án có thể đưa ra ý kiến về việc truy tố của Viện công tố, nhưng chỉ mang tính chất khuyến nghị khi xét thấy yếu tố chứng cứ chưa đủ để đưa ra xét xử Còn nếu cơ quan công tố vẫn tiếp tục truy tố, Tòa

án phải đưa vụ án ra xét xử

Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với việc thẩm tra chứng cứ cũng như việc tiến hành tố tụng tại phiên tòa, tiến hành truy tố theo

Trang 36

nhiệm vụ của Công tố viên Tuy nhiên, họ lại không ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuyên phạt của Tòa án và không có nghĩa vụ pháp lý là đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo mà đó là công việc của tòa [39]

1.3.2 Mô hình tố tụng thẩm vấn

Cộng hòa Pháp là một quốc gia điển hình cho các nước theo truyền thống pháp luật lục địa, tố tụng hình sự Pháp mang đặc trưng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn Ở Pháp, Viện Công tố hoạt động theo nguyên tắc tùy nghi, Công tố viên có quyền quyết định truy tố hay không truy tố một tội phạm Công tố viên vừa là người bảo vệ luật pháp, vừa đại diện cho lợi ích của công chúng và đại diện cho lợi ích của cả Chính phủ Công tố viên của Pháp nằm trong một hệ thống tập trung, thống nhất, theo ngạch bậc, chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Công tố viên tham gia hoạt động tố tụng ngay khi có dấu hiệu của tội phạm nhưng dừng lại sau những thao tác đầu tiên với vai trò là người "châm ngòi", khởi động hoạt động tố tụng khi ra quyết định khởi tố hay không khởi tố Những hoạt động tiếp theo hầu hết do Thẩm phán điều tra tiến hành Các Công tố viên được bảo đảm hoạt động độc lập,

đó là quyền tự do luận tội và quyền tự quyết định có truy tố hay không truy tố Ngoài ra, Công tố viên có quyền tự mình quyết định có tiếp tục tiến hành tố tụng với vụ án hay không, mà không cần chuyển sang Tòa án đối với những

vụ án mà hành vi phạm tội không ảnh hưởng lớn đến những giá trị nền tảng của xã hội và nạn nhân muốn được bồi thường hơn là truy tố Công tố viên có những quyền tố tụng độc lập, thậm chí quyết định của Công tố viên có thể trái với mệnh lệnh của cấp trên

Trong quá trình xét xử, Công tố viên có quyền tranh luận, phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, đề nghị mức án đối với bị cáo Bên Công tố có thể tự mình đứng ra theo dõi việc thi hành án hoặc ủy quyền cho một cơ quan khác thực hiện nhiệm vụ này

Đức là một Nhà nước liên bang, mặc dù pháp luật của Đức mô phỏng

từ Pháp nhưng hiện nay hai hệ thống pháp luật này có nhiều khác biệt Theo

Trang 37

lý luận của pháp luật Đức cho rằng cơ quan công tố đại diện cho lợi ích của Nhà nước (Chính phủ) chứ không phải đại diện cho lợi ích của nhân dân như

cơ quan Công tố của Pháp Các Công tố viên ở Đức không có quyền tự do quyết định việc truy tố Vì cho rằng Công tố viên Viện công tố có quyền tùy nghi truy tố nên Viện Công tố phải được đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp

Trách nhiệm thực hành quyền công tố chủ yếu do Viện Công tố các bang tiến hành Điều đó được đánh giá như một cơ cấu để giảm áp lực từ chính quyền liên bang đối với chính quyền bang Viện trưởng Viện Công tố liên bang là một chức danh chính trị không có quyền chỉ đạo hoạt động đối với Viện trưởng Viện Công tố bang - người cũng mang chức danh chính trị Tuy vậy, Bộ trưởng Bộ Tư pháp dù ở cấp liên bang hay bang lại có thể chỉ đạo nghiệp vụ đối với Viện trưởng Viện Công tố Bộ tư pháp là cơ quan giám sát cao nhất của Cơ quan công tố, nhưng Cơ quan công tố lại nằm trong hệ thống Tòa án Viện trưởng Viện công tố liên bang do Tổng thống Đức bổ nhiệm và có trách nhiệm truy tố tất cả những tội phạm Công tố viên tham gia vào quá trình điều tra với tư cách là người chỉ huy, có quyền khởi tố và kết thúc các thủ tục tố tụng ban đầu, có quyền quyết định các biện pháp cưỡng chế cần thiết trong quá trình điều tra như: Khám xét, tịch thu tài sản, theo dõi điện thoại của người bị tình nghi… nhưng các quyết định này phải có lệnh của Thẩm phán trừ những trường hợp khẩn cấp Công tố viên có thể tự tiến hành ngay những biện pháp cưỡng chế, nhưng ngay sau đó phải xin lệnh của Tòa án Trong giai đoạn xét xử, Công tố viên tham gia phiên tòa có quyền công bố cáo trạng, tham gia thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng khác sau khi Tòa đã thẩm vấn, đề nghị mức án đối với bị cáo Sau cùng, Công tố viên có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật

1.3.3 Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam

Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

đề ra yêu cầu:

Trang 38

Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [13] Thể chế hóa tư tưởng này, BLTTHS năm 2003 đã quy định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng của VKS theo hướng phân định rõ chức năng buộc tội của VKS với chức năng xét xử của Tòa án, xác định rõ công tố là chức năng

cơ bản của VKS, thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát của VKS Để nâng cao tính chủ động của VKS và hiệu quả của hoạt động công tố, pháp luật quy định

rõ chức năng thực hành quyền công tố của VKS, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; thay vì thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, VKS chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án)

VKS có vị trí, vai trò đặc biệt trong tố tụng hình sự, không chỉ thực hiện chức năng công tố, truy tố người phạm tội ra tòa, thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa, mà còn được giao thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử

lý kịp thời, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội VKS có vai trò và thẩm quyền rất lớn trong hoạt động điều tra Quan hệ giữa VKS với CQĐT là quan hệ chế ước và phối hợp VKS được giao trách nhiệm phê chuẩn các quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra và chịu trách nhiệm về các trường hợp oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của VKS CQĐT có trách nhiệm hỗ trợ VKS và phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc yêu cầu của VKS để cùng hướng tới mục tiêu cao nhất của chức năng công tố nhà nước là phát hiện và đưa kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử

Trang 39

Chương 2

CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRƯỚC KHI BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH

SỰ NĂM 2003 RA ĐỜI

2.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960

Sau cách mạng tháng Tám thành công, cùng với sự ra đời của hệ thống Tòa án, Viện công tố cũng dần được hình thành trong bộ máy nhà nước cách mạng Việt Nam để đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội nhằm bảo vệ thành quả cách mạng vừa dành được Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33-A quy định mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông biện lý biết Như vậy là chức danh biện lý (Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố) đã được quy định Tiếp theo, trong Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 đã quy định cụ thể "đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ trưởng

Bộ tư pháp sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Tòa án thượng thẩm chỉ định" Ở Tòa thượng thẩm có Công tố viên do Chưởng lý đứng đầu

và các cán bộ làm công tác công tố chuyên trách với các chứng danh như Biện

lý, Phó biện lý họ được quyền làm các nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, thực hiện việc buộc tội trước Tòa, thực hiện giám sát công tác điều tra của Tư pháp cảnh sát và "có quyền yêu cầu Tòa án thi hành mọi phương sách cần thiết để làm rõ sự thật"

Năm 1950, Nhà nước tiến hành cuộc cải cách tư pháp trên cả ba mặt: cải cách về luật pháp, cải cách về bộ máy tư pháp và tố tụng Theo Sắc lệnh

số 85/SL ngày 22/5/1950 Viện công tố có quyền kháng nghị các bản án hay quyết định về dân sự của Tòa án Bên cạnh đó, Thông tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 8/6/1950 của Bộ kinh tế và Bộ tư pháp đã quy định Viện công tố địa phương

Trang 40

phải chịu sự chỉ đạo, điều hành của Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu

và tỉnh về đường lối truy tố chung và cụ thể Năm 1958 cơ quan Công tố lại được cải cách và đổi mới trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I kỳ họp thứ 8 ngày 29/4/1958 và các Nghị định số

256 ngày 1/7/1959, Nghị định số 321 ngày 28/7/1959 theo đó bộ máy Viện công tố trở thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, được tổ chức từ trung ương đến huyện, Viện Công tố trung ương trực thuộc Chính phủ Từ năm 1958 cơ quan Công tố không thuộc sự quản lý của Bộ tư pháp Viện công tố có nhiệm vụ: giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ pháp chế dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân

2.1.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003 ra đời

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960,

hệ thống VKSND được thành lập với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm có VKSNDTC, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước ở địa phương Hiến pháp năm

1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981 kế thừa mô hình tổ chức của hệ thống VKSND năm 1960 và tiếp tục khẳng định vị trí, chức năng của hệ thống VKSND trong việc bảo vệ pháp chế thông qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố

Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức kiểm sát nhân dân năm

1992 thì "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992) Hệ thống VKSND được tổ

Ngày đăng: 25/03/2015, 14:25

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1: Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 6 năm (2007-2012) - Chức năng Công tố của Viện Kiểm sát
Bảng 3.1 Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 6 năm (2007-2012) (Trang 81)
Bảng 3.2: Số liệu thực hành quyền công tố  và kiểm sát điều tra   những vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ và trả hồ sơ điều tra bổ sung - Chức năng Công tố của Viện Kiểm sát
Bảng 3.2 Số liệu thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra những vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ và trả hồ sơ điều tra bổ sung (Trang 85)
Bảng 3.3: Kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm 6 năm (2007-2012) - Chức năng Công tố của Viện Kiểm sát
Bảng 3.3 Kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm 6 năm (2007-2012) (Trang 88)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w