1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự

123 973 6

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 123
Dung lượng 865,06 KB

Nội dung

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự.. tố tụng dân sự”

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS TRẦN ANH TUẤN

Trang 2

Lêi cam ®oan

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngũ Thị Như Hoa

Trang 3

TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA

CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 7

1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài

liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 7 1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của

cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 7 1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ

của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 13 1.2 Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của

cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 15 1.3 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp

tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam 25 1.4 Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới 36 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 41

Trang 4

Chương 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG

CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,

TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 42

2.1 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong

việc cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương

sự, Toà án, Viện kiểm sát 42 2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ việc dân sự 43 2.1.2 Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 55 2.2 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong

việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn theo yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát 58 2.3 Trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ 65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 74

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH

NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN VÀ KIẾN NGHỊ 76

3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 76 3.2 Một số kiến nghị về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự 100

Trang 5

3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp

tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 101

3.2.2 Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 106

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 112

KẾT LUẬN CHUNG 113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114

Trang 6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự BKH&CN : Bộ Khoa học và công nghệ

TTDS : Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

UBTVQH : Ủy ban thường vụ quốc hội UNDP : Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc

VVDS : Vụ việc dân sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Trang 7

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội Tuy ở những mức độ khác nhau nhưng pháp luật các nước trên thế giới đều công nhận và bảo hộ các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nước phải thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể Một trong số đó là cơ chế về tố tụng

Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập, một tiến trình không thể đảo ngược trên con đường phát triển đất nước Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới, tham gia vào các công ước quốc tế, ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương với các nước, thu hút đầu tư nước ngoài đã làm cho các giao lưu dân sự, thương mại phát triển một cách mạnh mẽ và đa dạng

Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, quan

hệ thương mại đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh nó Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì việc hoàn thiện pháp luật tố tụng cũng là một nhu cầu rất cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong trường hợp có tranh chấp hoặc bị xâm phạm Một cơ chế tố tụng có hiệu quả có vai trò rất quan trọng để các chủ thể yên tâm và, hơn nữa, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào các giao lưu dân sự, thương mại

Trang 8

trên thị trường góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, xã hội phát triển Chính

vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã ra đời với nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức khắc phục kịp thời những hạn chế tồn tại của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đáp ứng tích cực yêu cầu của quá trình hội nhập Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với nội dung phong phú quy định khá cụ thể những vấn đề liên quan đến hoạt động tư pháp của nước ta hiện nay, trong đó vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự được quan tâm sửa đổi khá nhiều, với nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ của các thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng khác được khách quan và đúng đắn hơn, góp phần giải quyết các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, triệt để, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với pháp luật Một trong số những vấn đề liên quan đến chứng cứ đã được sửa đổi, bổ sung là trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức

có thẩm quyền trong tố tụng dân sự Đây được coi là một nội dung có nhiều điểm mới tiến bộ so với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây và được quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự hiện hành Trên thực tế, đôi khi chứng cứ có thể không do các đương

sự lưu giữ mà do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý Việc quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức giúp cho đương sự có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, đồng thời góp phần giúp cho Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, chính xác và nhanh chóng Như vậy, nguyên tắc này ra đời đã thể hiện được vai trò to lớn của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa

án, tuy nhiên, thực tế thi hành vẫn còn một số vướng mắc nhất định Chính vì vậy, việc nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức là rất cần thiết Với những lý do trên, em đã chọn đề

tài “Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ

Trang 9

quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự” làm luận văn tốt nghiệp

về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức Ngoài ra việc nghiên cứu cũng nhằm chỉ ra một số vướng mắc, khó khăn trên thực tế khi thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế

- Phạm vi nghiên cứu:

Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tại một số Tòa án địa phương Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng được tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định và

đề xuất kiến nghị Ngoài ra, Luận văn có mở rộng nghiên cứu quy định của pháp luật một số nước về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ nhằm mục đích so sánh, tham khảo mà không nghiên cứu sâu quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng

Trang 10

dân sự của Tòa án nước ngoài Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:

- Nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa và cơ sở hình thành nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

- Nghiên cứu lược sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức

có thẩm quyền trong tố tụng dân sự và so sánh, tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự Để làm rõ vấn đề này, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn còn nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung để làm rõ trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Luận văn này, tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung có liên quan đến việc quản lý, lưu giữ chứng cứ, tài liệu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều chỉnh một số quan hệ xã hội mang tính chất phổ biến, thường gặp trong thực tiễn tố tụng tại Toà án

- Nghiên cứu tình hình thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế, từ đó rút ra những vướng mắc, khó khăn và đề xuất giải pháp khắc phục

3 Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tố tụng dân

sự như Công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước của Toà án nhân dân tối cao năm 1996 nghiên cứu về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật

Trang 11

tố tụng dân sự”; Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của trường Đại học Luật Hà Nội 2001 nghiên cứu về “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”… Bên cạnh những công trình đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chứng

cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự, như Luận văn “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự” của Thạc sỹ Vũ Trọng Hiếu năm 1997; Luận văn “Hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam” của thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng năm 2002; Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Hằng năm 2007 nghiên cứu về “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Có thể nói đây là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ

4 Phương pháp nghiên cứu

- Dựa trên quan điểm, quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tượng, xem xét vấn đề một cách một cách toàn diện

- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề dưới góc độ pháp luật như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh

5 Đóng góp của đề tài

Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự - có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ, cụ thể là:

Thứ nhất: Lần đầu tiên nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

Trang 12

được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn từ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở hình thành và lược sử phát triển của nguyên tắc, làm bật bản chất và trọng tâm của vấn đề nghiên cứu Luận văn cũng đã tiếp cận và làm rõ được trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lưu giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình

Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài đã tìm ra được những tồn tại, bất cập

trong công tác xây dựng và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như tăng cường hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế

6 Kết cấu của luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm cung

cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành

Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài

liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và kiến nghị

Trang 13

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,

TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,

TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN

1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ dùng để chỉ

“những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc” [48, tr.1217] Theo đó, nguyên tắc của một ngành luật cũng được xây

dựng dựa trên nền tảng này Pháp luật của các nhà nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều được thiết lập dựa trên những nguyên tắc nhất định, đó là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung, chất lượng và hiệu quả của pháp luật, cũng như quá trình xây dựng, thực hiện

và bảo vệ pháp luật

Việc xây dựng các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn tố tụng dân sự tại Toà án cũng phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất định Đó là những quy phạm chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn

bộ quy trình TTDS Các quy phạm này là một bộ phận cấu thành của pháp luật TTDS, có tính ổn định, bền vững, ít thay đổi hơn so với các quy phạm pháp luật TTDS khác Tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính chất tương đối

và có thể thay đổi cho phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế - xã hội

Vấn đề chứng minh và chứng cứ là những vấn đề có tính quan trọng

Trang 14

hàng đầu trong việc xác định sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự Do vậy, pháp luật ngoài việc phải định ra các nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh (mối quan hệ giữa đương sự và Toà án) cũng cần phải xây dựng bên cạnh đó nguyên tắc về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (mối quan hệ phối hợp giữa Toà án và các chủ thể khác) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng dân sự của Toà án được tiến hành thuận lợi

Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản trong TTDS đã được ghi nhận tại Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự

2004 và được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 Đây là một nguyên tắc mới được đưa vào trong pháp luật tố tụng dân sự, do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm làm rõ bản chất của nguyên tắc này và mối liên hệ của nó với nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết

Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “trách

nhiệm” được hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình” [48, tr.1678] Dưới góc nhìn lý luận thì Toà án chỉ có thể giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự khi có đầy đủ chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện có liên quan Do vậy, chứng cứ có một vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự và việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ của Toà án là rất cần thiết

Theo lịch sử tố tụng dân sự từ trước đến nay, nghĩa vụ cung cấp chứng

cứ và chứng minh trước hết luôn thuộc về đương sự Bởi họ là người đưa ra yêu cầu hoặc là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp, họ là người trong cuộc, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, biết rõ các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu Bên

Trang 15

cạnh đó, khi khởi kiện cũng như khi đưa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đương sự cũng là người ở thế chủ động, vì vậy họ phải đưa ra chứng cứ và những lý lẽ

để chứng minh, bảo vệ cho quyền lợi của mình Đương sự phản đối yêu cầu cũng phải đưa ra được chứng cứ, lý lẽ chứng minh thì sự phản đối của họ mới thuyết phục được Toà án Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ của vụ việc dân

sự có thể do các đương sự lưu giữ, nhưng cũng có thể do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ Xét thực tiễn ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc phổ cập các thông tin, đặc biệt là các tài liệu, giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu nhà ở, quyền tài sản, quyền sử dụng đất… vẫn còn hạn chế; các tài liệu, giấy tờ, văn bản này hiện đang do một số cơ quan nhà nước có trách nhiệm bảo quản, quản lý và vì nhiều lý do khác nhau các thông tin này vẫn chưa được số hoá để công khai cho mọi tầng lớp nhân dân Do vậy, đương sự sẽ không thực hiện được việc bảo vệ quyền lợi của mình và Toà án sẽ không thể giải quyết vụ án nếu những cá nhân, cơ quan, tổ chức này không hợp tác hoặc chậm trễ trong việc cung cấp những tài liệu, giấy tờ, văn bản có liên quan đến vụ việc dân sự

Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, một mặt đề cao trách nhiệm chứng minh của đương sự với vai trò hỗ trợ của Toà án nhằm phát huy hơn nữa vai trò tích cực, chủ động của đương sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác ràng buộc trách nhiệm của các

cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc tạo điều kiện thuận lợi

để đương sự và Toà án có thể tiếp cận tài liệu, chứng cứ một cách công khai, bình đẳng và minh bạch

Việc nghiên cứu cho thấy trong tố tụng dân sự, trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được quy định

là một nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự, trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chưa được quy

Trang 16

định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Điều 65

Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định chung là:

Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà

án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ

vụ án…[19]

Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định một cách chung chung về quyền yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án mà không quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi không thực hiện yêu cầu này

Để có thể đưa ra khái niệm đầy đủ về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, trước hết cần làm rõ nội hàm chủ yếu, cơ bản của nguyên tắc này Có thể nhận thấy hai vấn đề cần phải đặt ra là trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu với ai và trách nhiệm như thế nào

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu thấy chứng cứ mà đương

sự giao nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết, Toà án có thể giải thích cho đương

sự biết về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu Đương sự sẽ là chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu cho mình Bởi trong tố tụng dân sự, đương sự

là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ Những chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự phải được đương sự cung cấp cho Toà án để làm căn cứ chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đương sự Vì

Trang 17

vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu cho đương sự để đương sự thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình

Khi biết chứng cứ (các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, các vật chứng) đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đương sự thì đương sự

có quyền yêu cầu Toà án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ Với tư cách là

cơ quan bảo vệ công lý, Toà án ra quyết định yêu cầu các chủ thể đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án để làm cơ sở cho việc giải quyết

vụ việc dân sự Toà án có thể ấn định một thời hạn hợp lý để cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án

Bên cạnh quyền yêu cầu của đương sự và Toà án thì Viện kiểm sát cũng

có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ, tài liệu Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có hai chức năng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự và kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu cần được trao cho Viện kiểm sát để chủ thể này thực hiện chức năng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm Theo đó, để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng

Quyền yêu cầu này được thực hiện trước hết là trong trường hợp Viện kiểm sát thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Ngoài ra, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát còn được thực hiện ngay cả khi đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhằm bảo

Trang 18

vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Như vậy, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát có thể thực hiện vào thời điểm xem xét việc kháng nghị, hoặc cũng có thể thực hiện sau khi đã thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm

Việc cung cấp chứng cứ, tài liệu được hiểu là việc mà cá nhân, cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền buộc phải thực hiện khi được yêu cầu, nó được coi là một nghĩa vụ tố tụng dân sự đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu không thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải gánh chịu một hậu quả Trách nhiệm đó thể hiện ở việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đương sự

để họ có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu cho Toà án theo đúng thời hạn luật định Đối với Toà án, Viện kiểm sát - là các cơ quan tiến hành tố tụng thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu trong thời hạn do các chủ thể này ấn định

để bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này Pháp luật cũng cần phải đặt ra chế tài đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ, tài liệu không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát để bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể này Tùy theo chủ thể vi phạm hoặc mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm có thể bị xử lý theo chế tài kỷ luật, hành chính hoặc hình sự

Như vậy, có thể rút ra kết luận là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ, quản lý chứng

cứ, tài liệu trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan đến

Trang 19

vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, Toà án hoặc Viện kiểm sát đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể này trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình

1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Trước hết, có thể nhận thấy rằng việc quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một nguyên tắc

cơ bản trong TTDS, đã thể hiện sự quan tâm của nhà lập pháp Việt Nam tới trách nhiệm phối hợp giữa các công dân, cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án, Viện kiểm sát được thuận lợi, giúp cho công dân nhận thức được nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình mà thực hiện theo đúng quy định của pháp luật

Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền còn góp phần tạo cơ sở pháp lý cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh Trong TTDS, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là đương sự Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ không phải bao giờ cũng do đương sự nắm giữ, quản lý mà có thể

có trường hợp chứng cứ của vụ việc đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ Khi đó, để thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình Theo đó, khi chứng cứ do cá nhân, cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền lưu giữ, quản lý thì chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ là đương sự, và chỉ khi đương sự không thể tự mình thu thập được thì Toà án mới tiến hành thu thập chứng cứ Như vậy, quy định này

đã mang lại ý nghĩa to lớn trong việc giúp đương sự thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động,

Trang 20

tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, tạo điều kiện để họ có thể bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Ngoài ý nghĩa với đương sự, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có ý nghĩa trong việc giúp Toà án

có đầy đủ cơ sở để giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự Trong TTDS chứng cứ có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, là phương tiện quan trọng để Toà án nhận biết được sự thật của vụ việc, giải quyết được vụ việc dân sự một cách công minh, có căn

cứ và hợp pháp Khi chứng cứ được cung cấp cho Toà án một cách trung thực

và đầy đủ, chắc hẳn việc giải quyết vụ án sẽ đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều Vì vậy, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ, quản lý chứng cứ thì chứng cứ đó phải được cung cấp cho Toà án cho dù họ không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ pháp luật đang có tranh chấp Việc quy định trách nhiệm này sẽ giúp cho Toà án có đầy đủ chứng cứ,

có cơ sở để làm rõ sự thật của vụ việc, và đưa ra phán quyết cuối cùng một cách chính xác Đồng thời, nguyên tắc này cũng quy định việc cung cấp chứng cứ phải được thực hiện kịp thời, trong thời hạn luật định Điều này sẽ giúp Toà án giải quyết được nhanh chóng vụ việc dân sự, tránh được trường hợp vi phạm thời hạn tố tụng hoặc dẫn đến án tồn đọng do sự chậm trễ cung cấp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức

Bên cạnh đó, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa hỗ trợ cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng của mình theo quy định của pháp luật TTDS Nguyên tắc này đã ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát bên cạnh quyền yêu cầu của Toà án Theo đó, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho mình để xem xét việc có kháng nghị hay không, hoặc khi đã ra quyết định

Trang 21

kháng nghị, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quan điểm kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự Như vậy, tài liệu, chứng cứ được cung cấp có thể là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định có kháng nghị hay không, hoặc nhờ có tài liệu, chứng cứ đó, quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát mới được coi là có căn

cứ, là hợp pháp, khi đó mới thuyết phục được Toà án chấp nhận kháng nghị Với vai trò đó của chứng cứ, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã góp phần quan trọng trong việc giúp Viện kiểm sát thực hiện được thẩm quyền kháng nghị của mình

Cuối cùng, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa trong việc đề cao trách nhiệm của

cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự Việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp của cá nhân, cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền sẽ đề cao được trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự

Như vậy, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn trước hết đối với đương sự, giúp đương sự thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng

cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, bên cạnh đó, giúp Toà án và Viện kiểm sát có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách đúng đắn, kịp thời, đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết vụ việc dân sự

1.2 CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU,

CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN

Trong TTDS, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự,

Trang 22

pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của

cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn chứng cứ, tài liệu do mình quản lý, lưu giữ khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, hoặc Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó Nguyên tắc này được hình thành và phát triển là dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp

Theo đánh giá tình hình công tác tư pháp trong những năm qua tại Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó là vì pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ và còn nhiều sơ hở

Để khắc phục những hạn chế nói trên, Đảng ta đã đưa ra một số quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác tư pháp trong thời gian tới Liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật về tư pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW

đã đưa ra nhiệm vụ khẩn trương ban hành Bộ luật tố tụng dân sự và một số luật, pháp lệnh khác làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được ban hành, trong đó có bổ sung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng

cứ, tài liệu của cá nhân, cơ quan, tổ chức

Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

Trang 23

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có đưa ra một số nhiệm vụ cải cách

tư pháp có liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ

từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng

cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [2]

Như vậy, sự ra đời và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự bước đầu đã đáp ứng được nhiệm vụ mà Nghị quyết 49 đề ra về hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, cải cách tư pháp

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về cải cách tư pháp của Bộ chính trị đều có đưa ra một số quan điểm chỉ đạo về việc cải cách tư pháp, trong đó quan điểm cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được đưa lên hàng đầu Bên cạnh đó, Điều 2 Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 cũng

có quy định: “…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [17]

Như vậy, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, quyền lực

Trang 24

nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp

và tư pháp Đó là sự phân công lao động hợp lý giữa các hệ thống cơ quan nhà nước và giữa các cơ quan trong từng hệ thống, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa ba quyền cũng như trong nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng của từng cơ quan, sự phối hợp đồng bộ của

cả bộ máy nhà nước thực hiện quyền lực tập trung của nhà nước Đối với hoạt động tư pháp, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan lập pháp và hành pháp Đặc biệt, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 đều đưa ra quan điểm chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp

Như vậy, để hoạt động tư pháp đạt hiệu quả tốt nhất thì cần có sự tham gia phối hợp của nhân dân, của toàn xã hội, trong đó có các cơ quan nhà nước

và các tổ chức Sự phối hợp này có thể được thực hiện trong nhiều khâu, nhiều hoạt động cụ thể của hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động xét xử

Để thực hiện tốt hoạt động xét xử, đưa ra được những bản án, quyết định một cách công minh, đúng pháp luật, thì công tác thu thập chứng cứ đóng một vai trò quan trọng Trong tố tụng dân sự, chứng cứ trước hết sẽ do đương sự cung cấp Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đương sự không lưu giữ chứng cứ

mà do cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lưu giữ, quản lý thì rất cần sự

hỗ trợ, phối hợp từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Sự hỗ trợ, phối hợp trong trường hợp này thể hiện ở việc cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn những chứng cứ được yêu cầu Điều đó sẽ giúp cho hoạt động xét xử

Trang 25

của Toà án được thực hiện một cách đúng đắn và nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thể hiện trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ do mình quản lý, lưu giữ khi có yêu cầu Việc quy định nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đã nêu ở trên

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân

Điều 51 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 có quy định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” [17]

Như vậy, các quyền của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử

lý theo pháp luật Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có thể được Nhà nước thực hiện bằng nhiều cách thức, trong đó, thông qua hoạt động tư pháp được coi là một công cụ hữu hiệu Khi quyền và lợi ích của các bên bị tranh chấp hoặc xâm phạm thì có thể khởi kiện ra Toà án, khi đó, Toà

án với tư cách là cơ quan xét xử duy nhất sẽ xem xét, giải quyết vụ việc và đưa ra phán quyết cuối cùng, xác định ai đúng ai sai Như vậy, Nhà nước có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động

tư pháp Ngược lại, công dân cũng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với hoạt động tư pháp của Nhà nước để hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất Chẳng hạn, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cá nhân cung cấp chứng

Trang 26

cứ, tài liệu mà các chủ này đang lưu giữ, quản lý để phục vụ cho hoạt động xét xử thì những chủ thể này phải có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ với Toà án, thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền Sự phối hợp, hợp tác trong trường hợp này sẽ góp phần làm cho hoạt động tư pháp được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác Trách nhiệm phối hợp, hợp tác trong trường hợp này cũng được coi là nghĩa vụ của công dân đối với các hoạt động của Nhà nước

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tiếp cận công lý của đương sự, tạo cơ sở pháp lý cho đương sự có thể thực hiện được việc bảo vệ quyền lợi của mình

Theo kết quả nghiên cứu thì tiếp cận công lý là khả năng của công dân có thể tìm kiếm và đạt được một sự đền bù hoặc khắc phục cho những bất công hoặc thiệt hại do cá nhân hay chủ thể khác gây ra, thông qua các cơ chế tư pháp chính thống hoặc không chính thống phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người [8, tr.188-194]

Như vậy quyền tiếp cận công lý là khả năng chủ thể yêu cầu nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm

Việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân luôn gắn với vấn đề thực thi công lý của Toà án Khi có tranh chấp không tự hòa giải được, người dân phải tìm đến Toà án để phân giải đúng sai, khi có vi phạm thì Toà án là nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở công lý Quá trình yêu cầu Toà

án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của công dân Để đảm bảo việc thực thi công lý của Toà án thì chứng cứ đóng một vai trò quan trọng, gần như mang tính quyết định Bởi chỉ khi nào chứng cứ được cung cấp

Trang 27

một cách đầy đủ thì Toà án mới có cơ sở để tìm ra sự thật khách quan của các

vụ việc, từ đó mới đưa ra được phán quyết đúng đắn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Vì vậy, trong trường hợp chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đang do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, thì những cá nhân, cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm phải cung cấp chứng cứ cho đương sự, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, mà cũng chính là quá trình thực thi công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Để đương sự thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình và Toà án

có thể thu thập chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải quyết vụ việc dân sự, pháp luật tố tụng dân sự đã thiết lập nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của

cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm và hỗ trợ thực hiện nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh

Trong TTDS, khi đưa ra yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của người khác, đương sự có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để làm rõ căn

cứ yêu cầu của mình hay căn cứ bác bỏ yêu cầu của người khác Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự lại không do đương sự nắm giữ, quản lý Khi đó, muốn thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình Trên cơ sở đó, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời một phần là để đảm bảo thực hiện được nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự Khi chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý thì người có quyền yêu cầu cung cấp trước hết là đương sự Đương sự có quyền yêu cầu cá nhân,

Trang 28

cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình để thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ khi yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự Tuy nhiên, tùy vào đặc thù từng loại chứng cứ mà có thể đương sự sẽ không

dễ dàng thu thập được chứng cứ Khi đó, Toà án với tư cách là cơ quan công

lý giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có trách nhiệm hướng dẫn các bên cung cấp chứng cứ, có nghĩa vụ xác minh chứng cứ các bên đưa ra và hỗ trợ các bên đương sự khi họ không thể tự mình thu thập được và có yêu cầu Khi đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết thì có thể yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ, và Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án, nhằm hỗ trợ đương sự khi đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ

Sở dĩ Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng

cứ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức là bởi vì Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử, thiết lập lại các quan hệ nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Ngoài ra, có những trường hợp các cơ quan công quyền, các tổ chức xã hội trì trệ trong việc cung cấp thông tin cho đương sự dẫn đến bản thân đương sự không thể thực hiện được việc thu thập chứng cứ nên cần phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Toà án

Như vậy, có thể coi nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời đã cụ thể hóa hơn vai trò của Toà án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ và góp phần đảm bảo giúp đương sự thực hiện được quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự

Trang 29

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được ghi nhận xuất phát từ cơ sở chứng

cứ, tài liệu do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự

Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đương sự gắn liền với những sự kiện, hành vi pháp lý nhất định Do đó, khi có tranh chấp hoặc yêu cầu dân sự và các đương sự yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì việc đưa ra những chứng cứ chứng minh sự tồn tại của sự kiện hay hành vi pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự đang có tranh chấp mang ý nghĩa quyết định Những chứng cứ đó sẽ chứa đựng những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự và có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh trong vụ việc dân sự một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Cho dù chứng cứ

đó đang do đương sự quản lý hay do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý thì nó cũng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự và có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, có thể gián tiếp hoặc trực tiếp giúp Toà án đưa ra được phán quyết cuối cùng Vì vậy, nếu chứng cứ

đó đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý thì cần phải được cung cấp cho Toà án để Toà án có cơ sở giải quyết vụ việc dân sự

- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được hình thành từ yêu cầu của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự nhằm khắc phục tình trạng án tồn đọng, kéo dài, kém hiệu quả trong hoạt động giải quyết án kiện của Toà án

Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có được thực hiện hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức pháp luật của các chủ thể Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể vì một

số lý do chủ quan mà không có sự hợp tác, không cung cấp chứng cứ khi có

Trang 30

yêu cầu Chẳng hạn như do có sai sót trong công tác chuyên môn nên các cơ quan, tổ chức cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ Vì các chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức quản lý nên chứng cứ đó chắc chắn có liên quan đến hoạt động chuyên môn của các cơ quan, tổ chức Khi đã có sự sai sót trong hoạt động chuyên môn, để tránh phải chịu trách nhiệm có thể họ sẽ không cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu để che đậy những sai sót đó Mặt khác nếu việc quản lý, lưu trữ tài liệu của cơ quan, tổ chức đó không được thực hiện một cách khoa học, không có tính hệ thống, khi đó việc lật lại hồ sơ, tài liệu sẽ khó khăn và mất nhiều thời gian, nên cơ quan, tổ chức sẽ trì hoãn hoặc từ chối việc cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu

Ngoài ra, việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu cũng có thể xuất phát

từ ý thức pháp luật của những cá nhân có trách nhiệm quản lý, lưu giữ Có thể họ cho rằng họ không liên quan đến tranh chấp giữa các đương sự, vì vậy, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ không phải là trách nhiệm của họ Khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức thiếu sự phối hợp, hợp tác với Toà án trong việc cung cấp chứng cứ có thể dẫn đến hậu quả án tồn đọng, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc dân sự, làm giảm hiệu quả hoạt động giải quyết án kiện của Toà án Để hạn chế việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp tài liệu, chứng cứ vì những lý do chủ quan đó, cần thiết phải xây dựng trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự để có cơ chế pháp lý ràng buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức, buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện theo yêu cầu đó

Như vậy, từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tế trên, cho thấy cần thiết và phải quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành một nguyên tắc cơ bản của tố

Trang 31

tụng dân sự để có cơ sở pháp lý ràng buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ thực hiện việc cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu, tạo điều kiện giúp Toà án giải quyết nhanh chóng, đúng đắn

vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự

1.3 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYÊN TẮC

TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN,

CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và có thể chia thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn từ năm 1989 trở về trước

Trước năm 1945, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên pháp luật cũng chưa phát triển Trong các văn bản pháp luật được ban hành chưa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng Các quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự thường được quy định trong các văn bản về tố tụng hình sự

Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bước đầu

đã có sự phát triển Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành được hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như Bộ Bắc Kỳ pháp viện biên chế năm 1921,

Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921, Bộ Trung Kỳ pháp viện biên chế 1935, Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Trung kỳ năm 1935 v.v

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Từ ngày đầu thành lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới

Trang 32

Trong đó, có nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự như Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các Toà án; Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đương sự Sắc lệnh

số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng…

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn bị đặt dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho tới năm 1975 Thời gian này chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới như Luật số I/62 ngày 8/1/1962 về quy chế luật sư và tổ chức luật sư đoàn; Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng ngày 20/12/1972 Nhìn chung các quy định pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền Sài Gòn khá cụ thể, đã

có những tiến bộ so với pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền phong kiến Việt Nam trước đó

Ở miền Bắc, từ những năm đầu hòa bình lập lại Nhà nước ta đã ban hành một loạt những văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới như Thông tư số 03/VHC ngày 2/4/1955 của Bộ tài chính và Bộ tư pháp sửa đổi tạm thời lệ phí về việc hộ; Nghị định số 87/NĐ-LB ngày 16/8/1955 của Bộ lao động và

Bộ tư pháp về hòa giải xích mích giữa chủ và người làm công, Luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 1960, Thông tư

số 614/DS1 ngày 24/4/1963 hướng dẫn một số thủ tục tố tụng, Thông tư số 594/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp

về thừa kế…v.v

Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1989 trở về trước Nhà nước ta đã ban hành được một số văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, quy định được tương đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên, những vấn

đề này còn được quy định một cách tản mạn, chưa thống nhất, chủ yếu được quy định trong các thông tư do Toà án nhân dân tối cao ban hành nên hiệu lực

Trang 33

chưa cao Rải rác trong một số văn bản trên có một số quy định về nguyên tắc mang tính cơ bản của thủ tục tố tụng dân sự như quyền độc lập của Toà án nhân dân khi xét xử, Toà án nhân dân xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử phải công khai… nhưng nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì vẫn chưa được quy định Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật cụ thể như một số thông tư, công văn trong thời kỳ này cũng đã có những quy định liên quan đến trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức

Tại mục II Thông tư số 06-TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn việc điều tra trong tố tụng dân sự có quy định:

Toà án nhân dân xử về mặt dân sự có thể sử dụng những kết quả điều tra trong hồ sơ của vụ án hình sự để xử lý về mặt dân sự…, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về mặt hình sự có thể chuyển cho Toà án nhân dân có nhiệm vụ xử lý

về mặt dân sự hồ sơ hoặc những tài liệu cần thiết cho việc xử lý về mặt dân sự Ngược lại nếu xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân có nhiệm vụ xử lý về mặt dân sự có thể tự mình yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về mặt hình sự chuyển cho mình hồ sơ hoặc những tài liệu nói trên… [33, tr.60]

Cũng tại Thông tư này, mục III về phương pháp điều tra có quy định:

“Toà án nhân dân có thể yêu cầu các Ủy ban hành chính xã, khu phố, cơ quan,

xí nghiệp, hợp tác xã đưa cho Toà án xem xét và trích sao cho Toà án những

sổ sách về kế toán, bản đồ về ruộng đất, nhà cửa, v.v… có liên quan đến việc kiện…” [33, tr.62]

Tại mục I Thông tư số 03-NCPL ngày 3/3/1966 của Toà án nhân dân tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn có quy định: “… Mức lương hoặc thu nhập của mỗi bên phải được cơ quan hoặc tổ chức hữu quan chứng nhận để có căn cứ chính xác giải quyết vấn đề phí tổn nuôi con” [33, tr.68]

Trang 34

Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn từ 1989 trở về trước, các văn bản về tố tụng dân sự đã ra đời, tuy nhiên, còn tản mạn, chưa có tính thống nhất Trong những văn bản này cũng đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan khác trong việc cung cấp chứng cứ để đảm bảo cho quá trình giải quyết án dân sự Tuy nhiên, những quy định này còn chưa mang tính khái quát, nhưng đây cũng có thể coi là cơ sở bắt nguồn cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức sau này

Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004

Năm 1989, để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử và thi hành án dân

sự Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự Sau Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Pháp lệnh thi hành án dân sự, nhiều văn bản pháp luật khác cũng được ban hành như Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996…v.v

Trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 đã có nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực cao được ban hành quy định về tố tụng dân sự Đây có thể coi

là giai đoạn khởi đầu cho quá trình hình thành hệ thống văn bản pháp luật thống nhất về tố tụng dân sự Các văn bản pháp luật thời kỳ này đã quy định được khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên vẫn còn khá tản mạn như các văn bản pháp luật của thời kỳ trước Đặc biệt, với sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đã làm cho các quy định về tố tụng dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung, chồng chéo và mâu thuẫn dẫn đến việc khó khăn, lúng túng khi thực hiện Tuy vậy, điều đáng ghi nhận trong thời kỳ này là

Trang 35

trong ba văn bản chính quy định về thủ tục tố tụng đã có những quy định chung mang tính nguyên tắc, nền tảng cho quá trình tố tụng dân sự Một trong những quy định được ghi nhận đó là quy định về việc cung cấp, thu thập chứng cứ

Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 có quy

định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác” [11] Như vậy, trong giai đoạn khởi đầu này, pháp luật tố tụng dân sự

cũng đã quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trước hết thuộc về đương sự Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, Toà án vẫn có thể tiến hành thu thập chứng cứ Quy định này được hiểu như là một quyền hạn của Toà án, khi xét thấy vụ án có tình tiết chưa rõ ràng, họ có thể áp dụng các biện pháp thu thập thêm chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác Những biện pháp này được quy định cụ thể tại Điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989:

Điều 38 Việc điều tra trước khi hoà giải, xét xử

1- Để chuẩn bị cho việc hoà giải, xét xử, tuỳ trường hợp, Toà

án tiến hành những việc sau đây:

a) Lấy lời khai của các đương sự, người làm chứng về những vấn đề cần thiết;

b) Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;

Trang 36

trưng cầu giám định hoặc điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án [11]

Điểm b khoản 1 Điều này có quy định một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ

án Đây có thể coi là tiền thân, là cơ sở hình thành cho nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành Tuy vậy, điểm b khoản 1 Điều này mới chỉ quy định quyền hạn của Toà án trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp bằng chứng mà chưa quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân như thế nào khi có yêu cầu của Toà án

Tiếp theo đó, Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

năm 1994 cũng quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ: “Khi cần thiết, Toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác” [45] Quy định này cũng được cụ thể hóa tại

Điều 35 Pháp lệnh này:

…Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:

a) Yêu cầu đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết;

b) Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;

c) Yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết [45]

Theo quy định này, một trong những biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án Tuy nhiên, quy định này vẫn mắc phải hạn chế như đối với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các

vụ án dân sự trước đó, đó là không quy định trách nhiệm của cá nhân, cơ

Trang 37

quan, tổ chức khi có yêu cầu của Toà án, không quy định trách nhiệm của những chủ thể này khi không thực hiện yêu cầu cung cấp bằng chứng cho Toà

Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật về tố tụng dân sự đã có sự ghi nhận về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ trong quá trình tố tụng Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giai đoạn này mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án khi xét thấy cần thiết, mà không cho phép đương sự chủ động yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ cho mình Như vậy, có thể làm hạn chế khả năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự Mặt khác, quy định ở giai đoạn này còn mang tính hình thức, bởi nó mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án, mà chưa quy định về trách nhiệm thực hiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 ra đời, pháp luật mới quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án Và đây có thể coi là mốc khởi đầu cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

Trang 38

Giai đoạn từ năm 2005 trở đi

Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5 Sự ra đời của

bộ luật được đánh giá là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển pháp luật

So với các pháp lệnh về thủ tục tố tụng trước đó, nhiều quy định trong thủ tục tố tụng dân sự cũng được quy định rõ hơn, cụ thể hơn trong phần các nguyên tắc Như nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền quy định tại Điều 7 Nguyên tắc này là sự kế

thừa quy định của pháp luật trong ba pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, các vụ án kinh tế và các tranh chấp lao động trước đó, có sự sửa đổi,

bổ sung nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự

Theo đó, Điều 7 BLTTDS 2004 có quy định:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà

án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ [20]

Như vậy, theo quy định này, chủ thể có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là đương sự và Toà án

Trang 39

Đây là điểm mới của Bộ luật trong khi ba Pháp lệnh trước chỉ quy định quyền yêu cầu thuộc về Toà án trong trường hợp cần thiết Việc bổ sung thêm quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của đương sự đã làm tăng tính chủ động cho đương sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và như vậy

có thể đẩy nhanh quá trình tố tụng, hơn nữa, quy định như vậy sẽ giảm được gánh nặng cho Toà án trong công tác tố tụng dân sự Một số trường hợp đương sự có thể tự mình thu thập được chứng cứ nhờ có sự phối hợp, hỗ trợ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, khi đó đương sự sẽ không cần

sự hỗ trợ của Toà án trong việc thu thập chứng cứ và Toà án sẽ giảm được một số công việc phải làm trong hoạt động tố tụng dân sự

So với quy định trong ba pháp lệnh trước đây thì nguyên tắc này cũng

đã được quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức

khi có yêu cầu cung cấp chứng cứ Theo đó, pháp luật quy định: “…trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ” [20, Điều 7] Quy định này đòi hỏi cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu

giữ chứng cứ phải có trách nhiệm phối hợp với đương sự, Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Việc xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức hữu quan chắc chắn sẽ là một bảo đảm về mặt pháp lý để việc giải quyết

vụ việc dân sự được tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng

Sau hơn 5 năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức Tuy nhiên, khi triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định Trước thực tế đó, ngày 29-3-2011, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết thi hành Luật Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2012

Trang 40

Một trong những nội dung được sửa đổi, bổ sung đó là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Nguyên tắc này được quy định tại Điều 7 BLTTDS, tuy nhiên, BLTTDS

2004 chưa quy định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức Việc này đã dẫn đến tình trạng thực tế

“nhiều cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ… làm cho công tác giải quyết, xét xử nhiều vụ án bị kéo dài hoặc phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án…” [37, tr.21] hoặc

“…cùng một vấn đề nhưng nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền có những văn bản xác nhận trái ngược nhau, ảnh hưởng đến việc giải quyết của Toà án” [38, tr.10], hoặc không thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ cho

đương sự nên không ít các trường hợp đương sự đã gặp nhiều khó khăn trong việc tự mình thu thập chứng cứ

Khắc phục hạn chế đó, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011

có sửa đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS 2004 như sau:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát

và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ

lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ [21]

Điều luật sửa đổi này đã quy định nguyên tắc về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ hoặc quản lý tài liệu,

Ngày đăng: 25/03/2015, 14:12

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
Tác giả: Bộ Chính trị
Năm: 2002
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
Tác giả: Bộ Chính trị
Năm: 2005
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 2/8/2007 hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 2/8/2007 hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính
Tác giả: Bộ Tài nguyên và Môi trường
Năm: 2007
4. Chính phủ (2000), Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 về việc giữ bí mật, lưu trữ, và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 về việc giữ bí mật, lưu trữ, và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2000
5. Chính phủ (2010), Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2010
6. Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu và so sánh, NXB TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu và so sánh
Tác giả: Tống Công Cường
Nhà XB: NXB TP Hồ Chí Minh
Năm: 2007
7. Nguyễn Văn Cường, TS. Trần Anh Tuấn, Ths. Đặng Thanh Hoa (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi
Tác giả: Nguyễn Văn Cường, TS. Trần Anh Tuấn, Ths. Đặng Thanh Hoa
Nhà XB: NXB Lao động xã hội
Năm: 2011
8. Vũ Công Giao (2009), “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Luật học 25/2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền”
Tác giả: Vũ Công Giao
Năm: 2009
9. Ths. Lê Thu Hà (2001), Các quy định pháp luật về tố tụng dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các quy định pháp luật về tố tụng dân sự
Tác giả: Ths. Lê Thu Hà
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2001
10. Nguyễn Minh Hằng (2002), Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng
Năm: 2002
11. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Tác giả: Hội đồng nhà nước
Năm: 1989
12. HĐTPTANDTC (2005), Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ”, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ”
Tác giả: HĐTPTANDTC
Năm: 2005
13. HĐTPTANDTC (2012), Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
Tác giả: HĐTPTANDTC
Năm: 2012
14. Học viện tƣ pháp (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Tác giả: Học viện tƣ pháp
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2007
15. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003 của Cộng hòa Liên Bang Nga, Nhà xuất bản tƣ pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003 của Cộng hòa Liên Bang Nga
Tác giả: Nguyễn Ngọc Khánh
Nhà XB: Nhà xuất bản tƣ pháp
Năm: 2005
16. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật tố tụng dân sự của Nước cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng dân sự của Nước cộng hòa Pháp
Tác giả: Nhà pháp luật Việt - Pháp
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 1998
17. Quốc Hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung 2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung 2001)
Tác giả: Quốc Hội
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1992
18. Quốc Hội (1999), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung 2009), Hà Nội 19. Quốc Hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung 2009)", Hà Nội 19. Quốc Hội (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự
Tác giả: Quốc Hội (1999), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung 2009), Hà Nội 19. Quốc Hội
Năm: 2003
21. Quốc Hội (2011), Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự
Tác giả: Quốc Hội
Năm: 2011
28. Quốc Hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật xử lý vi phạm hành chính
Tác giả: Quốc Hội
Năm: 2012

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w