Hơn nữa, nghiên cứu việc Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị trong tư tưởng của Khổng tử không những là để hiểu đúng hơn và đủ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn thông qua đó
Trang 2B N Ộ I D U N G
Chưưng I: CÁC TIEN ĐỂ VÀ NỘI DUNG T ư TƯỞNG ĐẠO ĐỨC c ơ BẢN CỦA KHỔNG T Ử
1.1- C ác tiền đề cho sự hình th à n h tư tưởng đ ạo đức K hổng tử
1.1.1 Cơ sở thực t i ễ n
1.1.2 Tiền đề tir tư ở n g
1.2 N hững nội đ u n g co bản tro n g tư tuỏng đạo đức của K hổng tử 1.2.1 Cách tiếp cận và các nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức ở Khổng t ử
a Quan niệm của Khổng tử về bản tính cúa con n g ư ờ i
b Quan niệm của Khổng tử về mẫu hình con người lý t ư ở n g
c Quan niệm của Khổng tử vể giáo d ụ c
d Quan niệm của Khổng tử về các phạm trù đạo đức cụ t h ể
1.2.2 Ánh hưởng của Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức Khổng tử nói riêng ở Việt N am
Chương II: PHƯƠNG THỨC H ổ CHÍ MINH KÊ THỪA VÀ PHÁT TRIEN NHŨNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC c ơ BẢN CỦA KHổNG TỬ
2.1 Quan điểm của giới nghiên cứu về mối quan hệ giữa tư tưởng H ồ Chí M inh với Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Khổng tử nói r i ê n g
2.1.1 Một số ý kiến tiêu biểu của giới nghiên c ứ u
2.1.2 Những đánh giá của Hồ Chí Minh vể Khổng tử và tư tưởng của ông
2.1.3 Khái quát về tư tưởng đạo đức Hồ Chí M i n h
2 2 Phư ơng thức tiếp n h ậ n và p h á t triển một sỏ nội d u n g tư tưởng đ ạ o đức của K hổng tử ở Hồ Chí M i n h
2.2.1 Sự gặp gỡ của Hồ Chí Minh và Khổng tử ở mục đích cải tạo xã hội
2.2.2 Sự kế thừa và phát triển tư tưởng đạo đức Khổng tử ở Hồ Chí Minh qua một số phạm trù đạo đức cụ t h ể
2.2.3 Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển quan niệm của Khổng tử khi đề cao vai trò của đạo đức trong sự nghiệp cải tạo xã h ộ i
2.2.4 Hồ Chí Minh, một tấm gương về đạo đức
c PHẨN KẾT L U Ậ N
D DANH MỤC TÀI LIỆU THAM K H Ả O
Trang 31 LY DO CHỌN ĐẼ TAI
Sở dĩ chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đổi với nhữne, tư tưởng đạo đức cơ bản của Khổng tử” trước hết xuất phát từ yêu cầu nhận thức một cách ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng, từ đó vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn để giải quyết những vấn
đề mà thực tế công cuộc đổi mới ở nước ta đặt ra
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã tổng kết:
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân,toàn quân ta, công cuộc đôi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý n g h ĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dược đẩy mạnh Đời sốne nhân dân được cải thiện rõ rệt Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường Chính trị - xã hội ổn định Quốc phòng và an ninh được giữ vững Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp
Những thành tựu đó chứng tỏ ràng đường lối đổi mới của Đảng ta là đúns đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam Vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và dân tộc ta của chù nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí Minh đã được thực tiễn khẳno định
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công cuộc đôi mới đất nước cũng cho thấy vẫn còn có những yểu kém cần tiếp tục khắc phục,
Trang 4chăng hạn như trong lĩnh vực văn hóa, xã hội đang tồn tại tinh trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ, v.v Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Dáng tiếp tục khẳng định, để khẳc phục và vượt qua những yếu kém ấy, cần tiếp tục đi sâu nhận thức và vận dụng một cách có hiệu quả hơn nữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, là một nhiệm vụ quan trong và cấp hách.
về nguồn gốc tư tường Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến cội nguồn các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phươne Tây, chủ nghĩa Mác - Lênin như là những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh Vì thế, việc làm rõ sự ành hưởng của các giá trị, tinh hoa tư tưởng văn hóa nói trên đến Hồ Chí Minh là một việc làm có ý nghĩa và cần thiết, thông qua đó chúng ta nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất và nội dung của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong cội nguồn tinh hoa văn hóa phương Đông, các nhà nghiên cứu đều đề cập đến Nho giáo Nho giáo, Nho học, hay Nho thuật có ảnh hưởng lớn đến Hồ Chí Minh, đó là điều mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận Song khi đi vào xem xét một cách cụ thể những nội dung nào của Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh? Có phải toàn bộ nội dung học thuyết Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh hay chỉ một phần? Nhưng khi cần tim hiểu đó là phần nội dung gì ở giai đoạn nào của Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh? v.v thì chúng ta thấy ý kiến của các nhà nghiên cứu lại chưa đạt dược sự thống nhất cao Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này
là cân thiết
Qua các công trình nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh cho thấy, trong Nho gia, Hồ Chí Minh chủ yếu nhắc nhiều đến các vị như Khổng tử,
Trang 5Mạnh tử và bàn luận về một số nội dung chính trị, đạo đức cụ thể trong các sách như Luận ngừ, Mạnh tử, v.v Đó chủ yếu là các nhà Nho Tiên Tần và các kinh điển nguyên thủy của Nho giáo Bởi vậy, trong khi tìm hiểu vấn đề ảnh hướng của Nho giáo đến Hồ Chí Minh như thế nào, hay nói cách khác là
Hô Chí Minh đã kế thừa và phát triển những gì của Nho giáo, chúng tôi muốn tập trung vào phạm vi nghiên cứu hẹp này Và trong phạm vi luận văn thạc sỹ này, chúng tôi dành quan tâm nghiên cứu việc Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng tử Bản thân Hồ Chí Minh từng nói:
Tuy Khổng tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trone đó thì ta nên học
“Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” Lênin dạy chúng ta như vậy [57, tr.46]
Hơn nữa, nghiên cứu việc Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị trong tư tưởng của Khổng tử không những là để hiểu đúng hơn và đủ hơn về
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn thông qua đó còn góp phần nhận thức và tiếp tục kế thừa, phát triển những hạt nhân tư tưởng có giá trị của Khổng tử trong thời đại hiện nay Chúng ta biết ràng, điều này cũng rất quan trọng, khi mà trên thế giới ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, sở dĩ các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapo có thể phát triển một cách nhanh chóng chính
là vì họ đã biết kế thừa và phát triển nhiều nội dung tư tưởng có ý nghĩa tích cực của Khổng tử, của Nho giáo, và kết họp những giá trị ấy với khoa học kỹ thuật của phương Tây Xuất phát từ thực tế lịch sử, xã hội, văn hóa, con người Việt Nam, chính Hồ Chí Minh đã từ rất sớm thấy rõ sự cần thiết phải học những điều hay trone tư tưởng của Khổng tử, và chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này
Trang 6Chính với những lý do trên cùng mong muốn góp phần hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, nên chúng tôi đã triển khai hướng nghiên cứu này trong một đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên (và đã được giải nhì nghiên cứu khoa học cấp Bộ), trong khóa luận tốt nghiệp Những kết quả đã đạt được trong quá trình nghiên cứu đó đã tạo điều kiện thuận lợi và có ý nghĩa động viên đê chúng tôi tiếp tục triên khai mở rộns hướng nghiên cứu này trong luận văn thạc sĩ với tên goi: “Sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đối với nhữns tư tưởng đạo đức cơ bản của Khổng tử”
2 TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u
Nghiên cứu sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đối với di sản tư tường nhân loại trong đó có tư tưởng của Khổng tử, của Nho giáo đã sớm dược đặt ra trong các đề tài cấp Nhà nước, như đề tài KX02.08 với sự tham gia của các nhà nghiên cứu hàng đầu như GS Đặng Xuân Kỳ, GS Vũ Khiêu, PGS.TS.Thành Duy, PGS Phan Văn Các, GS Nguyễn Đình Chú, V V ; Đề tài KX02.01 do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ nhiệm, v.v Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên đã được xuất bản dưới dạng sách chuyên khảo
Ngoài ra, còn có thể kể ra đây những đầu sách đề cập tới nội dung Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển di sản tư tưởng nhân loại, trong đó có tư tưởng của Khổng tử như: Đ ạo Khổng trong văn Bác Hồ của Đào Phan, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1996; Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Nxb Chính trị, Hà Nội,
2005 của Hồng Vinh và các tác giả
Bên cạnh đó là nhiều bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành bàn về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của GS Nguyễn Đức Binh; c ố Thủ tướng Phạm Văn Đồng; Đại tướng Võ Nguyên Giáp; GS Trần Văn Giàu; GS Trần Đình Hượu, v.v , trong đó đều có xem xét biểu hiện cụ thể việc Hồ Chí Minh kết thừa và phát triển tư tường của Không tử, nhất là qua phân tích so sánh dôi chiếu
Trang 7Liên quan đến vấn đề này còn có một số sách có góc độ tiếp cận về mặt phương pháp như: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh', Dưới ảnh sáng
học xã hội Hà Nội, 1991 v.v Ngoài ra, còn một số rất lớn các luận văn, luận
án liên quan trực tiếp đến đề tài Những sách này đều là những nguồn tư liệu
có giá trị phone phú giúp chúng tôi đi vào tìm hiểu phương pháp của Hồ Chí Minh, phương pháp Hồ Chí Minh kế thừa các giá trị tư tưởng, văn hóa của nhân loại, v.v
Điều đáng chú ý, những công trình nghiên cứu nói trên đã cho thấy giữa tư tưởng của Hồ Chí Minh và tư tưởng của Nho giáo (trong đó Khổng tử đóng vai trò người sáng lập và tư tưởng của ône đóng vai trò nền móng) có một mối quan hệ khăng khít, và tư tưởng Hồ Chí Minh đã chịu những ảnh iiưởng không nhỏ từ tư tưởng Nho giáo Tất nhiên, tuỳ theo góc độ tiếp cận, quan điểm nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu trong các công trình mà mức
độ ảnh hưởng của Nho giáo đến Hồ Chí Minh được nhận định ở những nhà nghiên cứu còn khác nhau
Nhìn một cách chung nhất, để đi đến kết luận về mối quan hệ giữa tư tưởng Nho giáo (trong đó có Khổng tử) và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại thể các nhà nghiên cứu đã đi theo mấy hướng sau Thứ nhất, đi từ sự phân tích về hoàn cảnh gia đình, quê hương xuất thân và những hoạt động cùng tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt các công trình khảo sát kỹ thời kỳ Người còn nhỏ tuổi Thứ hai, đi từ khảo sát phong cách ứng xử, phong cách sống của Hồ Chí Minh, tìm kiếm trong đó nhừnẹ điểm tương đồng với thuyết tu, tề, trị, bình của Nho giáo Thứ ba, đi từ khảo sát những luận điểm tư tưởng do Hồ Chí Minh phát biểu (kể cả những luận điểm của Người, cũng như những luận điêm của Nho giáo được Người sử dụng) đê lại trong Hồ Chí Minh toàn tập
Trang 8Nhừns cách làm trên đều có tính hợp lý của nó, và trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào việc làm rõ mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với Nho giáo.
Mong muốn góp phần giải quyết vấn đề đã đặt ra, chúng tôi suy nghĩ tìm cách tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh khác
Trước hết, để phù hợp với điều kiện và khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ ngành Triết học, chúng tôi giới hạn trong việc nghiên cứu việc Hồ Chí
không có tham vọng đi vào nghiên cứu toàn bộ mối quan hệ của Nho giáo hay toàn bộ tư tưởng của Khổng từ đối với Hồ Chí Minh Trong phạm vi có hạn này, nhờ các công trình đi trước, chúng tôi lựa chọn phương pháp tiếp cận so sánh theo lát cắt tổng thế tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tư tưởng đạo đức của Khổng tử, chứ không dừng lại ở việc so sánh, đối chiếu một vài luận điểm
cụ thể (nhờ có các công trình trước đã giải quyết)
Bấy lâu nay, nghiên cứu tư tưởng của một con người, điều quan trọng
là phải căn cứ vào những luận điểm (mệnh đề, câu nói, v.v.) do người ấy phát biểu Đây là một thao tác không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học Những mệnh đề ngôn ngữ chính là hình thức vật chất của tư tưởng, là cái vỏ vật chất của tư tưởng Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu tư tưởng của những con người
cụ thể, việc áp dụng thao tác trên luôn luôn là không đủ Nhất là khi nghiên cứu tư tường của những nhà tư tưởng phương Đông Ở đây là Khổng tử và Hồ Chí Minh Phương châm của Khổng tử là thuật nhi bất tác Văn bản duy nhất được coi là có độ tin cậy cao khi nghiên cứu tư tưởng của Khổng tử là sách
học trò những lời Khổng tử đã dạy Những lời ấy không phải luôn luôn là những lời dược phát biểu trong môi trường giáo dục (trường học), không phải luôn luôn có mục đích thể hiện trực diện hệ tư tưởne (thường là ý kiến về những vấn đề cụ thể và vì thế thiếu tính khái quát chỉnh thể), không phải đã
Trang 9hoàn toàn chuẩn xác (do mỗi người tuỳ theo tư chất của mình mà tiếp nhận và ghi chép lời thầy khác nhau), V V Đây là những điều không thể không thừa nhận, nếu không muốn rơi vào “chủ quan duy ý chí” Và như vậy cũng có nghĩa là, nếu chỉ căn cứ vào những luận điểm cụ thể trong Luận ngữ thì không thê đảm bảo là đã nhận thức chính xác tư tư(Vng của Khổng tử Đối với Hồ Chí Minh, tính phức tạp trong nghiên cứu tư tưởng của Người cũng có điểm tương tự, hơn thế nữa, lại đăt ra từ sóc độ khác Khi nói, viết, tức là khi thể hiện tư tưởng, Hồ Chí Minh luôn tự ý thức, tự đặt ra những câu hỏi và tự trả lời chúng: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Hồ Chí Minh là nhà cách mạng hành động, những bài nói bài viết của Người không phải chỉ có một mục đích là trực diện thể hiện tư tưởng của Người, mà quan trọng hơn thế, nó phãi đi vào đối tượng tiếp nhận, nó cần đạt hiệu quả thực tiễn thuyết phục và chi phối nhận thức, hành động của đối tượng Bởi vậy, Người thường dùng chính cách nói, cách nghĩ của đối tượng để đạt hiệu quả cao nhất trong công tác tư tưởng Điều này không phải không gây khó khăn cho nghiên cứu
tư tư(Vng của Người Việc quá lệ thuộc vào những mệnh đề, luận điểm cụ thể
mà Hồ Chí Minh đưa ra có thể đưa tới nhận thức sai lầm là Hồ Chí Minh có rất ít những mệnh đề tư tưởng của riêng mình, thậm chí có người còn cho rằng cần phải lọc lựa ra hết những câu nói, luận điểm cùa người khác đã được
Hồ Chí Minh sử dụng, cải còn lại mới là cái của riêng Hồ Chí Minh Những cách quan niệm như thế thể hiện một phương pháp siêu hình trong nghiên cứu
tư tưởng, và sẽ không thể đạt kết quả tốt, đặc biệt là khi nghiên cứu tư tưởng phươns Đône
Vậy là không thể không căn cứ vào những luận điểm cụ thể, nhưng cũng không thể dừng lại ở những luận điểm cụ thể Cách làm hợp lý nhất là nghiên cứu các luận điểm cụ thể trong moi quan hệ với các luận điểm khác,
Trang 10mà nó xuất hiện Cách làm này có cơ sở từ chính những nguyên lý căn bản của phép biện chứng duy vật - nguyên lý về mối liên hệ phổ biển và nguyên
lý về sự phát triển của các sự vật hiện lượng Neu như nghiên cứu các luận diêm cụ thê là nghiên cứu cái riêng, cái cá biệt thì nghiên cứu các luận điểm
ấy trong tính hệ thống của nó chính là nhằm phát hiện ra cái chung, cái phổ biến Theo cách nói của những nhà triết học phương Đông là để phát hiện ra cái “nhất dĩ quán chi” Chính việc phát hiện ra tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt qua các luận điểm cụ thể sẽ quay trở lại giúp chúng ta nhận thức các luận điểm cụ thể dúns đắn hơn
Với quan điểm xuất phát như thế, để góp phần làm rõ mối quan hệ giữa
tư tường đạo đức của Khổng tử với tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, chúng tôi sẽ không đi quá sâu vào những nội dung tư tưởng cụ thể, những luận điểm
cụ thể mà cố gắng có cái nhìn so sánh tổng thể: điểm xuất phát vấn đề đạo đức, nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức, những vấn đề có tính nguyên tắc khi tiếp cận và giải quyết các vấn đề thực tiễn đạo đức
3 MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ NGHIÊN c ứ u
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi xác định mục tiêu là: Tim hiểu sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đối với những nội dung tư tưởng đạo đức cơ bản của Khổng tử
Để đạt được mục tiêu nói trên, nhiệm vụ của luận văn là:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Khổng tử xét trong tính hệ thống, tính chỉnh thể của nó
Thứ hai, làm sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt ờ một số nội dung cơ
bủn giữa tư tưởne đạo đức của Hồ Chí Minh với tư tưởng đạo đức của Khống
tử, từ đó chỉ ra sự kể thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đối với những hạt nhân họp lý trong tư tưởns đạo đức của Khổng tử
Trang 114 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u
a Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng đạo dức của Khổng tử
và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ dó đi sâu tim hiểu sự kế thừa và phát triển hạt nhân họp lý trong tư tường đạo đức của Khổng tử ở Hồ Chí Minh
b Phạni vi nghiên cứu: Luận văn xác định giới hạn phạm vi nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng tử và tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trong hai nguồn tư liệu là Luận ngữ, và Hồ Chí Minh toàn tập in lần thứ 2 năm 1995-1996 (12 tập)
5 Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ử u
5.2 Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp chung biện chứng duy vật và lịch sử, ngoài ra còn sử dụng một sổ phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgic-lịch sử,
Trang 12* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thê sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh khoa Triết học trong nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hổ Chí Minh, đạo đức Hổ Chí Minh
7 KẾT CÁU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 2 chương 4 tiết
Trang 13Chuong 1 CÄC T lß N DE VÄ NÖI DUNG TU TUÖ NG DAO DUC CÖ BAN
CÜA KHÖNG TU
1.1 Cäc tien de cho su hinh thänh tu’ tuffng dao due Khöng
tu-Khong tü (551- 479 trirac Cöng nguyen), ten Khäu, tu Trong Ni Öng
lä ngiräi nuac Lö, sinh ra trong mot gia dinh quy toc nhö da sa süt
Thöi dai cüa Khöng tü lä thai dai mä xä hoi Trung Quöc cö rät nhieu bien dong säu säe tren tat cä cäc mät, cäc linh vue cüa dai söng xä hoi Tren binh dien chinh tri vä tö chüc xä höi, dö lä thai ky mä su thöng tri cüa nhä Chu ngäy cäng suy yeu vä düng truac ba vue cüa sir sup do Bä dao - dao cüa chir hau nöi len län ät Vuong dao - dao cüa thien tü nhä Chu Te Cänh Cöng
da tüng than thö: “Quän bat quän, thän bat thän, phu bat phu, tü bat tü” -
“Vua chäng ra vua, toi chäng ra toi, cha chäng ra cha, con chäng ra con” [11,
tr 189],
Khöng tü dai dien cho bö phän quy töc cäp tien Öng khöng chäp nhan cäch mang, cüng khöng chäp nhan hien trang xä höi duang thai, mä muön cäi tao nö, cäi tao theo hiröng khöi phuc lai nhung giä tri cö hCru cüa Chu Le De thirc hien y nguyen cüa minh, öng da mö truang day hoc, sang lap hoc thuyet
vä cüng hoc trö di truyen bä hoc thuyet cüa minh a nhieu nuac chu hau
Hoc thuyet cüa Khöng tü chü yeu de cäp den nhirng van de chinh tri -
xä höi vä vi väy mä nö lä tu tuöng chinh tri Tuy nhien, do göc dö tiep can vä huang giäi quyet nhirng vän de chinh tri - xä höi duang thai cüa Khong tü lä tap trung väo nhän tö con nguai, ma röng tü cä nhan con nguai den xä höi, trong dö chü trong den vai trö cüa dao düc vä giäo due dao düc (bao göm cä
Trang 14tự giáo dục và sự giáo dục của xã hội) đối với con người và xã hội, cho nên về
cơ bản, học thuyết của Khổng tử là học thuyết chính trị - đạo đức Tư tưởng chính trị và tư tưởng đạo dức của Khổng tử hoàn quyện chặt chẽ, thống nhất hữu cơ với nhau
Xuât phát từ đặc điểm chune ẩy, việc nghiên cứu tư tưởne đạo đức của Khổng tử cần xoay quanh quan điểm của ông về con người chính trị - đạo đức,
từ đó phát hiện ra những nét dặc thù trona tư tướng đạo đức của ông
1.1.1 Cơ sở thục tiễn
Tư tường đạo đức của Khổng tử được hình thành trước hết dựa trên những chất liệu mà thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc đương thời cung cấp
Trên bình diện kinh tế, việc phát hiện và đưa công cụ đồ sắt vào sản xuất đã đưa tới sự phát triển mạnh mẽ cùa nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp Năng suất lao động có những bước phát triển to lớn Kéo theo
đó là sự xuất hiện của các thành thị thương nghiệp vào khoảng thế kỷ thứ VI,
V trước công nguyên, và nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá lớn Những tài liệu lịch sử còn lại đến nay cho ta biết tới nhữne trung tâm như Lạc Dương, Hàm Dương, V V
Sự phát triển của sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến những hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất (chủ yếu là ruộng đất) và kết cấu giai tầng trong xã hội Nếu như trước đây, đất và dân dưới gầm trời đều là của vua và vua nhà Chu
có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, thì nay bị lớp người mới lên, có sức mạnh về kinh tế tranh đoạt Tình trạng mất đất, mất dân đã làm cho quý tộc nhà Chu suy yếu, và từ sự suy yếu về kinh tế đã dẫn tới sự suy yểu về địa vị
và vai trò chính trị Ngôi Thiên tử của nhà Chu chỉ còn là hình thức Các nước chư hầu không phục tùng vương mệnh, đem quân thôn tính lẫn nhau, tự xưng
Trang 15Chúng ta đều biết rằng, sau khi tiêu diệt nhà Ân, Chu Võ vương lên ngôi Thiên tử, lập nên nhà Chu (Tây Chu) Tuy nhiên, người có công lớn trong việc xây dựng mô hình tô chức và cơ chế hoạt động cho toàn bộ chế độ
xã hội nhà Chu là Chu Công Đán (Chu Cône) Nhà Chu đã thực hiện chế độ phong kiến (“phân phong kiến quốc”) để tổ chức và củng cố địa vị thống trị của mình Giữa chế độ phong kiến với quan hệ huyết thống có quan hệ mật thiêt với nhau Theo chế độ nàv, nguyên tắc con trưởng thế tập là rất quan trọng, quán xuyến từ ngôi thiên tử đến tận tế bào xã hội là gia đình, tạo nên một hệ thống thống nhất trong toàn xã hội, một chế độ quản lý xã hội dựa trên quan hệ huyết thống Sir phân chia tầng bậc trong mọi cấp độ tổ chức xã hội cũng như giữa các tầng bậc ấy và di cùng với nó là những ranh giới không thể vượt qua là điều kiện sống còn của cách thức tổ chức xã hội dưới thời nhà Chu
Với sự xuất hiện của các thế lực cát cứ không ngừng thôn tính tranh đoạt lẫn nhau, sự hỗn loạn trong trật tự xã hội đã đẩy nhà Chu đến bờ diệt vong Mặt khác, nó cũng tạo ra một tỉnh trạng phi nhân tính đang thống trị trong xã hội Mọi mối quan hệ giữa con người với con người đều bị biến dạng ghê gớm Những chuyện con cái giết cha mẹ, anh giết em, vợ giết chồng đã trở thành phổ biến Các cuộc chiến tranh nổ ra liên miên đã đẩy nhân dân tới tình trạng khốn cùng, V.V .
Hiện thực xã hội đã đặt ra một vấn đề lớn: Cách thức tổ chức và quản
lý xã hội theo mô hình nhà Chu đã suy đòi, tỏ ra không còn có hiệu quả trên thực tế Vậy cần phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự xã hội, đưa xã hội vào thế ổn định đế phát triển?
Chúng ta có thể thấy rõ tính bức xúc của vấn đề này qua những điều ghi chép trong sách Luận ngữ Rất nhiều đoạn chép lại lời của Vệ Linh công, Quí Klurcme tử, v.v , hái Khổng tử về cách thức cai trị, về sự lựa chọn giữa việc
Trang 16s ử dụng bạo lực hay nhân đức, giữa lợi ích của người cầm quyền hay lợi ích của nhân dân Đó cũng chính là băn khoăn chung của thời đại lúc bấy giờ.
Hiện thực xã hội cũng đồng thời gợi mở hai hướng tiếp cận và giải quyết vấn đề: Hoặc là cải tạo xã hội một cách triệt để, thiết lập một mô hình
xã hội mới với những nguvên tắc tổ chức và quản lý mới; Hoặc là khôi phục lại Chu Lễ, khôi phục lại giá trị và hiệu quả của cách thức tổ chức và quản lý
xã hội theo Chu Lễ như nó vốn có thuở ban đầu
Sự xuất hiện của rất nhiều nhà tư tưởng, học phái khác nhau trong thời
kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, trong đó có Khổng tử và tư tưởng của ông, tạo nên cục diện “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, chính là xuất phát từ nhu
những giá trị đạo đức - chính trị của Khổng tử được cọ xát, mài giũa
1.1.2 Tiền đề tư tưởng
Học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng tử được ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội, đồng thời còn bắt nguồn từ xu thế vận động
chung của đời sống tư tưởng chính trị Trung Quốc từ thời Thượng cổ đến thời đại mà Khổng tử sống
Có thể hình dung về đại thể xu hướng vận động của tư tưởng chính trị Trung Quốc cho đến thời Khổng tử như quá trình đấu tranh giữa thần quyền
Khi mới thoát thai khỏi giới động vật, tiến nhập vào đời sống văn minh,
ở trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất, của năng lực cải tạo tự nhiên, con người buộc phải tìm đến những vị thần Sự tưởng tượng của con người về những vị thần toàn năng, sần gũi với tính cách của con người, thường xuyên che chở, RÌúp đỡ con người chính là một cách thức phàn ứng của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội vốn còn đans rất bí hiêm đối vói họ
Trang 17Cùng với sự phát triên của sức sản xuất và những bước tiến trong hoạt dộng nhận thức, tư tưởng, con người đã hình dung về một tổ chức xã hội của các vị thần dựa trên hình mẫu cách thức tô chức xã hội của con người Từ những điện thờ đa thần giáo mang tính tản mát đã dần hình thành những điện thờ có trật tự và tập trung theo hướne nhất thần giáo Vai trò cùa các vị thần đổi với đời sống xã hội vốn được tâm thức dân gian xây dựng nên dần bị tầng lóp thống tri trong xã hội (vương quyền) nắm lấy củng cố và tăne cường thêm, và dựa vào dó củng cố và tăna cườne địa vị thống trị của họ trong xã hội Được vương quyển sử dụng và trở thành một chồ dựa của vương quyền, sức mạnh của các vị thần từ chỗ chỉ chi phối một cách vô hình trong đời sống tinh thần của xã hội đã trở thành một sức mạnh hữu hình và chi phối đời sống hiện thực dưới những hình thức cũng rất hiện thực - Thần quyền ra đời Theo nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ rõ, trong xã hội Trung Quốc thời nhà Hạ, Thương (Ân), quyền lực của tầng lớp tăng lữ rất to lớn, thậm chí chi phối và điều khiển cả những người làm chính trị Lã Trấn Vũ đã viết trong cuốn Lịch
Uy quyền của bọn tăng lữ vu giáo về chính trị có thể trực tiếp sai khiến cả nhà vua A - Hành của Vu giáo là đại biểu có uy quyền to nhất Các đế vương trừ quyền quân sự ra còn đều là công cụ cho bọn họ sử dụng cả [85, tr 21-22]
Tuy nhiên, có một sự thật là trong điều kiện xã hội Trung Quốc đương thời, tầng lớp thống trị không thể không sử dụng thần quyền để củng cố và thực hiện vương quyền, nhưng lại không thể chấp nhận sự lấn át của thần quyền đối với vương quyền Với tính cách là lĩnh vực liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế và là “biểu hiện tập trung” của đời sống kinh tế - một lĩnh vực
định địa vị đứng trên của nó đối với lực lượng thần thánh, vương quyền sẽ
Trang 18phủi khăng dịnh địa vị dứng trên của nó đối với thần quyền Xu thể này dược cung cấp cơ sở vừng chắc trên cơ sở con người từng bước khẳng định năng lực hoạt động thực tiễn của mình trước các lực lượng tự nhiên và xã hội.
Xu thế trên đà trở thành hiện thực vào cuối thời Ân Sách Thượns Thư
có ghi lại chi tiết vua Trụ “hôn mê bá cả cúng tể” và tuyên bố: “Ta sinh ra không cần có mệnh trời” Sử ký, Ân bản kỷ có chép:
Vũ Ất không trọn2 đạo, làm ra những con hù nhìn gọi đó
là thiên thần, đánh nhau với những thiên thần ấy, ra lệnh cho mọi người xem, thiên thần bị thua liền bị giết và bị làm nhục Vũ Át còn làm những túi da để đầy máu treo lên mà bắn và gọi đó là bắn giời [85, tr 22], V V
Trên thực tế, địa vị của thiên mệnh, của thần quyền đã từng được vận dụng rất mềm dẻo khi Chu Vũ vương dương ngọn cờ chống lại nhà Ân Nhà Chu đã luận giải việc nhà Ân mất địa vị lãnh đạo là do mất sự ủng hộ của Trời,
và địa vị thống trị mà nhà Chu giành được thực chất là do Trời trao cho Tuy thế, điều không thể phủ nhận là quyền uy tối thượng, bất khả xâm phạm của thần quyền đã bị xâm phạm, là dầu hiện sự chiến thắng của quyền lực trần thế trước quyền lực thần thánh
Mặt khác, để duy trì quyền thống trị, lực lượng thống trị trong xã hội ngày càng nhận thức rõ sức mạnh của nhân dân, và để nhân dân thừa nhận uy quyền tối thượng của họ thì dù muốn, dù không cũng không thể không quan tâm, dù ở mức độ nào đó, đến đời sống cùa nhân dân Đổi với nhà Chu, một triều đại được dựng nên sau khi phát động phong trào nhân dân đấu tranh lật
đổ sự thống trị của nhà Ân, thì điều này lại càng quan trọng Việc quan tâm đến đời sông của nhân dân mở đường cho xu hướng đạo đức hóa chính trị Rồi đ ây , xu hướng này sẽ ngàv càne được củng cố và trở thành một đặc trưng nổi bật cùa đời sống chính trị nhiều nước phương Đône như Trung Quốc,
Trang 19Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, tức là những nước mà các cư dân ở dó luôn phái đối mặt với những thách thức đòi hỏi có sự nồ lực chung của cả cộng dồng mới vượt qua được như trị thủy, V V , và vì thế mà địa vị lãnh đạo xã hội không phải bao giờ cũng được quyết định trực tiếp bởi địa vị kinh tế Chính vì thế, ngay trong Kinh Thư, bên cạnh những ghi chép khăna định xu thế lấn át của vương quyền với thần quyền, người ta còn thấy những tư tưởng thể hiện
s ự quan tâm đến đời sống của nhân dân Thậm chí, những người cầm quvền
đã tiến hành thống nhất sức mạnh của thần quyền với sức mạnh của nhân dân, chẳng hạn cái gọi là “thiên mệnh” tuy có uy quyền tối cao, song lại thể hiện ra, thậm chí đồng nhất với “ý dân” Những câu như: “Trời nhìn tự dân ta nhìn, trời nghe tự dân ta nghe”, “sự sáng suốt ở trời thể hiện ra ở sự sáng suốt của dân”, “dân muốn gỉ trời cũng theo”, V.V., không phải là ít trong cuốn sách n à y
Điều đó nói lên rằng, việc quan tâm đến đời sống của nhân dân đã trở thành một yêu cầu thường xuyên trong đời sổng chính trị ở các nước phương Đông [85, tr 48-49],
Như vậy, song song với quá trình vương quyền vượt lên trên thần quyền và tiếp tục sử dụng thần quyền làm chỗ dựa cho vương quyền, thì xu hướng đạo đức hóa chính trị cũng dần trở nên rõ nét Đây chính là những tiền
đề tư tưởng quan trọng mà từ đó sẽ hình thành nên tư tưởng chính trị - đạo đức của Khổng tử
Đen cuối thời Xuân Thu, nghĩa là thời mà Khổng tử sống, sụ suy đồi trong tầng lớp thống trị, sự khốn cùng của đời sống nhân dân đã một lần nữa
chính vì thế, hơn lúc nào hết, nhu cầu tìm kiếm nhừna, điểm tựa mới, trần tục hơn, nhưng có sức mạnh hơn của tầng lớp thống trị đã được đặt ra một cách cấp hách Xu hướng vốn tiềm ẩn trong dòng tư tường chính trị Trung Quốc khi dó là đề cao nhân to con người với những phẩm chất đạo đức nổi bật đã
ỉ Đ A I H O C Q U Ố C G IA H A N Ọ |
- 1 ' ỉ !' r ÂM THÔNG T!N THƯ VIỀN
Trang 20bộc lộ mạnh mẽ Xu hướne khách quan này đã được Khổng tử nhận thức và
nắm lấy Chính vì vậy, học thuyết chính trị - dạo đức của ông mà nội dung
chính là sự “tập đại thành” khuynh hướng ấy đã được các tầng lóp thống trị
trong xã hội chuyên chế phương Đông sử dụng và đưa lên địa vị độc tôn
Tóm lại, toàn bộ những điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề tư
tưởng như trên vừa đặt ra vấn đề, vừa cung cấp điều kiện để giải quyết những
vấn đề ấy, và Khổng tử - một “con người vĩ đại” - đã nhận thức và đảm đương
được sứ mệnh xây dựng nền tảng cho một hệ tư tưởng mới - hệ tư tường Nho
giáo, trong đó tư tưởng đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng
1.2 N hữ ng nội d ung cơ bản trong tư tư ởng đạo đức của Khổng tử
Không tử
Tư tưởng đạo đức của Khổng tử bắt đầu từ con người và mục đích cuối
cùng cũng là quay trở lại phục vụ cho xã hội con người Đây chính là giá trị
nhân văn xuyên suốt toàn bộ học thuyết của ông
Tiếp nổi mạch tư tường chính trị - đạo đức Trung Quốc truyền thống,
Khổng tử tiếp cận thực tiễn đời sổng xã hội Trung Quốc từ khía cạnh chính trị
- đạo đức Ông khẳng định tầm quan trọng của chỉnh trị đối với sự vận động
của toàn bộ đời sổng xã hội Trong sách Le Ký có viết: “Nhân đạo chính vi
đại” - trong đạo (cả theo nghĩa rộng là “quá trình đời sống hiện thực” và theo
nghĩa hẹp là việc quản lý quốc gia) cùa con người thì chính trị là lớn nhất
Trong sách Luận ngữ, nhiều lần Khổng tử thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt
của mình đến đời sống chính trị so với các lĩnh vực khác Chươm* Tử Lộ có
chép rằng, khi Phàn Trì hỏi Khổng tử về nghề làm ruộng và nghề làm vườn,
Khòng tử đã gạt đi và nói:
Trang 21Gã Phàn Tu chí khí nhỏ hẹp lắm thay! Nầy, nếu người bề trên chuộng lễ, thì dân chăng dám bỏ niềm cung kính Neu người
bề trên háo nghĩa, thì dân chảng bội lẽ công chính Nếu người bề trên biết tín thật, thì dân chăng dám sai ngoa trong tình giao ước Nếu nhà cầm quyền ở đủ lễ, nghĩa, tín như vậy, thì dân chúng từ bốn phương xa sẽ đai con đến để phục dịch mình, c ầ n chi phải học nghề cày cấy[ 11, tr 201 ]
Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Khổng từ, lĩnh vực chính trị
có vị trí quan trọng nhât trong đời sống xã hội Kết luận này mang tính thực tiễn cao, đặc biệt là trong bổi cảnh xã hội Trung Quốc đương thời, khi mà neười tạo phúc lớn cho thiên hạ là người có thể thi hành nhân đức, bình ổn xã hội
Đồng thời với việc đề cao địa vị của lĩnh vực chính trị, Khổng tử đặc
biệt nhấn mạnh đến nhân tố con người Chính nhân tố con người sẽ quyết
định sự vận hành của bộ máy cai trị, quyết định chất lượng và hiệu quả của các quyết sách chính trị Khổng tử từng nói:
Việc chính trị của vua Văn vua Vũ bày ra ở trong sách Neu những người như vua Văn vua Vũ còn thì chính trị ấy được thi hành, nếu những người ấy mất thì chính trị ấy ngừng Đạo của người làm cho chính trị hoá tốt, cũng như đạo của đất làm cho cây tốt [39, tr 246],
Đi đôi với việc đề cao nhân tố con người, Khổng tử có xu hướng né tránh (chứ không phải là bác bỏ) những vấn đề liên quan đến các lực lượng
siêu nhiên, thần thánh, liên quan đến quỷ thần Chẳng hạn trong thiên Ưng Dã,
Khổng tử nói: “Kính quỷ thần nhi viễn chi” - “tôn kính nhưng tránh xa quỷ thần”, hay như trong thiên Thuật Nhi có ghi: “Tử bất ngừ: Quái, lực, loạn, thần” - “Thầy Khổne không nói đến những vấn đề: Quái dị, bạo lực, làm loạn, quỷ thần”, v.v
Trang 22Việc Không tử dề cao nhân tổ con người chứ không phải là các lực lượng siêu nhiên thần thánh, trong đời sống chính trị, xét trong bối cảnh xã hội Trung Quốc dương thời, là một quan điêm tiến bộ, vừa phù hợp với sự phát triển của đời sống xã hội, của hoạt động thực tiễn của con người, vừa tiếp nổi và phát triển xu thế vận động nội tại của đời sống tư tường từ trước
đó Đó là sự thừa nhận, đồng thời là sự khẳng định vai trò chù thể của con nsười đổi với đời sống của chính mình - lưc lương thực sự có sức mạnh chi phối đời sống xã hội của con người chính là con người chứ không phải là bất
cứ lực lượng siêu nhiên, thần thánh nào khác, và lĩnh vực có sức chi phối mạnh mẽ nhất chính là chính trị Chính ở đây, chúng ta sẽ thấy sự gặp gỡ giữa Khổng tử - nhà tư tưởng chính trị 2500 năm trước - với Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng chính trị hiện đại, người mà trong suốt cuộc đời mình, những suy tư về
xã hội và cải tạo xã hội luôn xoay quanh quan niệm “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”, trong xã hội “không lực lượng nào lớn bằng lực lượng của nhân dân” Tất nhiên, với Khổng tử, khi ông quá đề cao nhân tố con người mà xem nhẹ những yếu tố cơ chế, kỹ thuật trong tổ chức và vận hành dời sống chính trị cũng như toàn bộ đời sống xã hội thì đó là một hạn chế, và hạn chế này đã bị Pháp gia mà đại biểu là Hàn Phi tử phê phán trong cuốn sách mang tên ông, ngoài ra trong chừng mực nào đó nó cũng bị những người đại biểu cùa phái Mặc gia và Đạo gia chỉ trích Còn ở Hồ Chí Minh tư tưởng
về con người và vai trò của con người trong đời sống xã hội vừa tiếp thu những tinh hoa trong tư tưởng của Khổng tử, vừa được xây dựng trên nền tảng triết học Mác - Lênin với tất cả tính khoa học, cách mạng và nhân văn,
và vì thế đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng dan,
Từ chỗ cao vai trò của nhân tố con người trong đời sống chính trị,
Khổng tử đi tới vấn đề phẩm chất của họ, và trong những phẩm chất của con
Trang 23người, Khổng tử dã lựa chọn và tập trung vào những phẩm chất đạo đức để từ
dó xây dựng nên toàn bộ học thuyết của minh Tư tưởng đạo dức của Khổng
tư xoay quanh vấn đề con người chính trị và gẳn liền với đời sống chính trị Diều này thể hiện rõ khi ông dành nhiều tâm sức để bàn luận về hai mẫu hình con người chính trị - quân tử và tiểu nhân, một vấn đề đạo đức chiếm vị trí to
lớn trong toàn bộ tư tưởng đạo đức của ông Trong Luận ngữ, chừ “quân tử”
xuất hiện cả thảy 106 lần và chừ “tiểu nhân” là 23 lần
Nhà nghiên cứu người Trung Quốc là Phùng Quốc Triệu, trong bài viết
Nhân tính luận, quân tử tiểu nhân dữ trị quốc chi đạo đăng trên tạp chí
Nghiên cứu triết học sổ tháng 5 năm 2000 (tiếng Trung Quốc), có nêu ra một nhận xét mang tính khái quát:
Nhân tính luận là cơ sở của sự phân biệt quân tử tiểu nhân,
sự nhận thức sâu sắc và phân biệt rạch ròi là căn cứ của đạo trị quốc Nho gia Nói một cách cụ thể, Nho gia cho rằng: Mỗi người đều có bản tính tiên thiên giống nhau, bản tính này đã quyết định tính khả năng hậu thiên là thiện hay ác của con người; thông qua giáo hoá đạo đức một cách chặt chẽ, mọi người đều có thể trở thành quân tử; nhưng trong hiện thực xã hội, do sự không giổng nhau về trình độ tiếp nhận giáo dục, mà tồn tại quân từ tiểu nhân Cho nên đạo trị quốc tốt nhất là dùng nhân nghĩa đạo đức rèn luyện con người, tức là điều mà Khổng tử nói: đạo chi dĩ đức; cuối cùng làm cho mọi người đều trở thành quân tử đạo đức [70,
tr 40-41],Chúng tôi tán thành với cách đặt vấn đề này Không thể hoàn toàn và đơn giản quy quan niệm của Khổng tử về quân tử và tiểu nhân thành quan
niệm về giai cấp thống trị và giai cấp bị trị Có hai lý do để nói như vậy Thứ
nhắt, Khổng tử là người nhiều lần phê phán gay gắt thực trạng xã hội đảo lộn,
Trang 24“danh không chính, ngôn không thuận”, trong đó “vua không dúng với đạo vua, tôi khôrm đúng với đạo tôi, và chính ông cũng phê phán thẳng thừng không ít kẻ ở địa vị thống trị song lại không là quân tử, không có tầm suy
nghĩ và hành độna tương xứng với địa vị ấy Thứ hai, Khống tử cho rằng dù
là bất cứ ai, một khi đã trải qua quá trình được giáo dục và tự giáo dục về đạo đức thì đều có thể trờ thành chính nhân quân tử Neu đồng nhất quan điểm của Khổng tử về quan tử và tiểu nhân với quan niệm về các giai cấp thống trị
và bị trị thi sẽ không thể lý giải được quan điểm “hữu giáo vô loại” trong tư tưởng giáo dục của Khổng tử - một vấn đề mà đối với ông có tầm quan trọng không nhỏ trong việc thực thi chính đạo trong xã hội Tất nhiên, trong tư
tưởng đạo đức của Khổng tử có thể hiện tính đẳng cấp khi thừa nhận người
đời cũng có bậc ‘‘thượng trí” và kẻ “hạ ngu”, song phải hiểu đó là tính đẳng cấp xét về mặt thành tựu tu dưỡng đạo đức
Để đi tới quan niệm về mẫu hình quân tử và tiểu nhân, Khổng tử trước
hết đã đặt vấn đề và tiến hành lý giải về bàn tính của con người Quan niệm
về bàn tính của con người là nền móng cho toàn bộ tư tưởng Khổng tử về đạo đức
a Quan niệm của Khổng tử về bản tính của con người
Phải nói ngay rằng, Khổng tử không khẳng định bản tính con người là
Thiện hay Ác Ồng nêu ra một quan niệm toàn diện hơn: “tính tương cận dã, tập tương viễn d ã ” [l 1, tr 268],
Mệnh để cực kỳ quan trọng song khó hiểu này của Khổng tử bấy lâu nay vẫn được giải thích là “Người ta thảy đều gần giống nhau, vì ai nấy đều
có bổn tánh lành; nhưne bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra xa khác nhaiT[l 1, tr 269] hoặc “ Bản tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau” [37, tr 615] Trong tiếng Anh, mệnh đề này cũng được dịch theo nghĩa như trên là “ People are similar by nature, but through habituation become quite different from each other”
Trang 25Cách hiểu như trên cũng có phần hợp lý, tuy nhiên, theo quan niệm của chúng tôi, mệnh đề trên còn cần được hiểu theo nghĩa khác Đó là: “Bản tính
tự nhiên của con người là gần gũi với nhau, nhưng do sự quy định của xã hội
mà trở nên xa cách nhau” Có thể nói, đây thực sự là một quan niệm triết học
sâu sắc về con người và là nền tảng trên đó triển khai thành toàn bộ học
thuyết của Không tử về đạo đức nói riêng, về con người và xã hội nói chung Không phải ngẫu nhiên mà gần như cùng thời với Khổng tử, ở bên kia địa cầu, một trong những người sáng lập nên nền văn minh phương Tây là Aristốt cũng nêu lên một quan niệm tương tự: “Con người, về bản tính tự nhiên, là một động vật chính trị” (man is by nature a political animal) Chừ “động vật chính trị” ở đây được hiểu theo nghĩa là “cố kết nhau lại thành cộng đồng và nương tựa vào cộng đồng”
Khi nói “tính tương cận”, Khổng tử quan niệm rằng, mọi con người đều
có một phẩm chất gốc (bản tính) tương tự như nhau, đó là gần gũi với nhau và
cố kết nhau lại thành cộng đồng Và bản tính ấy chính là Nhân ['Ịc] Nhân
chính là bản tính con người, nhưng không phải con người cô độc, mà là con người được xét trong quan hệ với người khác, trong sự gần gũi, cố kết nhau lại thành cộng đồng
Khi nói “tập tương viễn”, Khổng tử quan niệm rằng, con người về bản tính là gần gũi nhau, cố kết nhau lại thành cộng đồng, nhưng để cộng đồng
tồn tại thi cần có sự phân biệt, hay nói cách khác, bản thân xã hội là một cộng
đồng các cá thể gắn kết với nhau trên cơ sở phân biệt nhau về địa vị và chức phận Đe thấy ra người khác giống với mình, cũng như để người khác thấy mình giống với họ, từ đó sần gũi, cố kết với nhau, thi điều cần thiết chính là phải phân biệt được minh với người khác Thực chất đây là hai mặt của cùng một thể thống nhất trong quan hệ của con người, và hai mặt này sinh thành ra
Trang 26nhau Sự phân biệt là một đặc trưng của cộng đồng Người và nảy sinh chính
từ bản tính Người Điều này được Tuân tử trình bày một cách rõ ràng như sau:
Cho nên con người sở dĩ là con người, không phái chỉ nhờ
có hai chân và lại không có lông, mà nhờ có sự phân biệt Loài cầm thú có cha con nhưna khône có tình cha con, có đực cái nhưng không phân biệt nam nữ Cho nên trone nhân đạo không
có gì không dựa trên sự phân biệt, trong phân biệt không gì lớnbàng chia tách, trong chia tách không gì lớn bàng Lễ, trong Lễkhông gì lứn bằng Thánh vương [51, tr 11],
Như vậy là sự gần gũi, cố kết ở con người được thực hiện dựa trên sựphân biệt, và nhờ có sự phân biệt rõ tư cách và chức phận của mỗi người trong quan hệ với người khác mà sự gần gũi, cố kết được củng cố chắc chắn hơn Chẳng hạn, quan hệ giữa cha mẹ và con cái chỉ thực sự là quan hệ củacha mẹ và con cái khi có sự phân biệt cha mẹ với con cái, và cao hơn là sựphân biệt đạo làm cha làm mẹ với đạo làm con làm cái Theo Nho gia, sự
phân biệt một khi được định danh thi gọi là Lễ Lễ chính là những quy định
nhàm xác định rõ ranh giới phân biệt các cá nhân với nhau và những chuẩn mực hành vi tương ứng với những ranh giới ấy Từ Nhân hình thành Lễ và Lễ theo đúng nẹhĩa của nó chính là hình thức thể hiện Nhân
Trong hình dung của Khổng tử, xã hội Trung Quốc dưới các thời Tam Hoàng Ngũ Đe, rồi đến Hạ, Thương (Ân), rồi đến thời nhà Chu, đặc biệt là khi Chu Công Đán xây dựng và thực hành Chu Lễ, thì tuy Lễ ngày càng phức tạp, song rõ ràng là vẫn thể hiện được nội dung Nhân Nhân và Lễ tuy mâu thuẫn nhưng vẫn thống nhất với nhau, và vì thế mà tạo nên những thời đại hết sức tốt đẹp Cái mộc mạc được thể hiện dưới cái văn nhã, và cái văn nhã là sựchuyển tải cái mộc mạc Đúng là: “văn chất bàn bân, nhiên hậu quân tửhồ!”[37, tr 331]
Trang 27Tuy nhiên, đến thời Xuân Thu - thời mà Không tử sống, sự thống nhất giữa nội dung Nhân và hình thức Lễ trong Chu Lễ đã đổ vỡ Lễ hư hỏng, chỉ còn là vỏ trổng rồng, không còn là phương tiện giúp cho con người gần gũi,
cố kết với nhau, vi thê mà từ chồ là sự phân biệt đã tha hóa thành một dạng
cực đoan: xa cách Bản chất con người bị tha hóa Trong cái Lễ trống rỗng
này, những quan hệ bản chất Người không còn dược thể hiện Con người không còn gần gũi, mà trở nên xa lạ với nhau Khổng tử đã tiến hành phê phán hiện thực xã hội ấy, và sự phê phán của ông có mục đích là khôi phục lại
Lễ với đầy đủ nội dung Nhân của nó, để khi thực hành Lễ thì thực sự cũns là thực hành Nhân, “phục Le vi Nhân”, c ầ n phải có sự phân biệt giữa các cá nhân trong xã hội, song phải là sự phân biệt dựa trên và phục vụ cho sự gần gũi của con người, chứ không phải là làm cho con người xa cách nhau và thù địch với nhau
Quan niệm về bản tính con người trong trạng thái động như trên của Khổng tử có nhiều yếu tố tương đồng, gần gũi với quan niệm của Mác về bản
tính loài p h ổ biến và sự tha hoá của bản tính ấy của con người trong xã hội
đương thời Các vĩ nhân ấy đều xuất phát từ sự phê phán trạng thái xã hội đương thời làm tha hóa bàn tính con người, và mong muốn tạo dựng một trạng thái xã hội mới tương xứng với bản chất con người ấy Tuy nhiên, con dường của mỗi vị lại khác nhau Khổng tử cho ràng cần phải tác động trực
tiếp đến con người, từ khôi phục bán tính bền trong của con người mà mờ
rộng ra xây dựng một xã hội mới Còn Mác thì cho ràng, phải cải tạo môi trường xã hội bên ngoài của con người thông qua cuộc cách mạng của giai cấp vô sản, do sự quy định của môi trường xã hội mới mà con người sẽ trở nên tốt đẹp, bởi bản chất con người là “tổng hòa các quan hệ xã hội”
Như vậy, mệnh đề “tính tương cận ” phải là đưọc xem là nội dung gốc, là nền tảng trong tư tưởng của Khổng tử T ừ đó triển khai thành quan niệm về mẫu hình con ngiròi lý tu ỏng vói những phẩm chất đạo đức cụ thê.
Trang 28b Quan niệm của Khổng tử về mẫu hình con người lý tưởng
Không tử đã xây dựng nên mẫu hình người quân tử với tư cách là con
người mới của một xã hội mới Con người mới này vừa là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội mới tốt đẹp, vừa là chú thê xây dựng nên xà hội tốt đẹp ấy Ông khắc hoạ mẫu hình người quân tử bằng cách đặt nó trong quan hệ với hình mầu đôi lập của nó - tiếu nhản.
Trong sách Luận ngữ, ta thấy Khổng tử đã nhiều lần thể hiện quan niệm của mình về quân tử thông oua việc so sánh quân tử với tiểu nhân Chăng hạn: “Quân tử hữu dũng, nhi vô nghĩa, vi loạn Tiểu nhân hữu dũng, nhi vô nghĩa, vi đạo” - “Người quân tử ở địa vị trên nếu có dũng mà chẳng có nghĩa, thì gây loạn nghịch Còn kẻ tiểu ở địa vị dưới nếu có dũng mà chẳng có nghĩa, thì đi ăn trộm ăn cưcýp”[l 1, tr 280]; “Quân tử cố cùng; tiểu nhân cùng,
tư lạm hỹ” - “Bậc quân tử có khi phải cùng khốn lã lẽ cố nhiên Còn kẻ tiểu nhân gặp cùng khốn thì hay làm càn” [ l l , tr 238]; “Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ Quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ” - “Bậc quân tử mong cho đức hạnh mình ngày càng cao; còn kẻ tiểu nhân mong cho có chỗ ở ăn cho sướng cái thân Bậc quân tử tưởng nhớ đến pháp luật đặng gìn giữ; còn kẻ tiểu nhân tưởng nhớ đến ơn huệ để cậy nhờ”[l 1, tr 55]; V V
Nếu đặt tư tưởng của Khổng tử trong bối cảnh xã hội thời đại của ông, chúng ta có thể thấy rằng Khổng tử đã xây dựng nên một mẫu người mới của tương lai (quân tử) đối lập với những con người hiện hữu (tiểu nhân), những
kẻ sa đoạ về bản chất “vua không ra vua, tôi không ra tôi” Khổng tử mong muốn tạo nên một xã hội chính danh, trone đó đa số (nếu không phải tất cả) là quân tử, và trước hết những người quàn lý xã hội phải là người quân tử Khổng tử đã đề cao yếu tổ phẩm chất đạo đức như một điều kiện sống còn để đảm bảo một người, hay một lực lượng xã hội có thể giành và giữ vừns địa vị thống trị của mình Khổng tử nói: “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở,
Trang 29nhi chúng tinh củng chi” - “Như ai thi hành việc chính trị, cầm quyền cai trị nước nhà mà biết đem cái đức của mình bổ hóa ra, thì mọi người dều tùngphục theo Tỷ như ngôi sao Bắc Đẩu ở một chỗ, mà có mọi vì sao chầutheo"Ị 11, tr 14]; “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ Dạo chi
dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách” - “Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng; chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi, chớ họ chẳng biết hổ nẹươi (liêm sỉ) Vậy muốn dắt dẫn dân chúng, nhà cầm quyền phải biết dùng đức hạnh, muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết hổ ngươi,
họ lại còn cảm hóa mà trở nên tốt lành”[l 1, tr 14], V.V
Như vậy, nếu nhìn một cách khái quát, người quân tử theo quan niệm của Khổng tử là hình mẫu của sự thống nhất giữa Nhân và Lễ Nhân ở đây được hiểu là hạt nhân, là tinh thần của các phẩm chất đạo đức cụ thể, còn Lễ
là những chuẩn mực hành vi tương ứng với những phẩm chất ấy
c Quan niệm của Khổng tử về giáo dục
Đẻ trở thành người quân tử, theo Khổng tử, tất phải trải qua quá trình học tập tu dưỡng, rèn luyện lâu dài suốt đời Tư tưởng giáo dục của Khổng tử
là một hệ thống tương đối toàn diện, từ mục đích, nội dung đến phương pháp đều nhất quán thông suốt với nhau, đóng vai trò phương thức hình thành mẫu hình con người lý tường
Trong tư tưởng giáo dục đạo đức con người, Khổng tử đặc biệt nhấn
mạnh mấy điểm sau Thử nhất, người học cần phải tự xác định cho mình một
mục đích rõ ràng, và mục đích ấy, theo Khổng tử, chính là để trở thành quân
tử làm việc chính trị, gánh vác những công việc chung cho toàn xã hội Ồng đòi hỏi học trò phải luôn lấy mục đích trở thành người có khả năng đứng ra sánh vác đại sự là cai trị xã hội làm tôn chỉ cho mọi suy nghĩ, hành động của mình Chính bởi thế, với những người tự dừng lại ở những mục đích mưu sinh
Trang 30n ho hẹp như Phàn Trì mới bị ông chê là tiểu nhân Tiểu nhân vì đã không có
d ưực cái chí cứu thiên hạ khi thiên hạ dang trong cảnh loạn lạc
Thử hai, Khống tử cho rằng, đề thực hiện được mục đích ấy, cần có sự
n ồ lực, phấn dấu thường xuyên, bền bỉ, không chịu quy phục trước khó khăn, cũng như không bị khuất phục bởi những dục vọng tầm thường của con người Ivhông tử yêu cẩu và tự mình làm gương, nêu gương trong việc tự tu sửa mình
tr ong mọi nơi mọi lúc, mọi việc Sách Luận ngũ- đã ghi lại nhiều dẫn chứng về
d iều đó
Thứ ba, Khổng tử cho rằng, để có được những tố chất của neười quân
từ, cần phải có vốn kiến thức uyên bác, không giới hạn nào được đặt ra đối
v ái sự nhận thức của con người Tất nhiên, Khổng tử không phải là nhà khoa
học tự nhiên, hơn nữa, trong xã hội Trung Quốc cổ đại khi mà việc nhận thức
v à giải quyết những vấn đề của đời sống xã hội, những vấn đề tổ chức và quản lý xã hội đang hỗn loạn là một yêu cầu thực tiễn, thì chúng ta không thể đòi hỏi gì hơn với Khổng tử về mặt nội dung giáo dục kiến thức khoa học
Nếu chỉ căn cứ vào những vấn đề, những lĩnh vực mà Khổng tử yêu cầu học
trò phải nghiên cứu cũng có thể thấy rằng, gần như mọi tri thức mà dân tộc Trung Quốc đạt được cho đến lúc đó đều được Khổng tử xác định là nội dung tri thức mà người học cần tiếp thu Đó là một dung lượng kiến thức không nhỏ Hơn nữa, Khổng tử còn yêu cầu người học không được tiếp nhận tri thức
m ộ t cách thụ động, máy móc Những người biết thắc mắc hỏi về gốc cùa Lễ, về- căn nguyên của chính trị; những người biết truy t ì m ^ tứ sâu xa của Kinh Thi; những người biết nắm một góc để suy ra các góc còn lại, V V đều được
Khống tử đánh giá rất cao, coi đó mới thực sự là học tập Tiếp nhận và suy tư,
cló» là hai mặt thống nhất của việc học và theo Khổng tử cần phải được quán tri ệt trong quá trình học tập của mồi người Ông nói: “Học nhi bất tư tắc võng;
tư nhi bất học tắc đãi” - “ Học mà chẳng chịu suy nghĩ, thì chẳng được thông
Trang 31minh Suy nghĩ mà chẳng chịu học, thì lòng dạ không yên ổn”[l 1, tr 22], Bản thân Không tử cũng theo cách “nhất dĩ quán chi”, nghĩa là nắm bất lấy cái lý thấu suốt bên trong của sự vật, từ đó mà quán thông tất cả Nói theo ngôn ngừ của chúng ta ngày nay, cách học của Khổng tử đòi hỏi vừa phải biết rộng song lại phải suy tư để nắm lấy cốt lõi bàn chất của vấn đề Giá trị to lớn của tư tưởng Khống tử về giáo dục chính là ở chồ ông không giới hạn việc học trong
việc tiếp thu kiến thức sách vở một cách thuần tuý Theo ông, học phải đi đôi với hành, hiệu quả của việc học phải được chứng thực trong việc giải quyết
những công việc thực tế Khổng tử từng nói rằng, nếu làu thông 300 thiên Kinh Thi mà không làm tròn nhiệm vụ đi sứ thì việc học tập ấy cũng chẳng có giá trị gi Bản thân ông để cả đời vào việc học tập, nghiên cứu (đến già vẫn mong muốn giá mà còn sống được thêm mấy năm để có thể học và suy nghĩ thêm về đạo lý Dịch học!), đồng thời cũng luôn tìm mọi cơ hội để có thể đem
cái sở học giúp đời Học đi đôi với hành, đây là một tuyên ngôn thể hiện tinh
thần thực tiễn sâu sắc, và do vậy, nó có giả trị lâu bền.
N hư vậy, ở đây ta có thể thấy tư tưởng của Khổng tử có tính biện chứng biện chứng sâu sắc Từ sự thừa nhận bản tính tương tự cố kết nhau của con người, Khổng tử đi tới sự khẳng định về trạng thái đối lập với bản tính ấy trong hiện thực xã hội; từ sự nhận thức yêu cầu cải biến xã hội hiện tại bàng giáo hoá đạo đức để xã hội quay trở lại với bản tính vốn có của con người, Không tử lựa chọn con đường tự học tập và rèn luyện Toàn bộ lôgíc ấy được đặt trên cơ sở nhận thức về khả năng hướng thiện của con người, về khả năng con người chiến thắng bản thân mình, chiến thắng ngoại cảnh Phương thức cài tạo xã hội mà Khổng tử lựa chọn là giáo dục đạo đức, đương nhiên không phải là đầy dủ, triệt để và khó thực hiện trong điều kiện xã hội loạn lạc đang
điên cuồng vì danh vì lợi Chính Mác, trong Những luận cương về Phơbácli,
đã từng phê phán Phơbách, rằng: bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được
Trang 32giáo dục Tuy nhiên, cũng không thể không thừa nhận những yếu tố đó có
tính hợp lý nhất dịnh của phương thức ấy Nó còn hiện thực hơn nhiều so với
các phương thức cai trị xã hội bằng “thiên mệnh, quỷ thần” mang tính thần bí
mà tầng lớp thống trị thời đó đang sử dụna như bói toán, cầu đảo; và phương
thức này cũng nhân đạo hơn nhiều so với cách cai trị lạm dung hình phạt hà
khắc đươns thời Hơn thế, tính hiện thực của phương thức mà Khổng tử lựa chọn càng tăng lên khi ông gắn giáo dục với thực tiễn (học đi đôi với hành), với vai trò đi trước làm gương của người làm chính trị Giáo dục đạo đức như thế là một phương thức thực tiễn mang đặc điểm của xã hội phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam
d Quan niệm của Khổng tử về các phạm trù đạo đức cụ thể
Khi bàn về mẫu hình con người lý tưởng và phương thức để hình thành con người ấy, Khổng tử đã đề cập đến một số phạm trù đạo đức cụ thể như là những phẩm chất cần có của người quân tử
Phạm trù (hay phẩm chất) đạo đức cơ bản là Nhân Các nhà nghiên cứu
về Nho giáo đều thừa nhận Nhân có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ các phạm trù đạo đức của Nho giáo Nhưng Nhân là gì? Có nhiều cách giải thích Chẳng hạn, Phan Bội Châu, trong công trình khảo cứu Nho học rất công phu
của mình là Khổng học đăng, đã dành hẳn sáu chương trong phần “Khổng học
đăng thượng thiên” để bàn đến các khía cạnh của chữ Nhân Phan Bội Châu giải thích chữ Nhân như sau:
Xưa thánh nhân đặt chữ “nhân” [4=] là rất có ý nghĩa: chữ
“nhân”, bên tả là chữ “nhân đứng” píc], bên hữu là hai nét ngang nhau [4^], có ý nghĩa ràng cái giống để mà làm người tức là nhân,
mà ai nấy cũng bình đẳna như nhau [8, tr 46],
Trang 33N hư vậy, theo Phan Bội Châu, Nhân là phẩm chất gốc của con người, tức là bản chất của con người, và xét về bản chất thì ai cùng như nhau (bìnhđẳng).
Nghiên cứu Luận ngữ ta thấy Không tử đặc biệt coi trọng Nhân Trong
cuốn sách này, chừ Nhân đã xuất hiện cả thảy 111 lần
Bản thân Không tử đã giái thích chữ Nhân là “ái nhân” - “thương người”[l 1, tr 193] Chừ “yêu người” ở đây thưc chất là quan hệ mang tính người Rõ ràng trong mẫu hình con người lý tưởng mà Khổng tử đề xuất, yêu cầu đầu tiên là phải mang trong mình bản chất chân chính của con người:
“Quân tử khử nhân, ô hồ thành danh” - “người quân tử bỏ mất lòng nhân thì sao được gợi là quân tử”[l 1, tr 53] Khổng tử đã cụ thể hoá cái gọi là “tính tương cận” có vẻ mơ hồ trong bản tính của con người thành “thương người”,
đỏ là một bước phát triển trong tư tưởng của Khổng tử Với tính cách là phẩm
chất thuộc về bản tính như vậy, Nhân không ở đâu xa bên ngoài con người
Khổng tử nói: “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hỹ” - “Điều nhân
có phải ở xa ta chăng? Nếu ta muốn điều nhân, thì điều nhân ấy đến liền nơi
ta vậy”[ 11, tr 113] Khi Nhan Hồi hỏi về Nhân, Khổng tử đã nói: “Vi nhân do
kỷ, nhi do nhân hồ tai?” - “Là nhân hay không là do mình chứ đâu phải do người?” Rõ ràng, cách quan niệm Nhân như là một phẩm chất thuộc về bản tính người và có tính phổ biến trong mọi người chính là cầu nối để thực hiện việc tập hợp và liên kết mọi người trong xã hội Không quan niệm về một bản tính chung như vậy, không thể đi đến mệnh đề nổi tiếng: “Nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” - “Này, người nhân, hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo mà thành lập cho người; hễ muốn cho mình thô đạt thì cũng lo làm cho người khác được thông đạt”[l 1, tr 97] và “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" - “điều mình không muốn, chớ thi hành cho người khác”[37, tr 473], Khổng tử đã bàn một cách toàn diện đến chữ Nhân củ trên góc độ bủn thể bên trong lẫn hình thức biểu hiện ra bên ngoài Có thể nói đây là
Trang 34Quan niệm của Khống tử về tính phổ biến của chừ Nhân còn thể hiện rõ
hon trong câu trả lời Nhan Hồi về chữ Nhân Khổng tử nói: “Khắc kỷ, phục lễ,
vi nhân Nhất nhật khắc kỷ, phục lễ, thiên hạ quy nhân yên” - “Làm nhân là khẳc
kỷ, phục lễ, tức là chế thắng lòng tư dục, vọng niệm của mình và theo về lễ tiết Ngày nào mà minh khắc kv, phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hóa mà theo về đức nhân”[l 1, tr 181]
Khổng tử nói tới phạm trù Nhân không giới hạn ở một cá nhân nhất dịnh Neu dừng lại ở cấp độ cá nhân, chưa thể gọi !à đã định hình đầy đù chữ Nhân Theo IChổng tử, một người chỉ thực sự là Nhân khi đồng thôi với việc tu dưỡng
bản thân, anh ta làm cho người khác cũng trở thành Nhân Gắn sự hình thành
Nhân ở môi người với sự Nhân hoá xà hội như hai mặt của cùng một quá trình lí7 một nét độc đáo trong tư tưởng của Khổng tử Có chỗ Khổng tử nói: “Quân tử
đốc ư thân, tẳc dân hưng ư nhân” - “Bậc quân tử ở ngôi trên nếu giữ trọn bề đối với cha mẹ bà con, thì dân chúng sẽ cảm động mà phát khởi lòng nhân ái”[ 11, tr 121] Ở chỗ khác, Khổng tử nhấn mạnh: “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác” - “Quân tử làm cho cái thiện, cái đẹp trong mỗi người nảy nở chứ không khơi dậy cái ác trong họ”[l 1, tr 188] Đây chính là tính hướng đích trong
tư tưởng Khổng tử tới mục tiêu một xã hội bao gồm toàn những người có đạo đức
“Thương người” thể hiện trước hết trong quan hệ gia đình Khổng tử dặc biệt đề cao mối quan hệ trong gia đình Ông đã lấy chữ “Hiếu” làm trung tâm Điều này xuất phát từ cách tư duy về xã hội trên cơ sở quan hệ huyết
thống, tức là gia đình và các mối quan hệ trong gia đỉnh {gia) đóng vai trò hạt
nhân của toàn thể xã hội (bao gồm quốc, thiên hạ) Các mối quan hệ trong gia
dinh (quan hệ huyết thống) là quan hệ gần gũi nhất với các quan hệ bàn chất Người trong xã hội nguyên thuỷ Và do vậy nó là biểu hiện trực tiếp nhất, rõ
Trang 35nét nhất bản chất của mỗi người Trong chương “Học Nhi” sách Luận Ngừ,
Không tử có nói:
Kẻ đệ tử khi vào thì thảo với cha mẹ; khi ra thi kính anh chị và người lớn tuổi; làm việc chi thì phải cẩn thận và ăn nói chắc thật, thương tất cả mọi neười, nhưng hay thân cậr với người nhân đức Làm bao nhiêu việc đó trước đã, nếu còn dư sức, hãy học qua văn chương và lục nghệ [11, tr 7]-
Ông Hữu tử, học trò của Khổng tử đã phát triển lời thầy và nói:
Người nào biết đổi bụng háo sắc ra làm bụng mộ người hiền, đem hết sức mình mà thờ cha mẹ, liều thân mình mà phụng
sự vị quốc trưởng, giao tiếp với bằng hữu thi ăn nói thật tình, người như vậy, dẫu ai nói ràng chưa học văn chương đạo lý, chớ tôi bảo rằng đã có học rồi đó [11, tr 7]
Trong các mối quan hệ trong gia dinh, Khổng tử nhấn mạnh đến quan
hệ cha mẹ - con cái, và trong đó nổi lên chừ Hiếu Khổng tử khẳng định rằng Nhân là gốc của Hiếu Ông đã phê phán cách quan niệm sai lầm về chữ Hiếu đương thời và chỉ rõ rằng:
Đời nay, hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là
có hiếu Nhưng, những thú như chó, ngựa, thì người ta cũng nuôi được vậy Cho nên nuôi cha mẹ chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu [11, tr 19]
Ở đây, thành kính chính là nội dung của Hiếu và không nghi ngờ gì nữathành kính chính là Nhân Nhân là gốc của Hiếu
Tương tự như đối với Hiếu, Nhân còn là gốc của các phẩm chất đạo dức khác Chẳng hạn khi bàn về Dũne, Khổng tử nói: “Nhân già tất hữu dũng; dũng giả bất tất hữu nhân” - “Người có nhân thì có lòng dũng cảm; ngườidũrm mãnh chưa chẳc có nhân”[l 1, tr 216]
Trang 36Khi xem xét quan niệm của Khổng tử về mối quan hệ giữa Nhàn và các
phẩm chất đạo đức cụ thể, chúng ta càng thấy rõ mối quan hệ giữa Nhân và
Lỗ Thực ra chừ Lễ nếu hiểu theo nghĩa rộng, sẽ bao quát không chỉ các chuẩn mực trong quan hệ giữa con người với con người mà còn bao gồm cả các hoạt dòng tể lễ ơ đây chúne ta chỉ xem xét chừ Lễ theo nghĩa hẹp, nghĩa là những quy định nhăm xác định rõ ranh giới phân biệt các cá nhân với nhau và những chuẩn mưc hành vi tương ứng với những ranh giới âv, hav nói cách khác là sự
quy tắc hoá chữ Nhân, và trong học thuyết của Khổng tử, Lễ đi liền với
những chuẩn mực đạo đức Khổng tử rất coi trọng Lễ ô n g từng dạy học trò:
“Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” - “Những điều trái lễ chớ nên để mắt nhìn tới, điều trái lễ chớ để vào tai, điều trái lễ chớ nói tới, điều trái lễ chớ động tới”[37, tr 472]
Tuy nhiên, mặc dù rất đề cao Lễ, song trong Luận ngữ, ta thấy Khổng
tứ hầu như không đề cập tới những chuẩn mực lễ nghi cụ thể trong các quan
hệ xã hội Chẳng, khi nói tới quan hệ vua tôi, ông chỉ nhấn mạnh: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” - “Vua lấy lễ sai khiến bề tôi, bề tôi lấy lòng
trung để thờ vua”[37, tr 255] Đó là đạo quân thần Điều Khổng tử luôn quan tâm là nội dung của Lễ trong các quan hệ xã hội ấy Nói cách khác, Khổng tử
không chú trọng bàn tới hình thức của Lễ, điều này đã quá đủ trong các sách
Lễ lúc bấy giờ (Kinh Lễ còn tồn tại đến nay có ghi lại khá nhiều những quy định về hành vi của con người), điều ông quan tâm là làm sao cho Lễ có được thực chất của nó, mà điều này lại đang rất thiếu trong xã hội Lễ quy định hình thức quan hệ giữa người với người và vì thế, bàn tới nội dung của Lễ chính là bàn tới thực chất quan hệ giữa người với người, nói cách khác đó là vấn đề của chừ Nhân
Khổng tử yêu cầu bản chất Nhân trong mỗi người phải có hình thức thể hiện tương xứng, phù hợp, đủ sức chuyển tải bản chất ấy Khổng tử từng nói
Trang 37rất rõ: “Chất thắng văn, tắc dã; văn thẳng chất, tắc sử Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử hồ” - “Bản chất lấn át hình thức tất thô kệch, hỉnh thức lấn
át bản chất tất sáo rỗng Hình thức thể hiện và bản chất hài hoà cân đối tất thành quân tử”[37, tr 331]
Điêm độc đáo của Khổng tử ở đây là khi nhấn sự thống nhất giữa nội dung bản chất và hình thức thể hiện, ông luôn xuất phát từ bản chất Đẻ trở thành người quân tử, trước hết cần học tập rèn luyện để có được những phẩm chất đạo đức cần thiết Khi đó những phẩm chất ấy sẽ tự tìm thấy chc mình những hình thức thể hiện hợp lý Nói cách khác, mối quan hệ giữa bản chất và
hình thức thể hiện là mối quan hệ tự thân mà trong đó chất là cái quyết định
Đoạn văn trong chương Học Nhi mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên là một bằng chứng cho điều đó Khổng tử nói rất rõ rằng: “Nhân nhi bất nhân, như lễ hà?”
- “Người mà không có nhân thì lễ mà làm gì” [l 1, tr 32]
Sự thống nhất giữa Nhân và Lễ, thể hiện ra trên bình diện chính trị là Chính danh
Chính danh thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với vị thế xã hội của anh ta, và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy Khổng tử nói rằng: “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” - “Không đúng chức vị, chẳng bàn tính việc chính trị của chức vị đó” [37, tr 387] Ở đây cần nhìn vấn
dề chính danh từ sự quy định lẫn nhau giữa phẩm chất và năng lực với vị thế
xã hội Khổng tử không chỉ tạo điều kiện và yêu cầu mọi người rèn luyện tu dưỡng bản thân, mà còn yêu cầu xã hội phải sử dụng con người xứng đáng với phẩm chất và năng lực của mồi người Đây là quan điểm tương đối tiến bộ
về sự công bằng Trong tư tưởng của IChổng tử, vấn đề cử người hiền tài và sừ dụng người hiền tài có ý nghĩa rất quan trọng, như một biểu hiện của một nền chính trị tiến bộ
Trang 38Không tử đã xây dựng cơ sở cho học thuyết Nho giáo như một hệ thống quan niệm về con người - chính trị - đạo đức xã hội và từ đó đưa ra những giải pháp mang tính đạo đức để cải tạo xã hội, con người trong điều kiện lúc đó Khống tử đã xuất phát từ con người, từ nhận thức về bản chất gần nhau cùa con người hiện thực cũng như sự tha hoá của bản chất ấy trong đời sống xã hội Từ đây, ông xây dựng một hệ thổng các chuẩn mực đạo đức nhằm điêu chỉnh mối quan hệ giữa người với người mà mầu hình người quân
tử chính là hiện thân của những chuẩn mực giá trị ấy Và hơn thế nữa ône đưa
ra các phưưng pháp thực hành đạo đức để dưa những chuẩn mực đạo đức đó trở thành hiện thực Tuy nhiên cách đặt vấn đề tư tưởng đạo đức của Khổng
tử ngay từ đầu đã thiếu tính hiện thực, không tưởng do chỗ ông đã không xuất phát từ những con người trong xã hội hiện thực, từ tầng lớp nhân dân lao dộng Vì vậy mặc dù toàn bộ tư tưởng của Khổng tử có chứa đựng nhiều giá trị nhân đạo nhân văn sâu sắc song thực tể nó đã thiếu tính hiệu quả toàn diện, thiếu tinh thần cách mạng, thiếu tính triệt để và tất yếu bị các tầng lớp thống trị thần bí hoá, sử dụng như công cụ để bảo vệ địa vị thống trị của họ trong các thời kỳ xã hội phong kiến
Nhưng cũng phải khẳng định rằng trong hoàn cảnh xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, tư tưởng của ông đã đạt tới một bước tiến bộ, đó là việc Khổng tử khẳng định được địa vị làm chù cùa con người đối với chính lịch sử của mình mặc dù địa vị ấy không phải thuộc về đông đảo người dân lao động song tư tưỏng của ông thể hiện được khát vọng của con người về một xã hội tốt đẹp hơn trong đó con người đối xử với nhau thực sự lương thiện, đúng với bản tính gần gũi nhau của con người Điều này đã làm cho học thuyết của Không
tứ có được sức sống lâu bền, làm cho học thuyết ấy trở thành tài sản tinh thần quý giá của nhân loại Và trong xã hội phong kiến nó dược người Việt tiếp nhận từ không chủ dộrm đến chủ độne Và đặc biệt, đến Hồ Chí Minh, Người
Trang 39đã chắt lọc được những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng của Khổng tử mà
Người coi đó là những hạt ngọc quý Hồ Chí Minh đã viết: “Khổng tử sổng ở
thời Chiên Quôc, đạo đức của ông , học vấn của ông và kiến thức của ông
khiến cho người cùng thời và hậu thế phải cảm phục ”[52, tr 435] Sau đây
chúng tôi sẽ khái quát những nét chính ảnh hường của Nho giáo nói chung và
tư tưởng đạo đức của Khổng tử nói riêng trong xã hội phong kiến Việt Nam
để thấy ràng việc người Việt tiếp nhận ý thức đạo nàv là từ không chủ động
đến chủ động
1.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức Khổng
tử nói riêng ở Việt Nam.
Theo quan điểm của hầu hết các nhà nghiên cứu thì sách Luận ngữ của
Khổng tử là một trong Tứ thư của Nho giáo vào Việt Nam tương đối sớm,
khoảng thế kỷ thứ I sau CN, theo gót chân của quân xâm lược phương Bắc Ở
thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo còn xa lạ với người dân Việt bởi truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm đã thấm nhuần vào dòng máu của người Việt Nếu
thời Ngô, Đinh, Tiền, Lê, ảnh hưởng của Nho giáo vẫn chưa rõ rệt thì đến thời
Lý, Trần, Nho giáo đã được coi trọng và đã có điều kiện để phát triển mạnh
mẽ, đến thời Lê sơ thì giành được địa vị độc tôn và phát triển cao nhất vào thời
Lê Thánh Tông
Sự thay đổi địa vị của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam thực chất không
khó lý giải bởi ở thời Bắc thuộc, Nho giáo với tính cách là hệ tư tưởng của
quân xâm lược đưa vào muốn đổng hoá văn hoá Việt, nhưng Việt Nam vốn là
một dân tộc tự lập tự cường, một dân tộc với truyền thống yêu nước chống
giặc ngoại xâm không thê’ chấp nhận hệ tư tưởng của quân xâm lược Tuy
nhiên, sau khi đánh đuổi giặc phương Bắc và nhà nước giành được độc lập, để
cúns cố địa vị của mình trên đất nước mới giành được độc lập, giai cấp phong
kiến Việt Nam là lực lượng thống trị áp bức bóc lột chính nhân dân Việt Nam
Trang 40Tầng lớp phong kiến Việt Nam qua thời kỳ phân quyền đến thời kỳ tập quycn
đã sử dụng Nho giáo như là hệ tư tưởng chính thống để biện hộ cho sự thống trị đó Qua thời kỳ đầu hưng thịnh, chế độ phong kiến Việt Nam từ sau thế ký XVI đã dần dần trượt vào vết xe khủng hoảng ngày một trầm trọng Việc đưa khoa cử với nội dung Tống Nho ngày một làm tăng thêm tính giáo điều sơ cứng, những giáo lý cũ rích từ ngàn năm trước được nhắc đi nhắc lại, trống rỗng mà đến ngay cả những người sử dụng Tống Nho cũng không hiểu nổi họ đantí nói gì
Từ thế kỷ XVI, nội chiến thương tàn mà tầng lóp thống trị gây ra đối với người dân, đặc biệt là việc họ dùng Nho giáo như hệ tư tưởng chính thống, trói buộc người dân vào những tam cương, ngũ thường, vào những hà khắc nặng nề của Lễ giáo phong kiến đã khiến cho lòng dân vốn đã không có cảm tình với thứ lễ giáo ấy, nay lại càng tỏ ra nghi ngờ tính vĩnh cửu của sự tồn tại của nó trong tư tưởng
Đến cuối thế kỷ XVIII, lo sợ trước sự phản kháng đó của đông đảo tầng lớp dân chúng, tầng lớp thống trị đã nhờ đến Phật giáo và Đạo giáo - hai tôn giáo đã được người dân Việt tin tưởng từ lâu nhằm cứu vãn, phục hồi sức sống cho hệ tư tưởng Nho giáo Như vậy là đến đày lần thứ hai, Tam giáo dung thông được hiện hình
Tuy nhiên, sự kết hợp giữa Nho, Phật, Đạo giáo thời này khác hẳn với
sự phối hợp của Tam giáo thời Lý Trần bởi ở thời kỳ này, sự phối hợp của Tam giáo là nhằm phục hồi sức sống cho Nho giáo
Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử, sự hưng thịnh hay suy tàn của Nho giáo lại là khác nhau và tiếp tục đến thời Nguyễn, với chính sách phản động của vua quan phong kiến triều Nguyễn mà Nho giáo lại được phục hổi ở vị trí cao nhất, trở thành công cụ để cai trị nhân dân và là cái bình phong để che đậy
sự bất lực của vua quan phong kiến trước sự tấn công của Chú nghĩa đế quốc